Bài giảng Xã hội học đại cương - Nguyễn Thị Cúc

pdf 134 trang Hùng Dũng 05/01/2024 390
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Xã hội học đại cương - Nguyễn Thị Cúc", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfbai_giang_xa_hoi_hoc_dai_cuong_nguyen_thi_cuc.pdf

Nội dung text: Bài giảng Xã hội học đại cương - Nguyễn Thị Cúc

  1. BỘ CÔNG THƯƠNG TRƯỜNG CAO ĐẲNG CÔNG NGHIỆP VÀ XÂY DỰNG BÀI GIẢNG MÔN HỌC XÃ HỘI HỌC ĐẠI CƯƠNG Dùng cho hệ Cao đẳng chuyên nghiệp (Lưu hành nội bộ) Người biên soạn: Nguyễn Thị Cúc Uông Bí, năm 2011
  2. MỤC LỤC Nội dung học phần Trang Một vài ký hiệu 1 CHƯƠNG 1: ĐỐI TƯỢNG, CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA XÃ 1 1 HỘI HỌC 1.1 Xã hội học là gì? 1 1.2 Đối tượng nghiên cứu của xã hội học 1 1.3 Quan hệ giữa xã hội học với cá khoa học khác` 2 1.4 Chức năng của xã hội học 3 Nhiệm vụ của xã hội học 4 1.5 Câu hỏi ôn tập 2 CHƯƠNG 2: SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA XÃ HỘI HỌC 5 2.1 Sự ra đời của xã hội học là nhu cẩu của khách quan 5 2.2 Những điều kiện và tiền đề của xã hội học 6 2.2.1 Điều kiện phát triển kinh tế - xã hội 6 2.2.2 Những tiền đề về tư tưởng, lí luận khoa học 8 2.3 Một số đóng góp của các nhà sáng lập ra xã hội học 9 2.3.1 AugusteComte (1798 - 1857) 9 2.3.4 Emile Durkhenim (1858 - 1917) 10 2.3.5 Max Weber (1864 - 1920) 10 2.3.3 Herbert Spencer (1820 - 1903) 11 2.3.2 Karl Marx (1818 - 1883) 16 Sự ra đời và phát triển của xã hội học Mác – Lênin. Câu hỏi ôn 17 2.4 tập 3 CHƯƠNG 3: CƠ CẤU CỦA XÃ HỘI HỌC 19 3.1 Về cơ cấu xã hội học 19 3.2 Các lĩnh vực nghiên cứu xã hội học 20 3.2.1 Xã hội học đại cương 20 3.2.2 Xã hội học chuyên ngành 21 4 CHƯƠNG 4: MỘT SỐ KHÁI NIỆM CỦA XÃ HỘI HỌC 23 4.1 Quan hệ xã hội 23 4.2 Tương tác xã hội 24 4.3 Vị thế xã hội 25 4.4 Địa vị xã hội 26 4.5 Vai trò xã hội 26 4.6 Hành động xã hội 27 4.7 Thiết chế xã hội 28 4.8 Bất bình đẳng xã hội 29 4.9 Phân tầng xã hội 30 4.10 Di động xã hội. Câu hỏi ôn tập 32 5 CHƯƠNG 5: MỘT SỐ LĨNH VỰC NGHIÊN CỨU XÃ HỘI HỌC 34 5.1 Xã hội học nông thôn 34 5.2 Xã hội học đô thị 41 5.3 Xã hội học gia đình 49
  3. 5.4 Xã hội học về chính sách xã hội 55 5.5 Xã hội học về dư luận xã hội và thông tin đại chúng 55 5.6 Xã hội học giáo dục. Câu hỏi ôn tập 61 6 CHƯƠNG 6: MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU XÃ HỘI 63 HỌC 6.1 Một số vấn đề về phương pháp luận nghiên cứu 63 6.2 Phương pháp nghiên cứu 73 6.2.1 Phương pháp nghiên cứu xã hội học 73 6.2.2 Hệ phương pháp 73 6.2.3 Kỹ thuật nghiên cứu 73 6.2.4 Lập giả thuyết và thao tác hoá khái niệm 73 6.2.5 Phương pháp chọn mẫu 76 6.2.6 Phương pháp phân tích các nguồn tài liệu 82 6.2.7 Phương pháp phỏng vấn 82 6.2.8 Phương pháp quan sát 83 6.2.9 Xử lý thông tin và đánh giá kết quả 84 7 CHƯƠNG 7: CÁ NHÂN VÀ XÃ HỘI, QUÁ TRÌNH XÃ HỘI 86 HOÁ 7.1 Con người và xã hội 86 7.2 Bản chất xã hội của con người 93 7.3 Qúa trình xã hội hoá - những nhân tố, cơ chế và môi trường của 94 xã hội hoá. Câu hỏi ôn tập 8 CHƯƠNG 8: CƠ CẤU XÃ HỘI 98 8.1 Khái niệm cơ cấu xã hội 98 8.2 Các phân hệ cơ cấu xã hội cơ bản 101 8.2.1 Cơ cấu xã hội – giai cấp 101 8.2.2 Cơ cấu xã hội – dân tộc 111 8.2.3 Cơ cấu xã hội – dân số 112 8.2.4 Cơ cấu xã hội - giới tính 114 8.2.5 Cơ cấu xã hội – lãnh thổ 114 8.2.6 Cơ cấu xã hội - học vấn, nghề nghiệp 114 9 CHƯƠNG 9: SỰ BIẾN ĐỔI CỦA XÃ HỘI VÀ TÍNH HIỆN ĐẠI 116 9.1 Khái quát chung về sự biến đổi xã hội và tính hiện đại 116 9.2 Các quan điểm về biến đổi xã hội và tính hiện đại 121 9.3 Những nhân tố của sự biến đổi xã hội và tính hiện đại 124 9.3.1 Những nhân tố của sự biến đổi xã hội và tính hiện đại 124 9.3.2 Một số vấn đề về sự biến đổi của xã hội Việt Nam hiện nay 127 10 Tài liệu tham khảo 131
  4. LỜI NÓI ĐẦU Xã hội học là một môn khoa học cụ thể nằm trong hệ thống các môn khoa học về xã hội và nhân văn. Xã hội học ra đời muộn hơn nhiều môn khoa học khác nhưng đã nhanh chóng phát triển, trở thành một môn khoa học độc lập. Có rất nhiều quan điểm khác nhau về xã hội học, có quan điểm cho rằng xã hội học là triết học về mặt xã hội, trái ngược với quan điểm trên là đối lập xẫ hội học với triết học, Các quan điểm trên hoàn toàn sai lầm, thực chất giữa xã hội và triết học có mối quan hệ biện chứng với nhau. Nhưng giữa chúng có sự khác biệt rõ rệt. Xã hội học ra đời cùng với sự ra đời của nhiều trường phái xã hội học khác nhau, tiêu biểu là hai trường phái: trường phái xã hội học Mácxít và trường phái xã hội học phi Mácxít. Bài giảng dưới đây sẽ bàn về những vấn đề nêu trên đó là sự khác biệt giữa xã hội học với triết học, và sự khác nhau giữa trường phái xã hội học Mac- Lênin với các trường phái xã hội học khác. Bài giảng là sự cố gắng của người biên soạn nhưng cũng không tránh khỏi sai sót. Mong quý thầy cô cùng các bạn đọc đóng góp ý kiến để bài giảng được hoàn thiện. Xin chân thành cảm ơn! Người biên soạn GV. Nguyễn Thị Cúc
  5. Bài giảng xã hội học đại cương Nguyễn Thị Cúc - TTĐT CHƯƠNG I. ĐỐI TƯỢNG VÀ CHỨC NĂNG NGHIÊN CỨU CỦA XÃ HỘI HỌC 1.1. Thuật ngữ XHH Có nhiều định nghĩa khác nhau về XHH như: E.Durkheim “XHH là khoa học nghiên cứu các sự kiện xã hội”; M.Weber cho rằng đó là “Khoa học về hành động xã hội”; V.A. Jadov: “XHH là khoa học về sự hình thành, phát triển và sự vận hành của các cộng đồng xã hội, các tổ chức xã hội và các quá trình xã hội với tính cách là các hình thức tồn tại của chúng; là khoa học về các quan hệ xã hội với tính cách là các cơ chế liên hệ và tác động qua lại giữa các cá nhân và cộng đồng; là khoa học về quy luật của các hành động xã hội và các hành vi của quần chúng”. Hay: “XHH là một bộ môn khoa khoa học xã hội nghiên cứu tính chỉnh thể của các quan hệ xã hội; nghiên cứu các quy luật phổ biến và đặc thù của các hình thái kinh tế xã hội; về các cơ chế hoạt động, các hình thức biểu hiện của các quy luật đó trong các hoạt động của các cá nhân, các nhóm, tập đoàn xã hội .” Tóm lại, Xã hội học là khoa học nghiên cứu các quy luật và xu hướng của sự phát sinh, phát triển và biến đổi của các hoạt động xã hội, các quan hệ xã hội, sự tương tác giữa các chủ thể xã hội cùng các hình thái biểu hiện của chúng. 1.2. Đối tượng nghiên cứu của XHH Cuộc tranh luận về xác định đối tượng nghiên cứu của XHH đã diễn ra từ lâu và ngày nay vẫn đang tiếp diễn. Quan niệm XHH Macxít không đồng nhất với chủ nghĩa duy vật lịch sử đồng thời cũng không phủ nhận và đối lập với chủ nghĩa duy vật lịch sử. Quan niệm này ngày càng trở nên có sức thuyết phục hơn và được coi như là một quan điểm về con đường hợp lí để giải quyết nhiều vấn đề chưa được giải quyết của khoa học này. Không thể quy đối tượng của XHH về đối tượng của triết học xã hội. Sự khác biệt giữa chúng là ở chỗ, XHH xem xét xã hội qua các phạm trù và các khái niệm đặc biệt hơn so với triết học xã hội. Ngoài ra, còn qua các khái niệm gắn với các nhân tố được kiểm nghiệm, điều đó được bảo đảm bằng cách triển khai hệ biến vị XHH đại cương và các lĩnh vực XHH cục bộ của XHH. Đối tượng của chủ nghĩa duy vật lịch sử hay của triết học xã hội là các quy luật chung nhất về sự vận động và phát triển của xã hội, còn đối tượng của XHH chủ yếu lại là cơ chế tác động và các hình thức biểu hiện của các quy luật đó. Các phạm trù cơ bản của triết học xã hội là tồn tại xã hội và ý thức xã hội, trong khi đó XHH lại nghiên cứu cấu trúc xã hội, hệ thống xã hội, các tổ chức xã hội và các đồng nhóm Không phải là con người với tính cách là chủ thể của xã hội mà là nhân cách với tính cách là một loại hình xã hội và các quá trình xã hội hoá các cá thể; không phải là các quan hệ xã hội trong bản chất sâu xa của chúng mà chủ yếu lại là các TTXH và các mối liên hệ qua lại của xã hội. Triết học xã hội xem xét các quá trình xã hội ở cấp độ trừu tượng cao nhất, nó không gắn trực tiếp với các dữ kiện thực nghiệm mà cơ sở là các khái quát khoa học cụ thể, được phát triển trong các khoa học cục bộ về xã hội, trong đó bao hàm cả XHH. Còn XHH, đặc biệt là 1
  6. Bài giảng xã hội học đại cương Nguyễn Thị Cúc - TTĐT XHH chuyên biệt và XHH thực nghiệm lại luôn gắn chặt với các khảo sát và thực nghiệm khoa học (mà sức sống của nó là những dữ kiện, các số liệu và các tài liệu thống kê sống động). Khi nghiên cứu xã hội và tính chỉnh thể của nó, XHH không định hướng vào việc vạch ra những mối quan hệ có tính nhân quả ở tầm bao quát toàn bộ xã hội như chủ nghĩa duy vật lịch sử mà nó nghiên cứu xã hội dưới góc độ và tính chất của đám đông, trong đó mỗi con người có thể được xem như một thành viên của nhóm. Triết học xã hội đóng vai trò thế giới quan và phương pháp luận cho mọi khoa học xã hội khác, trong đó bao hàm cả XHH. Về phần mình, XHH không thực hiện những chức năng nói trên, nó chỉ là khoa học về các điều kiện và các tính quy luật hình thành và phát triển con người xã hội và các hình thức tổ chức con người vào các cơ sở, các nhóm, các cộng đồng. XHH tập trung nghiên cứu vào những đặc trưng, xu hướng vận động và phát triển của các tổ chức xã hội, các quá trình xã hội. - Những nguyên nhân, nguồn gốc, động cơ của các hành động xã hội, của các cá nhân, các nhóm, các cộng đồng. - Những mối TTXH cũng như những vấn đề mang tính quy luật của các hành động xã hội, hành vi xã hội Tóm lại, đối tượng của xã hội học là mối quan hệ hữu cơ, mối quan hệ biện chứng, ảnh hưởng và tác động qua lại lẫn nhau giữa một bên là con người với tư cách là cá nhân, nhóm và một bên là xã hội với tư cách là hệ thống xã hội, là cơ cấu xã hội. 1.3. Quan hệ giữa xã hội học với các khoa học khác 1.3.1. Quan hệ XHH và Triết học Triết học là khoa học nghiên cứu quy luật chung chất của tự nhiên, xã hội và tư duy. Quan hệ giữa XHH và Triết học là mối quan hệ giữa một môn khoa học cụ thể với thế giới quan khoa học. Triết học Marx – Lenin là nền tảng thế giới khách quan là cơ sở phương pháp Marxism vận dụng chủ nghĩa duy vật lịch sử và phép biện chứng duy vật làm công cụ lí luận sắc bén để nghiên cứu để nghiên cứu và cải thiện mối quan hệ giữa con người với xã hội. Cần tránh hai quan niệm sai lầm hoặc là coi XHH chỉ là một bộ phận của Triết học, hoặc là đem đối lập XHH với Triết học. Ở đây, phải khẳng định XHH là môn khoa học độc lập song lấy Triết học chính thống làm nền tảng tư tưởng và mối quan hệ giữa chúng là mối quan hệ biện chứng. XHH cung cấp những thông tin và phát triện các vấn đề mới làm phong phú thêm kho tàng tri thức và phương pháp luận Triết học. 1.3.2. Quan hệ XHH với một số môn khoa học khác XHH giúp ta hiểu rõ bản chất, tức là quy luật của con người và xã hội, bộc lộ rõ nhất trong mối quan hệ giữa một bên là xã hội và một bên là con người. Việc xác định rõ đối tượng nghiên cứu của XHH giúp ta xác định rõ vị trí của XHH trong hệ thống các môn khoa học. Nghiên cứu mối quan hệ giữa XHH với một số ngành khoa học như tâm lí học, sử học và kinh tế học, là vấn đề rất cần thiết. XHH 2
  7. Bài giảng xã hội học đại cương Nguyễn Thị Cúc - TTĐT được coi là môi trường hình thành nên các yếu tố tâm lí cá nhân và tâm lí xã hội. Bản thân XHH coi tâm lí là yếu tố tiền đề cho hành động xã hội. XHH nghiên cứu hoạt động xã hội đã lấy hành vi nói chung là cơ sở và tác động mạnh đến hoạt động xã hội. Tâm lí học lại nghiên cứu sâu hành vi và coi hoạt động xã hội là yếu tố chi phối mạnh đến hành vi. XHH còn được coi là cơ sở cho các ngành lịch sử và văn hoá vì sự tương tác hai chiều giữa xã hội và con người còn lại dấu tích trong xã hội được các ngành văn hoá và lịch sử ghi lại. Mặt khác, qua dấu tích của các ngành văn hoá và lịch sử chúng ta có thể suy ra các quy luật của đời sống xã hội qua các giai đoạn. XHH được coi là môn học cơ sở cho ngành kinh tế vì các hoạt động kinh tế đều hướng vào khai thác và thoả mãn các nhu cầu của đời sống xã hội. Do vậy, các nhà kinh tế buộc phải hiểu được các quy luật của đời sống xã hội để tổ chức các hoạt động kinh tế để thoả mãn các yêu cầu của đời sống. Mặt khác, các hoạt động kinh tế lại có tác động to lớn đến cách sống, làm thay đổi cách sống khi các điều kiện cơ sở vật chất xã hội thay đổi nhiều. Trong thực tế mối quan hệ giữa XHH và kinh tế học đã phát triển theo ba hướng tạo thành ba lĩnh vực khoa học liên ngành. Một là, kinh tế học xã hội rất gần với kinh tế chính trị học, hai là XHH kinh tế và ba là lĩnh vực nghiên cứu “kinh tế và xã hội” (K.Marx, Emile Durkheim, Max Weber, ). Có thể nói, XHH và các khoa học xã hội khác đề là những khoa học nghiên cứu chung về hệ thống xã hội, chỉ khác nhau ở đối tượng nghiên cứu của mỗi khoa học. Do vậy, giữa XHH với các khoa học xã hội khác tuy có độc lập tương đối, song lại có quan hệ tương hỗ nhau, tác động qua lại với nhau. Nói tóm lại, XHH cùng với các khoa học khác đề có nhiệm vụ chung là lí giải và đáp ứng các nhu cầu của thực tiễn xã hội đặt ra. 1.4. Chức năng của XHH 1.4.1. Chức năng nhận thức lí thuyết Lí luận XHH và các công trình nghiên cứu thực nghiệm XHH trang bị cho các nhà nghiên cứu và các nhà lãnh đạo những tri thức khoa học về sự phát triển của xã hội và những quy luật của sự phát triển. Nó định rõ nguồn gốc (nguyên nhân) của các quá trình và hiện tượng xã hội. Khi vạch ra các quy luật khách quan của các hiện tượng và quá trình xã hội, xã hội đã tạo ra những tiền đề nhận thức, những triển vọng của xã hội nói chung cùng như những mặt, nhưng lĩnh vực riêng rẽ của nó. 1.4.2. Chức năng thực tiễn Chức năng thực tiễn của XHH có mối quan hệ với chức năng nhận thức của nó. Vấn đề quan trọng nhât của chức năng thực tiễn là yếu tố tiên đoán. Dựa vào sự phân tích hiện tượng của xã hội và những mặt, những quy trình riêng rẽ của nó, XHH có nhiệm vụ làm sáng tỏ các triển vọng và xu hướng phát triển của xã hội. Khi nghiên cứu các hiện tượng của các quan hệ xã hội, XHH giúp con người có thể đặt những quan hệ xã hội của mình dưới sự kiểm soát của bản thân và điều hoà các quan hệ đó cho phù hợp với yêu cầu khách quan của tiến bộ xã hội. 3
