Các kênh tác động của sức mạnh mềm văn hóa Trung Quốc ở một số nước Đông Á

pdf 10 trang Hùng Dũng 03/01/2024 1750
Bạn đang xem tài liệu "Các kênh tác động của sức mạnh mềm văn hóa Trung Quốc ở một số nước Đông Á", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfcac_kenh_tac_dong_cua_suc_manh_mem_van_hoa_trung_quoc_o_mot.pdf

Nội dung text: Các kênh tác động của sức mạnh mềm văn hóa Trung Quốc ở một số nước Đông Á

  1. NGÔN NGỮCác - kênh VĂN tác HỌCđộng của - VĂN sức mạnh HÓA mềm văn hóa Trung Quốc Các kênh tác động của sức mạnh mềm văn hóa Trung Quốc ở một số nước Đông Á Phạm Hồng Thái * Nguyễn Thị Thu Phương Tóm tắt: Trong quá trình triển khai sức mạnh mềm văn hóa, Trung Quốc đã kết hợp sử dụng ngoại giao văn hóa với truyền thông làm hai kênh tác động chính nhằm thay đổi cán cân quyền lực giữa các quốc gia. Tuy nhiên, từ mục tiêu chiến lược đến thực tế triển khai luôn tồn tại những khoảng cách nhất định. Do đó, để nhìn nhận một cách khách quan quá trình tác động của sức mạnh mềm văn hóa Trung Quốc đối với khu vực Đông Á, bài viết xem xét hai kênh tác động này trong những năm gần đây, đặc biệt là tại các thời điểm Trung Quốc áp dụng cách hành xử cứng rắn đối với các quốc gia láng giềng thuộc khu vực Đông Á. Từ khóa: Trung Quốc; Đông Á; sức mạnh mềm văn hóa; ngoại giao văn hóa; kênh tác động. 1. Ngoại giao văn hóa truyền bá văn hóa Trung Quốc vào Nhật 1.1. Đẩy mạnh giao lưu và hợp tác văn Bản. Ở Hàn Quốc, cho đến năm 2004, có hóa, giáo dục 130 trường đại học Trung Quốc và 120 Đối với Nhật Bản và Hàn Quốc, hai trường đại học Hàn Quốc kí kết hợp tác quốc gia láng giềng, nhưng lại có quan hệ đào tạo, nghiên cứu, trao đổi giáo sưvà liên minh chiến lược về an ninh quốc sinh viên. Năm 2009, con số lưu học sinh phòng với Mỹ, mục tiêu mà các nhà hoạch Hàn Quốc tại Trung Quốc tăng lên đến định chính sách về sức mạnh mềm văn hóa 66.800 người(1). Năm 2010, lưu học sinh Trung Quốc hướng tới là tạo ra một thế hệ Trung Quốc ở Hàn Quốc chiếm số lượng những người Nhật Bản và Hàn Quốc có đông nhất, tới 70% số lưu học sinh tại tình cảm thân thiện hơn với Trung Quốc. Tại Nhật Bản, trên cơ sở các hiệp định trao (*) đổi văn hóa và giáo dục bắt đầu từnăm Phó giáo sư, tiến sĩ, Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. 1980, Chính phủ Trung Quốc thường ĐT: 0989768589. Email: tapchi@inas.gov.vn. xuyên trao học bổng dành cho lưu học sinh Nghiên cứu này được tài trợ bởi Quỹ phát triển Khoa Nhật Bản. Bên cạnh đó, Trung Quốc còn học và Công nghệ (Nafosted) trong đề tài mã số: VI.2- khuyến khích học sinh đến Nhật Bản để 2010.01. ( ) Tiến sĩ, Viện Nghiên cứu Trung Quốc, Viện Hàn trau dồi kiến thức. Việc một số lượng đông lâm Khoa học xã hội Việt Nam. ĐT: 0979833816. học sinh Trung Quốc đến Nhật Bản học Email: thuphuongvhtq@gmail.com. tập, ngoài mục đích kiếm tìm tri thức, (1) Yonhap New Agency, Chinese Students Rides Korean những người này còn là nhân tố tăng Waves to S.Korea, n_feature/2010/09/15/22/4901000000AEN201009150 cường giao lưu văn hóa, thúc đẩy quá trình 09400315F.html. 87
  2. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 8(93) - 2015 quốc gia này với con số lên đến 53.461 mang tính truyền thống của Trung Quốc người(2). Đây là một hiện tượng chưa từng hiện nay. Điều đáng chú ý là định hướng có trong lịch sử hàng nghìn năm giao lưu của những hoạt động giao lưu văn hóa của văn hóa giữa hai nước. Trung Quốc hiện nay có sự chuyển hoán từ Về học thuật, Trung Quốc sử dụng việc giới thiệu những thông tin nước ngoài phương thức trao đổi nghiên cứu với Hàn đối với trong nước sang tuyên truyền, giới Quốc. Đến năm 2009, có hơn 100 cơ quan thiệu thông tin, quảng bá văn hóa Trung nghiên cứu Trung Quốc được chính phủ và Quốc ra khu vực. tư nhân thành lập ở Hàn Quốc. Hoạt động Đối với một số nước Đông Nam Á, do của các