Bảo tồn và phát huy giá trị di sản nghi lễ của người dao ở nước ta hiện nay

pdf 7 trang Hùng Dũng 05/01/2024 90
Bạn đang xem tài liệu "Bảo tồn và phát huy giá trị di sản nghi lễ của người dao ở nước ta hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfbao_ton_va_phat_huy_gia_tri_di_san_nghi_le_cua_nguoi_dao_o_n.pdf

Nội dung text: Bảo tồn và phát huy giá trị di sản nghi lễ của người dao ở nước ta hiện nay

  1. VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI SẢN NGHI LỄ CỦA NGƯỜI DAO Ở NƯỚC TA HIỆN NAY Lý Hành Sơn Viện Dân tộc học ghi lễ tín ngưỡng của người Dao ở nước ta, nhất là các Email: hmongdao@yahoo.com.vn Nnghi lễ Cấp sắc, Cúng Bàn Vương, Tết nhảy, Mở cửa rừng, Cúng miếu làng, rất có giá trị về di sản văn hóa, góp Ngày nhận bài: 10/3/2019 phần bảo tồn bản sắc tộc người Dao: Từ các yếu tố tín ngưỡng Ngày phản biện: 12/3/2019 tôn giáo, tập quán tương trợ, truyền thống giáo dục, cố kết cộng Ngày duyệt đăng: 18/3/2019 đồng, đến duy trì các loại lễ phục, nhạc cụ, các điệu múa, bài cúng, nghệ thuật trang trí, Song, dưới tác động mạnh mẽ của DOI: giao lưu và hội nhập hiện nay, rất cần có những giải pháp phù hợp với thực tiễn mỗi địa phương để bảo tồn và phát huy giá trị các nghi lễ đó từ nhiều góc độ. Trong đó, đặc biệt chú ý một số giải pháp liên quan tới hệ thống chính sách văn hóa; phát triển mọi mặt về kinh tế - xã hội ở vùng dân tộc; nâng cao nhận thức và vai trò của các ban ngành ở địa phương; phát huy vai trò của người Dao - chủ thể văn hóa. Từ khóa: Người Dao ở nước ta; Nghi lễ; Truyền thống; Giá trị di sản; Bảo tồn và phát huy giá trị di sản. 1. Mở đầu Tuy vậy, vẫn thiếu những nghiên cứu mang Theo kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở năm tính tổng thể về di sản các nghi lễ, đặc biệt là giá 2009, tộc người Dao ở nước ta có 751.067 người, trị những nghi lễ thường xuyên diễn ra trong cộng phân bố cư trú ở hầu hết các tỉnh trung du và miền đồng cư trú, gia đình, dòng họ người Dao nước ta núi phía Bắc, trong đó tập trung đông ở những tỉnh dưới tác động của toàn cầu hóa và xây dựng nông như Hà Giang, Cao Bằng, Tuyên Quang, Bắc Kạn, thôn mới. Do vậy, bài viết xin đề cập tới vấn đề bảo Lào Cai, Yên Bái, Lai Châu, Quảng Ninh, Lạng tồn và phát huy giá trị di sản nghi lễ của tộc người Sơn, Sơn La, Hòa Bình, Từ sau năm 1980, với tập Dao trong bối cảnh mới. quán di cư, người Dao còn có mặt ở Tây Nguyên và 2. Khái quát về di sản nghi lễ của tộc người một số tỉnh miền Trung, Đông Nam Bộ. Dao Đến nay đã có nhiều nghiên cứu về người Dao ở 2.1. Nghi lễ của tộc người Dao nước ta. Theo kết quả tìm kiếm chưa đầy đủ tại Thư viện Viện Dân tộc học và một số thư viện khác ở Qua một số nghiên cứu và kết quả điền dã tại Hà Nội, hiện nay có trên 470 ấn phẩm viết về người nhiều địa phương, người Dao ở nước ta vẫn đang Dao ở Việt Nam, trong đó 50 ấn phẩm đã công bố thực hành nhiều nghi lễ không chỉ đa dạng, mà còn từ năm 1980 trở về trước. Số còn lại được thực hiện góp phần bảo tồn bản sắc tộc người trong bối cảnh từ sau năm 1980, nếu dựa vào nội dung, có thể phân toàn cầu hóa. Có thể kể tới một số nghi lễ lớn như: chia một cách tương đối như: (1) Vấn đề chung và Cấp sắc (Qua tang hoặc Chẩu say), Cúng ông tổ nguồn gốc lịch sử, nhân học hình thể, tộc danh, dân người Dao là Bàn Vương (Piền hùng đàng), Tết số, có 89 công trình; (2) Nghiên cứu về sinh kế nhảy (Nhiàng chẩm đao), Mở cửa rừng (Tảy châu có 31 ấn phẩm; (3) Nghiên cứu về văn hóa vật chất đàng), Cầu mùa (Trẩu sun), Cúng miếu làng (Síp có 42 ấn phẩm; (4) Nghiên cứu về văn hóa xã hội mỉu miến), Tập nhảy múa (Hồ lạp miến), Tập bói có 134 ấn phẩm, trong đó về hôn nhân và gia đình (Sông quá), Tảo mộ tượng trưng (Chảy châu), có 37 ấn phẩm, riêng lễ cấp sắc và đặt tên có 23 ấn Ngoài ra, các nghi lễ khác diễn ra trong mỗi gia đình phẩm; 5) Đề cập tới văn hóa tinh thần có 127 ấn Dao cũng rất độc đáo, bởi vì tuy cùng một loại nghi phẩm, gồm 9 ấn phẩm về ca, múa, nhạc, và 19 ấn lễ nhưng ở mỗi nhóm Dao lại diễn biến khác biệt, phẩm về tết nhảy, lễ hội, lễ tiết trong năm, 1. chẳng hạn như các lễ cưới (hấp tíu), gọi hồn (trẩu vần), tang ma (pjuốp miền tải), cúng ma nhà (síp 1. Vương Xuân Tình (Chủ biên, 2018), Các dân tộc ở Việt Nam, Tập 4 quyển 1: “Nhóm ngôn ngữ Hmông-Dao và Tạng-Miến”, Nxb. ông thái), Trong các nghi lễ đó, một số như Mở Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.181-184. cửa rừng, Cầu mùa, Cúng miếu làng thuộc phạm vi Volume 8, Issue 1 119