  8. Bài giảng xã hội học đại cương Nguyễn Thị Cúc - TTĐT Việc dự báo xã hội dựa trên cơ sở nhận thức sâu sắc các quy luật và xu hướng phát triển của xã hội, là điều kiện và tiền đề để kế hoạch hoá và quản lí xã hội một cách khoa học, tiền đề để kế hoạch và quản lí xã hội một cách khoa học. 1.4.3. Chức năng tư tưởng Muốn lãnh đạo được xã hội thì người lãnh đạo phải nắm vững tình hình tư tưởng, trạng thái tâm lí của các tầng lớp nhân dân. Trạng thái tư tưởng luôn luôn biến động theo những diễn biến của thực trạng kinh tế, chính trị, xã hội. XHH giúp chúng ta hiểu rõ thực trạng tư tưởng đề làm tốt công tác chính trị, tư tưởng, nắm bắt và định hướng được dư luận xã hội, góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lí và lãnh đạo các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội. 1.5. Nhiệm vụ của XHH - Nhiệm vụ nghiên cứu lí luận Nhiệm vụ hàng đầu của XHH là xây dựng và phát triển và hoàn thiện hệ thống lí luận XHH, bao gồm các khái niệm, phạm trù, lí thuyết khoa học riêng, đặc thù. Vì là khoa học non trẻ so với một số khoa học khác cho nên XHH có thể và cần phải vừa xây dựng, vừa kế thừa sử dụng các khái niệm hay thuật ngữ của các ngành khoa học khác. Cần hướng tới hình thành và phát triển hệ thống lí luận, phương pháp luận nghiên cứu và tổ chức nghiên cứu một cách cơ bản, hệ thống nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội. - Nhiệm vụ nghiên cứu thực nghiệm Đây là một nhiệm vụ quan trọng của XHH với tư cách là một môn khoa học. Thông qua nghiên cứu thực nghiệm để một mặt kiểm nghiệm, chứng minh các giả thuyết khoa học; mặt khác để phát hiện những vấn đề mới nảy sinh làm cơ sở cho việc sửa đổi, phát triển và hoàn thiện hệ thống khái niệm đồng thời thúc đẩy tư duy XHH. - Nhiệm vụ nghiên cứu ứng dụng XHH có nhiệm vụ nghiên cứu ứng dụng tri thức khoa học vào cuộc sống. Nghiên cứu ứng dụng hướng tới việc để ra các giải pháp vận dụng những phát hiện của nghiên cứu lí luận nghiên cứu thực nghiệm trong hoạt động thực tiễn. Trên cơ sở nghiên cứu sự hình thành, vận hành và phát triển của các cộng đồng xã hội, các tổ chức và quá trình xã hội, các quan hệ xã hội chuyên ngành, XHH sẽ tìm ra được những kết luận chính xác về bản chất của sự kiện, hiện tượng hay quá trình đó, từ đó có các giải pháp để kiểm soát, hay nói cách khác để có những quyết sách hay quyết định quản lí xã hội thích hợp. 4
  9. Bài giảng xã hội học đại cương Nguyễn Thị Cúc - TTĐT CHƯƠNG 2: SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA XÃ HỘI HỌC 2.1. Sự ra đời của XHH là nhu cầu khách quan Vào thế kỷ 18, đời sống xã hội ở các nước Châu Âu trở nên rất phức tạp. Cuộc “Cách mạng công nhiệp 1750” đã đưa đến những đảo lộn ghê gớm. Chủ nghĩa tư bản đã tạo ra những đô thị công nghiệp khổng lồ gây nên những làn sóng chuyển dịch dân cư lớn, kèm theo đó là những mâu thuẫn giai cấp, mâu thuẫn dân tộc, mâu thuẫn tôn giáo căng thẳng, các quan hệ xã hội ngày càng thêm đa dạng và phức tạp. Xã hội rơi vào trạng thái biến động không ngừng: chiến tranh, khủng hoảng kinh tế, xung đột chính trị, suy thoái đạo đức, phân hoá giầu nghèo, bùng nổ dân số, sự tan rã của hàng loạt các thiết chế cổ truyền, Trước tình hình như thế, xã hội nảy sinh một yêu cầu cấp thiết là cần phải có một ngành khoa học nào đó đóng vai trò tương tự như một “bác sĩ” luôn theo dõi cơ thể sống-xã hội tiến tới giải phẫu các mặt, các lĩnh vực khác nhau của nó từ tầm vi mô đến vĩ mô, kể cả khi xã hội đó thăng bằng cũng như khi mất thăng bằng để chỉ ra trạng thái thật của xã hội đó, phát hiện ra những vấn đề xã hội, dự báo khuynh hướng phát triển của xã hội và chỉ ra những giải pháp có tính khả thi. Emile Durkheim - một trong những người đặt nền móng cho khoa học XHH đã phát biểu rằng: cuối cùng thì nhà XHH phải chẩn đoán xem xã hội ở trong tình trạng "khỏe mạnh" hay "bệnh tật" và sau đó nhà XHH phải kê đơn những loại thuốc cần cho sức khỏe của xã hội. Vào nửa sau của thế kỷ XIX, XHH xuất hiện với tư cách là một môn khoa học độc lập có đối tượng nghiên cứu, chức năng và phương pháp riêng. "XHH" (sociology) bắt nguồn từ gốc chữ latin: Societas (xã hội) và chữ Hy lạp Lógos (ngôn từ, học thuyết). Khái niệm này do Auguste Comte (1798-1857) xây dựng và đưa vào hệ thống tri thức khoa học lần đầu tiên vào năm 1838. Ông nổi tiếng về "qui luật ba trạng thái" nhằm giải thích sự vận động và phát triển của xã hội. Ông chia xã hội ra thành hai mặt cùng một thực thể xã hội là “xã hội tĩnh” (statical society) và ‘xã hội động’ (dynamic society). Ông cũng đúc kết ra lí thuyết “Nhận thức thực chứng” khởi đầu cho “XHH thực nghiệm”. Ông được coi không chỉ là người đặt tên mà còn thực sự đặt những viên gạch lí thuyết đầu tiên cho ngành khoa học này. Các tác phẩm chính của ông là: “Giáo khoa về triết học thực chứng”, “Hệ thống xã hội thực chứng”. Các nhà triết học có đóng góp lớn cho môn XHH là Karl Marx (1818-1883; các tác phẩm như: “Gia đình thần thánh”, “Hệ tư tưởng Đức”; “Sự khốn cùng của triết học”; “tư bản”; ); Hebbert Spencer (1820-1903; các tác phẩm: “Thống kê xã hội”, “Nghiên cứu XHH”, “Các nguyên tắc của XHH”, “XHH mô tả”, ); Ferdinand Tonnies (1855-1936); Max Weber (1864-1920; các tác phẩm: “Những tiểu luận về phương pháp luận”, “Kinh tế và xã hội”, ); Emile Durkheim (1858- 1917; các tác phẩm như: “Các quy tắc của phương pháp XHH”, “Tự tử”, ). XHH không phải nghiên cứu xã hội để biết cho vui mà thực sự nó góp một phần hết sức quan trọng vào việc cải biến hiện thực. Auguste Comte cha đẻ của 5
  10. Bài giảng xã hội học đại cương Nguyễn Thị Cúc - TTĐT ngành khoa học này ngay từ lúc sơ khai đã nhấn mạnh chức năng cải tạo xã hội của nó mà ông tóm tắt trong mệnh đề rất nổi tiếng "Biết dự đoán, biết kiểm soát". Còn các nhà XHH Anh cũng đã khẳng định "XHH không chỉ đơn thuần là một ngành khoa học lí giải và phân tích đời sống xã hội, mà còn là phương tiện thay đổi xã hội". Các nhà XHH cho rằng nếu như họ kém cỏi đến mức không làm được cái gì cả thì chí ít "những dữ liệu của họ cũng thường được sử dụng để xây dựng các chính sách". XHH ở Việt Nam nhìn chung còn tương đối mới mẻ. Các nghiên cứu về XHH chưa gây được sự quan tâm của xã hội. Mặt khác, chất lượng của các công trình nghiên cứu này cũng là một vấn đề đáng quan tâm. Một số nhà nghiên cứu mải chạy theo các dự án để tăng thu nhập mà ít quan tâm tới chất lượng nghiên cứu. Đây cũng là thực trạng chung của các nghiên cứu ở Việt Nam. Sản phẩm nghiên cứu xong để cất vào tủ, ít được (và khó được) áp dụng trong thực tiễn. 2.2. Những điều kiện và tiền đề của XHH 2.2.1. Những điều kiện kinh tế 2.2.1.1. Cuộc cách mạng chính trị - xã hội Pháp Các sự kiện chính trị quan trọng nhất góp phần làm thay đổi căn bản thể chế chính trị, trật tự xã hội và các thiết chế xã hội Châu Âu thế kỷ 18 là các cuộc cách mạng, nhất là đại cách mạng Pháp năm 1789. Cuộc cách mạng này đã mở đầu cho thời kỳ tan rã của chế độ phong kiến, nhà nước quân chủ và thay thế trật tự xã hội cũ bằng một trật tự xã hội mới với dự thống trị về kinh tế và chính trị của giai cấp tư sản. Sự biến chuyển chính trị sâu sắc này làm cho các mối quan hệ xã hội đã có từ lâu đời trong xã hội phong kiến thay đổi một cách căn cơ, kéo theo sự thay đổi các chuẩn mực giá trị, niềm tin trong đời sống xã hội. Các cuộc cách mạng cũng gây ra một sự xáo trộn trên mọi mặt trong đời sống xã hội Pháp suốt thế kỷ 19, cảnh loạn li nội chiến kéo dài triền miên, trật tự xã hội trên bình diện ý thức và tổ chức cũ đã bị xóa bỏ nhưng trật tự mới với các chuẩn mực của nó chưa được thiết lập một cách ổn định. Trước tình hình này, các nhà triết học, các nhà tư tưởng đương thời đã tìm cách giải thích, miêu tả các hiện tượng xã hội, tìm cách đưa ra những mô hình xã hội mới thay thế hoàn toàn xã hội cũ, thiết lập lại trật tự xã hội. Ngán ngẩm với cảnh hỗn độn, mất trật trự, đa số các triết gia đương thời của Pháp không ủng hộ các cuộc cách mạng. Họ chủ trương dùng ánh sáng khoa học và lí trí để giải quyết các xung đột và xây dựng một xã hội mới chứ không nhất thiết phải tiến hành các cuộc cách mạng đẫm máu như đang xảy ra. Trong bối cảnh đó, August Comte đã phát minh ra một khoa học mới đặt tên là “vật lí xã hội” mà sau này ông đổi tên thành “XHH”. Ông là người đầu tiên sử dụng khái niệm này để chỉ một môn khoa học xã hội, xây dựng dựa trên thực nghiệm với mục đích nghiên cứu và giải quyết các vấn đề xã hội đương thời và sử dụng môn khoa học này như một công cụ hữu hiệu nhằm thiết lập một hình thái xã hội mới. 6
  11. Bài giảng xã hội học đại cương Nguyễn Thị Cúc - TTĐT Như vậy, XHH phát sinh đầu tiên ở Pháp trong một hoàn cảnh xã hội có rất nhiều xáo trộn, biến đổi do các cuộc cách mạng tư sản tạo ra. Bên cạnh các cuộc cách mạng chính trị này còn có cuộc cách mạng công nghiệp bắt đầu ở Anh cũng là tiền đề cho sự ra đời của XHH. 2.2.1.2. Cuộc cách mạng công nghiệp Vào nửa thế kỷ 18, cuộc cách mạng công nghiệp bắt đầu ở Anh sau đó lan sang các nước khác ở Châu Âu và Bắc Mỹ. Cuộc cách mạng đã làm biến đổi đời sống xã hội nông nghiệp một cách sâu sắc, làm xuất hiện nhiều hiện tượng và vấn đề xã hội mới. Quá trình công nghiệp hóa đã đưa đến những thay đổi trên lĩnh vực kinh tế xã hội ở Châu Âu. Năm 1765 James Watt phát minh ra máy hơi nước và sau đó là hàng loạt các phát minh ra máy móc thay thế sức lao động của con người và súc vật, chính điều này đã làm gia tăng sản lượng lên gấp hàng trăm lần. Cách nhà máy mọc lên một cách nhanh chóng thu hút lao động từ nông thôn, bỏ làng quê ruộng vườn và các nghề thủ công truyền thống trong phạm vi gia đình của họ để tới làm việc tập trung trong các khu công nghiệp, tạo ra các làn sóng di cư và đô thị hóa. Đây cũng là nguyên nhân hình thành giai cấp công nhân. Trước cuộc cách mạng công nghiệp, con người chỉ trồng trọt và thu lượm nguyên liệu nhưng chính nền kinh tế công nghiệp đã chuyển sang chế biến nguyên liệu thành các sản phẩm bán được và từ đó tạo ra các thị trường hàng hóa. Trong nền sản xuất công nghiệp đã xuất hiện và diễn ra quá trình chuyên môn hóa. Trong dây chuyền sản xuất, người lao động chỉ thực hiện một khâu nhỏ trong quá trình sản xuất ra một sản phẩm hoàn chỉnh. Công nghiệp hóa đã làm cho sản lượng tăng lên nhưng lại làm giảm mức độ kỹ năng của người lao động. Trong nền sản xuất công nghiệp, người công nhân đi vào nhà máy làm việc để có lương, họ bán sức lao động cho những ông chủ tư bản để nuôi sống bản thân và gia đình. Vấn đề bất công do phân phối nguồn lợi tức do công nghiệp hóa tạo ra giữa giới chủ và công nhân đã hình thành nên mâu thuẫn giai cấp, tạo ra các phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân. Cuộc cách mạng công nghiệp đã ảnh hưởng và tác động sâu sắc lên đời sống xã hội, làm chuyển dịch các thiết chế và tổ chức xã hội, làm thay đổi các giá trị chuẩn mực trong đời sống xã hội. Cuộc cách mạng công nghiệp đã nâng cao mức sống nói chung, tạo ra cho xã hội khối lượng hàng hóa gấp nhiều lần so với xã hội nông nghiệp nhưng đồng thời cũng tạo ra nhiều hiện tượng, nhiều vấn đề xã hội mới như: sự phân hóa giàu nghèo ngày càng lớn, vấn đề bóc lột sức lao động của phụ nữ và trẻ em, vấn đề phân công lao động, Có thể nói thế kỷ công nghiệp hóa cũng là thế kỷ của các quy luật và các hình thái tổ chức quản lí mới. Nói chung, một nền sản xuất mới nảy sinh từ cuộc cách mạng công nghiệp đã kéo theo vô số các hiện tượng xã hội mới mẻ, đã lôi kéo sự chú ý của các nhà triết học, các nhà nghiên cứu, đòi hỏi phải có một bộ môn khoa học giúp giải thích, giải quyết những vấn đề xã hội. Tất cả những điều này đã góp phần hình thành bộ môn XHH và thúc đẩy môn khoa học này phát triển một cách nhanh chóng. 7