cơ quan nghiên cứu Trung Quốc tại sớm xác định Đông Nam Á là địa bàn quan Hàn Quốc đóng vai trò tư vấn hoạch định trọng, là điểm đến đầu tiên trong hành trình chính sách đối ngoại, chiến lược đầu tưvà truyền bá văn hóa ra toàn thế giới nên thương mại của các công ty cũng như tăng Trung Quốc đã tiến hành liên tục các hoạt cường nhận thức của người Hàn Quốcvề động thẩm thấu văn hóa ra toàn khu vực, người láng giềng khổng lồ. Về biểu diễn đặc biệt là với các quốc gia láng giềng. nghệ thuật, các loại hình nghệthuật biểu Hàng loạt chương trình “Vui xuân” đã được diễn truyền thống Trung Quốc được trình tổ chức tại Thái Lan, Philippine vào các dịp diễn thông qua các cuộc biểu diễn tổ chức lễ tết cổ truyền của Trung Quốc. Nội dung hàng năm với khoảng 100 đoàn, với số chính là các tiết mục mang đậm nét văn hóa lượng hàng hìnng diễn viên tham gia. Lớn truyền thống Trung Quốc như kịch, các nhất có thể kể đến sự kiện văn hóa Trung điệu nhảy của các dân tộc thiểu số Trung Quốc vào năm 2006. Quốc, biểu diễn xiếc Bên cạnh đó, triển Trong quá trình truyền bá sức mạnh khai các hoạt động triển lãm văn hóa Trung mềm văn hóa, Trung Quốc đã coi các Trung Hoa cũng được Chính phủ Trung Quốc lồng tâm văn hóa Trung Quốc là tổ chức xúc tiến ghép trong các dịp kỷ niệm thiết lập quan mạnh mẽ giao lưu văn hóa với Nhật Bản và hệ ngoại giao với các nước Đông Nam Á. Hàn Quốc. Về mặt cơ cấu của Trung tâm Chính phủ Trung Quốc cũng không bỏ Văn hóa Trung Quốc tại Hàn Quốc và Nhật lỡ cơ hội thúc đẩy kênh trao đổi giáo dục Bản, ngoài các bộ phận như phòng triển nhằm mở rộng khả năng thẩm thấu ngôn lãm, phòng nghe nhìn, kịch trường, phòng ngữ và văn hóa tới các nước Đông Nam Á. đa chức năng, phòng nhảy, phòng võ thuật, Tính đến cuối năm 2009, tổng số lưuhọc sân vận động, còn có thư viện, phòng diễn sinh 10 nước ASEAN học tập tại Trung thuyết, trung tâm thông tin. Cùng với việc Quốc đã đạt 54.790 người, trong đócó tăng cường thiết lập các Trung tâm Văn hóa 4.118 người nhận được học bổng của Chính Trung Quốc, việc tổ chức các sự kiện giao phủ Trung Quốc(3). Năm 2012, Trung Quốc lưu văn hóa tại Hàn Quốc và Nhật Bản tiếp tục tăng số học bổng chính phủ cho các cũng là kênh gia tăng tác động của sức nước Đông Nam Á, thúc đẩy thực hiện “Kế mạnh mềm văn hóa Trung Quốc. Có thể hoạch du học Trung Quốc”, thu hút nhiều thấy, các hoạt động của Trung tâm Văn hóa Trung Quốc ở Nhật Bản và Hàn Quốc cũng (2) như các sự kiện giao lưu văn hóa giữa Tlđd. (3) Over 260,000 International Students Studying in Trung Quốc và các quốc gia này làcác China in 2010, kênh khác nhau của ngoại giao văn hóa business/htmlfiles/moe/moe_2809/201103/115886.html. 88
  3. Các kênh tác động của sức mạnh mềm văn hóa Trung Quốc hơn lưu học sinh các nước ASEAN đến lưu và hợp tác giáo dục. Theo đó, hàng năm Trung Quốc học tập(4). Vào ngày 3 tháng 10 130 lưu học sinh Việt Nam được hưởng học năm 2013, trong chuyến thăm Indonesia, bổng ủc a Chính phủ Trung Quốc. Ngoài ra, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã kí bằng nhiều con đường khác nhau, nhiều kết thỏa thuận đẩy mạnh hợp tác trong các thanh niên Việt Nam đã sang Trung Quốc lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, giáo dục, văn với phương thức du học tự túc và không ít hóa, quốc phòng, an ninh với nước này(5). trong số đó đã nhận được các học bổng của Không khó nhận ra, việc tăng cường, tạo các trường đại học ở Trung Quốc do có điều kiện thuận lợi cho học sinh Đông Nam thành tích học tập tốt. Năm 2011, lượng du Á sang Trung Quốc du học, với các chuyên học sinh Việt Nam theo học tại Trung Quốc ngành chính như tiếng Trung Quốc, văn hóa đạt con số 12.500 người(6). Bên cạnh đó, Trung Quốc, kiến trúc, hội họa là một Trung Quốc còn sử dụng các kênh hợp tác kênh hợp tác tích cực để những người trẻ văn hóa với các địa