Chỉ số chất lượng môi trường (EPI) với các mục tiêu xây dựng và phát triển đất nước thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Chỉ số chất lượng môi trường (EPI) với các mục tiêu xây dựng và phát triển đất nước thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- chi_so_chat_luong_moi_truong_epi_voi_cac_muc_tieu_xay_dung_v.pdf
Nội dung text: Chỉ số chất lượng môi trường (EPI) với các mục tiêu xây dựng và phát triển đất nước thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại
- CHỈ SỐ CHẤT LƯỢNG MÔI TRƯỜNG (EPI) VỚI CÁC MỤC TIÊU XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC THÀNH NƯỚC CÔNG NGHIỆP THEO HƯỚNG HIỆN ĐẠI PGS.TS. Đinh Đức Trường5 Trường Đại học Kinh tế quốc dân I. Mở đầu Quá trình Đổi mới tại Việt Nam (1986) đã mang lại nhiều thành tựu về phát triển kinh tế -xã hội cho đất nước. Từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu với 90% dân số làm nông nghiệp, Việt Nam đã xây dựng được cơ sở vật chất-kỹ thuật, hạ tầng kinh tế-xã hội từng bước đáp ứng cho sự nghiệp công nghiệp hóa (CNH), hiện đại hóa, tạo ra môi trường thu hút nguồn lực xã hội cho phát triển. Trong giai đoạn 1993-2015, tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm đạt 6%, tỷ lệ đói nghèo đã giảm từ 60% xuống 7%. Nền kinh tế Việt Nam cũng ngày càng hội nhập sâu rộng với kinh tế thế giới, đặc biệt sau khi trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) năm 2006 (Tổng Cục thống kê 2018). Tuy nhiên, mặt trái của sự phát triển là ô nhiễm môi trường ngày càng trở nên trầm trọng hơn. Việt Nam cũng là một trong 5 quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của biến đổi khí hậu (BĐKH) (World Bank 2010). Thiệt hại kinh tế do ô nhiễm môi trường được ước tính khoảng 5% GDP và do BĐKH khoảng 1.5-1.8% GDP (World Bank 2010, Trần Thọ Đạt 2012). Ngoài ra, tài nguyên thiên nhiên cũng đang bị cạn kiệt nhanh chóng do quá trình khai thác ‘vô tội vạ’ phục vụ cho tăng trưởng kinh tế. Những vấn đề tài nguyên- môi trường và BĐKH đã trở thành mối đe dọa lớn với sự phát triển bền vững của đất nước trong thế kỷ 21. Quản lý môi trường hướng tới sự phát triển bền vững (PTBV) đã trở thành xu hướng mà mọi quốc gia, vùng và khu vực muốn hướng tới. Đối với sự bền vững trong lĩnh vực môi trường, các nhà quản lý cần có các công cụ để giúp họ xác định vấn đề, theo dõi xu hướng, đặt ra mục tiêu ưu tiên, đầu tư, đánh giá chương trình và mức độ cải thiện chất lượng môi trường. Chỉ số bền vững môi trường (ESI) là một trong những công cụ góp phần thực hiện điều đó. Chức năng quan trọng nhất của ESI là một giúp xác định các vấn đề đáng được quan tâm và cải thiện hơn nữa trong các chương trình bảo vệ môi trường quốc gia để hoạch định các chính sách quản lý hướng tới sự PTBV. Ngoài ra ESI cũng là một công cụ giúp đạt được các mục tiêu chính sách trên phạm vi toàn cầu về môi trường và phát triển như Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (MDGs) (Tổng cục thống kê 2013). 5 truongdd@neu.edu.vn 132
- Bài viết này có mục tiêu chủ yếu là giới thiệu về chỉ số bền vững môi trường, thực trạng và xu hướng thay đổi ESI tại Việt Nam cũng như những gợi ý chính sách để cải thiện ESI trong thời gian tới. Ngoài phần mở đầu và kết luận, phần 2 sẽ giới thiệu tổng quan về ESI và chỉ số thay thế của ESI gần đây là EPI (chỉ số hiệu quả môi trường). Phần 3 sẽ phân tích về thực trạng EPI tại Việt Nam cùng các xu hướng chi phối EPI, nhấn mạnh vào các xu hướng phát triển kinh tế và công nghiệp hóa. Phần 4 sẽ đưa ra một số hàm ý để góp phần cải thiện các chỉ số bền vững môi trường trong bối cảnh CNH và hội nhập kinh tế. II. Chỉ số bền vững môi trường ESI và hiệu quả môi trường EPI – thực trạng của Việt Nam Bộ chỉ số bền vững môi trường (Environmental Sustainability Index - ESI) được Trung tâm Chính sách và Luật Môi trường Yale (YCELP) và Trung tâm Mạng lưới Thông tin Khoa học Trái đất Quốc tế (CIESIN) tại Đại học Columbia xây dựng và đề xuất vào năm 2000. ESI là nỗ lực đầu tiên để sắp xếp các nước theo 76 tiêu chí khác nhau về bền vững môi trường, bao gồm nguồn tài nguyên thiên nhiên, mức độ ô nhiễm trong quá khứ và hiện tại, những nỗ lực quản lý môi trường, mức độ đóng góp vào việc bảo vệ các cộng đồng trên toàn cầu, và khả năng của xã hội để cải thiện hoạt động môi trường theo thời gian (Tổng cục Thống kê 2013, YCELP 2012). ESI được coi là một công cụ sử dụng để đánh giá hiệu quả công tác BVMT, sự hài hòa giữa phát triển kinh tế và BVMT của một quốc gia. ESI lần đầu tiên được đưa ra trong Diễn đàn Kinh tế thế giới, tổ chức tại Davos, Thụy Sỹ, tháng 1/2005, giúp xác định tính chất bền vững môi trường của 146 quốc gia. Tuy nhiên, ESI có một số nhược điểm gồm: (i) ESI kết hợp 76 yếu tố của môi trường, kể cả tài nguyên thiên nhiên, ô nhiễm, quản trị môi trường, đóng góp bảo vệ môi trường toàn cầu, khả năng cải thiện môi trường. Vì bao gồm quá nhiều yếu tố, công thức ESI trở nên không thực tiễn để hướng dẫn thiết thực việc hoạch định chính sách cho quốc gia. (ii) Phương pháp tích hợp chỉ số ESI chỉ là tính toán trung bình cộng giá trị của các thông số chỉ thị, nghĩa là mức độ đóng góp của từng nhóm chủ đề vào điểm số ESI là ngang nhau, không tính trọng số. Do đó khi tính cho từng quốc gia phải tính trọng số từng vấn đề (iii) Chỉ số này rất khó đo lượng lượng hóa tại các quốc gia đang phát triển như Việt Nam do không có hướng dẫn kỹ thuật về cách đo lường và tính toán các chỉ thị cụ thể như quản trị môi trường hay sự tham gia của xã hội trong bảo vệ môi trường. Để giải quyết thách thức này, năm 2006, YCELP đã chuyển sang thay thế ESI bằng chỉ số Hiệu quả môi trường (Environmental Performance Index - EPI). Hiện nay thế giới không còn sử dụng ESI nữa mà chuyển sang EPI. 133