  12. Bài giảng xã hội học đại cương Nguyễn Thị Cúc - TTĐT 2.2.1.3. Sự phát triển của khoa học tự nhiên Thế kỷ 19 cũng là thế kỷ phát triển mạnh mẽ của khoa học, đặc biệt là khoa học tự nhiên. Những biến đổi cơ bản trong các lĩnh vực: vật lí, hóa học, sinh học và những ứng dụng của các khoa học này, đặc biệt là của hóa học và sinh học đã gây ấn tượng lớn và có ý nghĩa nhiều nhất vì mô hình của hai khoa học này đã được sử dụng như là những mô hình cho nhiều lí thuyết XHH đầu tiên như: Saint – Simon, August Comte, trường phái E.Durkheim ở Pháp, trường phái H.Senpcer ở Anh, Cũng trong thời kỳ này thuyết tế bào được hình thành. Tế bào được quan niệm như là một đơn vị cơ bản của cơ thể với hai cấp độ: mỗi tế bào có cuộc sống riêng và cuộc sống này gắn liền với cuộc sống của cơ thể. Nhiều nhà XHH sau này mượn mô hình này để giải thích sự vận hành của xã hội. Ngoài ra, còn có thuyết Tiến hóa của Darwin là cơ sở cho sự xuất hiện của lí thuyết tiến hóa xã hội. Theo lí thuyết tiến hóa xã hội, trong xã hội cũng như trong tự nhiên, sự đấu tranh sinh tồn đã tuyển chọn các cá thể và giải thích sự tiến hóa xã hội. Nói chung, những biến chuyển của các khoa học tự nhiên là cơ sở cho các khoa học xã hội mới ra đời, tư tưởng của triết học giảm đi sự chi phối, khoa học lịch sử và kinh tế càng phát triển. Sự phát triển của các khoa học tự nhiên mang tính thực chứng đã ảnh hưởng đến cách nhìn nhận và giải thích các sự kiện xã hội. August Comte chính là người đã phát minh ra khái niệm “XHH” và ông muốn xây dựng nó như là một môn khoa học nghiên cứu các hiện tượng xã hội trên cơ sở thực nghiệm chặt chẽ như khoa học tự nhiên. 2.2.2. Những biến đổi trên lĩnh vực tư tưởng Các xã hội Châu Âu đã qua một thời kỳ lịch sử rất dài dưới chế độ quân chủ Ky Tô giáo trong đó giáo hội La Mã kết hợp với nhà nước quân chủ điều khiển và kiểm soát toàn bộ các hoạt động trong đời sống xã hội, kiểm soát mọi nguồn lực của cải vật chất, tinh thần, tri thức, tư tưởng. Các nhà triết học, các nhà tư tưởng trong thời kỳ trung cổ có vai trò chủ yếu là phục vụ cho việc ổn định trật tự xã hội trên bình diện ý thức hệ, giúp nhà nước và giáo hội kiểm soát về mặt tư tưởng chính trị. Vào thời đó người ta quan niệm rằng trật tự xã hội đẳng cấp đã được ấn định tuyệt đối do ý muốn của các thế lực siêu nhiên. Niềm tin vào thượng đế, vào thiên đàng, vào sự cứu rỗi như là một chất xi măng gắn kết các cá nhân lại với nhau làm cho họ cùng chấp nhận trật tự xã hội có sẵn, chấp nhận cuộc sống phó thác vào thượng đế. Tuy nhiên, trong xã hội thuần nhất đó vẫn hàm chứa những mầm sống cách mạng, những tư tưởng mới, những ánh sáng khoa học và khi sự kiểm soát xã hội trở nên lỏng lẻo, những ngọn lửa âm ỉ đó đã bùng phát tạo ra các phong trào khai sáng, chống lại quyền bính của chế độ phong kiến, đưa xã hội Châu Âu bước sang thời kỳ lịch sử mới. Về mặt tư tưởng, mầm sống của những thay đổi có lẽ bắt nguồn từ cuộc cách mạng tôn giáo do Luther khởi xướng vào năm 1517 trong bối cảnh đang có phong trào chống đối hàng giáo sĩ của giáo hội. Khác với truyền thống của giáo hội, chủ thuyết của Luther cho phép các tín hữu tự cắt nghĩa các văn bản kinh thánh mà không cần phụ thuộc vào hàng giáo sĩ – vốn là những con người có quyền thay mặt 8
  13. Bài giảng xã hội học đại cương Nguyễn Thị Cúc - TTĐT cho giáo hội giảng dạy kinh thánh. Chủ thuyết này cùng với những tiến bộ của khoa học vũ trụ đương thời như thuyết của Ncolas Copernis cho rằng trái đất không phải là trung tâm của vũ trụ mà chỉ là một trong nhiều hành tinh khác di chuyển xung quanh mặt trời, lí thuyết này đã thổi vào xã hội Châu Âu một phong trào tự do tư tưởng, mở đầu cho thời kỳ triết học khai sáng với những tên tuổi nổi tiếng như: F.Voltaire, J.J.Rousseau, C.Montesquieu, Châu Âu vào thế kỷ 19 có một sự bùng nổ những suy tư về những phương thức giải quyết những khủng hoảng kinh tế, xã hội và khoa học. Có những giải pháp hiện thực (A.De.Tocqueville) nhưng cũng có những giải pháp không tưởng. Người ta thấy cần thiết phải giải quyết các vấn đề xã hội một cách khoa học. Những cuộc cách mạng chính trị, những thay đổi trên lĩnh vực kinh tế và lao động đã tạo ra những điều kiện làm hình thành và phát triển một thế giới quan mới về các hiện tượng xã hội.  Kết luận Các cuộc cách mạng chính trị, kinh tế vào thế kỷ 18, 19 cùng với những tiến bộ vượt bậc của khoa học kỹ thuật đã làm thay đổi tận gốc rễ các mối liên hệ truyền thống. XHH đã chính thức ra đời trong bối cảnh các nhà nghiên cứu tìm cách trả lời các câu hỏi căn bản: làm thế nào để xã hội giữ được sự ổn định và có thể tồn tại? Trật tự chính trị được áp đặt như thế nào? Giải thích thế nào đối với các vấn đề như tội phạm, bạo lực, ? Từ những giải pháp cho câu hỏi này, các hệ thống tư tưởng xã hội lớn đã hình thành và ngự trong suốt thế kỷ 19 & 20, xoay xung quanh những trường phái chính như: lí thuyết xung đột, lí thuyết cơ cấu chức năng, lí thuyết tương tác biểu tượng cùng rất nhiều trường phái XHH hiện đại khác. 2.3. Một số đóng góp của các nhà sáng lập ra XHH 2.3.1. A.Comte (1789-1857) XHH có nguồn gốc từ lâu nhưng nó chỉ trở thành một môn khoa học độc lập vào khoảng những năm 30 của thế kỷ XIX, nó gắn liền với tên tuổi của nhà XHH (XHH) là A.Comte (19-1-1798 ; 5-9-1875). Ông là một nhà Toán học, Vật lí học, Thiên văn học, XHH tư sản, Triết học duy tâm chủ quan Pháp. Từ 1817-1824, ông là thư ký riêng của Xanh Ximông, là một trong những người sáng lập ra “chủ nghĩa thực chứng”. Vào năm 1836 Ông đã đưa ra thuật ngữ “XHH”. Thuật ngữ “XHH” bắt nguồn từ chữ La tinh Societas (xã hội) và chữ Logos (học thuyết) trong tiếng Hy Lạp được ghép lại thành Sociology, với nghĩa chung nhất là XHH và đã được ông định nghĩa là “Nghiên cứu thực chứng toàn bộ các quy luật cơ bản của các hiện tựơng xã hội”. Trong Triết học thực chứng của A.Comte đòi hỏi phải tôn trọng các sự kiện, phải tin tưởng các tri thức thực chứng; ông yêu câu phải áp dụng các kiến thức chính xác do khoa học tự nhiên mang lại, đồng thời, phải luôn đặt mọi sự nghiên cứu trong mối quan hệ ràng buộc với sự giải thích tổng thể. Bên cạnh những lập luận khoa học mới, A.Comte vẫn còn những hạn chế nhất định trong thời đại mình đó là còn mang nặmg yếu tố duy tâm.Tuy nhiên, 9
  14. Bài giảng xã hội học đại cương Nguyễn Thị Cúc - TTĐT những cống hiến của ông cho một ngành khoa học mới, các nhà khoa học sau này đã suy tôn A.Comte như là ông tổ - Người đặt nền móng xây dựng nên XHH hiện đại. Cụ thể là A.Comte là người sáng lập ra xã hội trên cơ sở “tách” tri thức XHH ra khỏi Triết học xã hội. 2.3.2. E. Durkheim (1858-1917) Emile Durkheim (1858 - 1917) một nhà khoa học người Pháp đã sáng lập ra XHH trên cơ sở “tách” tri thức XHH ra khỏi Tâm lí học cá nhân. Trung tâm lí thuyết XHH của ông là các sự kiện xã hội và những hành động mang tính quy luật của con người trên cơ sở tuân thủ và chịu sự kiểm soát của các phong tục, tập quán, thiết chế xã hội, những trật tự, khuôn mẫu và quy tắc của hành vi, các yếu tố “Đoàn kết xã hội” ( Tự tử- Le Suicide) E.Durkheim được đánh giá là cha đẻ của XHH Pháp. Vào năm 1895 ông đã cho ra đời tác phẩm “các quy tắc của phương pháp XHH” trong đó vạch rõ các phương pháp cơ bản khi nghiên cứu XHH. Sau đó, ông viết tác phẩm “Tự tử” thông qua việc phân tích các loại hình tự tử, ông tin rằng các xã hội tiến bộ được nhờ vào sự góp sức và tin tưởng vào các giá trị của các thành viên trong xã hội. Quan điểm nghiên cứu XHH của E.Durkheim là chú ý đến các sự kiện xã hội. Sự kiện xã hội theo ông là mọi cái có thể gây ra sự cưỡng bức từ bên ngoài đối với cá nhân, đồng thời mỗi cái đều có sự tồn tại riêng độc lập với những biểu hiện cá nhân của nó. Vì thế, đối tượng nghiên cứu của XHH bao gồm: các sự kiện xã hội, nguyên nhân và chức năng của các hiện tượng xã hội, 2.3.3. Max Weber ( 1864-1920) M. Weber, một nhà XHH Đức, ông được coi là cha đẻ của XHH về Tôn giáo. Ông là nhà XHH lớn đầu thế kỷ XX. Quan điểm XHH của ông là hành động xã hội hay lí thuyết về hành động xã hội. Trong đó, ông mô tả có bốn loại hành động xã hội: o Hành động theo cảm xúc o Hành động theo truyền thống o Hành động hợp lí theo giá trị o Hành động có tính mục đích. Tác phẩm “Luân lí thệ phản và tinh thần của chủ nghĩa tư bản” trong đó ông giải thích rằng, nếu lấy các yếu tố kỹ thuật và kinh tế để giải thích sự phát triển của chủ nghĩa tư bản thì sẽ không đúng mà nó phải là yếu tố tinh thần thệ phản. Theo M.Weber thì đạo Tin lành, với tư cách một là hệ thống giá trị có vai trò lớn trong tổ chức hành động của một số tác nhân xã hội và làm nảy sinh xã hội tư bản (XHH ; Vũ minh Tâm chủ biên, tr3). Ngoài ra, M.Weber còn phân tích sâu sắc sự hình thành hệ thống quan liêu như một kiểu tổ chức xã hội. Nó là hệ thống thứ bậc theo lối chức năng trong đó có sự liên hệ phi cá nhân giữa các thành viên được điều tiết bởi các chuẩn mực cố định, đó là công cụ hợp lí của thế gới hiện đại. Về mặt phương pháp, ông có những đóng góp tích cực như phương pháp hiểu và phương pháp mẫu. 10
  15. Bài giảng xã hội học đại cương Nguyễn Thị Cúc - TTĐT Sau A.Comte và Durkheim, Weber là sự phát triển nở rộ của XHH châu Âu cùng với những thành tựu liên tiếp đạt được trong các lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, công nghệ, XHH đã ngày càng khẳng định mình như là một khoa học độc lập. Trong những năm đầu của thế kỷ XX, XHH đã đóng một vai trò đáng kể trong việc điều hoà quan hệ giữa người và người trong sản xuất, trong việc nghiên cứu dư luận dư luận xã hội, tìm ra các giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả của các quá trình quản lí. Tất nhiên, trong điều kiện của các chủ nghĩa tư bản, một số học giả tư sản đã cố gắng sử dụng công cụ xã hội để dung hoà hoặc cố gắng loại trừ các mâu thuẫn, xung đột xã hội nhằm phục vụ và bảo vệ lợi ích cho nhà nước tư sản. Đến giữa thế kỷ XX, có hai khuynh hướng phát triển của XHH tư sản: Khuynh hướng châu Âu và Mỹ. XHH châu Âu phát triển gắn với triết học xã hội, còn xã hội Mỹ thì ngay từ đầu hình thành như một khoa học chủ yếu về hành vi con người. Những thành tựu chủ yếu của XHH Mỹ là hàng loạt lí luận cấp trung, đặc biệt là các lí luận về tổ chức, về cấu trúc xã hội, các nhóm nhỏ, hành vi tập thể, thông tin đại chúng nhất là trong các nghiên cứu về đô thị và tội phạm định hướng vào việc giải quyết các vấn đề xã hội cụ thể. Đại biểu như T.Parsons (1902- 1979, G.H. Mead ) điều đó hoàn toàn phù hợp với chủ nghĩa thực dụng ở Mỹ. XHH Mỹ mở ra những lĩnh vực mới mà trước đây hoàn toàn chưa được nghiên cứu tới. Đến nay, người ta nhận thấy đang có sự “Mỹ hoá” XHH châu Âu. 2.3.4. Herbert Spencer (1820-1903) Herbert Spencer là 1 nhà triết học, nhà Xã hội học người Anh. Ông là người theo chủ nghĩa tiến hóa, là người tìm cách vận dụng những quy luật tiến hóa sinh học vào lĩnh vực lịch sử và xã hội. Với ông, xã hội xuất hiện như một cơ thể sinh học, tiến hóa từ hình thức đơn giản sang hình thức phức tạp thông qua sự khác biệt hóa và chuyên môn hóa các chức năng, các bộ phận khác trong xã hội. Lí thuyết của Spencer có ảnh hưởng rất lớn đối với lịch sử XHH Anh và trường phái XHH cơ cấu chức năng. Ông sinh năm 1820 tại Derby, Anh. Cha là giáo viên và gia đình ông theo đạo Tin Lành. Từ nhỏ đến năm 13 tuổi ông tự học ở nhà với cha và người cậu ruột làm mục sư đạo Tin Lành. Ông có những kiến thức về toán học, khoa học tự nhiên và rất quan tâm nghiên cứu khoa học xã hội. Từ năm 17 tuổi ông đã làm việc như một kỹ sư cho ngành đường sắt nhưng từ năm 20 tuổi ông quay qua làm báo và viết về chính trị. Thời gian đầu ông ủng hộ những quan điểm tiến bộ như quốc hữu hóa đất đai, chủ nghĩa tự do trong nền kinh tế, vị trí và vai trò của phụ nữ trong xã hội, nhưng sau này ông đã từ bỏ những quan điểm trên. Năm 1851, ông viết cuốn “Tĩnh học xã hội”, thuật ngữ này ông chịu ảnh hưởng của August Comte. Trong cuốn sách này ông nghiên cứu trật tự xã hội. Năm 1853, người cậu làm mục sư của ông qua đời để lại cho ông một gia tài đủ để ông viết lách mà không phải tìm một công việc kiếm tiền. Tình hình chính trị xã hội ở Anh thế kỷ 19 có nhiều biến động gay gắt. Anh là nước đầu tiên công nghiệp hóa, xã hội nước Anh đã kế thừa tất cả những yếu tố 11