phương, nhất là đối với tuổi tại nhiều quốc gia Đông Nam Á tận các tỉnh biên giới, các trường Đại học, Viện mắt chứng kiến, trải nghiệm, khám phá và Nghiên cứu, để tăng cường khả năng chuyển lĩnh hội văn hóa Trung Hoa, từ đó tiếp nhận tải các mục tiêu chiến lược của chính phủ và thẩm thấu văn hóa Trung Hoa một cách nước này vào nhận thức của giới trí thức tự nhiên. Việt Nam(7). Tại Việt Nam, từ khi bình thường hóa Nhìn bề ngoài các kênh giao lưu, hợp tác quan hệ hai nước (1991) đến nay, Trung văn hóa này hướng đến tăng cường hiểu Quốc đã sử dụng các hoạt động hợp tác giao biết văn hóa giữa nhân dân hai nước. Song, lưu văn hóa, giáo dục như một kênh thúc về thực chất, toàn bộ các thông điệp văn đẩy việc truyền bá văn hóa. Năm 1992, hóa đều cho thấy, Trung Quốc đang muốn thông qua con đường chính thức, Trung dựng lại một vành đai văn hóa nước lớn Quốc đã ký với Việt Nam nhiều Hiệp định mới tại Việt Nam, thông qua sức lôi cuốn hợp tác văn hóa. Trên cơ sở đó, hai bên đã của những giá trị văn hóa cổ xưa và sự xâm ký nhiều kế hoạch và chương trình hợp tác nhập để ràng buộc về ý thức hệ dưới hình về văn hóa. Triển lãm và hội chợ cũng được thức tài trợ, hỗ trợ văn hóa, giáo dục. coi là một kênh đưaứ s c hấp dẫn văn hóa 1.2. Tăng cường hoạt động truyền bá Trung Quốc àv o Việt Nam. Thông qua các ngôn ngữ, văn hóa và hình ảnh Trung triển lãm và hội chợ, Trung Quốc từngớ bư c Quốc của các Học viện Khổng Tử đưa bản sắc và sức hấp dẫn văn hóa truyền Học viện Khổng Tử với nhiệm vụ “phổ thống vào đời sống văn hóa Việt Nam. Trên lĩnh vực hợp tác văn hóa, giáo dục, Trung Quốc thể hiện hình ảnh “nước lớn (4) 2012中国-东盟合作, văn hóa” thông qua các khoản tài trợ văn chn/dmgx/t991226.htm. (5) hóa. Trong những năm qua, Uỷ ban tiếng Chinese, Indonesian presidents chart course of future bilateral cooperation, Hán đối ngoại Nhà nước Trung Quốc, Đại english/cnleaders/xjp201310/Indonesia.htm. sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam đãliên (6) tục tài trợ tổ chức cuộc thi “Nhịp cầu Hán du-hoc-sinh-qua-cac-nuoc. (7) ngữ” tại Việt Nam. Ngành giáo dụcủ c a cả Nguyễn Thu Phương (Chủ biên) (2013), Sự trỗi dậy về sức mạnh mềm của Trung Quốc và những hai bên cũng tiến hành những cuộc hội đàm vấn đề đặt ra cho Việt Nam, Nxb Từ điển bách khoa, và ký kết các văn bản thỏa thuận về giao Hà Nội, tr.185 - 187. 89
  4. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 8(93) - 2015 biến tiếng Hán, giữ gìn và bảo vệvịthế sở này. Chúng ta có thể thấy rất rõ điều này quốc tế của tiếng Hán, truyền bá văn hóavà thông qua việc tìm hiểu quá trình sử dụng xây dựng hình ảnh một nước Trung Quốc Học viện Khổng Tử như một kênh tác động hài hòa, hòa bình, thân thiện”(8) được coi là trực tiếp sức mạnh mềm văn hóa Trung kênh tác động chính trong hoạt động ngoại Quốc tại khu vực Đông Á. giao văn hóa nhằm đưa sức mạnh mềm văn Tại Hàn Quốc, Học viện Khổng Tử được hóa Trung Quốc “thâm nhập sâu” vào môi thành lập đầu tiên vào năm 2004. Tính đến trường văn hóa, giáo dục của các quốc gia tháng 10 năm 2014, tại Hàn Quốc đã có 23 trên thế giới. Từ năm 2004 đến tháng 7 năm Học viện được thành (10)lập . Học viện Khổng 2014, tổng số các Học viện Khổng Tử trên Tử ở Hàn Quốc chủ yếu được thành lập trên thế giới trong đó bao gồm cả Lớp học cơ sở hợp tác với các trường đại họccủa Khổng Tử đã lên đến con số1.083 cơ sở/ Hàn Quốc với các ng trườ đối tác từ Trung 120 quốc gia. Cụ thể, Châu Mỹ có 531 Học Quốc và được hỗ trợ một phần kinh phí hoạt viện; Châu Á có 143 Học viện(9). động từ phía Trung Quốc. Đây là một đặc Về cơ bản, các Học viện Khổng Tử điểm khác biệt, so với các tổ chức xúc tiến tương đồng với các tổ chức xúc tiến văn văn hóa, phổ biến giáo dục Phương Tây hóa và truyền bá ngôn ngữ của các nước thường được thành lập bằng kinh phícủa Phương Tây. Tuy nhiên, Học