- EPI được xây dựng trên cơ sở kế thừa kết quả của ESI, là một nỗ lực để cụ thể hóa hơn khái niệm “bền vững” vốn còn trừu tượng khi được đưa ra trong ESI. EPI cũng được xây dựng để đánh giá hoạt động môi trường hiện tại ở các quốc gia trên thế giới, trong phạm vi bền vững. EPI gồm nhiều chỉ số thành phần và chia thành hai chủ đề lớn. Nhóm thứ nhất để đo những nỗ lực giảm áp lực lên môi trường về sức khỏe con người, được gọi là nhóm chỉ số Sức khỏe môi trường (Environmental Health). Nhóm thứ hai đo việc giảm những mất mát hay suy giảm hệ sinh thái và nguồn tài nguyên thiên nhiên, được đưa vào nhóm chỉ số Tính bền vững hệ sinh thái (Ecosystem Vitality). Các chỉ tiêu được lựa chọn trên cơ sở xem xét, rà soát kỹ lưỡng những nghiên cứu về chính sách môi trường, những đồng thuận về chính sách qua các đối thoại về MDGs, và từ tham vấn các chuyên gia. Những chỉ tiêu này cũng thể hiện một phạm vi các vấn đề môi trường ưu tiên, có định lượng và đo lường được trên các nguồn số liệu hiện có. ESI được coi là "tiền thân" của EPI được bắt đầu sử dụng từ năm 2006. EPI được dùng để đánh giá hiệu quả hoạt động BVMT của một quốc gia. Cho đến tháng 1 năm 2012, 04 báo cáo EPI đã được phát hành - Chỉ số Hiệu quả Môi trường Thí điểm 2006, và Chỉ số hiệu quả Môi trường 2008, 2010, và 2012. Năm 2012, YCELP tiếp tục công bố báo cáo EPI tại Diễn đàn Kinh tế thế giới nhằm mục đích xếp hạng (EPI rank) và đánh giá xu hướng (Trend EPI rank) về hiệu quả hoạt động BVMT cho 132 quốc gia, cho phép xác định các quốc gia nào đang cải thiện và quốc gia nào đang suy giảm. Bảng 2.1: EPI và các chỉ số thành phần của Việt Nam năm 2012 Cấp độ tổng hợp Điểm Thứ hạng Chỉ số hiệu quả môi trường EPI 50,6 79 Sức khỏe môi trường 51,6 91 Không khí (tác động đến sức khỏe con người) 31 123 Sự liên quan của môi trường đến bệnh tật 66,4 77 Nước (tác động đến sức khỏe con người) 42,5 80 Tính bền vững của hệ sinh thái 50,2 62 Nông nghiệp 47,8 80 Không khí (tác động đến hệ sinh thái) 43,8 55 Đa dạng sinh học và môi trường sống 54,1 77 Biến đổi khí hậu 56,5 49 Ngư nghiệp 19,4 82 Rừng 81,4 65 Tài nguyên nước (tác động đến hệ sinh thái) 37,8 47 Nguồn: Yale Center for Environmental Law and Policy (2012) 134
- EPI năm 2012 được tính toán dựa trên 10 nhóm chỉ thị với 22 chỉ tiêu cụ thể. Các nhà nghiên cứu đã chia 10 nhóm chỉ thị nói trên thành 2 nhóm đối tượng: Sức khỏe môi trường (gồm 3 nhóm chỉ thị) và Tính bền vững hệ sinh thái (gồm 7 nhóm chỉ thị) (Institute For Health Metrics And Evaluation 2017) Theo báo cáo xếp hạng EPI của Yale, Việt Nam có EPI năm 2012 là 50.6 điểm xếp thứ 79/132 quốc gia được xếp hạng, thuộc nhóm nước có năng lực quản lý môi trường trung bình và tương đương với các quốc gia đang phát triển trên thế giới như Chi Lê, Indonesia, Myanmar, Cambodia, Peru Mexico, Venezuela, Honduras và UAE (phân loại theo 5 mức: năng lực rất tốt, năng lực tốt, lăng lực trung bình, năng lực kém và năng lực rất kém). Ngoài ra, xếp hạng xu hướng cải thiện năng lực quản lý môi trường, Việt Nam đạt 4.2 điểm và xếp hạng 73/132 quốc gia, thuộc nhóm các quốc gia có những cải thiện nhỏ về năng lực (phân loại theo 5 mức: cải thiện rất tốt, cải thiện tốt, cải thiện nhỏ, suy giảm tương đối, suy giảm rất nhiều) (YCELP 2012). Trong các chỉ số thành phần, nhóm chỉ thị về chất lượng không khí ảnh hưởng đến sức khỏe: Việt Nam xếp vào nhóm 10 nước ô nhiễm nhất (hạng 123/132), tương đương với một số quốc gia châu Á như Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan, Nêpan và Bangladesh. Hình 2.1: Xu hướng thay đổi EPI của Việt Nam trong giai đoạn 2004-2016 so với mặt bằng chung của thế giới Nguồn: Climate Position (2016) Hình 2.2 cho thấy trong khu vực ASEAN Việt Nam hiện xếp thứ 7/11 quốc gia, cùng nhóm với Thái Lan, Indonesia, Đông Timo và Myanmar. Xếp hạng cao nhất trong khu vực là Sigapore (hạng 49) và thấp nhất là Lào (hạng 153). Các quốc gia Châu Âu và Scandinavia chiếm các vị trí cao nhất trên bảng xếp hạng: Thụy Sỹ hạng nhất, sau đó đến Pháp (hạng 2), Đan Mạch (hạng 3), Manta (hạng 4), Thụy Điển (hạng 5). 135
- Hình 2.2: Xếp hạng EPI các quốc gia ASEAN và top 10 quốc gia cao nhất thế giới 2018 Nguồn: Department of Science and Technology, Repulic of Philippines (2018) Bảng 2.2: EPI và xếp hạng một số quốc gia OECD, NICs và lân cận Việt Nam GPP/người theo PPP Xếp hạng EPI EPI (2018) 2017 (USD) 2018 Các quốc gia OECD Hoa Kỳ 59.495 71.19 27 Canada 48.141 72.18 25 Đức 50.206 78.37 13 Pháp 43.550 83.95 2 Anh 43.620 79.89 6 Nhật Bản 42.695 74.699 20 Hàn Quốc 39.387 62.30 60 Italia 37.970 76.96 16 Các quốc gia công nghiệp mới (NICs) Brazil 15.500 60.70 69 Mexico 19.480 59.69 72 Malaysia 28.871 59.22 75 Nam Phi 13.403 44.73 142 Ấn Độ 7.174 30.57 177 136
- GPP/người theo PPP Xếp hạng EPI EPI (2018) 2017 (USD) 2018 Một số quốc gia khác Trung Quốc 16.624 50.74 120 Thái Lan 17.786 49.88 121 Indonesia 12.378 46.92 133 Singapore 90.531 64.23 49 Việt Nam 6.876 46.96 132 Nguồn: IMF (2017) và YCPC(2018) Về cơ bản, EPI của Việt Nam nằm ở dưới mức trung bình của thế giới, trong đó xu hướng xếp hạng ngày càng đi xuống. Nếu như năm 2102 Việt Nam xếp thứ 79/132 thì năm 2016 tụt xuống thứ 131/178 và 2018 xếp thứ 132/180 quốc gia. Trong đó, năm 2018, chỉ số sức khỏe môi trường Việt Nam xếp thứ 129/180 và chỉ số sức khỏe hệ sinh thái xếp thứ 124/180 quốc gia. Về điểm, Việt Nam đạt 46.96 điểm EPI năm 2018 so với 50.6 năm 2012. Như vậy, EPI cho thấy Việt Nam ngày càng tụt hậu về môi trường so với chính mình và so với các quốc gia khác trên thế giới. III. Chỉ số EPI với quá trình công nghiệp hóa và phát triển kinh tế tại Việt Nam Cho đến nay, đã có nhiều nghiên cứu chỉ ra mối quan hệ ngược chiều có ý nghĩa giữa tăng trưởng kinh tế và sự suy giảm tài nguyên và môi trường ở Việt Nam, và rằng mức độ suy giảm ngày càng trầm trọng hơn. Bài viết này phân tích và lý giải về xu hướng suy giảm của chỉ số EPI từ góc độ công nghiệp hóa và phát triển kinh tế của đất nước. 1. Mô hình tăng trưởng phụ thuộc vào tài nguyên thiên và gây ô nhiễm môi trường Lý thuyết và các bằng chứng thực nghiệm cho thấy có 4 nhân tố căn bản của tăng trưởng kinh tế (nhân tố tăng năng suất) gồm vốn vật chất, vốn con người, tài nguyên thiên nhiên và khoa học công nghệ. Các quốc gia khác nhau sẽ có sự lựa chọn chiến lược khác nhau việc sử dụng các nhóm nhân tố tăng năng suất. 137
- Hình 3.1: Các giai đoạn công nghiệp hóa của các quốc gia Nguồn: Kenichi Ohno (2009) Trong một thời gian dài, nếu nhìn vào cấu trúc kinh tế, có thể thấy việc thác tài nguyên chiếm một tỷ trọng rất lớn trong nguồn thu ngân sách và góp phần tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam. Nói cách khác, nền kinh tế Việt Nam thâm dụng tài nguyên thiên nhiên (natural resource intensive economy). Thực ra, việc khai thác tài nguyên để tăng trưởng không có gì lạ trên thế giới; nhiều quốc gia đã dựa vào tài nguyên để tạo ra đòn bẩy tăng trưởng trong những giai đoạn đầu của công nghiệp hóa, với họ tài nguyên thiên nhiên là nguồn lực tạo ra sự kích thích tăng trưởng ban đầu và tích lũy vốn để tái đầu tư cho những nguồn lực tăng trưởng khác (công nghệ, vốn con người). Tuy nhiên, Việt Nam lại coi khai thác tài nguyên là một phương thức để tăng trưởng chủ đạo trong khi quá chậm trong chuyển sang các bước cao hơn trong các giai đoạn của quá trình CNH. Mô hình tăng trưởng dựa vào khai thác tài nguyên của Việt Nam hiện quá lạc hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Cụ thể, các nước ASEAN như Indonesia, Thái Lan và Malaysia đã chuyển sang giai đoạn phát triển công nghiệp phụ trợ, làm chủ một phần công nghệ, có sự hướng dẫn của nước ngoài, Trung Quốc thậm chí đã nắm vững và quản lý công nghệ, sản xuất các hàng hóa với chất lượng cao như 138