  16. Bài giảng xã hội học đại cương Nguyễn Thị Cúc - TTĐT tích cực của thời kỳ đầu phát triển công nghiệp và CNTB. Bối cảnh kinh tế, chính trị, xã hội cùng với môi trường khoa học phát triển, nhất là môn kinh tế chính trị và sinh vật học đã có ảnh hưởng nhất định tới lí thuyết XHH của Spencer. Spencer tin tưởng vào vai trò quan trọng của “bàn tay vô hình” tức là cơ chế thị trường và tự do cạnh tranh trong việc duy trì trật tự xã hội, trong đó các cá nhân luôn tìm cách theo đuổi lợi ích riêng của họ. Ông nhìn thấy một số khía cạnh tích cực của CNTB như tính hiệu quả, môi trường tự do cạnh tranh và tự do buôn bán đối với việc cải thiện đời sống con người. Kế thừa học thuyết tiến hóa của Darwin, ông đã đưa ra khái niệm về sự tiến hóa xã hội. Ông giải thích: chỉ cá nhân nào, hệ thống xã hội nào có khả năng thích nghi với môi trường xung quanh mới có thể tồn tại được trong cuộc đấu tranh sinh tồn. Bị ảnh hưởng bởi khoa học tự nhiên như vật lí học và chủ nghĩa thực chứng, ông chủ trương rằng XHH phải hướng tới tìm ra các quy luật và nguyên lí chung, cơ bản để giải thích quá trình, hiện tượng xã hội. Các quan điểm Xã hội học của Herbert Spencer: - Lí thuyết sinh học xã hội: Spencer cho rằng có một sự phân hóa dần dần trong sự vật, bắt đầu với những bộ phận sinh học, tiến dần đến trạng thái độc lập và cá thể hóa. Vì tính chất của con người thay đổi và hoàn thiện dần nên những quan điểm về đạo đức, chính trị dực trên một giả định về một bản chất ổn định của con người cần phải được bác bỏ. Bản chất con người đơn giản chỉ là tập hợp những bản năng, những tình cảm đã thích ứng qua thời gian với thực tại xã hội. Ông cũng công nhận tầm quan trọng của việc hiểu cá nhân thông qua cái tổng thể trong đó cá nhân là những bộ phận lệ thuộc lẫn nhau nhưng không lệ thuộc vào tổng thể. Cá nhân có bản thể và giá trị riêng mà tổng thể phải lệ thuộc. Theo Spencer, cuộc sống của con người không chỉ là một sự liên tục mà còn là đỉnh cao của quá trình tiến hóa lâu dài nhưng ông lại cho rằng có một sự phát triển song song của tinh thần và thể xác chứ không giản lược tinh thần vào thể xác. Quan niệm này của ông về tinh thần, về hoạt động của hệ thống thần kinh TW và não bộ là một quan niệm máy móc. - Lí thuyết tiến hóa xã hội: Dựa trên lí luận về sự tiến hóa sinh vật, Spencer tin rằng xã hội loài người cũng tiến hóa từ hình thức đơn giản lên hình thức phức tạp nhằm đáp ứng những nhu cầu sống tự nhiên của xã hội: khi dân số trong các xã hội còn ít thì việc tổ chức lao động, việc quản lí hành chính cũng như các dịch vụ phục vụ đời sống xã hội đang ở tình trạng đơn giản. Nhưng khi dân số tăng lên, xã hội trở nên đông đúc thì mọi sự trở nên phức tạp hơn. Các dịch vụ, các thiết chế trong xã hội sẽ được chuyên môn hóa. Trong lĩnh vực lao động, quá trình tiến hóa cũng đi từ hình thức lao động giản đơn như từ việc săn bắt hái lượm lên các hình thức lao động phức tạp hơn như công việc canh tác, lao động thủ công, lao động công nghiệp hiện đại. Rõ ràng phân chia lao động theo hướng chuyên môn hóa là điều không thể tránh khỏi 12
  17. Bài giảng xã hội học đại cương Nguyễn Thị Cúc - TTĐT nhằm thích nghi với tính chât và sự đòi hỏi của hình thức lao động công nghiệp hiện đại. Các thiết chế xã hội như tôn giáo, nhà nước, gia đình cũng theo một quy luật tiến hóa từ đơn giản đến phức tạp, từ đồng nhất đến đơn nhất trong quá trình phát triển của chúng. Tuy các bộ phận này ngày càng phân rẽ ra thành nhiều nhánh khác nhau nhưng chúng vẫn luôn cố kết và phụ thuộc lẫn nhau để đảm bảo cho sự tồn tại của tổng thể. Chính Spencer đã đặt nền móng cho trường phái XHH cơ cấu chức năng khi ông lí luận rằng xã hội vận hành và phát triển tốt khi mỗi bộ phận trong xã hội đảm bảo tốt chức năng của mình, thỏa mãn tốt nhu cầu của cuộc sống. Lí thuyết của Spencer sau này được E.Durkheim sử dũng khi Durkheim tìm cách miêu tả sự cố kết, tính liên đới của các bộ phận khác trong bộ máy xã hội. Spencer miêu tả xã hội là một hệ thống trong đó bao gồm nhiều tiểu hệ thống khác. Chúng vừa vận hành một cách độc lập (vì mỗi bộ phận đều có cấu tạo, mục đích và chức năng khác nhau), vừa phụ thuộc lẫn nhau một cách khăng khít vì khi một bộ phận nào đó bị trục trặc sẽ ảnh hưởng và tác động rất lớn đến hoạt động của cả hệ thống. Tuy nhiên phải chú ý rằng Spencer khẳng định quy luật tiến hóa xã hội chỉ tương tự như quy luật tiến hóa sinh học. Spencer khẳng định: trong sự tiến hóa của hai lĩnh vực này khác nhau ở cơ quan bộ phận trong cấu trúc của cơ thể con người, xã hội được cấu thành từ những bộ phận khác nhau mà hạt nhân là những cá thể có ý thức, có khả năng phán đoán, khả năng sáng tạo, có thể làm chuyển đổi môi trường mà họ đang sống. Điểm giống nhau của hai quá trình tiến hóa sinh học và tiến hóa xã hội là cả hai đều có khả năng sinh tồn và phát triển theo quy luật tiến hóa. Hay nói các khác xã hội liên túc trải qua các giai đoạn sinh trưởng, tiến trưởng, suy thoái kế tiếp nhau trong suốt quá trình thích nghi với môi trường xung quanh. Những khái niệm, các nguyên lí XHH của Spencer có ý nghĩa rất quan trọng đối với khoa học XHH hiện đại. Những phân tích về tác nhân của xã hội và các nguyên lí tiến hóa xã hội, nguyên lí về chức năng và cấu trúc xã hội đóng vai trò là nền tảng hình thành nên xu hướng chức năng luận trong XHH. a. Hai hình thái xã hội: xã hội quân sự và xã hội công nghiệp Spencer đã phân ra các hình thức xã hội khác nhau trong quá trình tiến hóa của xã hội loài người. Ông cho rằng xã hội nào cũng phải trải qua hai “loại” gần như đối nghịch nhau, đó là hình thái xã hội quan sự và xã hội công nghiệp trong đó xã hội công nghiệp là biểu hiện của một xã hội đã phát triển đến tình trạng phức tạp trong lộ trình tiến hóa của xã hội. Xã hội quân sự: Xã hội công nghiệp: - Tư tưởng, niềm tin, các chuẩn mực giá - Trong nền văn minh công nghiệp, tự trị của các cá thể đang ở trong tình trạng do tư tưởng, tự do cá nhân, tự do buôn đồng nhất, đóng khung trong một hệ ý bán đã được Spencer đề cao. thức nào đó có tính cách bắt buộc. - Các quan hệ xã hội, lao động bị ép - Trong xã hội công nghiệp, các cá thể 13
  18. Bài giảng xã hội học đại cương Nguyễn Thị Cúc - TTĐT buộc, nhà cầm quyền sử dụng sức mạnh có quyền tự do lựa chọn và quyết định, vũ lực để ép buộc các cá nhân theo các cá thể cũng như các bộ phận trong khuôn khổ của họ. Quan hệ xã hội là xã hội hiệp thương với nhau một cách quan hệ cai trị chức không phải là hiệp tự nguyện. thương. - Trong xã hội quân sự, quân đội là - Các nược sẽ làm giàu thông qua lao phương tiện của các quốc gia hùng động sản xuất. Trong thời đại công mạnh chinh phục các nước yếu để làm nghiệp, trí tuệ, chất xám sẽ là vốn quý giàu cho quốc gia mình. Xã hội quân sự có sức mạnh chinh phục, nước nào có diễn tả trạng thái thô sơ của xã hội. vốn liếng chất xám nhiều, có nhiều phát minh sẽ là nước phát triển. Xã hội công nghiệp được Spencer đồng hóa với trạng thái phát triển “phức tạp” trong quá trình tiến hóa. b. Các thiết chế xã hội Theo quan niệm của Spencer: thiết chế xã hội là kiểu tổ chức xã hội xuất hiện và hoạt động nhằm đảm bảo đáp ứng các yêu cầu, chức năng cơ bản của hệ thống xã hội đồng thời kiểm soát các hoạt động của cá nhân và các nhóm trong xã hội. Trong số các thiết chế xã hội ông đặc biệt chú ý đến thiết chế gia đình và dòng họ, thiết chế nghi lễ, thiết chế chính trị và thiết chế kinh tế. Đây là những thiết chế cơ bản nhất của xã hội. Thiết chế gia đình và dòng họ Thiết chế này không những phải đáp ứng nhu cầu tái sản xuất xã hội mà còn phải thỏa mãn nhu cầu kiểm soát hoạt động duy trì nòi giống, quan hệ giữa phụ nữ và nam giới, nhu cầu di truyền, nuôi dạy con cái và chăm sóc các thành viên trong gia đình Thiết chế nghi lễ Thiết chế này cần thiết để đáp ứng nhu cầu liên kết vá kiểm soát các quan hệ xã hội của con người thông qua các thủ tục, biểu tượng, ký hiệu, nghi thức, Nghi lễ có chức năng to lớn trong việc tạo ra sự gắn kết và phối hợp giữa các hoạt động của các bộ phận cấu thành xã hội. Ông chỉ ra mối tương quan giữa quyền lực và nghi lễ, mức độ tập trung quyền lực trong xã hội càng cao thì mức độ bất bình đẳng về nghi lễ càng lớn. Thiết chế chính trị Thiết chế này xuất hiện chủ yếu để giải quyết các xung đột bên trong và bên ngoài xã hội. Sự tập trung quyền lực càng lớn thì càng bộc lộ rõ sự phân chia giai cấp trong xã hội, do đó lại càng đặt ra yêu cầu cao đối với việc củng cố và tăng cường cơ quan quyền lực. Thiết chế tôn giáo Thiết chế này có yếu tố cơ bản là tạo dựng niềm tin vào các lực lượng siêu tự nhiên, siêu nhân. Biểu hiện của thiết chế này là việc tập hợp các cá nhân cùng chia sẻ niềm tin và cùng tham gia các hoạt động nghi lễ đặc thù của tôn giáo. Thiết chế 14
  19. Bài giảng xã hội học đại cương Nguyễn Thị Cúc - TTĐT tôn giáo có chức năng củng cố hệ thống chuẩn mực, giá trị, niềm tin, tinh thần để duy trì ổn định trật tự xã hội. Thiết chế kinh tế Thiết chế này có sức nặng cơ bản là thỏa mãn nhu cầu của con người về các sản phẩm và các dịch vụ trong điều kiện môi trường luôn khan hiếm các nguồn lực và luôn biến đổi. Sự tiến hóa của các thiết chế kinh tế thể hiện ở việc nâng cao trình độ công nghệ và tri thức, ở việc mở rộng sản xuất và phân phối hàng hóa, dịch vụ, ở mức độ tích lũy tư bản và tư liệu sản xuất và những thay đổi trong cách thức tổ chức lao động. c. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu Xuất phát từ quan điểm tiến hóa cho rằng xã hội luôn phát triển theo những quy luật nhất định, Spencer chủ trương rằng XHH có nhiệm vụ là phát hiện ra những quy luật đó của các cơ cấu xã hội trong quá trình tiến hóa và nghiên cứu mối liên hệ giữa các bộ phận trong xã hội. Theo ông XHH không nên đi quá sâu vào việc phân tích những đặc thù lịch sử của xã hội nhưng nên tập trung tìm kiếm những thuộc tính, những nguyên lí có tính phổ quát và các mối liên hệ nhân quả giữa các hiện tượng xã hội. Phương pháp của Spencer là phương pháp khoa học thực nghiệm, đặc biệt chịu ảnh hưởng thuyết duy nghiệm của August Comte. Phương pháp của ông có tính tổng hợp. Theo ông, nghiên cứu XHH phải sử dụng nhiều số liệu, phải thu thập số liệu vào nhiều thời điểm và ở nhiều địa điểm khác nhau. Kết luận Spencer đã giải thích xã hội bằng cách dựa trên mô hình những khuôn mẫu tự nhiên và sinh học. Theo ông những khái niệm trong sinh học có thể giúp nhà XHH làm nghiên cứu một cách hiệu quả. Cũng chính điều này mà ông đã bị phê bình khi đã suy diễn, quy đồng một cách máy móc từ lĩnh vực sinh học sang lĩnh vực xã hội. Spencer cũng thường bị phê bình là không nhất quán. Quan điểm của ông thay đổi đối với các vấn đề như: quốc hữu hóa đất đai, vấn đề quyền trẻ em, về việc phát triển chế độ phổ thông đầu phiếu ở phụ nữ, về vai trò của chính. Tóm lại, mặc dù lí thuyết XHH của Spencer không đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của chủ nghĩa duy lí trong khoa học nhưng các quan niệm tiến hóa xã hội của ông đã gợi ra nhiều ý tưởng quan trọng được tiếp tục phát triển trong các trường phái XHH hiện đại. Cách tiếp cận cấu trúc, hệ thống xã hội của Spencer đã được E.Durkheim, Talcott Parsons, Robert Merton và những người khác kế thừa, phát triển thành trường phái cấu trúc chức năng. Cách phân tích của Spencer về mối liên hệ giữa các đặc điểm dân số học như quy mô và mật độ dân số với các đặc điểm của thiết chế xã hội và tổ chức xã hội đã mở đầu cho trường phái sinh thái học người và trường phái Chicago phát triển mạnh trong thế kỷ XX. 2.3.5. XHH Mác-xít Karl Marx (1818-1883) Nhà triết học, kinh tế học người Đức. Lúc sinh thời Karl Marx không coi mình là nhà xã hội học, nhưng những tư tưởng trong di sản đồ sộ của ông đã ảnh 15