viện Khổng mình. Vì thế, Học viện Khổng Tử ở Hàn Tử khác các tổ chức xúc tiến văn hóa và Quốc được đơn vị chủ quản vận hành một truyền bá ngôn ngữ Phương Tây ở ba điểm: cách chủ động. Đây là một đặc thù tạo điều một là, Học viện Khổng Tử là cơ quan trực kiện cho sự phát triển của Học viện Khổng thuộc Bộ Giáo dục Trung Quốc, còn các tổ Tử tại Hàn Quốc. Cũng giống như tại Hàn chức của Phương Tây là các tổ chức phi Quốc, tốc độ phát triển của các Học viện chính phủ làm công tác xúc tiến, vănhóa, Khổng Tử ở Nhật Bản là khá nhanh. Điều truyền bá ngôn ngữ cho chính phủ; hai là, đáng nói là các Học viện Khổng Tửhiện Chính phủ Trung Quốc kiểm soát hoạt động nay chủ yếu được thành lập tại các trường của Học viện Khổng Tử thông qua cơ quan tư lập của Nhật Bản. Các trường công, nhất chủ quản là Ban Hán ngữ quốc giatrực là các trường quốc lập không mặn mà với thuộc Bộ Giáo dục, còn các tổ chức của việc thành lập loại trường này mặc sự thúc Phương Tây hoạt động độc lập về chuyên ép từ phía các đối tác Trung Quốc. môn, nhưng tuân theo sự chỉ đạo thống nhất Tại một số nước Đông Nam Á, tính đến của Bộ Ngoại giao; ba là, đứng đầu Học năm 2015, có đến 42 Học viện Khổng Tử viện Khổng Tử là hai đồng giám đốc (một và Lớp học Khổng Tử được thành lập ở người của nước sở tại và một người được nhiều quốc gia. Trong đó, 23 Học viện Ban Hán ngữ quốc gia bổ nhiệm), còn các Khổng Tử được xây dựng tại Thái Lan, số học viện ủc a Phương Tây chỉ có một giám đốc điều hành (không phải người nước sở (8) Bành Tân Lương (2008), Ngoại giao văn hóa và tại). Chính điểm tương đồng và khác biệt sức mạnh mềm của Trung Quốc - Góc nhìn toàn cầu của Học viện Khổng Tử so với các tổ chức hóa, Nxb Bắc Kinh, tr.466 - 467. xúc tiến văn hóa và truyền bá ngôn ngữ (9) Tổng hợp số liệu từ trang web của Học viện Phương Tây đã quy định nên các đặc điểm Khổng Tử www.chinese.cn truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2015. chung và riêng trong phương thức gia tăng (10) Số liệu từ trang web Học viện Khổng Tử: sức mạnh mềm văn hóa Trung Quốc của cơ 90
  5. Các kênh tác động của sức mạnh mềm văn hóa Trung Quốc còn lại rải rác tại các quốc gia còn lại: Lào của bên thứ ba, hoặc thậm chí của đối (1), Campuchia (1), Indonesia (7), Singapore phương, để tạo dựng dư luận(15). Mặt khác, (2), Malaysia (2), Philippine (3), Việt Nam các tổ chức quốc tế, các tổ chức dân sựvà (1)(11). Các Học viện Khổng Tử thu hút một các diễn đàn học thuật, hội thảo cũng được số lượng lớn người học tại các nước sử dụng để truyền thông tin phù hợp với ASEAN, đặc biệt là các quốc gia chung lợi ích của Trung Quốc(16). Có thể thấy, đường biên giới với Trung Quốc tham gia mục đích của “chiến pháp dư luận” Trung tìm hiểu ngôn ngữ và văn hóa Trung Hoa. Quốc mang tính “hai mặt” khá rõ, đặc biệt Hiện, có trên 60.000 học viên theo học và là khi nó được áp dụng tại khu vực Đông hơn 100.000 người tham gia vào các hoạt Á - nơi mà họ đã và đang đẩy nhiều nước động văn hóa của Học viện Khổng Tử(12). vào tình thế buộc phải hoài nghi, phòng vệ, Đồng thời, khu vực này cũng dẫn đầu về số hoặc tìm một sự hậu thuẫn khác. lượng sinh viên theo học ở Trung Quốc(13). Thông thường các biện pháp “thiết kế” Như vậy, từ việc học theo các tổ chức hình ảnh quốc gia trên các lĩnh vực hợp tác xúc tiến văn hóa và truyền bá ngôn ngữ kinh tế, quan hệ chính trị rất dễ gây phản Phương Tây, Chính phủ Trung Quốc đã tạo cảm, còn việc thiết kế hình ảnh quốc gia nên mô hình Học viện Khổng Tử như một thông qua truyền thông lại dễ được cộng tổ chức sư phạm quốc tế, song lại là kênh đồng quốc tế chấp nhận hơn. Nhận thức rõ tuyên truyền đối ngoại quan trọng đưa hình lợi thế trên, Trung Quốc đã lựa chọn ảnh Trung Quốc lôi cuốn, hấp dẫn, hài hòa truyền thông làm giải pháp “cân bằng tính và thân thiện vào các quốc gia khác. hai mặt” trong