Chính sách thu hút FDI vào ngành công nghệ cao phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước
Bạn đang xem tài liệu "Chính sách thu hút FDI vào ngành công nghệ cao phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- chinh_sach_thu_hut_fdi_vao_nganh_cong_nghe_cao_phuc_vu_su_ng.pdf
Nội dung text: Chính sách thu hút FDI vào ngành công nghệ cao phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước
- CHÍNH SÁCH THU HÚT FDI VÀO NGÀNH CÔNG NGHỆ CAO PHỤC VỤ SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA – HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƢỚC ThS. Lê Nguyễn Diệu Anh Trường Đại học Kinh tế kĩ thuật công nghiệp Tóm tắt Đứng trước yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, công nghệ cao được coi như là một trong các lĩnh vực trọng tâm cần thu hút FDI. Thu hút FDI vào ngành công nghệ cao không chỉ nhằm giải quyết mục tiêu về vốn cho đầu tư phát triển xã hội mà cung cấp cho nền kinh tế máy móc, quy trình công nghệ tiên tiến, sản xuất nhiều mặt hàng có chất lượng và hàm lượng kỹ thuật cao, góp phần thúc đẩy phát triển nền kinh tế đất nước, đồng thời tạo nên sức mạnh tổng hợp phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Do đó để ắt kịp với cuộc Cách mạng 4.0, Chính phủ cần có những thay đổi về chính sách để ưu tiên thu hút FDI đối với một số ngành và sản phẩm công nghệ cao. Từ khóa: Vốn FDI, Công nghệ cao, Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa I. SỰ CẦN THIẾT PHẢI THU HÚT VỐN FDI VÀO NGÀNH CÔNG NGHỆ CAO Trong 30 năm qua, đã có hơn 182 tỷ USD vốn FDI đầu tư vào Việt Nam, được thực hiện trong hầu hết các ngành nghề và lĩnh vực của nền kinh tế, góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đồng thời, hình thành những ngành công nghiệp chủ lực như: viễn thông, dầu khí, điện tử, hóa chất, thép, ô tô – xe máy, công nghệ thông tin, da giày, dệt may, chế biến nông sản thực phẩm Qua đó, FDI đã đóng góp lớn trong việc gia tăng năng lực sản xuất và xuất khẩu của Việt Nam. Đến nay, khu vực FDI chiếm khoảng 25% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, trên 70% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Ngoài ra, khu vực FDI cũng đã góp phần tăng thu ngân sách, tạo việc làm cho người dân, ổn định tình hình xã hội. Khu vực này tạo ra khoảng 3,5 triệu việc làm trực tiếp và gần 5 triệu việc làm gián tiếp; trong đó, có nhiều lao động đã được đào tạo và tiếp cận với trình độ công nghệ, quản lý tiên tiến của thế giới. Bên cạnh những đóng góp không thể phủ nhận của khu vực FDI đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam thì vẫn còn tồn tại một số hạn chế nhất định trong quá trình phát triển, mà hạn chế lớn nhất đó chính là việc chuyển giao và tiếp thu công nghệ từ các doanh nghiệp FDI không đạt được như kỳ vọng. Trong một số trường hợp, còn có những công nghệ lạc hậu gây ảnh hưởng tới môi trường cũng như ảnh hưởng tới chất lượng tăng trưởng. Việc chuyển giao công nghệ từ nước ngoài thông qua FDI giúp hạn chế đến mức tối đa nhập khẩu nhiều loại hàng hóa thuộc các lĩnh vực dầu khí, sản xuất vật liệu xây dựng mới, hàng điện tử gia dụng, phương tiện giao thông, Nhờ đó doanh nghiệp FDI tạo ra được nhiều sản phẩm có chất lượng cao với hình thức, mẫu mã đẹp, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu sản phẩm ra nước ngoài Có doanh nghiệp FDI đã tổ chức sản xuất sản phẩm 302