- xe hơi, điện thoại, công nghệ ICT, năng lượng tái tạo thì Việt Nam vẫn loay hoay với các ngành khai khoáng, công nghiệp chế tạo giản đơn dưới sự hướng dẫn của nước ngoài. Mô hình này chỉ hơn các nước nghèo ở Châu Phi với sản xuất nông nghiệp đơn giản và phụ thuộc vào viện trợ của nước ngoài. Hình 3.2: Giá trị khai thác dầu và xuất khẩu dầu thô so với thu ngân sách Nguồn: Tổng cục Hải quan (2014) Theo các số liệu của GSO (2017), khai thác và xuất khẩu tài nguyên thiên nhiên chiếm khoảng 15%-18% GDP của Việt Nam. Cũng theo kết quả nghiên cứu VCCI, ở nước ta có hơn 60 loại khoáng sản tại hơn 5.000 mỏ, điểm quặng. Ngành khai khoáng đóng góp từ 10% đến 11% vào GDP trong khoảng một thập kỷ nay. Doanh thu từ xuất khẩu khoáng sản trong năm 2012 đạt khoảng 12 tỉ USD, trong đó từ dầu thô đạt 10 tỉ USD, chiếm khoảng một phần tư tổng thu ngân sách nhà nước, riêng năm 2006 xuất khẩu dầu thô chiếm 20% tổng thu ngân sách. Việc khai thác và sử dụng tài nguyên của Việt Nam cũng rất lãng phí, mang lại hiệu quả kinh tế thấp. Theo Trần Đình Thiên (2012), Việt Nam sử dụng các nguồn lực hiện đại (vốn lớn, công nghệ hiện đại, thị trường toàn cầu) để tăng tốc khai thác tài nguyên, đẩy mô hình khai thác tài nguyên (đẳng cấp phát triển thấp nhất) đến đỉnh cao của chính nó nhờ các công cụ hiện đại. Nhờ đó, trạng thái “tận khai”, “cạn kiệt” đến nhanh hơn, tốc độ suy thoái môi trường được đẩy lên cao, chi phí môi trường lớn và phát triển trở nên kém bền vững rất nhanh. 139
- Hình 3.3: Cường độ tiêu thụ điện-GDP một số quốc gia Nguồn: UNESCAP (2012) Hiện nay nước ta là một trong những quốc gia có cường độ tiêu thụ năng lượng cao nhất thế giới (năng lượng cần thiết tiêu thụ để tạo ra một đơn vị GDP). So sánh với 10 nước (Nhật Bản, Mỹ, Singapore, Hàn Quốc, Philippines, Malaysia, Indonesia, Thái Lan, Trung Quốc và Việt Nam), Việt Nam đứng cao nhất. Việt Nam chỉ thấp hơn Trung Quốc và cao gấp sáu lần so với Nhật Bản, Mỹ (bốn lần), Singapore (3,5 lần), Hàn Quốc (2,6 lần), Philippines (hai lần), Malaysia (1,6 lần) Điều này cho thấy một khoảng cách khá xa về trình độ khoa học kỹ thuật, hiện trạng công nghệ áp dụng cho sản xuất của Việt Nam so với nhiều nước phát triển và đang phát triển. Nguy hiểm hơn đó là xu hướng đầu tư và phát triển những ngành công nghiệp khai thác nhiều tài nguyên, tiêu dung năng lượng lớn nhưng lại không mang lại hiệu quả kinh tế cao cho đất nước. Việc sử dụng quá nhiều các dạng năng lượng và nguyên liệu hóa thạch của nền kinh tế đã làm cho lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính tăng khá nhanh. Năm 1985 lượng khí CO2 thải ra đạt 0,3595 tấn/người thì đến năm 2010 đã lên đến 1,7281 tấn/người. Trung bình trong giai đoạn này mỗi người dân thải ra 0,74 tấn CO2. Nếu xem xét giá trị sản xuất của nền kinh tế tạo ra tính cho một đơn vị chất CO2 thải ra thì con số này cũng đã có sự biến động đáng kể. Năm 1990 để tạo ra 1 USD (theo sức mua tương đương năm 2005) nền kinh tế thải ra 0,3335 kg CO2, thì đến năm 2010 đạt 0,3928 kg CO2. Diễn biến về lượng thải CO2/người và CO2/GDP được trình bày trong Hình 3.4 (Phạm Hồng Mạnh 2014). 140
- Hình 3.4: Phát thải CO2 và mức CO2 trên một đơn vị GDP Nguồn: Phạm Hồng Mạnh (2014) 2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và ô nhiễm môi trường sinh thái Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trụ cột tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Sau 30 năm Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài ra đời, Việt Nam đã thu hút được hơn 23.000 dự án FDI với tổng vốn đăng ký trên 300 tỷ USD, trong đó, số vốn thực hiện nước đạt khoảng 161 tỷ USD. Trong 3 thập niên qua, FDI đã góp phần bổ sung nguồn vốn đầu tư phát triển, giải quyết việc làm, tăng thu ngân sách, thúc đẩy chuyển giao công nghệ và tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam. Đáng chú ý, hiện khu vực FDI chiếm đến 72% kim ngạch xuất khẩu và tạo việc làm cho 2 triệu lao động, đóng góp vào 40% tăng GDP (NEU 2016). Tuy nhiên, mặt trái của FDI là ô nhiễm và suy thoái môi trường. Mối quan hệ giữa FDI và môi trường được thể hiện qua “Định đề thiên đường ô nhiễm” (Pollution Haven Hypothesis) được phát triển từ thập niên 1980. Theo đó, các quốc gia công nghiệp hóa sẽ thành lập các công ty, nhà máy, trụ sở tại các nước đang phát triển để tận dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên giá rẻ cùng các qui định kém chặt chẽ hơn về môi trường để cắt giảm chi phí so với chi phí tương ứng tại nước mẹ. Từ đó, dòng đầu tư có xu hướng chuyển dịch từ các quốc gia có tiêu chuẩn môi trường khắt khe sang các quốc gia có tiêu chuẩn và hệ thống giám sát lỏng lẻo hơn (enforcement). 141
- Các quốc gia công nghiệp phát triển Các quốc gia chậm phát triển Tiêu chuẩn và chi phí môi trường cao Dịch chuyển ô nhiễm Chênh lệch chi phí Tiêu chuẩn và chi phí môi trường thấp Hình 3.5: Mô phỏng sự chuyển dịch vốn đầu tư theo định đề thiên đường ô nhiễm Nguồn: Trường Đại học Kinh tế quốc dân (2016) Các bằng chứng thực nghiệm đã đã chứng minh định đề này đúng tại Việt Nam, khi FDI tăng lên thì chất lượng môi trường giảm xuống. Nghiên cứu của Trường ĐHKTQD (2016) đã cho thấy có sự gia tăng đáng kể chất gây ô nhiễm cùng với sự gia tăng của FDI tại Việt Nam, cụ thể khi FDI tăng lên 1% thì lượng khí thải ô nhiễm tăng 2.7%, nước thải tăng 1.6% và năng lượng tiêu thụ tăng 1.5%. Cũng theo nghiên cứu này, có tới 70% doanh nghiệp FDI cho biết đầu tư vào Việt Nam sẽ tiết kiệm chi phí về môi trường so với chính quốc. Thông thường, tại các nước này chi phí xử lý nước thải các ngành dệt nhuộm, sắt thép, giấy, bột ngọt là rất lớn, việc quản lý, giám sát xả thải rất khó, đòi hỏi trình độ kỹ thuật cao. Vì thế, khi đầu tư tại Việt Nam sẽ tiết kiệm chi phí 30-50% so với tại nước mẹ. Nhiều địa phương do chạy theo thành tích thu hút FDI nhưng hiệu quả kinh tế thấp, gây ô nhiễm nghiêm trọng, không bền vững. Đáng nói, đến năm 2013, chỉ có 5% doanh nghiệp FDI đầu tư vào Việt Nam có công nghệ cao, 80% có công nghệ trung bình, còn lại 14% là sử dụng công nghệ thấp. Điều này hoàn toàn trái ngược kỳ vọng cũng như tuyên bố đưa các công nghệ, ứng dụng tiên tiến vào sản xuất tại Việt Nam. Hiện có đến 80% khu công nghiệp vi phạm các quy định về môi trường; 70% doanh nghiệp FDI xả thải vượt quy chuẩn, 23% trong số đó xả chất thải vượt quy chuẩn cho phép 5-12 lần (Bộ Tài nguyên Môi trường 2015). Điển hình năm 2008, Công ty Vedan Việt Nam xả thải, gây ô nhiễm trên sông Thị Vải (Đồng Nai). Với việc xả chui 100.000m³ nước thải độc ra sông mỗi tháng, bán kính ô nhiễm rộng tới 10km dọc bờ sông Thị Vải, Vedan đã làm thiệt hại gần 2.700ha nuôi trồng thủy sản của Đồng Nai, TP.HCM và Bà Rịa – Vũng Tàu. Mới đây nhất, Công ty TNHH Gang thép Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh thuộc Đài Loan đã xả thải hủy hoại nghiêm trọng môi trường biển 4 tỉnh miền Trung (Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên 142