quá trình xây dựng “hình 2. Các kênh truyền thông ảnh một cường quốc chủ động cải cách trật Vào năm 2003, Ban Chấp hành Trung tự quốc tế nhằm giành được sự công bằng, ương Đảng Cộng sản Trung Quốc cùng dân chủ giữa các nước lớn, hình thành sự Quân ủy Trung ương chính thức công bố thịnh vượng kinh tế chung và sự đa dạng ứng dụng học thuyết “Tam chủng chiến về văn hóa tư tưởng đối với các nước đang pháp” 三 ( 战) gồm: chiến pháp tâm lý (心理战), chiến pháp dư luận (舆论 战), chiến pháp pháp lý (法律 战) vào việc để (11) Tổng hợp số liệu từ trang web của Học viện bảo vệ lợi ích của Trung Quốc. Trong ba Khổng Tử www.chinese.cn truy cập ngày 12 tháng 3 chiến pháp này “chiến pháp dư luận” là một năm 2015. (12) cách gây ảnh hưởng, lèo lái dư luận quốc 谭笑, 刘炳香, 中美在东南亚地区的“软实力”比较, 东南亚纵横, 10-2010, tr. 6. tế theo hướng ủng hộ Trung Quốc, đồng (13) Kurlantzick, J, (2006), “China’s Charm: Implications thời phủ nhận những luồng tư tưởng của of Chinese Soft Power”, Carnegie Endowment for đối thủ gây bất lợi cho Trung Quốc(14). International Peace: Policy Brief 47, June. Nhìn chung, kênh tác động chính của chiến (14) Timothy A. Walton, Brief on China’s Three pháp này được sử dụng trong lĩnh vực gia Warfares, Delex Special Report-3, 18 January 2012, tăng sức mạnh mềm văn hóa bao gồm: pdf. phương tiện truyền thông truyền thống và (15) Wu Huaitang and Zuo Junzhan (eds), The các phương tiện truyền thông mới (báo Practical Knowledge of Psychological Warfare điện tử, phát thanh, truyền hình, mạng (心理战实用知识) (Beijing: Junshi Kexue 2006), 49. 21Wang Xingsheng, The Science of Military Internet). Ngoài ra, các nhà chiến lược Political Work, 26. Trung Quốc còn khai thác truyền thông (16) Tài liệu dẫn trên. 91
  6. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 8(93) - 2015 phát triển và hướng tới việc giải quyết hòa người, văn hóa Trung Hoa. Chính phủ bình các xung đột quốc tế”(17). Trong quá Trung Quốc liên tục đề xuất các chương trình sử dụng truyền thông như một kênh trình hợp tác thông tin với các nước gia tăng tác động của sức mạnh mềm văn ASEAN, nhằm đưa làn sóng truyền thông hóa đối với các nước láng giềng Đông Bắc Trung Quốc tràn vào khu vực. Á và Đông Nam Á; một mặt, Trung Quốc Tại Đông Nam Á, trên cơ sở hợp tác muốn khẳng định sự tương quan và vị thế truyền thông, Trung Quốc đã sử dụng các nổi trội hơn trong mối quan hệ với Nhật kênh truyền thông đại chúng để tăng cường Bản, Hàn Quốc; mặt khác, Trung Quốc lại quảng bá hình ảnh đất nước phát triển hòa kì vọng sẽ lôi kéo, dẫn dắt các nước Đông bình, con người thân thiện, văn hóa đa dạng Nam Á đang phát triển dưới hình thức hợp giàu bản sắc với công chúng trong khu vực. tác hòa bình. Đài phát thanh quốc tế Trung Quốc đã xây Thế nhưng, có một nghịch lí đang tồn trạm phát sóng ở các nước Lào, Campuchia, tại là: một mặt, các kênh truyền thông Indonesia Kênh tin tức quốc tế bằng tiếng Trung Quốc vẫn không ngừng lặp đi lặp lại Trung và tiếng Anh của Đài truyền hình thông điệp “để thế giới lí giải Trung Quốc, Trung ương Trung Quốc đã có mặt ở cả 10 để Trung Quốc đi ra thế giới”, “Trung nước Đông Nam Á. Năm 2009, Đài phát Quốc phát triển hòa bình” như một chiến thanh Quốc tế Trung Quốc và Đài phát pháp “mưa dầm thấm lâu” tác động vào thanh Đối ngoại Quảng Tây đã phối hợp nhận thức của dư luận; nhưng mặt khác, thành lập đài “Tiếng nói Vịnh Bắc Bộ” quốc gia này vẫn tiến hành các hoạt động (BBR). Chương trình phát thanh lấy trụ cột làm gia tăng căng thẳng với Nhật Bản, Quảng Tây, hướng ra Đông Nam Á, phát Việt Nam, Philippine và theo ý kiến của thanh bằng 5 thứ tiếng: tiếng Anh, tiếng nhiều người, Trung Quốc không tỏ ra là Thái Lan, tiếng Việt Nam, tiếng Quảng một “đối tác có trách nhiệm” trong các vấn Đông và tiếng Phổ thông Trung Quốc với đề toàn cầu. Đặc biệt, sau khi Trung Quốc thời lượng 