  20. Bài giảng xã hội học đại cương Nguyễn Thị Cúc - TTĐT hưởng rất lớn đến sự hình thành và phát triển của xã hội học, đến nỗi ngày nay ai cũng coi ông mặc nhiên là một trong những người sáng lập ra xã hội học. Dường như tất cả các nhà xã hội học hiện đại khi giải thích xã hội đều tiếp cận bằng lí thuyết mâu thuẫn và xung đột của K. Marx. Các nhà xã hội học "đều vay mượn của Marx các lí giải về giai cấp, ngay cho dù nhà xã hội học đó kết thúc bằng cách bài bác Marx như là sai lầm và bị lịch sử vượt qua". K.Marx chủ yếu sử dụng lí thuyết mâu thuẫn để làm sáng tỏ biến chuyển xã hội. Đó là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa hai giai cấp cơ bản kiến tạo nên xã hội. Các vấn đề như: phân tầng xã hội, tội phạm, biến chuyển xã hội, đều được các nhà xã hội học đương đại xem xét dưới ánh sáng lí thuyết mâu thuẫn của Marx. C.Mác và Ph.Aêngghen là những người sáng lập ra XHH Mác xít. Các ông đã phân tích một cách sâu sắc và toàn diện xã hội tư bản chủ nghĩa, những mâu thuẫn của xã hội đó, từ đó vạch ra những quan điểm duy vật biện chứng về xã hội. Các tác phẩm nổi tiếng như: “Tư bản”, “Cuộc đấu tranh giai cấp ở Fháp (1848-1850)”, “Ngày 18 tháng Sương mù cuả Lui Bônapac”, “Nội chiến ở Pháp” . C.Mac và Ph.Aênggen là những mẫu mực về sự thống nhất giữa lí luận và thực nghiệm trong việc phân tích các quá trình và hiện tượng xã hội của xã hội tư bản chủ nghĩa. Di sản phong phú của Mác - Ăngghen đã được quán triệt và phát triển hơn nữa trong các tác phẩm của V.I.Lênin: “Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở Nga”, “Chủ nghĩa đế quốc, giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản”, “Sáng kiến vĩ đại”, “Những nhiệm vụ trước mắt của chính quyền Xô viết” và nhiều tác phẩm khác. Lênin đã nói, những công trình nghiên cứu XHH đặc biệt là những công trình liên quan đến các hoạt động của đảng, nhà nước có một ý nghĩa to lớn. Ông đã chỉ ra rằng, để cho việc nghiên cứu XHH thực sự có tính khoa học, phải dựa vào những sự thật chính xác và không thể chối cãi được để thử xác định một cơ sở mà người ta có thể dựa vào. Từ đó có thể dùng để đối chiếu với bất cứ lập luận nào trong những lập luận “chung” hay “khuôn mẫu”, những lập luận mà ngày này trong một vài nước người ta quá ư lạm dụng. Muốn cho điều đó thực sự trở thành một cơ sở thì cần phải xét không những sự thật riêng biệt, mà toàn thể những sự thật đó liên quan đến vấn đề đang xét, không trừ một ngoại lệ nào. Bởi vì, nếu không thì nhất định người ta sẽ nghi ngờ và nghi ngờ một cách hoàn toàn không chính đáng rằng, những sự thật đã được lưạ chọn hay thu thập một cách tuỳ tiện, rằng thay cho mối liên hệ và sự phụ thuộc lẫn nhau một cách khách quan giữa những hiện tượng lịch sử xét trong chỉnh thể của chúng ta, người ta đưa ra một sự bôi bác chủ quan 2.4. Sự ra đời và phát triển của XHH Mác - Lênin Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, xã hội tư bản ra đời thay thế xã hội phong kiến là một bước tiến bộ, cách mạng trong lịch sử phát triển nhân loại. Chủ nghĩa tư bản ra đời đã thực sự cách mạng hóa những quan hệ sản xuất và do đó, đã cách mạng hóa toàn bộ những quan hệ xã hội, đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp 16
  21. Bài giảng xã hội học đại cương Nguyễn Thị Cúc - TTĐT lại. Lực lượng sản xuất mà chủ nghĩa tư bản tạo ra chính là nền đại công nghiệp và gắn liền với nó là giai cấp vô sản. Đó là lực lượng sản xuất có tính xã hội. Sự ra đời của nền đại công nghiệp đã quyết định sự thắng lợi của chủ nghĩa tư bản đối với phong kiến. C.Mác đã phát hiện ra mâu thuẫn cơ bản của xã hội tư bản là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Mâu thuẫn đó là cơ sở sâu xa của các mâu thuẫn khác và chi phối sự vận động, phát triển của xã hội tư bản. Chủ nghĩa tư bản càng phát triển thì mâu thuẫn đó càng tăng lên và đòi hỏi phải thủ tiêu chế độ này. Chính vì vậy, sự ra đời của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản không phải là ý muốn chủ quan mà là một tất yếu khách quan trên cơ sở của những tiền đề vật chất do chủ nghĩa tư bản tạo ra, đồng thời cũng là kết quả của việc giải quyết các mâu thuẫn vốn có trong lòng xã hội tư bản. Từ sau khi chủ nghĩa xã hội bị sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu, còn chủ nghĩa tư bản vẫn tiếp tục phát triển và đạt được nhiều thành tựu trong kinh tế, khoa học và công nghệ, đã xuất hiện những quan điểm phủ nhận chủ nghĩa xã hội, lí tưởng hóa chủ nghĩa tư bản. Trong số đó, ngoài những thế lực thù địch với chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa xã hội, còn có một số người do sai lầm về nhận thức, về phương pháp tiếp cận nên đã đồng nhất chủ nghĩa xã hội nói chung với mô hình xã hội tập trung quan liêu, quy toàn bộ những thành tựu mà nhân loại đã đạt được trong thời đại lịch sử hiện nay cho riêng chủ nghĩa tư bản. Thực ra, chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô (cũ) và các nước Đông Âu đã được xác lập trong một hoàn cảnh lịch sử đặc biệt và nó đã đóng vai trò quan trọng trong điều kiện lịch sử đó. Khi điều kiện lịch sử thay đổi, mô hình đó không còn phù hợp nữa, nhưng lại không sớm được đổi mới, do đó đã dẫn đến khủng hoảng và sụp đổ. Tất nhiên, ở đây còn nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nữa, nhưng về thực chất, đó là hậu quả của sự chậm đổi mới về tư duy, vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin một cách cứng nhắc, máy móc, giáo điều. Sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô (cũ) và Đông Âu là sự sụp đổ của một mô hình cụ thể, chứ không phải là sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội với tính cách là giai đoạn đầu của hình thái cộng sản chủ nghĩa. Việc xây dựng một hình thái kinh tế - xã hội mới là công việc hết sức khó khăn. Những vấp váp, thậm chí đổ vỡ tạm thời là điều khó tránh khỏi. Đó không phải là luận cứ để bác bỏ một xu hướng phát triển tất yếu của xã hội. Những thành tựu đạt được ở các nước tư bản trong thời gian qua là thành tựu chung của văn minh nhân loại, nó không hề chứng minh chủ nghĩa tư bản là vĩnh viễn. Chính những thành tựu đó lại trở thành cái đối lập với chủ nghĩa tư bản. Chúng chính là những tiền đề vật chất cho sự ra đời chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Nếu như cuộc cách mạng công nghiệp ở các nước Tây Âu thế kỷ XVII – XIX đã tạo ra nền tảng vật chất cho chủ nghĩa tư bản chiến thắng chế độ phong kiến, thì ngày nay cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang tạo ra những tiền đề vật chất cần thiết để thay thế chủ nghĩa tư bản bằng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Chủ nghĩa tư bản đương đại bằng những thủ đoạn hết sức tinh vi đang ra sức che giấu bản chất bóc lột của mình, nhưng không thể phủ nhận một điều là giai 17
  22. Bài giảng xã hội học đại cương Nguyễn Thị Cúc - TTĐT cấp tư sản vẫn nắm giữ hoàn toàn lĩnh vực kinh tế trọng yếu của xã hội, hình thành những tập đoàn tư bản lớn chi phối đời sống kinh tế, chính trị đất nước. Thực chất, chủ nghĩa tư bản vẫn là nó. Giai cấp tư sản vẫn giữ địa vị thống trị, người công nhân vẫn bị bóc lột giá trị thặng dư. Điều đó là một sự thật không thể phủ nhận. Giai cấp công nhân phải được giải phóng, chế độ công hữu về tư liệu sản xuất phải được thiết lập trên thực tế, phù hợp với tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất. Vì vậy, vấn đề quá độ lên chủ nghĩa xã hội vẫn là một xu hướng tất yếu không thể đảo ngược được của thời đại. Dựa trên cơ sở phân tích xu hướng của thời đại và điều kiện cụ thể của nước ta, Đảng ta vẫn kiên định con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội với mục tiêu: ““Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta đã đưa ra nhận định: “Chủ nghĩa tư bản hiện đang nắm ưu thế về vốn, khoa học và công nghệ, thị trường, song nó không thể khắc phục nổi những mâu thuẫn vốn có của xã hội tư bản, đặc biệt là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hoá ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, mâu thuẫn giữa các nước tư bản phát triển và các nước đang phát triển 18
  23. Bài giảng xã hội học đại cương Nguyễn Thị Cúc - TTĐT CHƯƠNG 3: CƠ CẤU CỦA XÃ HỘI HỌC 3.1. Khái niệm về cơ cấu XHH 3.1.1. Quan điểm của XHH về cơ cấu xã hội Trong lịch sử XHH đã từng tồn tại nhiều quan điểm và các định nghĩa khác nhau về cơ cấu xã hội cũng như các cách tiếp cận nghiên cứu khác nhau về khái niệm - cơ cấu xã hội. - Theo quan niệm của G.V.Oâxipôp, khái niệm cơ cấu xã hội có liên quan mật thiết đến khái niệm hệ thống xã hội và khái niệm thứ nhất là bộ phận của khái niệm thứ hai. Khái niệm cơ cấu xã hội bao hàm hai thành tố: + Thành phần xã hội + Những liên hệ xã hôi Thành phần xã hội là tập hợp các bộ phận, các nhóm, các giai cấp, các công đồng xã hội cấu thành cơ cấu xã hội. - Theo quan niệm của Ian Robertson, “Cơ cấu xã hội là mô hình của các quan hệ giữa các thành phần cơ bản trong hệ thống xã hội. Những thành phần này tạo nên bộ khung cho tất cả xã hội loài người, mặc dầu tính chất của các thành phần và các quan hệ giữa chúng biến đổi từ xã hội này đến xã hội khác. Những thành phần quan trọng nhất của cơ cấu xã hội là vị thế, vai trò, nhóm các thiết chế”. Định nghĩa trên chỉ ra các đặc trưng sau đây của cơ cấu xã hội: + Cơ cấu xã hội không những được xem như là một tổng thể, một tập hợp các bộ phận (các cộng đồng, các tầng lớp,các giai cấp ) cấu thành xã hội mà còn được xem xét về mặt kết cấu và hình thức tổ chức bên trong của một hệ thống xã hội. Đặc trưng này là rất quan trọng, bởi cũng giống như mọi khách thể vật chất khác, xã hội cũng cần được xem xét về mặt kết cấu và hình thức tổ chức. Có nghĩa là: cơ cấu xã hội được coi là sự thống nhất của hai mặt: các thành phần xã hội và các mối liên hệ xã hội - phản ánh được đúng đắn và toàn vẹn các nhân tố hiện thực đã cấu thành nên cơ cấu xã hội. Quan niệm này vừa khắc phục được cách nhìn phiến diện khi đã quy cơ cấu xã hội vào các quan hệ xã hội; đồng thời cũng khắc phục được cách nhìn tách rời giữa cơ cấu xã hội và các quan hệ xã hội. Thật ra, các quan hệ xã hội hay cá môi liên hệ xã hội luôn luôn là sự thống nhất biên chứng giữa hai mặt: các thành phần xã hội và các mối liên hệ xã hội. Sự vận động và biến đổi của cơ cấu xã hội luôn có nguồn gốc từ sự thống nhất và đấu tranh giữa cắc mặt, các mối liên hệ, các yếu tố đã cấu thành cơ cấu xã hội. Cơ cấu xã hội là một “bộ khung”, “bộ dàn” để xem xét xã hội cho phép chúng ta biết được một xã hội cụ thể được cấu thành từ những nhóm xã hội nào, nhóm xã hội lớn: một nước, một dân tộc, một quốc gia, một giai cấp, một chính đảng, tầng lớp v v hay nhóm xã hội nhỏ: một xí nghiệp, một lớp học, một cơ quan.v.v Cũng thông qua “bộ khung” này mà chúng ta biết được “vị thế” tức là chỗ đứng của từng cá nhân, từng nhóm xã hội trong xã hội; vai trò xã hội của các cá nhân và các nhóm xã hội và thiết chế xã hội (tức là cách thức tổ chức của các 19
  24. Bài giảng xã hội học đại cương Nguyễn Thị Cúc - TTĐT hoạt động xã hội và các quan hệ xã hội nhằm bảo đảm sự ăn khớp của các hành vi của các cá nhân và các nhóm xã hội vận hành một cách bình thường, ổn định -phát triển. Khi nghiên cứu về cơ cấu xã hội cần chú ý đến các phân hệ cơ bản của cơ cấu cấu xã hội : • Cơ cấu giai cấp –xã hội • Cơ cấu nhân khẩu – xã hội • Cơ cấu nghề nghiệp-xã hội • Cơ cấu lãnh thổ-xã hội. • Cơ cấu dân tộc-xã hội 3.1.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu cơ cấu xã hội Nghiên cứu cơ cấu xã hội sẽ cho chúng ta một bức tranh tổng quát về xã hội, từ đó có thể vạch ra được chiến lược xây dựng mô hình cơ cấu xã hội tối ưu, bảo đảm sự vận hành có hiệu quả, thực hiện tốt các vai trò xã hội theo chiều hướng tiến bộ. - Nghiên cứu cơ cấu xã hội, đặc biệt là nghiên cứu sự phân tầng xã hội, cho phép chúng ta đi sâu vào phân tích thực trạng nhận diện được một cách chân thực những đặc trưng và xu hướng phát triển của đất nước, từ đó có cơ sở khoa học để vạch ra những chính sách xã hội phù hợp nhằm tập trung lôi kéo được những lực lượng tinh hoa, những phần tử năng động nhất, tài năng nhất của xã hội để bố trí vào những vị trí quyền lực then chốt (quyền lực chính trị, kinh tế), quản lí và điều hành xã hội một cách có hiệu quả, hướng vào mục tiêu dân giàu, nước mạnh. Trên cơ sở vạch ra những nhân tố lệch chuẩn hoặc những nhân tố sẽ dẫn đến phá vỡ sự ổn định xã hội, rối loạn chức năng, các nhà XHH có thể kiến nghị lên cấp trên, đưa ra một hệ thống chích sách thích hợp, điều chỉnh hoặc khắc phục những hiện tượng lệch chuẩn, cũng như những biểu hiện tiêu cực khác. - Việc nghiên cứu cơ cấu xã hội – giai cấp và các phân hệ cơ cấu xã hội cơ bản khác cho phép chúng ta nắm được nhân lõi cơ bản của cơ cấu xã hội, từ đó có chiến lược nhằm đưa ra mô hình cơ cấu xã hội thích hợp; mặt khác, có điều kiện để hiệu chỉnh và điều phối một tổng thể các cơ cấu xã hội sao cho hài hoà và ăn khớp với nhau trong sự phát triển của xã hội. - Góp phần hoàn thiện công tác quản lí và ổn định xã hội trên tất cả các lĩnh vực kinh tế chính trị xã hội 3.2. Các lĩnh vực nghiên cứu XHH Cơ cấu của môn XHH được phân chia theo hai phương diện: một là, theo phạm vi của nhóm được nghiên cứu bao gồm XHH đại cương và XHH chuyên biệt: hai là, theo mức độ trừu tượng bao gồm XHH trừu tượng lí thuyết và XHH cụ thể - thực nghiệm. 3.2.1. XHH đại cương và XHH chuyên biệt XHH đại cương là cấp độ cơ bản của hệ thống lí thuyết XHH. XHH đại 20