- – Huế). Theo đánh giá của Bộ Tài nguyên và Môi trường, sự cố môi trường do Formosa gây ra đã gây thiệt hại nặng nề về kinh tế, xã hội và môi trưởng; trong đó chịu ảnh hưởng nặng nhất là ngành thủy sản, tiếp đến là hoạt động kinh doanh, dịch vụ, du lịch và đời sống sinh hoạt của ngư dân. Công ty Formosa đã nhận trách nhiệm, xin lỗi Chính phủ, nhân dân và bồi thường 500 triệu USD. Bên cạnh đó, còn nhiều doanh nghiệp FDI liệt kê vào danh sách đen các cơ sở gây ô nhiễm môi trường như: công ty TNHH Huyndai- Vinasin (Khánh Hoà); công ty TNHH Miwon Việt Nam; công ty Tung Kuang; công ty TNHH Mei SHeng Textiles Việt Nam (Trung Quốc), Công ty Chia Chen (Ninh Bình) Việt Nam muốn thu hút các dòng FDI sạch để cải thiện chất lượng môi trường và tăng tính bền vững của FDI, nhưng hiện tại rất khó khăn vì không có công nghiệp phụ trợ. Công nghiệp phụ trợ có 3 cấp: cấp cao nhất là đòi hỏi trình độ công nghệ cao, thường nằm ở các tập đoàn lớn, có trung tâm R&D (nghiên cứu và phát triển), ở cấp độ này rất khó để Việt Nam tham gia. Cấp thứ hai là cuộc chơi giữa các doanh nghiệp với công nghệ đã được hình thành bởi các doanh nghiệp FDI, doanh nghiệp Việt Nam cũng không tham gia nổi vì không có vốn và công nghệ. Cấp thứ ba, cũng là cấp thấp nhất không ảnh hưởng gì đến sản phẩm của doanh nghiệp mà chỉ cần cung cấp nhanh và rẻ, nhưng doanh nghiệp Việt Nam cũng không thể cạnh tranh được ở phân khúc này với doanh nghiệp Trung Quốc. Như vậy, cả 3 cấp công nghiệp phụ trợ, Việt Nam đều đứng ngoài do thiếu vốn, thiếu công nghệ, điều này cho thấy sự bế tắc của các doanh nghiệp Việt Nam với bài toán con gà – quả trứng điển hình. Các doanh nghiệp FDI đều nói rằng muốn hỗ trợ nhưng doanh nghiệp Việt Nam không đáp ứng được yêu cầu, trong khi doanh nghiệp Việt Nam lại không dám đầu tư khi không có vốn, không có công nghệ và quan trọng là không biết sản phẩm làm ra sẽ cung cấp dự án FDI nào (Đinh Đức Trường 2015). 3. Đô thị hóa và ô nhiễm môi trường, suy giảm rừng và đa dạng sinh học Việt Nam là một trong những quốc gia có tốc độ đô thị hóa nhanh nhất ở Châu Á. Theo thống kê, đến tháng 12/2016, cả nước có 795 đô thị với tỉ lệ đô thị hóa đạt 35,2%. Trong đó, có 2 đô thị đặc biệt là Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, 17 đô thị loại I, 25 đô thị loại II, 41 đô thị loại III, 84 đô thị loại IV và 626 đô thị loại V. Với tốc độ đô thị hóa 3.2%/năm, dự kiến đến năm 2030 Việt Nam sẽ đạt mức đô thị hóa 60% (tương đương với Hàn Quốc) (Văn Hữu Tập 2015). Khu vực đô thị là nơi dân cư tập trung, các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội (KT - XH) diễn ra mạnh mẽ. Cùng với sự phát triển của KT - XH, các đô thị nước ta đã có sự thay đổi rõ rệt về số lượng, quy mô và chất lượng đô thị. Đặc biệt, 2 TP lớn là Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh có tốc độ phát triển rất nhanh và chi phối sự phát triển đô thị cả nước. Quá trình đô thị hóa nhanh chóng đã dẫn đến nhiều hệ quả, trong đó chất lượng môi trường đô thị bị ảnh hưởng khá lớn, tồn tại một số vấn đề môi trường bức xúc mà nguyên nhân chủ yếu là do cơ sở hạ tầng đô thị chưa theo kịp tốc độ đô thị hóa. 143
- Ô nhiễm không khí, nước thải và làng nghề Hầu hết các đô thị lớn của nước ta đang phải đối mặt với tình trạng ô nhiễm không khí ngày càng gia tăng, tập trung chủ yếu là ô nhiễm bụi. Mức độ ô nhiễm giữa các đô thị có sự khác biệt, phụ thuộc vào quy mô đô thị, mật độ dân số, đặc biệt là mật độ giao thông và tốc độ xây dựng. Mức độ ô nhiễm biểu hiện rõ nhất ở 2 đô thị đặc biệt là Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, tiếp đến là các đô thị loại I. Nhóm các đô thị còn lại có mức độ ô nhiễm thấp hơn (Hoàng Dương Tùng 2014). Ô nhiễm bụi tại các đô thị cũng tập trung chủ yếu ở các nút, trục giao thông, nơi có lưu lượng phương tiện lớn hoặc khu vực có hoạt động công nghiệp. Trong giai đoạn vừa qua, môi trường không khí đô thị còn chịu tác động bởi hoạt hoạt động cải tạo, xây dựng mới các tuyến quốc lộ, hệ thống đường giao thông nội thành, nội thị, việc xây dựng mới hàng loại các khu đô thị Các hoạt động này đã phát tán một lượng bụi lớn vào môi trường, gây ô nhiễm nhiều khu vực lân cận. Tại các khu vực nội thành, nội thị các đô thị lớn như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, số ngày trong năm có nồng độ bụi PM10, PM2,5 vượt ngưỡng giới hạn cho phép của QCVN 05:2013/BTNMT chiếm tỷ lệ hơn 20% tổng số ngày trong năm. Đối với các đô thị khu vực miền Bắc, số ngày có nồng độ bụi cao thường tập trung vào các tháng mùa đông. Trong đó, thành phần bụi mịn (PM2,5) chiếm tỷ trọng tương đối cao. Theo nghiên cứu, các hạt bụi này thường mang tính axit, tồn tại lâu trong khí quyển, khả năng phát tán xa và đi sâu vào phổi, gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người. Hình 3.6: Diễn biến nồng độ TSP trong không khí xung quanh tại một số khu dân cư trên toàn quốc giai đoạn 2008 – 2014 Nguồn: Văn Hữu Tập (2015) 144
- Tuy có những điều chỉnh liên tục nhưng thực tế tốc độ phát triển các phương tiện giao thông vẫn vượt xa dự báo, nếu năm 2011 theo thống kê của Cục đăng kiểm Việt Nam số lượng ô tô 1,428 triệu chiếc, mô tô xe máy 33,9 triệu chiếc. thì tính đến hết năm 2014, theo số liệu từ của Bộ Giao thông Vận tải, Việt Nam hiện còn lưu hành gần 40 triệu mô tô, xe máy vượt xa mức dự kiến vào năm 2020 (36 triệu), số lượng ô tô gần 2 triệu chiếc. Với đà tăng trưởng như hiện nay, dự báo đến năm 2020 số xe máy sẽ tăng thêm 13 triệu chiếc, sản lượng tiêu thụ ô tô năm 2020 sẽ đạt 300.000 chiếc, như vậy đến 2020 số lượng ô tô và xe máy đều sẽ vượt xa số dự báo. Theo các chuyên gia của ANZ Việt Nam có sức tiêu thụ xăng dầu tăng mạnh nhất khu vực, giai đoạn từ 1994 đến 2015. Cũng trong giai đoạn trên, mức độ tiêu thụ xăng dầu ở Việt Nam tăng 7,5% năm, với giả định tốc độ tăng từ nay đến năm 2020 cũng là 7,5% thì đến 2020 Việt Nam sẽ tiêu thụ khoảng hơn 23,5 triệu tấn m3/tấn, khi đó ước thải lượng chất ô nhiễm do hoạt động giao thông vận tải năm 2020 (Văn Hữu Tập 2015). Theo báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường, có đến 70% các dòng sông đang phải đối mặt với tình trạng ô nhiễm, trong đó bị ô nhiễm nặng nề nhất là hệ thống sông Cầu, sông Nhuệ - Đáy và sông Đồng Nai. Những con sông này đã trở nên hôi thối, nguồn thủy sản bị hủy hoại và ảnh hưởng trực tiếp tới môi trường