  2. VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN cộng đồng, các gia đình trong làng cùng thực hiện. sắc, Cúng Bàn Vương, Cầu mùa, Tết nhảy, cúng ma Tết nhảy, Cấp sắc 12 đèn, cúng Bàn Vương, Tập nhà, tang ma, Các nghi lễ này vừa phản ánh rõ nét nhảy múa hay Tập bói chủ yếu thuộc họ tộc, mọi về thế giới quan dân gian của người Dao, vừa thể nhà trong dòng họ cùng tham gia và thường tổ chức hiện đặc điểm tín ngưỡng, tôn giáo của tộc người tại nhà trưởng họ hoặc nhà thầy cúng có uy tín của này. Qua đó thấy rằng, tín ngưỡng tôn giáo ở người dòng họ. Các nghi lễ cấp sắc 3 hoặc 7 đèn, cưới, gọi Dao là một mớ hỗn độn, gồm: Hồn linh giáo, Đạo hồn, tang ma, do mỗi gia đình đứng ra tổ chức. giáo, Phật giáo, Nho giáo, Trong đó, nổi bật là Bên cạnh đó, sự phong phú các nghi lễ còn tùy Đạo giáo, tuy đến với người Dao khá muộn nhưng thuộc vào từng nhóm Dao. Dựa vào đặc điểm trang Đạo giáo đã thâu nhận, dung nạp và cải biến nhiều phục và lịch sử di cư, có thể chia thành 7 nhóm như: yếu tố tôn giáo nguyên thủy của người Dao thành Dao Đỏ, Dao Tiền, Dao Quần Chẹt, Dao Lô Gang, một biểu hiện của Đạo giáo, biến thần linh của Đạo Dao Quần Trắng, Dao Áo Dài, Dao Thanh Y. Nếu giáo thành thần linh của người Dao. Đó là những dựa vào ngôn ngữ thì có: nói phương ngữ Miền gồm đàn ông Dao muốn thắp hương lên bàn thờ để cúng các nhóm Dao Đỏ, Dao Tiền, Dao Quần Chẹt, Dao tổ tiên, muốn tham gia vào các nghi lễ cúng bái thì Lô Gang; nói phương ngữ Mùn có Dao Quần Trắng, phải trải qua cấp sắc, tức phải có “pháp danh” hay Dao Áo Dài, Dao Thanh Y2. Các nghi lễ ở mỗi “tên âm”. Trong quá trình cấp sắc, người ta treo các nhóm Dao đều có nét riêng, nhất là giữa các nhóm bức tranh thờ phản ánh các thần Đạo giáo, các thầy nói hai phương ngữ. Chẳng hạn như lễ cấp sắc, các cúng hành lễ sẽ sử dụng các bùa phép của Đạo giáo, nhóm nói phương ngữ Miền có các cấp bậc 3 đèn, 7 thổi sừng trâu gọi Ngọc Hoàng cùng Thái Thượng đèn, 12 đèn; nhưng các nhóm nói phương ngữ Mùn Lão Quân và các thiên sư xuống chứng giám, làm lễ chỉ có hai cấp Tam Thanh và Tam Nguyên. Trong cho linh hồn người thụ sắc lên thăm thiên đình, tổ khi còn khác biệt về diễn biến nghi lễ ở mỗi bậc chức cúng Bàn Vương, Tuy phải thông qua yếu tố cấp sắc, tuổi của người thụ lễ, đặc điểm số nhóm Đạo giáo, song tín ngưỡng đa thần và Vật linh giáo thầy cúng làm lễ, cách trang trí lễ đường, trang - tôn giáo nguyên thủy vẫn bao trùm và thể hiện phục, lễ vật cúng, 3. Lễ tang cũng vậy, có nhóm đậm nét trên các lĩnh vực đời sống tín ngưỡng của Dao nói phương ngữ Mùn ở một số vùng thì hỏa đồng bào Dao: từ quan niệm về sự sống và chết, về táng thi thể người chết, các nhóm Dao nói phương các loại ma và thần linh, thờ cúng tổ tiên, cúng các ngữ Miền chủ yếu địa táng, Song, điểm chung ở thần linh và ma phù hộ sức khỏe con người, đến chỗ, họ không làm giỗ hàng năm cho người đã mất, tín ngưỡng trong sản xuất, chăn nuôi, trao đổi mua tang ma có thể tách ra làm hai đám với khoảng thời bán, nghề thủ công, gian khác nhau: ma ướt - chôn cất thi thể (pjuốp Hơn nữa, các nghi lễ còn góp phần duy trì bản com) cần tiến hành ngay khi có người qua đời, ma sắc văn hóa tộc người Dao, nhất là các yếu tố vật khô - làm chay để đưa hồn người chết về với tổ tiên thể như: chữ nôm Dao và sách nôm Dao ghi chép 4 (pjuốp miến) sẽ tổ chức sau khi có điều kiện . Hiện chương trình nghi lễ cùng các bài cúng, bài hát và nay do do đời sống kinh tế khá, nên người ta thường điệu múa trong nghi lễ; nhạc cụ, lễ phục, tranh thờ; kết hợp làm luôn ma ướt và ma khô. các loại đàn cúng bày ở trong nhà và ngoài trời Đó là chưa kể tới sự khác biệt giữa các nghi lễ trong quá trình thực hành lễ; các lễ vật dâng cúng và ở trong các nhóm Dao, thậm chí cùng một nhóm phục vụ nghi lễ; các hình thức trang trí cho nghi lễ, nhưng tại những địa phương khác nhau lại có những tiền giấy âm phủ, Chưa kể tới các yếu tố phi vật nét riêng. Vì thế có thể nói, các nghi lễ tín ngưỡng thể như quan niệm và vai trò của mỗi nghi lễ đối với ở tộc người Dao rất đa dạng, nhưng nếu xem xét người Dao, nội dung phản ánh của các tranh thờ, chúng trong mỗi nhóm Dao ở những địa bàn cư trú các bài cúng, bài hát, ý nghĩa các hiện vật bày cúng khác nhau sẽ còn nhận thấy được sự đa dạng hơn trong