  25. Bài giảng xã hội học đại cương Nguyễn Thị Cúc - TTĐT cương là khoa học của cái chung nhất, của các quy luật XHH về sự hoạt động và phát triển của xã hội, của sự tương tác tự nhiên, vốn có của các yếu tố hợp thành hệ thống xã hội. XHH chuyên biệt là cấp độ các quan hệ nhất định phản ánh mối liên hệ khách quan giữa các mặt khác nhau của đời sống xã hội. Các lí luận XHH chuyên biệt này là khâu trung gian gắn lí luận XHH đại cương với việc nghiên cứu XHH các hiện tượng của đời sống xã hội. Ngày nay, XHH chuyên biệt hiện đại được phân chia ra thành các môn XHH về: Tôn giáo Nông thôn, đô thị Nghệ thuật Văn hoá TTXH Các cộng đồng cư dân Bất bình đẳng dân tộc và chủng tộc Vai trò giới tính và bất bình đẳng Gia đình Các phong trào xã hội Các biến đổi xã hội về văn hoá và chuẩn mực xã hội 3.2.2. Lí thuyết XHH và XHH thực nghiệm XHH là một khoa học lí thuyết cũng như các khoa học XHH khác. Trong một hệ thống những sự trừu tượng hoá (như các khái niệm, phạm trù, quy luật, giả thuyết XHH .), nhà XHH luôn tìm cách tái thể hiện trong quá trình tư duy, đối tượng xã hội, mô tả trạng thái của nó thâm nhập vào các quy luật hoạt động và phát triển của nó, hiểu được và dự báo được xu hướng phát triển tất yếu của nó. Đồng thời, XHH là một trong các khoa học thực nghiệm. Nó rút ra các kết luận xã hội từ các trắc nghiệm, các quan sát thực nghiệm xã hội, từ các tài liệu thực nghiệm thu được về các đối tượng xã hội, từ các tài liệu thực nghiệm thu được về các đối tượng xã hội. Như vậy, xã hội là một khoa học vừa có tính chất thực nghiệm lại vừa có tính chất lí thuyết, nghĩa là một khoa học không chỉ mô tả các sự kiện thực nghiệm mà còn rút ra những quy luật và khái niệm từ sự phân tích lí thuyết các dự kiện thực nghiệm mà còn rút ra những quy luật và khái niệm từ sự phân tích lí thuyết các dữ kiện thực nghiệm. Do bản chất của XHH với tính cách là một khoa học thực nghiệm - lí thuyết, cho nên nhận thức XHH có hai giai cấp độ: thực nghiệm và lí thuyết. Cấp độ XHH thực nghiệm bao gồm việc thu thập thông tin xã hội thông qua quan sát, thí nghiệm và xử lí các thông tin xã hội đó. Tiêu biểu của cấp độ này là sử mô tả các sự kiện thực nghiệm. Mỗi quan hệ giữa cấp độ lí thuyết và thực nghiệm của nhận thực xã hội đươc thể hiện cụ thể như sau: - Nhận thức lí thuyết được xây dựng trên cơ sở của nhận thức thực nghiệm. 21
  26. Bài giảng xã hội học đại cương Nguyễn Thị Cúc - TTĐT - Nhận thức lí thuyết không phải là sự tiếp diễn đơn giản nhận thức thức nghiệm. Trường hợp nhận thức lí thuyết, nhà XHH dựng lên một hệ thống rõ ràng các định nghĩa, các khái niệm, các giả thuyết và giả định nhưng họ luôn luôn quay về với cấp độ thực nghiệm, coi đó là nguồn gốc của sự khái quát hoá. - Nhận thức thực nghiệm với nghĩa nó là cái có trước, là cơ sở cho sự khái quát hoá lí thuyết. 22
  27. Bài giảng xã hội học đại cương Nguyễn Thị Cúc - TTĐT CHƯƠNG 4: MỘT SỐ KHÁI NIỆM CỦA XÃ HỘI HỌC 4.1. Quan hệ xã hội Có nhiều quan điểm trước Mác về con người như quan điểm tôn giáo cho rằng con người do Thượng đế tạo ra hay theo chủ nghĩa duy tâm con người là hiện thân của ý niệm tuyệt đối ngay cả các quan điểm duy vật trước Mác cũng chỉ thấy mặt sinh học của con người mà chưa thấy vai trò quyết định của mặt xã hội và hoạt động thực tiễn của con người. Trên quan điểm duy vật triệt để Mác đi đến bản chất con người là thực thể thống nhất giữa mặt sinh học với mặt xã hội. Mặt sinh vật bao gồm cơ thể , mối quan hệ giữa cơ thể với giới tự nhiên chung quanh, cùng những nhu cầu sinh vật và những quy luật sinh học chi phối đời sống của cơ thể con người. Mặt xã hội bao gồm “tổng hòa những quan hệ xã hội”, những hoạt động xã hội, đời sống tinh thần của con người. Hai mặt sinh vật và xã hội ở con người hợp thành một thể thống nhất có quan hệ khắng khít không thể tách rời nhau, trong đó mặt sinh học là nền tảng vật chất tự nhiên của con người, nhưng không phải là yếu tố quyết định bản chất của con người; mặt xã hội mới là mặt giữ vai trò quyết định bản chất của con người. Như vậy, chúng ta thấy rằng con người vượt trên con vật qua 3 phương diện : quan hệ với tự nhiên, quan hệ với xã hội và quan hệ với chính bản thân con người. Trong đó quan hệ xã hội giữa người với người là quan hệ bản chất bởi vì chỉ trong toàn bộ các mối quan hệ xã hội đó con người mới bộc lộ bản chất xã hội của mình. Tóm lại “Trong tính hiện thực của nó, bản chất của con người là tổng hòa những mối quan hệ xã hội”. Trên cơ sở tiếp thu quan điểm về con người của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng nhân văn của cách mạng Pháp, tư tưởng từ bi của Phật giáo, nhân văn của Nho giáo và kế thừa truyền thống của dân tộc Hồ Chí Minh đã đưa ra quan điểm: con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng dân tộc với mục tiêu là phát triển con người toàn diện. Cách mạng Việt Nam hiện nay và những vấn đề đặt ra đối với con người Việt Nam - Vấn đề xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất của nhân dân lao động, nhất là đồng bào ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số. - Vấn đề phát triển thể chất, sức khỏe của con người. - Vấn đề nâng cao trình độ khoa học - kỹ thuật. - Vấn đề văn hóa, đạo đức; chống những hiện tượng tiêu cực phát sinh trong xã hội. + Xây dựng con người đáp ứng yêu cầu của cách mạng trong giai đoạn hiện nay. - Phấn đấu cho hạnh phúc của con người trong một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Mục đích của chủ nghĩa xã hội là sự phát triển tự do và hạnh phúc của con người và chính sự phát triển tự do của cá nhân là điều kiện cho sự phát triển của xã hội. Tuy nhiên, việc mưu cầu hạnh phúc cho con người không thể tách 23
  28. Bài giảng xã hội học đại cương Nguyễn Thị Cúc - TTĐT rời việc phấn đấu xây dựng một xã hội phát triển về kinh tế, công bằng, dân chủ và văn minh. Kiên quyết chống những hiện tượng tiêu cực trong đời sống xã hội. - Đào tạo những con người của xã hội văn minh. Con người mới là những con người có đủ trình độ và năng lực làm chủ tự nhiên, xã hội và bản thân. Do đó, giáo dục và đào tạo phải đáp ứng yêu cầu đào tạo ra những con người mới vừa hồng, vừa chuyên, nghĩa là vừa có đủ trình độ và năng lực sáng tạo và làm chủ khoa học và công nghệ, quản lí kinh tế, quản lí nhà nước, vừa có đủ phẩm chất chính trị, đạo đức để có thể giữ vững thành quả cách mạng và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta, đưa nước ta tiến kịp trình độ của văn minh nhân loại. - Phát triển con người một cách toàn diện. Để có những con người có đủ trình độ và năng lực làm chủ tự nhiên, xã hội và bản thân, có cuộc sống gia đình hạnh phúc thì cần phải phát triển con người một cách toàn diện, cả về thể lực và trí lực, cả về năng lực chuyên môn và phẩm chất chính trị, đạo đức, cả về phẩm chất cá nhân và quan hệ xã hội. 4.2. Tương tác xã hội (TTXH) Khái niệm xã hội học chỉ ra rằng mỗi hoạt động có mục đích của con người chỉ trở thành hoạt động xã hội khi nó nằm trong một số mối quan hệ giữa các chủ thể hoạt động và thông qua các mối quan hệ đó. Đồng thời, khái niệm đó cũng nói lên rằng mối quan hệ đều gắn liền với một hoạt động nhất định. Sự TTXH tồn tại trong sự tác động qua lại của mỗi hiện tượng, quá trình, hay hệ thống xã hội, nói lên những mối liên hệ và quan hệ trong hiện thực. Nhưng không phải mọi thứ trong hiện thực xã hội đều có thể sử dụng khái niệm này để giải thích. Sự TTXH chỉ tồn tại trong những điều kiện xã hội đặc thù, các điều kiện đó được thực hiện do sự kết hợp của 3 nhân tố có liên quan với nhau: hoạt động xã hội, chủ thể xã hội, quan hệ xã hội. Về mặt bản thể luận, TTXH được thể hiện dưới các hoạt động và các quan hệ khác nhau về tính chất và nội dung, dưới dạng các chủ thể khác nhau, các chủ thể này phục tùng các giá trị, các lợi ích và các động cơ khác nhau và hoạt động trong các điều kiện khác nhau. Các TTXH khác nhau đã hình thành và xuất hiện trong những hệ thống TTXH khác nhau, những hệ thống xã hội khác nhau. Từ những hệ thống TTXH khác nhau, sinh ra hai loại hệ thống xã hội cơ bản: loại hệ thống xã hội thứ nhất không chứa đựng các điều kiện tiên quyết cần thiết cho sự tái sản xuất ra chúng, đó là những phân hệ của hệ thống cơ bản; loại hệ thống xã hội thứ hai chứa đựng mọi điều kiện tiên quyết ấy, tức là các hệ thống TTXH luôn luôn tự tái sản xuất, hay là các xã hội. Do đó, xã hội là hệ thống TTXH chứa đựng trong bản thân nó mọi điều kiện tiên quyết cho sự tái sản sinh của nó, cho sự chi phối (sự tự điều chỉnh) và sự tự phát triển của nó. Tương tác nghĩa là tác động qua lại giữa các sự vật hiện tượng. TTXH là sự tác động, quan hệ giữa những con người với nhau trong xã hội. Mỗi con người là một phần tử cấu thành nên xã hội. Nếu không sự quan hệ lẫn nhau giữa các cá nhân thì sẽ không thể hình thành nên xã hội. Nó giống như những viên gạch nếu không 24
  29. Bài giảng xã hội học đại cương Nguyễn Thị Cúc - TTĐT có sự kết hợp thì không thể tạo nên những công trình. Con người trong quá trình sống thì phải đặt trong một xã hội, trong các mối quan hệ xã hội. Quan hệ xã hội của con người có thể thực hiện thông qua gián tiếp hay trực tiếp. Ví dụ - Việc học tập đó là mối quan hệ vừa trực tiếp vừa gián tiếp. - Xem truyền hình, nghe đài, nghe nhạc là gián tiếp. - Gặp mặt trao đổi là vừa trực tiếp vừa gián tiếp. Việc quan hệ giữa con người có thể sử dụng các phương tiện kỹ thuật như sách báo, điện thoại, các sản phẩm vật chất hay tinh thần. Tất cả là những phương tiện hỗ trợ rất hữu ích cho con người. Tuy nhiên điều mấu chốt vẫn là yếu tố con người. Khoa học_kỹ thuật đã giúp con người tạo nên các quan hệ dễ dàng hơn. Khi con người càng khôn ngoan thì người ta càng muốn có sự hợp tác với nhau, để thỏa mãn các nhu cầu tâm sinh lí, tình cảm, trao đổi, giúp đỡ nhau để cùng tồn tại và phát triển. Ta có thể hình dung mỗi con người như một bộ phận trong cơ thể. Một xã hội muốn phát triển tốt thì mọi người phải kết nối với nhau, việc kết nối phải tuân theo nguyên tắc: • Tôn trọng lẫn nhau. • Phân công lao động tùy thuộc khả năng về thể chất, tài năng, trí tuệ và cùng hướng tới việc xây dựng một xã hội tốt đẹp. Con người ngày càng xóa dần đi sự xa lạ và cần thiết phải làm như vậy. Mọi người đều là anh em, biết nương tựa giúp đỡ nhau về mọi mặt, như thế sẽ tạo nên điều tốt đẹp. Đó là con đường để có cuộc sống hạnh phúc. Nếu ta hạn chế các mối quan hệ thì đó là một sai lầm và trở ngại lớn cho sự tồn tại và phát triển, nó giống như các mạch máu trong cơ thể bị tắc và cơ thể đó sẽ bị hủy diệt. Con người hay gặp nhiều sai lầm vì do hoàn cảnh giáo dục tạo nên, khiến con người không hiểu nhau, nên dễ hình thành tính ích kỷ, hay cái tôi cá nhân quá lớn. Mọi người không biết chia sẽ, thông cảm mà lại hay đối đầu, điều này không có lợi cho sự tồn tại và phát triển. Không ai giống ai, nhưng con người lại hay đòi hỏi người khác theo như suy nghĩ của mình thì mới thiết lập quan hệ. Đây là một trở ngại lớn. Ta nên rộng lượng và bao dung hơn, cần phải hiểu rằng, con người ai cũng có nhiều ưu điểm và nhược điểm không giống nhau. Việc quan hệ của ta là vừa làm cho họ tốt lên và phát huy những mặt tốt của họ. Không phải cứ chờ họ tốt hoàn toàn thì mới chơi, vì không có một con người nào như vậy. Tóm lại, mọi người phải biết quan hệ với nhau để cùng giúp nhau, dựa vào nhau mà sống đó là lương tâm là trách nhiệm và là con đường chân chính của con người. 4.3. Vị thế xã hội Theo quan niệm của nhà xã hội học R.Linton thì “ vị thế xã hội là vị trí xã hội của một cá nhân trong hệ thống xã hội”. Nó trả lời cho câu hỏi Anh là ai? Mỗi vị thế quyết định chỗ đứng của một cá nhân nào đó trong xã hội và mối quan hệ của 25
  30. Bài giảng xã hội học đại cương Nguyễn Thị Cúc - TTĐT cá nhân đó với những người khác. Cá nhân không chỉ có một vị thế mà nhiều vị thế. Ví dụ: một ngươi vừa là cha trong gia đình, vừa là một giám đốc xí nghiệp hoặc chủ tịch của một hiệp hội nào đó. Trong các vị thế xã hội thì vị thế nghề nghiệp là quan trong nhất. Nó trở thành vị thế chủ đạo, có vai trò quyết định đối với việc xác định những đặc điểm nào đó của một cá nhân. Có thể chia vị thế ra làm hai loại: Vị thế tự nhiên: là vị thế mà con người được gắn bởi những thiên chức, những đặc điểm cơ bản mà họ không thể tự kiểm soát được. Ví dụ, trẻ hay già, nam hay nữ, da đen hay da trắng. Vị thế xã hội: (vị thế đạt được) là vị thế phụ thuộc vào những đặc điểm mà trong một trừng mực nhất định, cá nhân có thể kiểm soát được. Vị thế xã hội phụ thuộc vào sự nỗ lực phấn đấu và nghị lực vươn lên của bản thân. Ví dụ: một người có thể trở thành kỹ sư hay bác sĩ, giám đốc xí nghiệp hay bộ trưởng. 4.4. Địa vị xã hội Địa vị xã hội là một khái niệm khá trừu tượng. Mội người đều có địa vị xã hội của mình, tuỳ theo quan niệm chung của xã hội mà gọi đó là địa vị cao hay thấp. Địa vị xã hội co thể hiểu rộng ra ở nhiều lĩnh vực, một người có địa vị xã hội là một người được nghiều người biết đến và CÓ SỨC ẢNH HƯỞNG đối với người khác,với cộng đồng. Hiểu một cách đơn giản, người có địa vị xã hội, là người có chức vụ, quyền hạn (người lãnh đạo, quản lí) trên mọi lĩnh vực trong xã hội như : - Kinh tế (hoạt động sản xuất kinh doanh): Tổng Giám đốc, Giám đốc,Trưởng, Phó phòng ban, ngành Nhà nước hay tư nhân. Vậy người mà bạn nêu trên là có địa vị xã hội đấy. - Chính trị, xã hội : Những người lãnh đạo, quản lí trong các tổ chức chính trị, xã hội thuộc bộ máy Nhà nước hay các tổ chức đoàn thể xã hội khác. Về bộ máy Nhà nước như: chủ tịch nước, bộ trưởng, còn các tổ chức xã hội như: chủ tịch mặt trận Tổ quốc Việt nam, Chủ tịch hội Liên hiệp phụ nữ Việt nam 4.5. Vai trò xã hội Khái niệm vai trò XH được bắt nguồn từ nghệ thuật sân khấu, có nghĩa là một cá nhân nào đó phải thực hiện vai diễn. Theo Xã hội học, một vai trò có nghĩa là một tập hợp các chuẩn mực, hành vi, nghĩa vụ và quyền lợi gắn với một vị thế nhất định. Một người có thể chiếm một vị thế hay đóng một vai trò nhất định trong xã hội. Ví dụ, giáo sư là một vị thế xã hội, gắn với vị thế này là vai trò nghề nghiệp được quy định bởi các chuẩn mực xã hội, buộc người có vị thế đó phải thực hiện. Vị thế thường ổn định, nó là sự định vị, là chỗ đứng của một cá nhân nào đó trong xã hội, song vai trò thì cơ động hơn. Ví dụ: cũng làm một chức danh giám đốc, song ở xí nghiệp này thì cá nhân đó thực hiện những vai trò này, còn ở xí 26