sống và sức khỏe của cộng đồng. Hệ thống sông Tiền, sông Hậu ở Tây Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long cũng đang bị ô nhiễm nặng do ảnh hưởng của khoảng 2 triệu tấn phân hóa học và gần 500.000 tấn thuốc bảo vệ thực vật. Hiện cả nước có khoảng 1.450 làng nghề, phân bố ở 58 tỉnh, thành và tập trung đông đúc nhất là ở khu vực đồng bằng sông Hồng, trong đó tại các làng nghề có quy mô nhỏ, trình độ sản xuất thấp, thiết bị cũ và công nghệ lạc hậu chiếm phần lớn (trên 70%) đã và đang nảy sinh nhiều vấn đề, tác động xấu tới chất lượng môi trường đất, nước, không khí và sức khỏe của người dân làng nghề. Suy giảm đa dạng sinh học, tài nguyên rừng Với vị trí địa lý đặc thù, Việt Nam là một trong những trung tâm trên thế giới có các hệ sinh thái tự nhiên phong phú và đa dạng, đặc biệt là hệ sinh thái rừng tự nhiên trên cạn, đất ngập nước, đồi núi đá vôi, đất khô, cùng các hệ sinh thái tự nhiên dọc theo bờ biển và các hải đảo. Tuy nhiên, hơn 2.000 cơ sở sản xuất và chế biến đồ gỗ, với năng lực sản xuất khoảng 2,5 triệu m3 gỗ mỗi năm, trong đó có khoảng 450 doanh nghiệp tham gia xuất khẩu đồ gỗ, đã làm cho nước ta từ chỗ có nguồn tài nguyên rừng nguyên sinh phong phú đến chỗ diện tích rừng bị mất khá lớn. Số gỗ xuất lậu và buôn bán phi pháp trên thị trường nội địa chẳng những không giảm, mà còn có nguy cơ gia tăng. Với tốc độ tàn phá rừng như hiện nay (trung bình mỗi năm mất đi 200 nghìn héc-ta) thì diện tích rừng trồng mới (chỉ đạt từ 50 nghìn đến 100 nghìn héc-ta mỗi năm) quả là con số bé nhỏ. Nước ta đang đối mặt với nguy cơ không còn rừng trong thế kỷ tới. 145
- Thế giới thừa nhận Việt Nam là một trong những nước có tính đa dạng sinh học vào loại cao nhất. Nhưng các điều tra (đã công bố) ghi nhận, có tới 400 loài động vật và 450 loại thực vật đang bị đe dọa tuyệt chủng. Về các loài bị đe dọa tuyệt chủng, Việt Nam nằm trong nhóm 15 nước hàng đầu đối với thú, nhóm 20 nước hàng đầu đối với chim, nhóm 30 nước hàng đầu đối với lưỡng cư và thực vật (Kiều Nguyễn Việt Hà 2010). IV. Một số hàm ý chính sách góp phần tăng trưởng kinh tế và cải thiện EPI tại Việt Nam trong bối cảnh CNH và hội nhập kinh tế 1. Dự báo diễn biến EPI và mục tiêu EPI tại Việt Nam Dự báo diễn biến EPI Nền kinh tế Việt Nam đang có dấu hiệu phục hồi. Sự phục hồi này bắt nguồn từ một số nhân tố gồm (i) tác động của tổng đầu tư xã hội trong giai đoạn 1998-2010 dẫn tới tăng cường năng lực vật chất, hạ tầng cho nền kinh tế (ii) hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng hơn dẫn tới tăng trưởng thương mại, cán cân thương mại bắt đầu chuyển sang hướng xuất siêu đóng góp vào tăng trưởng (iii) chuyển đổi dần cấu trúc xuất khẩu sang một số mặt hàng có giá trị kinh tế cao hơn như linh kiện và thiết bị điện tử (World Economic Forum 2018). Tuy nhiên, diễn biến môi trường ở Việt Nam sẽ có xu hướng ngày càng đi xuống kéo theo sự suy giảm của EPI, với một số nguyên nhân chủ đạo sau: Thứ nhất, mặt trái của hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam sẽ tiếp tục hấp dẫn FDI nhưng dòng FDI vẫn có xu hướng “bẩn” rơi vào các ngành thâm dụng tài nguyên và tạo ra nhiều chất thải, đặc biệt là những ngành khai khoáng, sắt thép, xi măng, dệt nhuộm, phân bón, hóa chất. Bản thân những ngành có giá trị xuất khẩu cao theo hướng hội nhập hơn như linh kiện điện tử cũng gây ra ô nhiễm lớn (kim loại nặng, khí thải, nước thải, ) Thứ hai, quá trình công nghiệp hóa tại Việt Nam đang diễn ra khá nhanh nhưng xét về cấu trúc, sự tăng trưởng nhanh rơi vào các nhóm ngành có nguy cơ gây ô nhiễm cao như chế biến, chế tạo. Nếu không quản lý thỏa đáng thì công nghiệp hóa sẽ gây ra các thảm họa cho môi trường. Thứ ba, tận khai tài nguyên vẫn là nhân tố góp phần quan trọng trong tăng trưởng và thu ngân sách, trong những năm tới, các nhóm ngành khai thác và xuất khẩu tài nguyên như dầu khí, than đá, lâm sản, thủy sản vẫn giữ vai trò quan trọng trong cấu trúc kinh tế. Thứ tư, trong chuỗi giá trị toàn cầu, Việt Nam vẫn loanh quanh trong mắt xích thấp nhất là chế tạo, gia công mà chưa chuyển sang các mắt xích “sạch” và có giá trị gia tăng cao hơn. Gia công, chế tạo sẽ đi kèm với ô nhiễm. Thứ năm, đầu tư cho bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện vẫn ở mức thấp nhất trong khu vực với tổng chỉ ngân sách chỉ có 1% cho BVMT. Việt Nam cũng vẫn chưa 146
- huy động được những nguồn lực từ xã hội, đặc biệt là khối tư nhân trong các hoạt động BVMT. Mục tiêu EPI tại Việt Nam Hiện nay, các quốc gia trên thế giới được xếp hạng EPI theo 4 nhóm chính là những nước có EPI ở mức cao (top 50), các nước có EPI ở mức trung bình (từ 50- 100), các nước có EPI thấp (100-150) và các nước yếu kém về EPI (từ 150 tới 180). Năm 2018, Việt Nam xếp hạng 132 vê EPI tức là nhóm thấp và gần với yếu kém của thế giới, với xu hướng ngày càng tụt hậu trong bảng xếp hạng. Trong trung và dài hạn, dù cải thiện chất lượng môi trường, rất khó để Việt Nam chen chân vào nhóm top 50 EPI vì nhóm này chủ yếu là những quốc gia có nền kinh tế rất phát triển, có nguồn lực xã hội để đầu tư BVMT. Vì vậy mục tiêu thực tế của Việt Nam là đạt EPI ở mức trung bình khá như các quốc gia NICs tiên tiến. Đó là Brazil (hạng 69), Mexico (hạng 72) và Malaysia (hạng 75) của EPI. Đặc điểm chung của các quốc gia này là có mức GDP/người tính theo PPP trong khoảng từ 15-28 ngàn USD/năm hiện tại. Đây là mức Việt Nam có thể phấn đấu đạt được. Nguồn: MPI và WB (2016) Theo Báo cáo “Việt Nam 2035: Hướng tới Thịnh vượng, Sáng tạo, Công bằng và Dân chủ” của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cùng Ngân hàng Thế giới (2016), nếu duy trì được tốc độ tăng trưởng trung bình 6% trong 20 năm tới thì Việt Nam sẽ đạt thu nhập đầu người theo PPP là 18 ngàn USD năm 2036. Mức này tương đương các quốc gia NICs tiên tiến ở hiện tại. Như vậy, nếu thực thi các giải pháp quản lý kinh tế - môi trường 147
- thỏa đáng, Việt Nam có thể đạt được mức EPI trung bình khá của thế giới vào năm 2035-2040. 2. Thay đổi mô hình phát triển kinh tế theo hướng bền vững Như đã trình bày, mô hình phát triển kinh tế của Việt Nam thâm dụng tài nguyên thiên nhiên, gây ô nhiễm môi trường, chiếm giữ những mắt xích thấp nhất trong chuỗi giá trị sản phẩm toàn cầu. Đây là mô hình lạc hậu, không hiệu quả và không bền vững. Thực tế cho thấy nhiều quốc gia đã gặp phải ‘Lời nguyền tài nguyên’ và không thoát khỏi sự lạc hậu sau khi tài nguyên thiên nhiên dần cạn kiệt, ô nhiễm gia tăng và không có những nguồn lực tăng trưởng thay thế. Nếu không thận trọng và có chiến lược đúng đắn, Việt Nam có thể đi theo vết xe đổ của những quốc gia này. Hình 4.1: Tiếp cận phát triển kinh tế theo mô hình bền vững Nguồn: Đinh Đức Trường và Lê Hà Thanh (2012) Vì vậy, sự lựa chọn thông minh của Việt Nam là từ bỏ mô hình tăng trưởng dựa vào tận khai tài nguyên mà chuyển sang mô hình tăng trưởng xanh, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và trình độ khoa học công nghệ. Đầu tư vào con người và công nghệ là chiến lược được nhiều quốc gia đã và đang phát triển sử dụng. Nó vừa xây 148