nghi lễ, Tuy nhiên, các nghi lễ không chỉ rất nhiều. giúp duy trì các đặc điểm văn hóa tộc người, mà còn 2.2. Giá trị di sản nghi lễ của tộc người Dao là môi trường để phát triển các đặc điểm văn hóa ấy, Qua kết quả khảo sát, đối với tộc người Dao, nhất là các loại hình nghệ thuật, trò chơi dân gian. mỗi nghi lễ có giá trị không chỉ về tâm linh mà còn Ngoài việc giải tỏa các yếu tố tâm linh, tâm lý và mang tính di sản văn hóa. Đó là các nghi lễ: Cấp nhiều vấn đề khác liên quan, các nghi lễ của người Dao bất kể nghi lễ lớn hay nhỏ với phạm vi thực 2. Bế Viết Đẳng, Nguyễn Khắc Tụng, Nông Trung, Nguyễn Nam hiện trong cộng đồng hay gia đình, đều là sự kiện Tiến (1971), Người Dao ở Việt Nam, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.31-33; Nguyễn Khắc Tụng (1997), Trở lại vấn đề phân loại quan trọng để duy trì và phát huy tập quán tương các nhóm Dao ở Việt Nam, Tạp chí Dân tộc học, số 3, tr.30-37. trợ và đoàn kết, cố kết giữa các gia đình trong cộng 3. Ly Hanh Sơn (2002), Lễ cấp sắc và bản sắc văn hóa Dao, Tạp chí đồng cư trú cũng như giữa các thành viên của dòng Dân tộc học, số 3, tr.13-23. họ và trong mỗi gia đình. Theo đó, các nghi lễ còn 4. Ly Hanh Sơn (2003), Cac nghi lê chu yêu trong chu kỳ đơi ngươi cua nhom Dao Tiên ơ Ba Bê, Băc Kan, Nxb. Khoa hoc Xa hôi, Ha có ý nghĩa giáo dục mỗi người, đặc biệt là đối với Nôi, tr.220-257. những người chủ gia đình và trưởng dòng họ, góp 120 JOURNAL OF ETHNIC MINORITIES RESEARCH
  3. VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN phần vào việc ổn định xã hội tộc người Dao. Chẳng cấy, cúng hồn lúa, Hiện nay, một số nghi lễ nông hạn như lễ cấp sắc, đàn ông Dao khi thụ lễ không nghiệp trong gia đình chỉ kết hợp cúng ma nhà khi chỉ được các thầy cúng căn dặn về các điều cấm kỵ có tết Nguyên đán, Rằm tháng 7 âm lịch, ; phạm và những điều phải làm để cứu người khác, mà vi cộng đồng cư trú còn có lễ cúng tại miếu làng còn cấp âm binh để trợ giúp và theo dõi việc làm hoặc trong lễ cầu mùa, mở cửa rừng, Các nghi lễ xấu hay tốt của người ấy trong suốt cuộc đời. Hơn khác như cầu mưa, cúng khi phát nương, cúng cơm nữa, trong cấp sắc, những lời hứa sẽ không làm điều mới, đã không còn duy trì ở một số địa phương ác chỉ làm việc thiện của người thụ lễ đều có sự người Dao. Việc mai một đó là do sự thay đổi hoạt chứng kiến của nhiều thần linh Đạo giáo như Thập động kinh tế truyền thống, phải chăng vấn đề đặt diện diêm vương, Tứ trực công tào, Vì thế, những ra là cần quan tâm tới một số nghi lễ mà nền nông người đàn ông Dao - người chủ gia đình khi đã trải nghiệp ở người Dao đang biến đổi và hướng tới, cụ qua lễ cấp sắc đều không dám làm điều ác, sống thể là nghi lễ liên quan tới bảo vệ rừng đầu nguồn, hiền lành, góp phần tạo uy tín và sự đoàn kết trong nghi lễ bảo vệ tài nguyên nước và môi trường sông gia đình cũng như trong dòng họ và cộng đồng. suối, nghi lễ tổ nghề mới, Bên cạnh đó, rất nhiều lễ thức, nội dung bài Hai là, vấn đề đạo Tin lành với việc duy trì các cúng và hát cũng như diễn trình nghi lễ và yếu tố nghi lễ truyền thống. Hiện nay, một bộ phận người liên quan như lễ vật dâng cúng, hình thức trang trí, Dao, nhất là Dao Áo Dài ở một vài địa phương các tranh thờ, của các nghi lễ tín ngưỡng đều là những tỉnh Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn, và một số thông tin, tín hiệu, dữ liệu, về nguồn gốc, lịch sử người Dao Đỏ ở Lạng Sơn, Bắc Kạn, đã bị ảnh và cách ứng xử với môi trường tự nhiên và xã hội hưởng từ đạo Tin lành. Họ đã bỏ bàn thờ tổ tiên, của tộc người Dao. Do vậy, thông qua các nghi lễ, chỉ thờ chúa Giê-su, nên đã từ bỏ các nghi lễ truyền đặc biệt là những nghi lễ lớn như Cấp sắc, Cúng thống. Tình hình này tuy làm phong phú cho văn Bàn Vương, Tết nhảy, tang ma, có thể biết được hóa Dao, song nếu tín ngưỡng truyền thống không nguồn gốc của tộc người Dao cũng như quá trình di tự biến đổi kịp thời và cùng với đó là đổi mới một cư của dân tộc này vào nước ta và sự thích ứng với số nghi lễ cho phù hợp bối cảnh mới thì theo thời môi trường tự nhiên của họ trong quá trình tồn tại gian, số người Dao bị lôi kéo theo Tin lành sẽ ngày và phát triển, càng nhiều. Rõ ràng, trong bối cảnh cơ chế thị trường và đô Ba là, vấn đề tự đổi mới các nghi lễ cổ truyền và thị hóa, toàn cầu hóa và hội nhập hiện nay, giá trị đặc điểm tín ngưỡng tộc người cho phù hợp với sự