  31. Bài giảng xã hội học đại cương Nguyễn Thị Cúc - TTĐT nghiệp khác thì lại thực hiện những vai trò khác. Trong thực tế, một vị thế thường là có một vài vai trò. Ví dụ, giáo sư đại học chỉ có một vị thế nghề nghiệp song lại đóng nhiều vai trò khác nhau như đồng nghiệp, giảng dạy,nghiên cứu khoa học. 4.6. Hành động xã hội Hành động xã hội là một hình thức hoặc cách thức giải quyết các mâu thuẫn, vấn đề xã hội. Hành động xã hội được tạo ra bởi các phong trào xã hội, các tổ chức, các đảng phái chính trị Hành động xã hội là một bộ phận cấu thành trong hoạt động sống của cá nhân. Nói cách khác, các cá nhân hành động chính là để thực hiện hoạt động sống của mình. Nói đến hành động xã hội của con người là nói đến động cơ, mục đích, điều kiện, phương tiện thực hiện mục đích đã định. Có thể xem xét hành động xã hội với tư cách là tập hợp các lực lượng chủ quan.bện trong (nhu cầu, tình cảm, ý thức ) và lực lượng bên ngoài (đối tượng, công cụ, 'điều kiện, hoàn cành ). Các nhà xã hội học dùng khái niệm hành động xã hội để chỉ tất cả những hành vi và hoạt động của con người diễn ra trong khung cảnh lịch sử xã hội nhất định. Đó là hành vi có mục đích, có đối tượng, là hành động hướng tới người khác hay chịu ảnh hưởng của người khác. Khái niệm hành động cho rằng xã hội học là khoa học lí giải hành động xã hội". Nói đến cơ cấu là nói đến hệ thống chính thể và mối liên hệ của các bộ phận cấu thành của nó. Cơ cấu xã hội còn gọi là cấu trúc xã hội là khuôn mẫu, hình dáng, thuộc tính của các quan hệ xã hội, các thiết chế xã hội, các điều kiện, các hoàn cảnh và các sản phẩm xã hội mà con người đã tạo ra. Cũng tương tự như đối với hành động xã hội, cơ cấu xã hội là tập hợp các lực lượng vật chất có thể nhìn thấy được như nhóm, tổ chức xã hội và các lực lượng tinh thần khó nhìn thấy như hệ thống các chuẩn mực, các giá trị, quyền lực xã hội Đối tượng nghiên cứu của xã hội học - mối quan hệ giữa con người và xã hội thể hiện rõ trong việc xem xét vấn đề "hành động xã hội - cơ cấu xã hội". Khi mới ra đời ở Pháp, xã hội học được xác định là "khoa học về xã hội", tức là khoa học nghiên cứu sự hình thành, biến đổi và chức năng của hệ thống xã hội, cơ cấu xã hội. Chẳng hạn, Comte cho rằng xã hội học là môn khoa học về tiến trình thay đổi của các xã hội. Theo Emile Durkheim (1858 - 1917), xã hội học nghiên cứu các "sự kiện xã hội" (Social facts"). Các sự kiện xã hội quy định hành động xã hội và đoàn kết các cá nhân để tạo ra trật tự xã hội. Khi nghiên cứu xã hội, Durkheim muốn biện minh cho sự cần thiết của “trật tự xã hội". Nhưng, dường như xã hội học của Durkheim đã đặt xã hội nói chung, cơ cấu xã hội nói riêng đối lập với con người. Khi "du nhập" vào một số nước khác, đặc biệt là vào Mỹ, xã hội học chuyển trọng tâm chú ý sang các vấn đề của cá nhân theo quan điểm "hãy trả lại con người cho xã hội học". Homans cho rằng cần sử dụng triệt để các quy luật và nguyên lí tâm lí học để giải thích hành vi xã hội của con người. Bị ảnh hưởng của chủ nghĩa 27
  32. Bài giảng xã hội học đại cương Nguyễn Thị Cúc - TTĐT hành vi và tâm lí học xã hội, một số tác giả Mỹ xác định đối tượng nghiên cứu của xã hội học là hành vi xã hội của con người và định nghĩa xã hội học là "khoa học về các cá nhân" và "khoa học về hành vi". Các nhà xã hội học Châu Âu lí giải các hiện tượng xã hội từ góc độ hệ thống xã hội. Họ đặt ra nhiệm vụ nhận thức quy luật tồ chức và vận hành xã hội. Trong khi đó, xã hội học Mỹ giải thích các vấn đề xã hội từ vị thế xã hội của cá nhân. Đối với họ, vấn đề là giải thích tại sao, trong khi theo đuổi những lợi ích cá nhân ích kỷ khác nhau, các cá nhân vẫn cùng nhau tạo ra được cơ cấu xã hội ổn định. Để minh họa ta có thể nhắc tới nghiên cứu của Talcof parsons và Robert Merton. Lí thuyết của Parsons không những là một trong những lí thuyết tiêu biểu của trường phái xã hội học "cơ cấu - chức năng" mà còn là một trong những cách tiếp cận có hiệu quả để giải quyết mối quan hệ giữa hành động xã hội và cơ cấu xã hội. Luận điểm cơ bản của Parsons là sự tồn tại của mỗi hệ thống do chức năng của hệ thống đó quy định. Theo ông, hệ thống nhân cách là một trong bốn tiểu hệ thống (văn hóa, kinh tế, xã hội, nhân cách) tạo thành hệ thống tổng thể xã hội. Ngoài khái niệm "nhằn cách", Parsons sử dụng nhiều thuật ngữ “rất tâm lí học" như thích ứng, nhu cầu, mục đích để nói về hành động xã hội và các chức năng của hệ thống xã hội. Khi nghiên cứu vấn đề "kép" nêu trên, Robert Merton quan tâm tôi việc con người lựa chọn mục đích và phương tiện như thế nào để đạt được mục đích trong xã hội. Ông cho rằng, hành động người chỉ được coi là "mẫu mực", "bình thường" khi mục đích và phương tiện thực hiện nó được xã hội chấp nhận, được xã hội coi là phù hợp. Điều đó cho thấy, hành động xã hội của cá nhân luôn gắn liền với cơ cấu xã hội, hệ thống xã hội. Từ những năm 1980 trở lại đây, xã hội học có xu hướng trở thành khoa học tổng hợp chủ yếu với tư cách là một khoa học sử dụng các thuật ngữ, khái niệm và phương pháp nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau để nghiên cứu mối quan hệ giữa con người và xã hội. 4.7. Thiết chế xã hội 4.7.1. Khái niệm Thiết chế xã hội là một tập hợp bền vững của các giá trị chuẩn mực, vị thế, vai trò và nhóm vận động xung quanh một nhu cầu cơ bản của xã hội. 4.8.2. Chức năng của thiết chế Thiết chế có hai chức năng chủ yếu + Khuyến khích, điều hoà hành vi của con người phù hợp với quy phạm và chuẩn mực của thiết chế và tuân thủ thiết chế. + Ngăn chặn, kiểm soát, giám sát những hành vi lệch lạc do thiết chế quy định. Mọi thiết chế xã hội đều được đặc trưng bởi sự hiện diện của mục đích hành động, bởi những chức năng cụ thể để bảo đảm cho việc đạt được mục đích, bởi sự tập hợp các địa vị và những chế tài bảo đảm cho cái đáng có và ngăn chặn cái lệch lạc. Sự tồn tại của mọi xã hội, tính ổn định và sự phát triển của nó, không thể có 28
  33. Bài giảng xã hội học đại cương Nguyễn Thị Cúc - TTĐT được nếu không có quản lí xã hội và kiểm soát xã hội. Thiết chế xã hội thực hiện chưc năng quản lí và kiểm soát xã hội. Nó được giáo quyền sử dụng biện pháp thưởng phạt các thành viên trong xã hội. 4.7.3. Các đặc điểm của thiết chế + Thiết chế có tính bền vững tương đối và thường biến đổi chậm. Thiết chế xã hội hình thành trên cơ sở của một hệ thống những giá trị, chuẩn mực lâu đời và khá bền vững của xã hội. Bởi vậy nó có đặc trưng là phản ứng là những biến đổi của xã hội rất chậm. Trong các xã hôi cực quyền, nhất là ở những thời kỳ trí tuệ, thiết chế rất kém nhạy cảm và nhìn chung nó có xu hướng cưỡng lại những biến đổi, những cuộc cải cách. + Các thiết chế có xu hướng phụ thuộc vào nhau. Các thiết chế xã hội chủ yếu thường duy trì những giá trị và chuẩn mực chung, phản ánh những mục tiêu và ưu tiên xã hội chung. Bởi vậy, các thiết chế có xu hướng phụ thuộc vào nhau. Vì tất cả các thiết chế xã hội đều củng cố những mục tiêu chung tương ứng, gần gũi hoặc gần giống nhau nên bất cứ một thiết chế nào cũng được thể hiện một phần trong các thiết chế khác và là một mặt, một bộ phận của toàn bộ xã hội. Khi một thiết chế xã hội cơ bản thay đổi thỉ thường kéo theo sự thay đổi của một loạt các thiết chế khác. + Những thiết chế có xu hướng trở thành tiêu điểm của những vấn đề xã hội chủ yếu. Vì các thiết chế được thiết lập trên cơ sở của những nhu cầu xã hội cơ bản, bởi vậy, bất kỳ sự đổ vỡ nào của một thiết chế xã hội cũng đều trở thành những vấn đề xã hội nghiêm trọng. Ví dụ, nạn thất nghiệp là một vấn đề của nền kinh tế, sự suy sụp hay tan vỡ của hôn nhân là vấn đề của thiết chế gia đình, tỷ lệ tội phạm gia tăng là dấu hiệu của thiết chế pháp luật, sự rối loạn xã hội là vấn đề của thiết chế chính trị v v - Các loại thiết chế: Trong xã hội nhât định có nhiều loại thiết chế, trong đó thiết chế quan trọng nhất là thiết chế chính trị, pháp luật, kinh tế, gia đình, giáo dục, văn hoá, Tuy nhiên, các thiết chế thường có xu hướng bảo thủ, kém nhạy cảm và phản ánh không kịp trước những biến đổi của xã hội. Do vậy, chúng cần luôn luôn được xem xét, chỉnh lí,cải cách hoặc đổi mới sao cho không bị lạc hậu để làm tốt chức năng quản lí và kiểm soát xã hội. 4.8. Bất bình đẳng XH 4.8.1.Khái niệm Là sự không ngang bằng nhau về các cơ hội hoặc lợi ích đối với các cá nhân khác nhau trong 1 nhóm hoặc nhiều nhóm trong XH. + Bất bình đẳng không tồn tại một cách ngẫu nhiên mà là một hiện tượng xã hội phổ biến mang tính tất yếu do yếu tố cơ cấu xã hội và lành thổ tạo ra. + Có nguồn gốc khi một số cá nhân (một số nhóm XH) có đặc quyền kiểm soát và khai thác một số cá nhân (một số nhóm xã hội) khác trong một số lĩnh vực chủ yếu của xã hội nhằm chiếm lấy đặc quyền đặc lợi XH. 29
  34. Bài giảng xã hội học đại cương Nguyễn Thị Cúc - TTĐT + Những XH khác nhau đã tồn tại những hệ thống bất bình đẳng khác nhau do thể chế chính trị quyết định. + Là một vấn đề cơ bản của XHH, nó quyết định đến phân tầng XH. 4.8.2. Cơ sở tạo nên bất bình đẳng XH + Thứ nhất, do sự khác nhau về những cơ hội trong cuộc sống:bao gồm những điều kiện thuận lợi về vật chất để có thể cải thiện chất lượng cuộc sống. + Thứ hai,do sự khác nhau về địa vị XH: những yếu tố tạo nên địa vị xã hội có thể khác nhau, do là cái mà một nhóm xã hội tạo ra và cho là ưu việt và được các nhóm XH khác thừa nhân. Địa vị xã hội chỉ có thể được giữ vững bởi những nhóm xã hội nắm giữ địa vị đó và các nhóm xã hội khác tự giác thừa nhận tính ưu việt của những nhóm đó. + Thứ ba do sự khác nhau về ảnh hưởng chính trị: bất bình đẳng do ảnh hưởng chính trị được biểu hiện trong thực tế như là mối quan hệ giữa vị thế chính trị với ưu thế vật chất và địa vị XH. 4.8.3.Ý nghĩa nghiên cứu bất bình đẳng XH + Cho ta thấy được điểm xuất phát của mỗi cá nhân trong csống và qua đó đánh giá chính xác sự phấn đấu vươn lên của mỗi người. + Làm cơ sở cho nhà nước đưa ra chính sách XH đúng đắn,đặc biệt các chính sách an sinh XH. + Cho ta thấy được giá trị đích thực của mỗi cá nhân trong cuộc sống. 4.9. Phân tầng xã hội 4.9.1. Khái niệm Tầng lớp xã hội là tổng thể của mọi cá nhân trong cùng một hoàn cảnh xã hội. Họ ngang nhau về tài sản (thu nhập), trình độ học vấn (hay trình độ văn hoá); địa vị, vai trò hay uy tín trong xã hội; khả năng thăng tiến cũng như có được những ân huệ hay thứ bậc trong xã hội. Trên cơ sở khái niệm tầng lớp xã hội mà có khái niệm phân tầng xã hội. Phân tầng xã hội có thể hiểu như là một sự phân nhỏ xã hội (bao hàm cả sự bình giá). Đó là sự phân chia xã hội ra thành các tầng xã hội khác nhau về địa vị kinh tế (hay tài sản), địa vị chính trị (hay quyền lực), địa vị xã hội (hay uy tín) cũng như một số khác biệt về trình độ nghề nghiệp, học vấn, kiểu nhà ở, nơi cư trú, phong cách sinh hoạt, cách ứng xử, thị hiếu nghệ thuật v v Hay có quan niệm rằng phân tầng xã hội chính là sự sắp xếp một cách tương đối ổn định các vị thế xã hội dưới góc độ quyền lực,uy tín,đặc quyền đặc lợi không ngang nhau. Phân tầng xã hội là khái niệm chỉ sự bất bình đẳng thực tế tồn tại giữa các cá nhân,các nhóm các giai tầng khác nhau về địa vị trong thang bậc xã hội. Xã hội học quan tâm đặc biệt đến phân tầng trên các khía cạnh như sự phân tầng dẫn đến những căng thẳng trong xã hội ra sao,nó liên quan đến các khía cạnh khác nhau của đời sống xã hội như thi cử, thú vui, tuổi thọ, sự tín nhiệm chính trị, khả năng chuyển dịch các vị thế vai trò, hệ thống đẳng cấp giai cấp Phân tầng xã hội lại được phân ra thành: 30