- thuộc lĩnh vực công nghệ cao và xuất khẩu gần 100% sản phẩm ra thị trường nước ngoài ở các lĩnh vực điện tử, quang cơ - điện tử như Công ty TNHH Nidec Tosok, Muto, Nissei Mặt khác, chính bởi sức ép cạnh tranh ngày càng tăng từ sản phẩm của doanh nghiệp FDI công nghệ cao, nên nhiều doanh nghiệp trong nước đã đầu tư nhập khẩu thiết bị và công nghệ mới, lập bộ phận hoặc trung tâm nghiên cứu và phát triển (R&D). Vì vậy, họ đã sản xuất được sản phẩm có chất lượng tốt, mẫu mã đẹp, thay thế hàng nhập khẩu với giá cả hợp lý, được người tiêu dùng ưu tiên sử dụng và xuất khẩu ra thị trường thế giới. II. TÌNH HÌNH THU HÚT FDI VÀO CÔNG NGHỆ CAO Ở VIỆT NAM Những năm gần đây, FDI vào Việt Nam khá sôi động, trong đó đã có nhiều dự án đầu tư vào lĩnh vực công nghệ cao. Hàng loạt các tập đoàn kinh doanh hàng điện tử và công nghệ cao hàng đầu thế giới, như: Intel, Samsung, Nokia, LG, Canon đã có các cơ sở sản xuất ở Việt Nam. Năm 2006, Intel đã đánh dấu sự đầu tư vào Việt Nam với số vốn ban đầu 300 triệu USD, chỉ sau 1 năm, Tập đoàn này đã nâng số vốn đầu tư lên 1 tỷ USD với mong muốn Việt Nam là nơi sản xuất tới 80% bộ vi xử lý Haswel của hãng để cung cấp cho thị trường toàn cầu. Tập đoàn công nghệ hàng đầu của Hàn Quốc là Samsung cũng đã đánh dấu sự khởi đầu ở Việt Nam khi đầu tư số vốn ban đầu là 670 triệu USD năm 2007. Đến nay, tổng số vốn Samsung đầu tư vào Việt Nam đã lên đến 11,2 tỷ USD, tạo việc làm cho hàng chục nghìn lao động và đóng góp lớn vào xuất khẩu của đất nước. Trong khi đó, LG Electronic Việt Nam (tập đoàn cũng của Hàn Quốc) đã mở rộng sản xuất ở Hải Phòng khá ấn tượng. Bởi đầu năm 2014, tổng vốn chỉ dự kiến khoảng 300 triệu USD, nhưng sau đó chính hãng tại Hàn Quốc đã quyết định đầu tư gấp 5 lần con số trên tại Việt Nam. Tháng 5/2014, Nokia - Microsoft quyết định chuyển dịch đại bản doanh sản xuất toàn cầu về Việt Nam. Khi đó, năng lực sản xuất thiết bị điện thoại Nokia khu công nghiệp VSIP (Bắc Ninh) sẽ tăng ít nhất là 6 lần. Một hãng điện tử khác cũng nổi tiếng là Wintek của Đài Loan, chuyên sản xuất các sản phẩm màn hình cảm ứng cũng hé lộ kế hoạch với tỉnh Bắc Giang rằng, sẽ tăng gấp đôi vốn đầu tư tại Việt Nam so với hiện nay. Từ vốn đầu tư 1,2 tỷ USD, hãng Wintek sẽ có tổng vốn lên khoảng 2,4 tỷ USD, quyết tâm mở rộng đầu tư lớn ở Việt Nam. Tại Khu Công nghệ cao Thành phố Hồ Chí Minh, sau 7 năm đi vào hoạt động, đã thu hút nhiều dự án lớn, như: dự án 1 tỷ USD của Intel, Nidec (Nhật Bản), Datalogic Scanning (Ý), Sonion (Đan Mạch) Theo thống kê, tổng số vốn đầu tư trong hai tháng đầu năm 2018 tại khu công nghệ cao Thành phố Hồ Chí Minh ước đạt 82,6 triệu USD, tăng 57% so với cùng kỳ, lũy kế đến nay có 71 dự án được cấp phép còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư đạt hơn 4,250 tỷ USD. Còn tại Hà Nội, khu công nghệ cao Hòa Lạc cũng dành được sự quan tâm đáng kể từ phía các nhà đầu tư. Tính đến tháng 7/2018, Khu Công nghệ cao Hòa Lạc đã có 72 dự án đầu tư với tổng vốn đăng ký hơn 56.469 tỷ đồng. Một trong những ngành thuộc công nghệ cao là công nghệ thông tin, thì Việt Nam được xếp trong tốp 10 nước hàng đầu tại châu Á - Thái Bình Dương và 30 của thế giới về gia công và phát triển phần mềm. Theo báo cáo của Gartner (công ty nghiên cứu và tư vấn hàng đầu về công nghệ thông tin), Thành phố Hồ Chí Minh xếp thứ 7 và Hà Nội xếp thứ 22 trong tốp 100 thành 303