các nghi lễ của tộc người Dao ở nước ta ngày càng biến đổi các điều kiện tự nhiên, xã hội và trình độ được nâng lên và tô đậm thêm trong bức tranh văn nhận thức của người dân, nhất là bối cảnh toàn cầu hóa các dân tộc Việt Nam. Điều đó có nghĩa, các hóa với việc gia tăng ảnh hưởng các tôn giáo ngoại nghi lễ ấy là di sản vô cùng quý giá không chỉ của lai. Với người Dao, tín ngưỡng truyền thống đã có riêng tộc người Dao mà cả nước ta, cần được bảo lâu đời do sự kết hợp giữa Vật linh giáo, Đạo giáo, tồn trong bất cứ hoàn cảnh nào. Phật giáo, Theo đó, thờ cúng chủ đạo là tổ tiên 3. Một số vấn đề đặt ra và kiến nghị giải pháp gồm tổ tiên tộc người là Bàn Vương, tổ tiên dòng cho việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản nghi lễ họ, gia tiên, thổ địa, thần lúa gạo, thần chăn nuôi, của tộc người Dao Song, như đã trình bày, các gia chủ, thầy cúng muốn thực hiện các nghi lễ thì phải trải qua cấp 3.1. Một số vấn đề đặt ra sắc, tức gia nhập Đạo giáo; có như vậy mới được Từ khi thực hiện công cuộc đổi mới năm 1986, tổ tiên và các loại ma công nhận khi hành lễ, Hơn nghi lễ của người Dao được các ban ngành ở địa nữa, khi thực hiện các nghi lễ, đàn ông Dao còn phương quan tâm duy trì, thậm chí khôi phục một bị ảnh hưởng Phật giáo về nhân quả, chay tịnh, số nghi lễ đã mất nhằm phục vụ cho hoạt động văn Nay do môi trường thay đổi và nhận thức của con hóa quần chúng hoặc để phát triển du lịch, duy trì người được nâng cao, nhiều yếu tố trong tín ngưỡng tín ngưỡng truyền thống của đồng bào, tránh sự truyền thống cũng như các nghi lễ của người Dao đã xâm nhập của tôn giáo ngoại lai, Song, việc duy không còn phù hợp và cần đổi mới, cụ thể như tín trì các nghi lễ lớn và đặc sắc của người Dao hiện ngưỡng đa thần đối với sản xuất nông nghiệp, chăn nay và thời gian tới cũng đang đặt ra không ít vấn nuôi ; quan niệm về các loại ma làm hại, đề như sau: Bốn là, vấn đề duy trì đội ngũ trí thức dân gian Một là, vấn đề mai một và biến đổi nghi lễ, người Dao - những người am hiểu, trực tiếp thực nhất là những nghi lễ liên quan tới trồng trọt, chăn hành các nghi lễ, gìn giữ các vật thể văn hóa liên nuôi, nghề thủ công. Qua thời gian, nhất là thời kỳ quan, Đội ngũ này là linh hồn các nghi lễ, họ vừa hợp tác xã, nhiều nghi lễ nông nghiệp đã mai một: hiểu biết tường tận về các nghi lễ và các đặc điểm cúng thóc giống, cúng ruộng nương vào dịp gieo văn hóa tộc người, vừa là người thực hành các nghi Volume 8, Issue 1 121
  4. VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN lễ. Nếu nơi nào khan hiếm hoặc mất đi đội ngũ đó, thích với cái mới hiện đại, phổ thông. Theo đó, bảo sẽ không có người chủ trì các nghi lễ như cấp sắc, tồn các nghi lễ tín ngưỡng của người Dao không tang ma, cúng gia tiên trong lễ cưới, cúng miếu nhất thiết giữ nguyên các yếu tố truyền thống, vì làng, nên người dân Dao sẽ tìm đến tôn giáo mới. biến đổi văn hoá đôi khi là động lực cho phát triển. Trường hợp đội ngũ này bị ảnh hưởng cơ chế thị Biến đổi để thích ứng, chống lạc hậu và hội nhập là trường khi thực hành các nghi lễ nhằm vụ lợi cá xu hướng phát triển mà mọi tộc người đều hướng nhân thì cũng tạo ra bất cập đối với việc duy trì và tới, không chỉ riêng tộc người Dao. Vì thế, một số phát huy giá trị các nghi lễ. Tuy nhiên, do đội ngũ trí kiến nghị mang tính giải pháp ở dưới đây về bảo tồn thức dân gian người Dao đều phải qua cấp sắc, nên và phát huy giá trị di sản nghi lễ của tộc người Dao họ luôn sống hiền lành, có tâm làm việc thiện cho ở nước ta luôn gắn với sự biến đổi cho phù hợp với cộng đồng, không dám làm sai với những điều cấm bối cảnh cơ chế thị trường, toàn cầu hóa, hội nhập. và kiêng kỵ đã được các thầy đến cấp sắc khuyên - Đối với hệ thống chính sách văn hóa dạy dưới sự chứng kiến của tổ tiên, các thần linh Cần tiếp tục triển khai các chương trình biên Đạo giáo trong suốt quá trình cấp sắc, Vấn đề hiện dịch, nghiên cứu sâu về hệ thống các nghi lễ của các nay là tuy hầu hết đàn ông Dao đều qua cấp sắc để nhóm Dao ở các địa phương để xây dựng bức tranh có thể tự cúng tổ tiên nhà mình và được cộng đồng tổng thể về hệ giá trị văn hóa của tộc người Dao. coi là người lớn, khi chết mới gặp tổ tiên , song lại Đây là việc làm nhằm khẳng định giá trị và sức rất ít người trở thành thầy cúng giỏi nhằm trực tiếp sống của di sản hệ thống các nghi lễ trong đời sống cấp