  35. Bài giảng xã hội học đại cương Nguyễn Thị Cúc - TTĐT - Tầng lớp bên trên và tầng lớp bên dưới, (những nấc thang cao - thấp khác nhau) - Sự di chuyển từ tầng lớp này sang tầng lớp khác (hoặc di chuyển trong nội bộ một tầng). - Sự phân tầng “mở” hoặc phân tầng “đóng”. - Trong hệ thống phân tầng “đóng” hay có đẳng cấp, ranh giới giữa các tầng lớp rất rõ rệt và con người rất khó có thể thay đổi địa vị của mình (vị thế xã hội của mỗi con người dường như bất biến, không thay đổi). + Trong hệ thống phân tầng “mở” hay có giai cấp, ranh giới giữa các tầng uyển chuyển, linh hoạt hơn. Trong những xã hội này, con người có những cơ hội để có thể thay đổi vị trí của mình (tuy nhiên, sự thay đổi chỉ có một giới hạn nhất định nào đó). + Ngoài hai loại phân tầng “đóng” trong xã hội có đẳng cấp, phân tầng “mở” trong xã hội có giai cấp, trong thực tế còn có loại phân tầng theo lứa tuổi - (loại phân tầng này tương đối phổ biến trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ, xã hội tiền giai cấp). 4.9.2. Một số lí thuyết về sự phân tầng Theo Jean Cazênuve, có thể xếp học thuyết về phân tầng xã hội làm hai loại: - Lí thuyết xung đột: đây là lí thuyết của những người chịu ảnh hưởng bởi quan niệm tiếp cận về hình thái kinh tế - xã hội và quan niệm về giai cấp của Mác, những người này chủ yếu nhấn mạnh đến vấn đề quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất. Họ coi đó là đặc trưng chủ yếu của sự phân tầng xã hội hay là dấu hiệu chủ yếu nhận biết hoặc sự phân chia xã hội ra thành những giai cấp này hay giai cấp khác. Họ cũng nhấn mạnh đến đấu tranh giai cấp, đến xung đột xã hội, coi đó là nguồn gốc và động lực thúc đẩy sự phát triển của lịch sử. - Lí thuyết chức năng: những người theo thuyết chức năng nhấn mạnh đến trạng thái cân bằng, đến cơ cấu hơn là đến những biến đổi của cơ cấu ấy. Theo họ, phân tầng là một hiện tượng khách quan và có tính chức năng, nhằm đáp ứng những nhu cầu cần thiết của xã hội và đặt ra vấn đề là làm sao phải có một xã hội đẳng cấp. Theo Parsons, một đại biểu của thuyết chức năng, phân tầng được coi là sự sắp xếp cá nhân vào trong một hệ thống xã hội trên cơ sở những tiêu chuẩn của một hệ thống chung về giá trị, phân tầng là kết quả trực tiếp và cũng là phương tiện của hoạt động xã hội. - Lí thuyết dung hoà: G.Lenski cho rằng, trong xã hội luôn có những động cơ thôi thúc người ta giữ các vị trí xã hội, đồng thời cũng diễn ra các qúa trình xung đột và đấu tranh giành quyền thống trị. Max Weber đặt ra nguyên tắc nghiên cứu “ba chiều” về xã hội, coi khái niệm xã hội bao hàm cả việc phân chia xã hội thành các giai cấp. Ông đã tách một luận điểm về giai cấp thành ba phần riêng biệt nhưng có quan hệ mật thiết với nhau, đó là: địa vị kinh tế hay tài sản, địa vị chính trị hay quyền lực, địa vị xã hội hay uy tín. 31
  36. Bài giảng xã hội học đại cương Nguyễn Thị Cúc - TTĐT 4.10. Di động xã hội Nghiên cứu cơ cấu xã hội đòi hỏi phải gắn liền với nghiên cứu tính “Di động xã hội”. Theo quan niệm của các nhà xã hội học, đặc trưng nổi bật của xã hội là - Có tính linh hoạt, linh động, thường biến đổi vì chúng phụ thuộc vào tính Di động xã hội. 4.10.1. Định nghĩa Tính Di động xã hội là tính linh hoạt của các cá nhân và các nhóm xã hội trong kết cấu xã hội. Nó là sự chuyển đổi vị trí của một người hay một nhóm xã hội này cho một người, một nhóm xã hội khác trong cùng một tầng hay khác tầng trong bậc thang giá trị xã hội. 4.10.2. Các loại Di động xã hội Di động xã hội theo “chiều ngang”: đó là sự chuyển đổi vị trí của một người hay một nhóm người sang vị trí xã hội khác cùng nằm trên một cấp độ xã hội như nhau (có nghĩa là chỉ có sự thay đổi về vai trò xã hội mà không thay đổi vị thế xã hội). Di động xã hội theo “chiều dọc”. Đó là sự chuyển dịch vị trí của cá nhân hay một nhóm xã hội sang một vị trí xã hội khác không cùng một tầng với họ. Sự Di động xã hội theo chiều dọc nhấn mạnh đến sự vân động về chất lượng cua cá nhân trong các nhóm xã hội có liên quan đến sự thăng tiến hay sút giảm vị thế xã hội của mỗi người. Di động chuyển đổi: đó là sự thay đổi địa vị xã hội của một số người vì họ trao đổi vị trí cho những người khác tại tầng lớp xã hội khác nhau trong bậc thang xã hội. Ví dụ: những người thiếu năng lực ở vị trí cao có thể mất việc hoặc tụt xuống địa vị thấp hơn, trong khi đó những người có khả năng ở vị trí thấp hơn được tiến cử vào những vị cao. Số lượng của loại Di động xã hội này phụ thuộc vào mức độ “đóng” hay “mở” của xã hôị. Trong hệ thống xã hội “đóng” hay “đẳng cấp”, loại Di động xã hội này ít xảy ra, nhưng trong hệ thống “mở” có nhiều tiềm năng cho loại di động này. Di động theo cơ cấu: đó là sự thay đổi địa vị của một số người do kết quả của những thay đổi trong cơ cấu kinh tế. Loại di động theo cơ cấu này xuất hiện nhiều vào thời kỳ cách mạng kỹ thuật, cách mạng trong cơ cấu kinh tế hoặc cách mạng chính trị. Ngoài ra, còn có các loại di động “thô”, di động “tinh”, di động do ý trí. Di động trong cùng thế hệ liên quan đến sự vận đôngkj của cá nhân trong suốt cuộc đời họ. Di động giữa các thế hệ xác định quá trình tiếp nối vị trí xã hội giữa ông bà, cha mẹ,con cái (tức là tra truyền con nối). 4.10.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến Di động xã hội - Nguồn gốc giai tầng xã hội: - Trình độ học vấn. 32
  37. Bài giảng xã hội học đại cương Nguyễn Thị Cúc - TTĐT - Lứa tuổi và thâm niên nghề nghiệp. - Giới tính. - Điều kiện sống (hay nơi cư trú). - Ngoài những yếu tố nói trên, còn phải kể một số yếu tố khác như chủng tộc, chế độ dinh dưỡng tuổi thơ, sức khoẻ, tuổi kết hôn, địa vị của người bạn đời, ý chí kiềm chế sự thoả mãn nhất thời, chiều cao, hình thức bề ngoài, trí tuệ và lĩnh vực công danh, những thiên chức về sự sắc sảo, ý tưởng, sáng tạo, sự tế nhị, khéo léo trong giao dịch, ý chí dám mạo hiểm Sau cùng, cũng cần phải xem xét tính Di động xã hội như là một hiện tượng xã hội, có logíc bên trong và các quy luật phát triển của mình. Cần phải tính đến sự lệ thuộc của tính Di động xã hội đối vơi các điều kiện lịch sử - xã hội như: quan hệ sản xuất, phân công lao động xã hội, cơ sở vật chất, kỹ thuật, các yếu tố thiết chế xã hội, hệ thống giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng và chính sách sử dụng cán bộ. Tính Di động xã hội cần được nghiên cứu như là một qúa trình phức tạp có cơ cấu riêng và ngày càng được mở rộng cùng với sự phát triển của thời gian. Nghiên cứu tính Di động xã hội “hướng tới lối vào” đòi hỏi phải phân tích xuất xứ của các nhóm xã hội – nghề nghiệp, xem họ đã tận dụng bản năng và trình độ nghề nghiệp của thế hệ trước đó ra sao. Nghiên cứu tính Di động xã hội “hướng tới lối ra” cần phải xem xét tuổi trẻ sẽ rời vào nhóm xã hội nào khi họ rời khỏi những nhóm xã hội của cha mẹ. Như vậy khi nghiên cứu, ta cần đặt tính Di động xã hội trong từng thế hệ và bối cảnh chung của toàn bộ tính xu hướng của sự vận động xã hôi. Khi nghiên cứu tính Di động xã hội, chúng ta còn bắt gặp phạm trù “Di động xã hội phụ thêm” hoặc “Di động xã hội thặng dư”, có nghĩa là một người nào đó đã vận động ra khỏi nhóm xã hội xuất thân và nhập vào nhóm xã hội khác. Và phạm trù “Di động xã hội hồi quy” có nghĩa là quá trình di động của một người nào đó quay về với nhóm xã hội xuất thân. 33
  38. Bài giảng xã hội học đại cương Nguyễn Thị Cúc - TTĐT CHƯƠNG 5: MỘT SỐ LĨNH VỰC NGHIÊN CỨU XÃ HỘI HỌC 5.1. XHH nông thôn 5.1.1. Khái quát lịch sử hình thành XHH Nông thôn là một ngành khoa học quan trọng trong XHH. Người ta cho rằng vào năm 1907 Tổng thống Roosevelt Theodore (1858-1919) đã ra một quyết định thành lập “Ủy ban đời sống nông thôn” nhằm tập trung nghiên cứu các vấn đề của xã hội nông thôn như sự suy sụp của xã hội nông thôn Mỹ đang trong giai đoạn suy thoái (1890-1920), những vấn đề của đời sống nông thôn, tình trạng lệch lạc tâm lý trong đời sống nông thôn. Các báo cáo, các thông tin thu thập được tạo cơ sở đầu tiên cho việc hình thành XHH nông thôn. Ủy ban đời sống nông thôn được đặt dưới sự lãnh đạo của Dean Bailey một học giả xuất sắc về nghiên cứu nông thôn. Ông đã tiến hành phát 500.000 bản hỏi tới người nông dân và những người phụ trách nông thôn (sau thu về 100.000 bản) với mục đích phân tích, dự báo sự sai lệch và biến dạng của xã hội nông thôn. Bản báo cáo này trở thành Hiến Chương XHH nông thôn. Hàng lọat các công trình nghiên cứu như: “Một thị trấn Hoa Kỳ” của J.M.Williams, “Đồi Quaker” –Warran Wilson, Làng Hoosier-Newell Sims .là những công trình điển hình về nông thôn Mỹ, đây là những tài liệu thống kê, mô tả lịch sử, cùng với nó là những kỹ thật phỏng vấn điền dã. Những tài liệu này trở thành các giáo trình giảng dạy tại đại học Columbia. 5.1.2. Đối tượng nghiên cứu XHH nông thôn là một chuyên ngành của XHH. Phạm vi nghiên cứu của nó được xác định theo lát cắt lãnh thổ. Vì thế, khách thể nghiên của XHH là toàn bộ XHH nông thôn. XHH nông thôn với nghĩa rộng, cũng là khách thể nghiên cứu của nhiều khoa học xã hội và nhân văn khác. Vì vậy, tham gia nghiên cứu XHH nông thôn, XHH lấy các hiện tượng xã hội, các vấn đề xã hội và các quá trình XHH nông thôn làm đối tượng nghiên cứu của mình. Để đi đến làm rõ đối tượng XHH nông thôn cần hiểu dược nông thôn và XHH nông thôn. a) Nông thôn Nông thôn là một khu vực lãnh thổ cư chủ yếu của những người làm nông nghiệp và những nghề khác có liên quan trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp và cư dân sống ở nông thôn. Mật độ cư dân ở nông thôn không cao, nhưng kết cấu hạ tầng kém tiện nghi. Tất nhiên tất cả những chỉ báo phản ánh các nội dung trên chỉ tương đối ổn định và chịu sự chi phối của những biến đổi trong lịch sử, chính trị, kinh tế của mỗi quốc gia và khu vực. b) Xã hội nông thôn Thông thường khi xác định xã hội nông thôn, người ta vẫn lấy XHH đô thị để so sánh sự khác biệt, đối lập, nhằm tìm hiểu các đặc trưng, tính chất của nó. Từ góc độ kinh tế, người ta thường khái quát XHH nông thôn là xã hội nông nghiệp; từ góc độ chính trị - xã hội người ta thường khái quát đó là xã hội có giai 34
  39. Bài giảng xã hội học đại cương Nguyễn Thị Cúc - TTĐT cấp nông dân chiếm ưu thế. Trong xã hội nông thôn có tính tự quản cộng đồng cao, nhưng còn nặng về vấn đề gia trưởng. Xem xét về góc độ phát triển kinh tế - xã hội, thì ở nông thôn còn phát triển chậm và lạc hậu, kết cấu hạ tầng kém tiện nghi. Từ góc độ văn hoá, thì ở đó có nền văn hoá dân gian truyền thống chiếm ưu thế. Từ góc độ pháp luật, thì ở nông thôn lệ làng vẫn tồn tại song song với phép nước và luật pháp v.v Trên cơ sở thừa kế những kết quả nghiên cứu của những ngành khoa học khác, và bổ sung những yếu tố đặc trưng của nông thôn nhìn từ góc độ XHH, ta có thể hiểu xã hội nông thôn như sau: Xã hội nông thôn là một tập thể có tổ chức gồm những người cùng sống với nhau ở nông thôn, hợp tác với nhau thành các đoàn thể (đơn vị xã hội) để thoả mãn các nhu cầu xã hội cơ bản; cùng chia sẻ một nền văn hoá chung và hoạt động như một xã hội riêng biệt. 5.1.3. Phương pháp nghiên cứu XHH nông thôn Là một chuyên ngành của XHH nên XHH nông thôn đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu XHH nói chung. Các đặc trưng riêng (nếu có) chỉ là việc vận dụng các phương pháp chung đó trong nghiên cứu XHH nông thôn thế nào cho phù hợp với yêu cầu và đối tượng nghiên cứu. 5.1.4. Những nội dung nghiên cứu XHH nông thôn 5.1.4.1. Cơ cấu xã hội nông thôn Cơ cấu xã hội giai cấp và phân tầng xã hội ở nông thôn - Cơ cấu xã hội giai cấp: cần tập trung phân tích cơ cấu giai cấp ở nông thôn. Bao gồm giai cấp địa chủ, trung nông, bần nông - Sự phân tầng thu nhập và mức sống ở nông thôn: Phân tầng thu nhập là hiện tượng xã hội mang tính khách quan, nó tồn tại trong điều kiện kinh tế- xã hội. Đến một trình độ phát triển nhất định của xã hội loài người, sự phân tầng về thu nhập, về mức sống vẫn đang còn tồn tại. Trong các xã hội nông nghiệp và nông thôn, sự phân tầng đó cũng thể hiện sự cấp bách hơn bởi quy mô và tính chất nghiêm trọng của nó. - Phân tầng xã hội về thu nhập và mức sống mà biểu hiện trực tiếp của nó là sự phân hoá giàu - nghèo ở nông thôn không chỉ là hiện tượng kinh tế mà còn là vấn đề xã hôị lớn. Con số tỷ lệ phản ánh chất lượng nghèo đói, con số biểu thị khoảng cách thu nhập giữa người giàu và người nghèo giúp chung ta đọc được sự phát triển và tiến bộ xã hội, đọc được sự quan tâm tới con người của chính phủ các quốc gia. Đồng thời, qua những biện pháp của chính phủ, của cộng đồng đối với vấn đề đói nghèo hiểu được các hành vi trong xã hội, hiểu được lối ứng xử với nhau giữa những người cùng sống ở nông thôn. Hầu hết cac quốc gia trên thế giới, nông nghiệp còn chiếm tỷ trọng lớn, các nước mới phát triển còn đang phải đương đầu với hiện tượng nghèo đói, đó là sự biểu hiện phân tầng xã hội ở nông thôn. Sự phân hóa giàu - nghèo không chỉ là hiện tượng kinh tế mà còn là một hiện tượng xã hội. Chúng ta cũng biết rằng, có nhiều nguyên nhân đẫ đến nghèo đói, nhưng ngoài những nguyên nhân về kinh tế như thiếu vốn, gặp khó khăn do đầu 35