17 giờ, từ 7 giờ sáng đến 24 giờ đưa ra tuyên bố lợi ích cốt lõi tại Biển hàng ngày. Các chương trình truyền hình Đông cùng việc các hoạt động gây căng Trung Quốc xuất khẩu tới 10 nước Đông thẳng tại Biển Đông, quốc gia này đang Nam Á chiếm một nửa tổng sản phẩm khiến cho thuyết “Mối đe dọa Trung truyền thông của Trung Quốc xuất khẩu ra Quốc” hay “Chủ nghĩa bá quyền Trung nước ngoài(18). Quốc” quay trở lại trên các diễn đàn quốc Ngoài việc sử dụng các kênh truyền tế và thu hút mạnh hơn sự quan tâm của dư thông truyền đi các thông điệp chính thức luận. Điều đó càng khiến cho truyền thông của Chính phủ Trung Quốc, phim điện ảnh của họ trở nên khó khăn hơn trong việc và phim truyền hình cũng là một trong các xây dựng hình ảnh tốt đẹp và xoá bỏ mối nghi ngờ về thuyết “Mối đe dọa Trung (17) Hongying Wang, Chapter 3 (2011), China’s Quốc” trong cộng đồng dư luận quốc tế. Image Projection and Its Impact trong Wang, Jian. Trước nghịch lí đó, Trung Quốc dường Soft Power in China: Public Diplomacy through như đang đẩy mạnh hơn “chiến pháp dư Communication. Basingstoke: Palgrave Macmillan. (18) 中国-东盟合作: 1991 - 2011(全文), luận” bằng việc tận dụng các kênh truyền thông để quảng bá hình ảnh đất nước, con 20zn/t893348.htm. 92
  7. Các kênh tác động của sức mạnh mềm văn hóa Trung Quốc sản phẩm văn hóa được sử dụng nhằm đưa vào thị trường văn hóa Việt Nam. Có hai hình ảnh đất nước, con người và văn hóa con đường chủ yếu để phim truyền hình Trung Hoa vào khu vực. Trung Quốc vào thị trường Việt Nam là: Tại Nhật Bản, hàng năm, Trung Quốc tổ tặng phim và nhập khẩu phim. “Tây Du chức rầm rộ Tuần lễ phim Trung Quốc ở Ký” (1986) của nữ đạo diễn Dương Khiết các thành phố lớn. Đây được coi như một và “Khát vọng” của đạo diễn Lỗ Hiểu Oai trong 9 festival điện ảnh lớn nhất thế giới là hai bộ phim truyền hình Trung Quốc đầu được tổ chức thường niên thu hút đông đảo tiên du nhập theo con đường “tặng” vào những người hâm mộ điện ảnh Trung Quốc. Việt Nam. Tuy nhiên, số lượng phim “tặng” Những tác phẩm điện ảnh phản ảnh về các như vậy không nhiều. Trên thực tế, phim đề tài tình yêu như “Cánh bướm trên vai”, truyền hình Trung Quốc xâm nhập vào Việt “Dấu hiệu của tình yêu”, “Âm thanh của vì Nam chủ yếu thông qua con đường nhập tinh tú” đã được quảng bá rộng rãi đối với khẩu. Số liệu thực tế cho thấy, số phim khán giả Nhật Bản. Các nhà quan sátcho truyền hình Trung Quốc được chiếu ởcác rằng trong hai thập kỷ qua, đây là một kênh đài truyền hình ở Việt Nam đã tăng vọt truyền thông được Trung Quốc sử dụng có trong những năm gần đây. Theo thống kê hiệu quả tại Nhật Bản(19). Tuy nhiên, cũng chưa đầy đủ, năm 2011, có 369 bộ phim cần lưu ý rằng, lĩnh vực phim ảnh Trung Trung Quốc được phát sóng với thời gian Quốc chiếm được cảm tình người Nhật chủ phát sớm nhất là 1h15 và muộn nhất là 23h yếu là những đề tài có liên quan đến những trên 15 kênh truyền hình địa phương. Trong câu chuyện lịch sử và võ thuật, hay chủ đề 6 tháng cuối năm 2012, có 41 bộ phim tình yêu đôi lứa còn những bộ phimđề Trung Quốc được chiếu trên các kênh cập đến xã hội Trung Quốc hiện đại không truyền hình VTV1, VTV2, VTV3, VTV4, tạo nên sự hấp dẫn như vậy. Tại các nước VTV6 và VTV9 của Đài truyền hình Việt Đông Nam Á, trong các sản phẩm truyền Nam(21). Mật độ xuất hiện phim Trung thông được xuất khẩu, phim truyền hình, Quốc trên sóng truyền hình Việt Nam khá đặc biệt là phim cổ trang được coi là kênh dày đặc. Chỉ tính riêng tháng 4 năm 2014 có khả năng giới thiệu khá hiệu quả về lịch (trước thời điểm Trung Quốc hạ đặt giàn sử đất nước, con người và văn hóa Trung khoan HD 981 vào vùng đặc quyền kinh tế Hoa vào khu vực(20). của Việt Nam), đã có tới tổng 182 bộ phim Tại Việt Nam, từ khi bình thường hóa truyền hình Trung Quốc được phát trên 65 quan hệ (1991) đến nay, truyền thông, đặc đài