sắc cho người khác hoặc làm lễ chôn cất người cộng đồng tộc người Dao hiện nay và tương lai. Kết chết, Bởi vì, từ lúc thụ lễ cấp sắc đến khi trở thành quả nghiên cứu sẽ là nhân tố quan trọng giúp các thầy cúng có uy tín cần phải trải qua rất nhiều khâu, địa phương và người Dao xây dựng “thương hiệu” đòi hỏi sự quyết tâm học hỏi của người ấy. văn hóa riêng, có thêm sự gắn kết cộng đồng để Năm là, vấn đề mang lại lợi ích cho người dân gìn giữ các nghi lễ trong quá trình phát triển và hội và cộng đồng đối với việc phát huy giá trị di sản các nhập. Bởi vì nghiên cứu các nghi lễ là nghiên cứu nghi lễ trong bối cảnh cơ chế thị trường, hội nhập và con người và tâm lý cộng đồng trong quá trình vận tăng cường phát triển du lịch, Đây là bài toán nan động, trong khi các nghi lễ ấy ở người Dao lại rất giải cho nhiều địa phương cũng như các ngành văn đa dạng. hóa, du lịch, an sinh xã hội, không chỉ đối với tộc Đồng thời đẩy mạnh thêm công tác tuyên người Dao mà cả các dân tộc khác. Tuy vậy, hiện truyền, vận động mỗi người Dao, đặc biệt là các nay có một số địa phương, nhất là những nơi thuận trí thức người Dao đối với việc thực hành nghiêm tiện phát triển du lịch như Sa Pa tỉnh Lào Cai, Ba cẩn các nghi lễ tín ngưỡng của mình, bao gồm Cấp Vì, thành phố Hà Nội, Mẫu Sơn tỉnh Lạng Sơn, đã sắc, Cúng Bàn Vương, Tết nhảy, Mở cửa rừng, Cầu có cơ hội gắn giá trị di sản nghi lễ người Dao với du mùa, Rồi thông qua biết ơn tổ tiên, các thánh thần lịch nhằm tạo ra thu nhập cho người dân. Song, liên phù hộ, để giáo dục cá nhân, cộng đồng biết ơn quan tới vấn đề này là cần đảm bảo tính thiêng liêng với điều kiện đời sống và phát triển hiện tại về kinh các nghi lễ mỗi khi gắn với đời sống tâm linh của tế - xã hội ở vùng người Dao là nhờ các chính sách gia đình, dòng họ, cộng đồng cư trú thì mới không của Đảng và Nhà nước. Từ đó, giúp đồng bào có làm cho các diễn trình của nghi lễ bị thương mại cách nhìn rõ hơn về các giá trị của đời sống, thông hóa hoàn toàn do phát triển du lịch, bởi nếu như vậy qua các thành tựu mà Đảng, Nhà nước cùng cộng sẽ dễ dàng đánh mất giá trị tín ngưỡng tộc người đồng đã dày công vun đắp, tạo dựng, để người của các nghi lễ. Dao hôm nay có cuộc sống ổn định cả về vật chất Ngoài ra còn không ít vấn đề như: vấn đề cải và tinh thần. biến mỗi nghi lễ cho phù hợp với bối cảnh mới; Trên cơ sở tăng cường quảng bá về việc thực vấn đề đưa một số lễ thức của nghi lễ thành văn hóa hành gia đình, dòng họ, cộng đồng đối với các nghi quần chúng; vấn đề về hình thức bảo tồn, phát huy lễ trên hệ thống phương tiện truyền thông như đài, giá trị di sản các nghi lễ, Do khuôn khổ bài tạp báo và tivi, cần chú ý xây dựng các trang mạng xã chí, các vấn đề này sẽ lồng ghép khi trình bày một hội dưới nhiều hình thức để cập nhật thông tin về số kiến nghị bảo tồn và phát huy giá trị di sản nghi địa điểm, thời gian các gia đình, dòng họ và cộng lễ của người Dao ở nước ta hiện nay. đồng đã và sẽ tổ chức nghi lễ, nhất là những nghi lễ 3.2. Kiến nghị giải pháp nhằm bảo tồn và phát lớn, Qua hình thức quảng bá này, từng bước hình huy giá trị di sản nghi lễ của tộc người Dao ở thành mạng lưới du lịch khám phá, du lịch cộng nước ta trong bối cảnh mới đồng để khách du lịch có thể cùng tham gia tìm Về quan điểm, bối cảnh hiện nay khó bảo tồn hiểu, trải nghiệm về giá trị nghi lễ ở các địa phương. dưới dạng giữ nguyên cái gốc như cũ, mà phải phát Theo Luật Di sản Văn hóa, Nhà nước tăng huy các giá trị để hài hoà giữa cái cũ trong sự tương cường các nguồn lực để: Xây dựng các thiết chế 122 JOURNAL OF ETHNIC MINORITIES RESEARCH
  5. VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN văn hóa cơ sở; Tổ chức kiểm kê, phân loại di sản hơn vấn đề tự đổi mới các nghi lễ truyền thống cùng văn hóa các dân tộc thiểu số, trong đó có các nghi với các yếu tố tín ngưỡng tộc người cho phù hợp lễ của người Dao; Xây dựng kế hoạch bảo tồn, phát với bối cảnh mới, không bị coi “lạc hậu”, nhưng huy giá trị cho di sản trong đời sống đương đại, bao quan trọng nhất là vẫn giữ được hầu hết các giá trị gồm bảo tồn động và bảo tồn tĩnh; Xây dựng chính truyền thống mà không bị thế lực khác và tôn giáo sách đãi ngộ, tôn vinh các nghệ nhân người dân tộc khác lợi dụng, lôi kéo, thiểu số đang nắm giữ và có công phổ biến nghệ - Đối với các ban, ngành, đoàn thể ở địa phương thuật truyền thống, bí