- dựng nền tảng và nguồn lực tăng trưởng bền vững lâu dài cho các quốc gia, vừa góp phần thay đổi cấu trúc nền kinh tế sang hướng hiện đại, giảm bớt sự phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên, cải thiện chất lượng của môi trường, giảm ô nhiễm và gia tăng phúc lợi xã hội. Các quốc gia có sự cải thiện mạnh thứ hạng trên bảng xếp hạng EPI đều sử dụng cách tiếp cận tăng trưởng xanh trong phát triển kinh tế. Ví dụ: Costarica hy sinh ngân sách quốc phòng để bảo tồn rừng và các cảnh quan tự nhiên, Hàn Quốc dùng một nguồn lực lớn của xã hội để hỗ trợ xanh hóa khu vực công nghiệp, tạo ra lối sống xanh, phát triển năng lượng tái tạo, cải thiện chất lượng môi trường tại các đô thị. Ngay cả Trung Quốc cũng đang cải thiện dần vị trí của mình trong xếp hạng EPI do tích cực phát triển công nghệ năng lượng tái tạo, làm chủ công nghệ và dần nhích lên các bước cao hơn về giá trị trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Chúng ta cũng vẫn có thể khai thác nguồn lực tự nhiên nhưng đảm bảo duy trì sức khỏe của các hệ sinh thái và sự hiệu quả hơn trong sử dụng các tài nguyên thiên nhiên. Đó là thúc đẩy tăng trưởng xanh, với mấu chốt là xanh hóa sản xuất (sử dụng tài nguyên hiệu quả hơn, xả thải ít ô nhiễm hơn), xanh hóa tiêu dùng và thay đổi lối sống của người dân theo hướng thân thiện với môi trường. Tận dụng cuộc cách mạng công nghiệp (CMCN) 4.0 để chuyển đổi mô hình kinh tế theo hướng hiện đại hơn. CMCN 4.0 đã mở ra cơ hội cho tất cả các quốc gia trên thế giới gồm cả Việt Nam. Nhiều quốc gia trên thế giới đã xây dựng chiến lược mang tính quốc gia để chủ động tham gia có hiệu quả vào cuộc CMCN có tính đột phá này. Tiêu biểu trong số đó là Đức với chiến lược Industry 4.0, Mỹ với Liên minh Internet công nghiệp, Hàn Quốc với iKorea 4.0 và Trung Quốc với Made in China 2025. CMCN 4.0 mở cho Việt Nam nhiều cơ hội trong việc nâng cao trình độ, năng lực sản xuất và cạnh tranh trong chuỗi giá trị toàn cầu, tạo ra sự thay đổi lớn về mô hình kinh doanh bền vững và là cơ hội cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo. Cuộc cách mạng này còn mang lại cơ hội cho Việt Nam để có thể rút ngắn quá trình công nghiệp hoá bằng cách đi tắt đón đầu, phát triển nhảy vọt lên công nghệ cao hơn, giảm ô nhiễm môi trường. 3. Thu hút FDI sạch và chuyển dịch vị trí của Việt Nam trong chuỗi giá trị theo hướng bảo vệ môi trường Thu hút FDI sạch để vừa tăng trưởng kinh tế vừa bảo vệ môi trường FDI là một trụ cột của tăng trưởng kinh tế nhưng lại gây ô nhiễm môi trường tại nước ta. Trong những năm tới đây, FDI vẫn sẽ tiếp tục tăng lên cùng quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Tuy nhiên, vấn đề là làm sao để dòng FDI mang 149
- lại sự phát triển bền vững, tăng hiệu quả kinh tế nhưng không gây ra những tác động tiêu cực tới môi trường. Như đã phân tích, vấn đề hiện nay của Việt Nam là khó thu hút được dòng FDI sạch. Thái Lan, Malaysia và Trung Quốc hiện đã thu hút được nhiều dự án FDI trong các lĩnh vực sạch như năng lượng tái tạo, ICT, giáo dục, công nghệ sinh học, dịch vụ. Vấn đề mấu chốt là Việt Nam chưa phát triển những ngành công nghiệp hỗ trợ vốn là nền tảng của các ngành công nghiệp sạch. Vì vậy, muốn thay đổi cấu trúc FDI theo hướng thu hút các ngành sạch hơn, không còn cách nào khác là phải phát triển công nghiệp phụ trợ, song song với việc loại trừ dần những ngành FDI ‘bẩn’ như sắt thép, hóa chất, khai khoáng, dệt nhuộm, giấy. Bên cạnh việc lồng ghép những yêu cầu về qui trình và tiêu chuẩn quản lý môi trường trong việc xét duyệt và lựa chọn dự án FDI, Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài nên bổ sung các chính sách khuyến khích các ngành sạch, thân thiện môi trường. Chính sách xây dựng ngành công nghiệp hỗ trợ cũng cần xuất phát từ định hướng thu hút FDI. Trong đó, Chính phủ và doanh nghiệp nội địa cần phải tiếp cận nhu cầu của doanh nghiệp FDI, chất lượng và sản phẩm mà họ yêu cầu doanh nghiệp nội địa. Điều này đỏi hỏi cơ quan quản lý phải tạo hành lang pháp lý, định hướng xu hướng và lộ trình phát triển, minh bạch thông tin, tiêu chuẩn để doanh nghiệp phấn đấu đạt được. Với việc tác động rất lớn từ công nghiệp 4.0, các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm ngành công nghiệp hỗ trợ cần thay đổi về quản lý quy trình, mô hình kinh doanh, hạ tầng IT, chuỗi giá trị. Quan trọng không kém là phải ứng dụng những phương thức quản lý hiện đại, bởi đây chính là nền tảng để đảm bảo cho sự thành công của việc ứng dụng công nghệ 4.0 vào công nghiệp hỗ trợ. Chuyển dịch dần vị trí của Việt Nam trong nấc thang chuỗi giá trị Một trong những nguyên nhân ô nhiễm môi trường của Việt Nam xuất phát từ đặc trưng tham gia công đoạn gia công trong chuỗi giá trị toàn cầu. Gia công là công đoạn có giá trị gia tăng thấp nhất, chiếm dụng lao động trình độ thấp và tiêu tốn nhiều tài nguyên, năng lượng, gây ô nhiễm môi trường. Thực tế cho thấy, nền kinh tế nước ta được duy trì quá lâu trong đẳng cấp “giá trị gia tăng thấp”. Hội nhập kinh tế không chỉ là những con số xuất khẩu hay nhập khẩu tính bằng tiền. Điều quan trọng hơn là phải tham gia được vào chuỗi giá trị gia tăng toàn cầu để mở rộng thị trường. Và điều quan trọng nhất là từ vị trí ban đầu, chúng ta phải vươn lên được những vị trí có giá trị gia tăng cao hơn. Khi nhảy lên các bước cao hơn trong chuỗi giá trị (thiết kế, marketing, phân phối, hậu mãi, ý tưởng R&D), chúng ta vừa bảo vệ được môi trường do những mắt xích này thâm dụng tri thức, năng lực khoa học công nghệ chứ không tiêu thụ tài nguyên như mắt xích gia công, chế tạo hiện tại của Việt Nam, đồng thời góp phần gia tăng phần giá trị kinh tế cho đất nước. 150