truyền hình khắp từ trung ương đến địa biệt là phát thanh và truyền hình đã trở phương của Việt Nam. Những bộ phim thành một kênh tác động được Trung Quốc Trung Quốc ở tất cả các thể tài khác nhau sử dụng triệt để nhằm tiến hành các hoạt động truyền bá văn hóa mang màu sắc (19) 東京の「中国映画週間」,【社会ニュース】 chính trị vào đời sống văn hóa nước ta. 2011/11/14 (月) 12:07. Thông qua các bản kí kết thoả thuận hợp (20) Nguyễn Thị Thu Phương (2010), Trung Quốc gia tác với các Đài Phát thanh và Truyền hình tăng sức mạnh mềm ở Đông Nam Á, Tạp chí Nghiên Việt Nam, Bộ Phát thanh - Truyền hình và cứu Trung Quốc, số 2, tr.62. (21) Số liệu thống kê dựa trên chương trình phát sóng Điện ảnh Trung Quốc đã tạo điều kiện cho của Đài truyền hình Việt Nam đăng tải trên Tạp chí các phim truyền hình, điện ảnh xâm nhập Truyền hình. 93
  8. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 8(93) - 2015 đã cho thấy, truyền hình Trung Quốc từng ủng hộ Trung Quốc, đồng thời phủ nhận được xem là kênh tô đậm hình ảnh nước những luồng tư tưởng của đối thủ gâybất lớn Trung Hoa trong văn hóa nghe nhìn tại lợi cho Trung Quốc(23). Với “chiến pháp dư Việt Nam. luận”, Trung Quốc vừa muốn hiện thực hóa Truyền thông của Trung Quốc tại Việt tham vọng “bá quyền” khu vực, lại vừa Nam không chỉ được biết đến bởi các bộ muốn “lay động” nhận thức dư luận bằng phim truyền hình hấp dẫn mà trong trường hình ảnh một quốc gia lớn “bị bá quyền” hợp đặc biệt, nó còn biến thành “chiến bởi các nước láng giềng nhỏ. Điều đó đang pháp” tạo dựng dư luận theo cách mà nhà đẩy các phương tiện truyền thông Trung cầm quyền Trung Quốc thực hiện để bảo vệ Quốc vào tình thế khó khăn trong cuộc lợi ích cốt lõi của mình bất chấp những tiêu chiến tạo dựng dư luận tại khu vực Đông Á. chí đặt ra đối với các phương tiện truyền 3. Kết luận thông khi nó đảm nhận vai trò là kênh Đối với nhiều quốc gia, việc sử dụng sức truyền tải vẻ đẹp quốc gia và cách hành xử mạnh mềm văn hóa khôn khéo thường là sự gây thiện cảm với dư luận quốc tế của sức lựa chọn kết hợp giữa ít nhất hai kênh tác mạnh mềm văn hóa. Chúng ta có thể thấy động là ngoại giao văn hóa và truyền rõ hơn điều này thông qua các số liệu khảo thông. Một trong những quốc gia thành sát hai trường hợp Nhân dân nhật báo và công khi sử dụng hai kênh tác động này là Hải Nam nhật báo với tiêu chí so sánh số Mỹ. Bởi, thông qua ngoại giao văn hóa và lượng các bài báo có nội dung liên quan đến truyền thông, Mỹ đã “thôi thúc mơ ước và vấn đề xung đột Biển Đông từ năm 2011 sở nguyện của người khác thông qua những đến ngày 15 tháng 4 năm 2013 ở ba lĩnh hình ảnh mang tính toàn cầu”(24). Còn với vực: thông tin, phỏng vấn và bình luận; so Trung Quốc, hai kênh tác động này được kì sánh tần số các sự kiện chủ yếu(22). Việc so vọng sẽ đảm nhận trách nhiệm giúp họ vượt sánh đã cho thấy, Nhân dân nhật báo và lên Mỹ để gánh vác trách nhiệm lịch sử dẫn Hải Nam nhật báo tuyên truyền phục vụ dắt thế giới bằng sức hấp dẫn văn hóa. cho những lợi ích cốt lõi của Trung Quốc Nhưng khi chưa đạt được mục tiêu dài hạn tại Biển Đông. Việc khảo sát hai trường đó, hai kênh tác động được Trung Quốc sử hợp báo mạng đã cho thấy rõ hơn một thực dụng nhằm “thiết kế” hình ảnh thân thiện, tế, quá trình sử dụng “chiến pháp dư luận” có trách nhiệm trong quan hệ quốc tế, từ đó trong sức mạnh mềm văn hóa đã được gây dựng thiện cảm và từng bước tham gia Trung Quốc tiến hành theo hướng tạo ra các hoạt động truyền tin có ảnh hưởng đến tâm (22) Phạm Thị Hồng Nhung (2011), Truyền thông của lý và hành vi của đối tượng. Bằng cách báo mạng điện tử Trung Quốc với vấn đề xung đột “sàng lọc” tin và phổ biến thông tin đã kiểm Biển Đông từ năm 2011 đến nay, Khóa luận tốt soát thông qua các kênh truyền thông khác nghiệp Khoa Đông Phương, Đại học Khoa học xã nhau, Trung Quốc đã biến truyền thông hội và nhân văn, tr.29 - 31. (23) Timothy A. Walton, Brief on China’s Three thành một kênh tác động đến nhận thức dư Warfares, Delex Special Report-3, 18 January 2012, luận trong và ngoài nước, đặc biệt là đối với các quốc gia láng giềng tại khu vực Đông pdf. (24) Joseph S. Nye Jr. (2008), “Public Diplomacy and Bắc Á, Đông Nam Á, để nhằm gây ảnh Soft Power”, The ANNALS of the American hưởng, lèo lái dư luận quốc tế theo hướng Academy of Political and Social Science, p.616. 94