quyết nghề nghiệp có giá trị Người Dao ở mỗi địa phương cần được tuyên đặc biệt; Tạo nguồn kinh phí hỗ trợ các nghệ nhân truyền thường xuyên để họ tự ý thức về giá trị di tổ chức các lớp trao truyền tri thức, kinh nghiệm sản các nghi lễ; cần được tham gia có hiệu quả vào trong dòng họ, gia đình, cộng đồng. công tác phát huy bản sắc của chính tộc người Dao. Như vậy, việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản Vì vậy, các ban ngành ở địa phương không nên áp nghi lễ tộc người Dao đòi hỏi nỗ lực từ hai phía: Nhà đặt mà cần kiên trì tuyên truyền, khuyến khích đồng nước và người dân. Nhà nước đảm bảo về chính bào lựa chọn đúng hướng, phù hợp với nhu cầu cá sách, cơ chế quản lý linh hoạt, các thiết chế cơ sở nhân, gia đình, cộng đồng nhưng vẫn giữ được bản phù hợp, hỗ trợ bảo tồn dưới dạng tĩnh, Người sắc của các nghi lễ. Cộng đồng người Dao là chủ dân thì không chỉ vừa là chủ thể vừa là người thực thể văn hóa Dao, chính quyền địa phương cần nâng hành các nghi lễ, mà còn là người quyết định đến cao nhận thức cho họ về ý nghĩa và cách bảo tồn việc duy trì hay chuyển đổi, thậm chí bỏ đi những văn hóa ấy. Vấn đề là lớp trẻ hiện nay ít chú trọng chi tiết trong mỗi nghi lễ hoặc những nghi lễ không tới văn hóa dân tộc với các nghi lễ tín ngưỡng, bởi còn phù hợp với cuộc sống mới, Theo đó, việc họ sớm giao lưu với bên ngoài và sống trong môi duy trì nguyên gốc hay làm biến đổi một số chi tiết trường văn hóa hiện đại. Các ban ngành và đoàn thể trong một hoặc vài nghi lễ là do sự quyết định của ở địa phương cần gia tăng thời lượng tuyên truyền chính người dân. cho lớp trẻ biết trân trọng giá trị di sản các nghi lễ - Đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội ở do cha ông để lại, bởi họ sẽ là chủ nhân tương lai vùng người Dao giữ gìn và phát huy vốn văn hóa, bao gồm các nghi Một thực tế là tộc người hay một bộ phận sinh lễ của tộc người Dao: sống ở những nơi còn khó khăn về điều kiện cơ sở i) Tiếp tục nâng cao nhận thức cho cán bộ cơ sở vật chất thì khả năng lưu giữ, thực hành các nghi lễ về vị trí, vai trò các nghi lễ cổ truyền của các dân của tộc người càng nhiều hơn, nghĩa là sự “lạc hậu” tộc ở địa phương. Từ đó, cán bộ cơ sở sẽ được củng đôi khi tỷ lệ thuận với hoạt động bảo tồn di sản văn cố thêm ý thức bảo tồn văn hóa tộc người, đồng thời hóa tộc người. Song, đây cũng là vấn đề dễ bị thế tích cực phối hợp với các trưởng thôn, trưởng các lực thù địch và tôn giáo ngoại lai lợi dụng, do vậy dòng họ, các thầy cúng tại địa phương cùng tham cần đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội kết hợp gia duy trì, thực hành nghiêm cẩn các nghi lễ tín nâng cao trình độ dân trí cho các dân tộc, trong đó ngưỡng tộc người, nhằm phát huy và làm phong có người Dao. Đây là mục tiêu quan trọng, tác động phú thêm bản sắc các dân tộc ở trên địa bàn, tạo trực tiếp đến các hoạt động văn hóa ở cơ sở, trong điều kiện phục vụ du lịch hoặc hướng tới phát triển đó có các nghi lễ của người Dao. Khi người dân có du lịch thông qua quảng bá với nhiều hình thức. cuộc sống ổn định, có trình độ hiểu biết thì việc vận ii) Phát huy hơn nữa vai trò các đoàn thể như động họ duy trì và phát huy giá trị di sản các nghi lễ Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Đặc biệt, cần đưa truyền thống sẽ thuận lợi rất nhiều, mà lại không bị nội dung tuyên truyền về bảo tồn giá trị văn hoá các thế lực thù địch và tôn giáo ngoại lai lợi dụng. truyền thống vào các cuộc sinh hoạt của hội, thôn/ Hơn nữa, phát triển kinh tế - xã hội kết hợp nâng làng; vận động các thành viên các hội, nhất là Hội cao dân trí cho người dân ở mọi vùng miền, kể cả Người cao tuổi để nhắc nhở con cháu trân trọng, những nơi vùng sâu còn góp phần hình thành những giữ gìn các nghi lễ tín ngưỡng. Hơn nữa, đại diện giá trị văn hóa mới trong quá trình bảo tồn, phát huy các đoàn thể trong thôn/làng có thể đến từng hộ gia di sản các nghi lễ truyền thống của người Dao và đình để vận động, tuyên truyền về việc giữ gìn và các tộc người khác, khiến cho di sản các nghi lễ đó phát huy bản sắc tộc người, gồm các nghi lễ truyền ngày càng phù hợp với đời sống đương đại, với sự thống. gia tăng giao lưu và hội nhập quốc tế. Qua đó, gìn iii) Tuyên truyền trên các phương tiện thông tin giữ được bản sắc riêng vừa có yếu tố truyền thống đại chúng, vì hiện nay đa số các gia đình Dao ở các tộc người vừa có yếu tố đương đại - bản sắc có sức địa phương đều có tivi, đài, sử dụng điện thoại, đề kháng, khu biệt để “hòa nhập mà không hòa tan” Cần gia tăng chương trình về trang tin địa phương trong quá trình hội nhập với văn hóa, văn minh của nhằm giới thiệu các dân tộc ở Việt Nam để đồng nhân loại. Đây cũng chính là nhằm giải quyết tốt bào Dao thấy sự phong phú trong hóa các dân tộc, Volume 8, Issue 1 123