- Hình 4.2: Giá trị gia tăng của trong các công đoạn của chuỗi giá trị theo mô hình Smiling Curve của Shih Nguồn: Jason và các cộng sự (1999) Hiện tại, trình độ công nghệ của nền kinh tế, trong đó có ngành công nghiệp ở Việt Nam còn rất thấp. Ví dụ, trong ngành cơ khí, thiết bị lạc hậu tới 4 thập kỷ so với mặt bằng thế giới. Công nghệ trong ngành sử dụng để sản xuất công cụ, hàng tiêu dùng, máy động học hầu hết đều ra đời từ trước những năm 1980 và 30% có tuổi thọ hơn nửa thế kỷ. Tỷ trọng doanh nghiệp có công nghệ cao của Việt Nam mới đạt khoảng 20,6%, thấp xa so với mức 29,1% của Philippines, 29,7% của Indonesia, 30,8% của Thái lan, 51,1% của Malaysia, 73% của Singapore. Với mô hình này, rất khó có thể tạo ra tác động lan tỏa tích cực từ khu vực FDI. Chính vì vậy, các biện pháp chính sách và nỗ lực nhằm tạo ra một môi trường kinh doanh thuận lợi, chi phí thấp cho các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp FDI, tuy cần thiết nhưng vẫn không đủ để thúc đẩy tác động lan toả từ FDI đến việc nâng cao năng suất lao động và hiệu quả đóng góp của TFP vào tăng trưởng (Trần Đình Thiên 2012). 4. Tận dụng quá trình hội nhập thương mại quốc tế để bảo vệ môi trường Thương mại là một trong những khâu quan trọng của tái sản xuất nền kinh tế - xã hội. Nó không những là cầu nối giữa tiêu dùng với sản xuất, mà còn có tác dụng định hướng tiêu dùng thân thiện hơn với môi trường và bảo đảm phát triển bền vững (Kiều Nguyễn Việt Hà (2010). Thương mại có một vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế tại Việt Nam. Năm 2017 tổng kinh ngạch xuất nhập khẩu lên tới gần 400 tỷ USD tức là gấp rưỡi qui mô của GDP. Việt Nam đã ký kết hơn 17 Hiệp định thương mại tự do và ngày càng hội nhập nhiều hơn vào kinh tế thế giới nên thương mại sẽ tiếp tục tăng trưởng trong tương lai gần. 151
- Tuân thủ các qui định về môi trường trong thương mại là một thách thức nhưng cũng mang lại cơ hội cho Việt Nam để cải thiện chất lượng môi trường. Hiện nay, các tiêu chuẩn môi trường đối với hàng hóa nhập khẩu tại các nước phát triển là bắt buộc và rất chặt chẽ. Những quốc gia này có đủ phương tiện, nguồn lực và chế tài để giám sát và xử lý các hàng hóa nhập khẩu không tuân thủ các tiêu chuẩn môi trường. Áp lực của thị trường tiêu thụ, thị hiếu lựa chọn tiêu dùng các sản phẩm xanh, an toàn và rủi ro kinh tế từ việc không tuân thủ các qui định môi trường buộc các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam phải chuyển mình theo hướng thân thiện hơn, trong đó phải bảo vệ môi trường để đáp ứng các đòi hỏi của thị trường nhập khẩu hàng hóa. Điều này mang lại cơ hội cho Việt Nam để cải thiện chất lượng môi trường thông qua thương mại. Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực như thủy sản, dệt may, thực phẩm, đồ gỗ đang thay đổi theo hướng thân thiện hơn. Và quá trình này cần đẩy mạnh, để tạo ra sự lan tỏa sang những ngành khác. Trong đó cần thiết phải có sự hỗ trợ của Chính phủ, các cơ quan quản lý trong các khâu cung cấp thông tin, hỗ trợ đầu tư bảo vệ môi trường ban đầu cho doanh nghiệp, nâng dần tiêu chuẩn môi trường theo hướng hội nhập với quốc tế, giám sát và xử lý các hành vi không tuân thủ. Ngoài ra, việc tham gia các mắt xích trong chuỗi giá trị toàn cầu cũng là cơ hội để các doanh nghiệp, ngành cải thiện hiệu quả môi trường của mình. Khi cung ứng sản phẩm cho các hãng lớn thế giới như Sam Sung, World Mart, Apple, Toyota, các khâu và công đoạn sản xuất, chế biến, gia công tại Việt Nam đều phải tuân thủ nguyên tắc thực hành của hãng mẹ (code of conduct), trong đó có các qui định bảo vệ môi trường và sử dụng tài nguyên. Việc Việt Nam trở thành các đối tác trong chuỗi cung ứng quốc tế, dù ở mắt xích thấp hay chuyển lên mắt xích cao cũng là cơ hội để tạo ra tác động tích cực hơn cho môi trường. 5. Tăng cường những khía cạnh kinh tế trong quản lý tài nguyên và môi trường Cải thiện hiệu quả quản lý tài nguyên môi trường là điểm quan trọng để cải thiện chất lượng và thứ bậc của EPI. Vì vậy, trong công tác quản lý sử dụng tài nguyên và môi trường, cần lồng ghép một số nguyên tắc từ góc độ kinh tế. Thứ nhất, phải xem môi trường là một loại tài sản của nền kinh tế, tài sản môi trường cung cấp hàng hóa dịch vụ cho tăng trưởng kinh tế (cung cấp không gian, tài nguyên, chứa đựng chất thải), đồng thời cũng bị khấu hao nếu không biết quản lý khai thác sử dụng hợp lý. Với góc nhìn kinh tế, tài sản môi trường là có hạn, việc sử dụng có tính chi phí cơ hội nên phải sử dụng tối ưu (mang lại lợi ích lớn nhất cho cộng đồng và xã hội). Thứ hai, do môi trường là tài sản nên phải lượng giá được giá trị của tài sản môi trường phục vụ cho các phương án quản lý sử dụng. Do tính chi phí cơ hội của việc tiêu dùng tài nguyên và môi trường nên việc lượng giá là cơ sở của việc tính toán lợi ích – chi phí của các phương án sử dụng khác nhau. Từ đó lựa chọn được phương án 152
- tối ưu nhất. Lượng giá cũng cho phép lựa chọn các giải pháp phát triển kinh tế, có lồng ghép tính toán đến những chi phí môi trường. Vì vậy quyết định phát triển đưa ra sẽ toàn diện hơn. Thứ ba, một vấn đề quan trọng khi nhìn nhận giá trị và đóng góp của tài nguyên và môi trường trong sự phát triển kinh tế của quốc gia là hạch toán tài nguyên vào môi trường trong hệ thống tài khoản quốc gia. Nền kinh tế sử dụng nước, khí, khoáng sản, rừng để sản xuất, đồng thời thải ra chất ô nhiễm. Kinh nghiệm thế giới cho thấy chỉ có cách đưa môi trường vào hệ thống hạch toán kinh tế thì mới biết được tác động của hoạt động sản xuất kinh doanh tới môi trường, và biết được tính bền vững của nền kinh tế. Chẳng hạn, nếu phải tiêu hao quá nhiều quặng, nước hay rừng mới làm ra được một sản phẩm, đó sẽ là nền kinh tế phụ thuộc vào tài nguyên sẵn có, và kém bền vững. Biết được tính bền vững của nền kinh tế sẽ giúp các nhà quản lý đưa ra những chiến lược, quyết sách hợp lý hơn. Việc đưa hạch toán môi trường vào hệ thống hạch toán kinh tế (tức là có tính tới yếu tố khấu hao tài nguyên) sẽ cho thấy GDP thực thấp hơn so với cách tính GDP truyền thống. Thứ ba, chất lượng môi trường trong nền kinh tế thị trường là một loại hàng hóa, có tính chất công cộng, mang lại lợi ích cho nhiều người. Hàng hóa môi trường (hay cải thiện chất lượng môi trường- EPI) là một quá trình đòi hỏi sự đầu tư nguồn lực của xã hội (nhân lực, con người, tài chính). Vì vậy, cần phải huy động được nguồn lực của xã hội cho bảo vệ môi trường, đặc biệt là nguồn tài chính. Hiện nay theo Luật Ngân sách, chi tiêu cho BVMT mới chỉ chiếm 1% tổng chi ngân sách hàng năm. Để có thể cải thiện tốt hơn chất lượng môi trường góp phần cải thiện EPI cần phải đầu tư và chi tiêu thêm nhiều hơn nữa. Bên cạnh việc gia tăng tỷ lệ chi tiêu ngân sách cho môi trường, cũng cần xây dựng các cơ chế khuyến khích sự tham gia của khối tư nhân, doanh nghiệp, đặc biệt là cơ chế hợp tác công tư (PPP) để thu hút thêm nguồn lực xã hội cho BVMT. V. Kết luận Chỉ số ESI và sau này là EPI là một chỉ số tổng hợp phản ánh mức độ bền vững về môi trường cũng như hiệu quả môi trường của một quốc gia. Đây là một chỉ số có tính đa chiều gồm có nhiều thành phần cấu thành, bao hàm nhiều khía cạnh của phát triển. Việc cải thiện chỉ số của một quốc gia không phải là vấn đề kỹ thuật mà là vấn đề quản lý, gắn với mô hình tăng trưởng, chuyển đổi cấu trúc nền kinh tế, liên quan đến các khía cạnh quan trọng của nền kinh tế như thương mại, đầu tư, chuỗi giá trị, đô thị hóa và công nghiệp hóa. Trong những năm qua, Việt Nam có xu hướng tụt hạng trên bảng tổng sắp EPI của thế giới, điều này thể hiện sự đi xuống trong hiệu quả quản lý môi trường. Sâu xa hơn, nó xuất phát từ sự kém bền vững của mô hình tăng trưởng kinh tế, thâm dụng tài nguyên, gây ô nhiễm môi trường. Mô hình này cũng mang nặng tính gia công, xuất 153