  9. Các kênh tác động của sức mạnh mềm văn hóa Trung Quốc tái thiết lại “vành đai văn hóa” mới tại khu mộng Trung Hoa”, đồng thời cũng “tô vẽ” vực Đông Á. Đối với hai quốc gia phát đậm hơn hình tượng quốc gia “hòa bình”, triển như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung “hữu nghị” nhằm “xóa nhòa đi những phản Quốc tận dụng triệt để các hoạt động giao ứng gay gắt về mối đe dọa Trung Quốc” lưu văn hóa, giáo dục, các Học viện Khổng đang ngày càng gia tăng tại khu vực. Điều Tử và khả năng truyền bá của kênh truyền này cho thấy, sự lựa chọn nguồn lực và thông vào việc “thiết kế”, “tô đậm” hình phương thức gia tăng sức mạnh mềm của ảnh một cường quốc mới nổi, chủ động Trung Quốc đang ở “tầm thấp” hơn nhưng tham gia vào quá trình hình thành sự thịnh mang tính “thực dụng” và tham vọng hơn vượng kinh tế chung và đa dạng về văn so với học thuyết ban đầu của J.Nye. Tuy hóa trong khu vực. Đối với Việt Nam và nhiên, với cách sử dụng các kênh tác động các quốc gia đang phát triển tại Đông Nam mang tính “hai mặt” như vậy, Trung Quốc Á, cách kết hợp triển khai các kênh tác sẽ có thể gặp nhiều áp lực trong việc hiện động sức mạnh mềm văn hóa của Trung thực hóa tham vọng của sức mạnh mềm văn Quốc khá linh hoạt, uyển chuyển. Quy hóa, nhất là khi họ đang gia tăng các hành trình này được thực hiện lần lượt đối với vi cứng rắn tại khu vực nhằm đẩy mạnh hơn từng quốc gia thông qua hỗ trợ, tài trợ, hợp chiến lược cường quốc biển của mình. tác văn hóa, giáo dục, các hoạt động tuyên truyền văn hóa và lịch sử Trung Quốc, Tài liệu tham khảo giáo dục tư tưởng, đào tạo ngôn ngữ và 1. Hans J. Morgenthaw, Polities a mong Nations: nguồn nhân lực Ngoài ra, việc Trung Quốc The Struggle for and Peace (6 th edition), New tích cực đào tạo lưu học sinh các nước York, Alfred. A.khopf.Inc, 1985, p.95. Đông Nam Á cả về chuyên môn lẫn tư 2. Kurlantzick, J (2006), “China’s Charm: tưởng, học thuật còn hướng tới việc tạo ra Implications of Chinese Soft Power”, Carnegie các thế hệ người dân có sự gắn bó, thiện Endowment for International Peace: Policy Brief 47, cảm với Trung Quốc, từ đó hình thành nên June. một kênh tác động có khả năng đẩy nhanh 3. Yonhap New Agency, Chinese Students Rides hơn tiến trình thẩm thấu sức mạnh mềm Korean Waves to S.Korea, văn hóa Trung Quốc vào đời sống khu vực. n_feature/2010/09/15/22/4901000000AEN2010091500940 Ở một khía cạnh khác, sức mạnh mềm văn 0315F.htm. hóa Trung Quốc còn được thể hiện qua 4. 新良,文化外交与中国的软实力:一种全球 việc các nhà hoạch định chính sách sử 化的视角,外语教学与研究出版社,北京,2008年. dụng truyền thông như một thứ “chiến 5. 谭笑,刘炳香, 中美在东南亚地区的“软实力” pháp tâm lí”, “chiến pháp dư luận” nhằm 比较, 东南亚纵横, 10 - 2010. bảo vệ lợi ích cốt lõi của họ khi xảy ra 6. Wu Huaitang and Zuo Junzhan (eds), The xung đột với các quốc gia trong khu vực. Practical Knowledge of PsychologicalWarfare Như vậy, Trung Quốc đã sử dụng các (心理战实用知识) (Beijing: Junshi Kexue 2006). ngoại giao văn hóa, truyền thông như một 7. 東京の「中国映画週間」,【社会ニュース】 công cụ mang tính “hai mặt” nhằm thể hiện 2011/11/14(月) 12:07 . quyết đoán hơn tham vọng trở thành cường 8. 2012中国-东盟合作, quốc văn hóa vốn là một phần khôngthể org.cn/chn/dmgx/t991226.htm. thiếu trên con đường hiện thực hóa “giấc 9. 95
  10. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 8(93) - 2015 du-hoc-sinh-qua-cac-nuoc. 96