  6. VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN sẽ thêm trân trọng bản sắc tộc người Dao, nhất là phí, tiết kiệm công sức cho gia đình, dòng họ và các nghi lễ đặc trưng với các đặc điểm văn hóa vật cộng đồng người Dao, mà còn đảm bảo duy trì các thể liên quan như lễ phục, nhạc cụ, tranh thờ, nghệ yếu tố truyền thống của nghi lễ. thuật trang trí, Trên cơ sở thực hành các nghi lễ đúng theo tập iv) Các ban ngành và đoàn thể ở địa phương quán, mỗi gia đình, dòng họ, cộng đồng người Dao cần phát triển đội văn nghệ thôn làng người Dao và thầy cúng có uy tín cần nâng cao tinh thần tự giác với nhiều tiết mục trích xuất từ các nghi lễ của tộc phát huy vai trò giáo dục con em giữ lấy những giá người và khuyến khích các đội văn nghệ này hoạt trị truyền thống như tiếng nói, chữ viết, các nghi động thường xuyên, kết hợp biểu diễn cùng với đội lễ của gia đình, dòng họ, cộng đồng. Dịp cuối năm thông tin lưu động của xã, huyện và biểu diễn trong và đầu năm mới, các dòng họ và gia đình hay tổ các nghi lễ dân tộc. chức nhiều nghi lễ, do đó cần khuyến khích các em v) Cộng đồng người Dao các thôn/làng là chủ học chữ nôm Dao, học các bài cúng, các điệu múa, thể các nghi lễ của họ, ngoài việc tuyên truyền cho sử dụng nhạc cụ dân tộc. Đây là việc làm rất quan đồng bào có ý thức tự giữ gìn các nghi lễ, các ban trọng, thể hiện sự quan tâm của lớp người già đối ngành và đoàn thể cần thu hút họ vào các buổi sinh với việc trao truyền đặc điểm văn hóa, nhất là các hoạt văn hoá dân tộc ở ngay thôn, làng, xã. Song, nghi lễ truyền thống của dân tộc cho lớp trẻ. Theo cần có chế độ tôn vinh, khen thưởng những thầy đó, lãnh đạo thôn, xã cần tìm ra những dòng họ và cúng có uy tín, trưởng dòng họ giữ được nhiều nghi cá nhân tiêu biểu để tuyên dương, làm tấm gương lễ cổ truyền, nhằm khuyến khích họ trao truyền nhân rộng, văn hoá tộc người, kể cả thực hành các nghi lễ tín Thời điểm nông nhàn cuối năm, trưởng họ và ngưỡng cho thế hệ con cháu dưới mọi hình thức, thầy cúng có uy tín nên xin phép chính quyền địa nhất là dạy bảo trực tiếp con cháu trong gia đình, phương mở lớp học theo tập quán tộc người để dạy dòng họ. cho lớp trẻ về chữ nôm, dạy các bài cúng lễ, múa, - Đối với mỗi gia đình và cộng đồng người Dao sử dụng nhạc cụ dân tộc, diễn trình một số nghi lễ lớn, Đây là việc làm hàng năm của không ít dòng Mỗi gia đình, dòng họ, cộng đồng thôn làng họ người Dao ở nhiều nơi nhằm chuẩn bị cho việc người Dao và cá nhân thầy cúng cần thấy rõ việc thụ lễ cấp sắc sắp tới. Song, lớp trẻ hiện nay thường thực hành đúng bài bản và nghiêm cẩn các nghi lễ không thích văn hóa dân tộc mình nhưng lại tiếp truyền thống của dân tộc là vinh dự, góp phần duy thu rất nhanh luồng văn hóa mới, do đó đòi hỏi sự trì bản sắc tộc người. Việc tổ chức các nghi lễ cần nỗ lực thuyết phục của lớp người già, đặc biệt là sự tiết kiện thời gian, công sức và kinh phí, song không trợ giúp của trưởng thôn, trưởng dòng họ, chủ mỗi vì thế mà giản lược, bỏ qua những chi tiết đặc trưng, gia đình. Việc làm này có ý nghĩa rất lớn, bởi vì các tức cần phải làm đầy đủ: từ cách trang trí lễ đường, nghi lễ tín ngưỡng là tài sản quý giá của thế hệ trước đàn cúng, sử dụng đầy đủ các lễ phục, lễ vật, nhạc dành tặng cho thế hệ kế tiếp, nếu bản thân chủ nhân cụ, tranh thờ, cho đến các bước diễn trình, các bài văn hóa bảo tồn không tốt các nghi lễ ấy thì sẽ làm cúng, múa, bùa chú, phép thuật, kiêng kỵ. Việc đổi đứt mạch với quá khứ, tạo nguy cơ mai một các đặc mới cần đảm bảo không làm mất giá trị của truyền trưng tín ngưỡng truyền thống, mở đường cho tôn thống, chẳng hạn nếu mỗi câu, đoạn bài cúng buộc giáo mới xâm nhập. người cúng đọc 3 lần thì chỉ cần 3 người đọc cùng lúc sẽ giảm rất nhiều thời gian. Đa số chi tiết của 4. Kết luận nghi lễ nếu làm đúng tập quán sẽ ít tốn kém, lãng Người Dao có nghi lễ tín ngưỡng phong phú phí hiện nay chủ yếu do thương mại hóa, sự đua đòi và đa dạng