- khẩu thô là những mắt xích thấp nhất trong chuỗi phân công lao động quốc tế. Mặc dù công nghiệp hóa ở Việt Nam diễn ra khá nhanh trong suốt 2 thập niên qua nhưng quá trình này không bền vững trên góp độ môi trường, về lâu dài làm giảm hiệu quả của phát triển kinh tế. Việt Nam cũng chưa thu hút được dòng FDI sạch mà vẫn là nơi trú ẩn của ô nhiễm từ các nước phát triển. Do không có công nghiệp phụ trợ, tiêu chuẩn và giám sát môi trường lỏng lẻo, chất lượng môi trường tiếp tục đi xuống trong hầu hết các khía cạnh quan trọng như ô nhiễm không khí, sức khỏe và môi trường, sức khỏe hệ sinh thái, hiệu quả năng lượng và tiêu dùng tài nguyên. Nếu không mạn dạn từ bỏ mô hình tăng trưởng thâm dụng tài nguyên, gia công và gây ô nhiễm môi trường, Việt Nam không chỉ có nguy cơ ngày càng tụt hậu trong bảng xếp hạng EPI mà còn không thể thoát ra khỏi bẫy trình độ kém trong các công đoạn công nghiệp hóa. Cải thiện EPI là nhu cầu tất yếu để hướng tới sự phát triển bền vững, hài hòa cân đối giữa kinh tế, xã hội và môi trường. Mấu chốt là việc chuyển đổi mô hình phát triển kinh tế lạc hậu của đất nước, tận dụng ưu thế của cuộc CMCN 4.0 để bước lên các mắt xích cao hơn trong chuỗi giá trị, xây dựng một cấu trúc kinh tế chuyển đổi từ tài nguyên sang thâm dụng nguồn nhân lực chất lượng cao, dựa trên khoa học và công nghệ. Chỉ có như vậy mới cải thiện tận gốc các vấn đề môi trường và mang lại hiệu quả kinh tế cao cho đất nước. Ngoài ra, cũng cần tận dụng quá trình hội nhập kinh tế quốc tế để làm xanh hóa các dòng FDI, xanh hóa sản xuất và tiêu dùng theo qui chuẩn môi trường của thế giới, thay đổi lối sống của người dân theo hướng thân thiện môi trường. Đó là sự lựa chọn của Việt Nam chứ không phải bất khả thi. Và điều này cần tầm nhìn, định hướng phát triển, hệ thống chính sách mạnh mẽ, sáng tạo cũng như phát huy sự tham gia của toàn xã hội để hướng tới sự phát triển bền vững. 154
- TÀI LIỆU THAM KHẢO Bộ Kế hoạch và Đầu tư cùng Ngân hàng Thế giới (2016), Báo cáo Việt Nam 2035: Hướng tới Thịnh vượng, Sáng tạo, Công bằng và Dân chủ, Việt Nam. Climate Position (2016), India’s Climate Debt is on track for something big, DARA International (2012), Climate Vulnerability Monitor: Findings and Observations. Mendelsohn, R., (2009), Climate Change and Economic Growth, Working Paper No 60, The World Bank. Department of Science and Technology, Repulic of Philippines (2018), How did the Philippines fare in dealing with environmental issues?, 2018/1404-how-did-the-philippines-fare-in-dealing-with-environmental-issues.html Đinh Đức Trường (2015), Quản lý môi trường tại các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (FDI) tại Việt Nam, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Tập 31, Số 5, p.46-55. Đinh Đức Trường và Lê Hà Thanh (2012), Quan hệ giữa chất lượng tăng trưởng kinh tế và quản lý sử dụng tài nguyên thiên nhiên: Hàm ý chính sách cho Việt Nam / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn, Số 28, p.266‐274. Institute For Health Metrics And Evaluation. (2017). Global Health Data Exchange Database. Retrieved From International Monetary Fund, World Economic Outlook Database, January 2018, . Jason, Kenneth L. Kraemer, and Tony Tsai (1999). ACER: an IT Company Learning to Use Information Technology to Compete, Center for Research on Information Technology and Organization, University of California. Kiều Nguyễn Việt Hà (2010), Bảo vệ môi trường trong quá trình tự do hóa thương mại, Tạp chí Cộng sản, Traodoi/2010/2306/Bao-ve-moi-truong-trong-qua-trinh-tu-do-hoa-thuong-mai.aspx Hoàng Dương Tùng (2014), Hiện trạng môi trường không khí ở Việt Nam, Tạp chí Môi trường, số 9/2014. Phạm Hồng Mạnh (2014), Tăng trưởng xanh ở Việt Nam nhình từ quá trình sử dụng năng lượng và mức phát thải, Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ, Tập 17, số Q3, p14-25. Nguyễn Tuân (2016), Nếu không có DN FDI, ngành công nghiệp phụ trợ của Việt Nam rất khó phát triển, viet-nam-rat-kho-phat-trien-post202350.info 155
- Tổng Cục Thống kê (2013), Nghiên cứu ứng dụng tính chỉ số bền vững môi trường áp dụng cho Việt Nam, Đề tài NCKH cấp Bộ, Mã số: 2.1.7-B12-13. Tổng Cục Thống kê các năm, Số liệu về tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Trần Đình Thiên (2012), Những vấn đề của nền kinh tế duy trì quá lâu mô hình tăng trưởng dựa vào khai thác tài nguyên và sản xuất gia công lắp ráp. Báo cáo phân tích chính sách, Trần Đình Tuấn (2016), Tăng trưởng kinh tế Việt Nam sau 10 năm gia nhập WTO, Tạp chí Tài chính kỳ 2 tháng 4/2016. Trần Thọ Đạt, Đinh Đức Trường và Vũ Thị Hoài Thu (2013), Tác động của biến đổi khí hậu đến kinh tế Việt Nam, Báo cáo nghiên cứu, Trường Đại học Kinh tế quốc dân. Trường Đại học Kinh tế quốc dân (2016), Ảnh hưởng của Đầu tư trực tiếp nước ngoài tới môi trường sinh thái tại Việt Nam, Đề tài KHCN cấp Bộ, Bộ Giáo dục và Đào tạo. UNESCAP (2012). Green Growth, Resources And Resilience: Environmentalsustainability In Asia And The Pacific. United Nations And Asian Development Bank Publication, Truy Cập Từ: G2R2_Web.Pdf. Văn Hữu Tập (2015), Ô nhiễm do quá trình đô thị hóa và phát triển giao thông vận tải trong giai đoạn phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Viện nghiên cứu KHKT Bảo hộ lao động. World Bank (2010), Vietnam - Weathering the storm : options for disaster risk financing in Vietnam, Washington, DC: World Bank. Yale Center for Environmental Law & Policy, and Center for International Earth Science Information Network at Columbia University. "Environmental Performance Index". Retrieved 2008-03-16. Yale Center for Environmental Law & Policy / Center for International Earth Science Information Network at Columbia University. "2008 Environmental Performance Index Report" (PDF). Archived from the original (PDF) on 2008-04-09. Retrieved 2008-03-18.See Executive Summary, pp. 32-35 for a detailed comparison between the ESI 2005, the EPI 2006 and the EPI 2008. Yale Center for Environmental Law & Policy / Center for International Earth Science Information Network at Columbia University. "Pilot 2006 Environmental Performance Index Main Report" (PDF). p. 33. Archived from the original (PDF) on 2007-01-05. Retrieved 2007-06-17. 156