do có tới 2 phương ngữ, 7 nhóm địa về lễ vật dâng cúng, tổ chức ăn uống, trang hoàng phương. Đó là những nghi lễ như Cúng Bàn Vương, nghi lễ, mời khách đến đông, Cấp sắc, Tết nhảy, Mở cửa rừng, Tảo mộ tượng Trước đây, các gia đình, dòng họ, cộng đồng trưng, Chưa kể tới các nghi lễ trong gia đình như thôn/làng đều nghèo về kinh tế nhưng vẫn làm cưới xin, tang ma, gọi hồn, cúng tổ tiên Các nghi được các nghi lễ lớn, bởi vì lễ vật dâng cúng chỉ cần lễ rất có giá trị trên nhiều lĩnh vực, góp phần bảo đủ số loại, không cần nhiều về số lượng và trọng tồn văn hóa tộc người Dao: từ đặc điểm tín ngưỡng lượng các con vật; các ngày chính lễ trước kia đều tôn giáo, tập quán tương trợ nhau, truyền thống giáo ăn chay, nay thì tổ chức linh đình; ăn uống trước dục, cố kết cộng đồng, đến việc duy trì lễ phục, kia chỉ vài món theo truyền thống, nay rất nhiều nhạc cụ, các điệu múa, bài cúng, món mới đắt tiền với số lượng lớn do mời nhiều Tuy nhiên, trong bối cảnh mới, có không ít vấn khách trong và ngoài thôn/làng, bạn bè, các đoàn đề đặt ra. Đó là: sự mai một một số nghi lễ, nhất là thể, cán bộ địa phương, Rõ ràng, trong bối cảnh những nghi lễ liên quan tới trồng trọt, thủ công gia cuộc sống hiện nay, nếu các nghi lễ thực hiện đúng đình; đạo Tin lành xâm nhập vào một bộ phận nhỏ tập quán cổ truyền thì không chỉ hạn chế sự lãng người Dao ở một số địa phương; lớp trẻ người Dao 124 JOURNAL OF ETHNIC MINORITIES RESEARCH
  7. VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN ít quan tâm đến việc học hỏi để trở thành những địa phương để bảo tồn và phát huy các giá trị của người có khả năng thực hành các nghi lễ; vấn đề các nghi lễ từ nhiều góc độ. Trong đó đặc biệt chú biến các nghi lễ của người Dao thành những sản ý tới một số giải pháp lớn như: hệ thống chính sách phẩm hàng hóa mang lại một phần lợi ích kinh tế, văn hóa; sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội ở vùng thu hút khách du lịch, dân tộc thiểu số; nâng cao nhận thức và vai trò của Vì vậy, cần có những giải pháp cụ thể, thiết thực, các ban ngành ở địa phương đối với bảo tồn các đồng bộ và phù hợp với điều kiện thực tế của mỗi nghi lễ; phát huy vai trò của người Dao - chủ thể văn hóa. Tài liệu tham khảo Bế Viết Đẳng, Nguyễn Khắc Tụng, Nông Trung, Vương Xuân Tình (Chủ biên, 2018), Các dân Nguyễn Nam Tiến (1971), Người Dao ở Việt tộc ở Việt Nam, Tập 4 quyển 1: Nhóm ngôn Nam, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội. ngữ Hmông-Dao và Tạng-Miến, Nxb. Khoa Ly Hanh Sơn (2002), Lễ cấp sắc và bản sắc văn học Xã hội, Hà Nội. hóa Dao, Tạp chí Dân tộc học, số 3, tr.13-23. Ban Chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở Trung Ly Hanh Sơn (2003), Cac nghi lê chu yêu trong ương (2010), Tổng điều tra dân số và Nhà ở chu kỳ đơi ngươi cua nhom Dao Tiên ơ Ba Việt Nam năm 2009, Kết quả toàn bộ, Nxb. Bê, Băc Kan, Nxb. Khoa hoc Xa hôi, Ha Nôi. Thống kê, Hà Nội. Nguyễn Khắc Tụng (1997), Trở lại vấn đề phân loại các nhóm Dao ở Việt Nam, Tạp chí Dân tộc học, số 3, tr.30-37. CONSERVE AND PROMOTE THE VALUE OF RITUAL HERITAGE OF THE DAO PEOPLE IN OUR COUNTRY TODAY Ly Hanh Son Institute of Anthropology Abstract: Religious rituals of the Dao people in our Email: hmongdao@yahoo.com.vn country, especially rituals of Excellent rankings, King’s altar, the New Year’s dance, Opening the forest door, Received: 10/3/2019 The village shrine are valuable for cultural heritage, Revised: 12/3/2019 contributing to preserving Dao ethnic identity: From Accepted: 18/3/2019 the elements of religious beliefs, customary practices, traditional education, community cohesion to maintain DOI: all kinds of vestments, musical instruments, dances, cards offerings, decorative arts But, under the strong impact of exchanges and integration at present, it is necessary to have solutions suitable to the reality of each locality to preserve and promote thế values of such rituals from many angles. In particular, special attention is paid to some solutions related to the system of cultural policies; develop all aspects of economy and society in ethnic areas; raising awareness and the role of local departments; promote the role of the Dao people - cultural subjects. Keywords: Dao people in our country; Ritual; Traditional; Heritage value; Preserving and promoting heritage values. Volume 8, Issue 1 125