- phố hấp dẫn về gia công phần mềm. Từ năm 2012, Việt Nam cũng đã trở thành đối tác gia công phần mềm lớn thứ 2 của Nhật Bản. Các dự án đầu tư từ các tập đoàn đa quốc gia tín hiệu rõ nét cho thấy Việt Nam đang chuyển dịch từ ngành công nghiệp sản xuất giá trị thấp sang sản xuất có giá trị cao hơn. Đây chính là tín hiệu đáng mừng trong bối cảnh dòng vốn FDI đang có những khó khăn cũng như cạnh tranh lớn hiện nay. Việc tập trung thu hút FDI vào lĩnh vực công nghiệp cao cũng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng để đạt được mục tiêu đưa Việt Nam căn bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Tuy nhiên, bên cạnh những đóng góp to lớn từ nguồn vốn này vẫn có những tồn tại phát sinh từ các dự án FDI, đòi hỏi cần được đánh giá, điều chỉnh. Trong đó, việc sử dụng và chuyển giao công nghệ là vấn đề cần chú ý. Số liệu từ Bộ KH-ĐT cho biết, có tới hơn 80% doanh nghiệp FDI sử dụng công nghệ trung bình của thế giới, 14% ở mức thấp và lạc hậu, chỉ có 5- 6% sử dụng công nghệ cao. FDI chưa đáp ứng được mục tiêu và kỳ vọng đặt ra cho thu hút công nghệ cao do một số nguyên nhân như sau: Thứ nhất, công nghệ mà các doanh nghiệp FDI đưa vào Việt Nam tuy cao hơn mức Việt Nam có, nhưng phần lớn là các công nghệ trung bình, hoặc trung bình tiên tiến so với các nước trong khu vực (trừ một số các dự án có quy mô lớn trong các lĩnh vực điện tử - viễn thông, thiết bị tin học ). Đây cũng là các công nghệ đưa vào Việt Nam theo lợi ích của nhà đầu tư, chứ không theo nhu cầu đổi mới công nghệ do Việt Nam chủ động đưa ra hoặc đòi hỏi. Mặt khác, công tác thẩm định, quản lý công nghệ FDI đưa vào Việt Nam chưa được quan tâm đúng mức, sự liên kết trong quản lý công nghệ FDI nhập khẩu, vận hành giữa các cơ quan quản lý nhà nước chưa được chặt chẽ. Chưa nhận thức rõ rằng: nhà đầu tư thường chú trọng hàng đầu đến lợi ích đầu tư, đầu tư để sinh lời, nên tìm cách bỏ qua các quy định về bảo vệ môi trường trong nhập khẩu và vận hành công nghệ, thiết bị do chính họ đưa vào. Bên cạnh đó, chính quyền một số tỉnh, thành phố và ban quản lý khu kinh tế, khu công nghiệp chưa chú ý nâng cao năng lực thẩm định để lựa chọn dự án FDI công nghệ cao, hiện đại gắn với chuyển giao công nghệ nhằm thực hiện có hiệu quả tái cấu trúc nền kinh tế theo mô hình tăng trưởng mới. Không ít trường hợp do dễ dãi trong việc thẩm tra năng lực nhà đầu tư, nên đã nhập khẩu máy móc, thiết bị qua sử dụng, lạc hậu, đã bị thải loại ở nước ngoài. Thứ hai, Việt Nam đã có định hướng chung về thu hút công nghệ cao, song lại chưa có định hướng chi tiết (hay kế hoạch chi tiết) cho từng ngành nghề, trên cơ sở xây dựng được các danh mục dự án công nghệ cao. Các dự án FDI công nghệ cao cần thu hút, thì được sắp xếp theo thứ tự ưu tiên (như ưu tiên 1, ưu tiên 2 theo từng ngành nghề), do vậy chưa có được các giải pháp cụ thể để thu hút FDI công nghệ cao cho từng ngành và lĩnh vực, nên cũng chưa tiếp cận được với các nhà đầu tư nước ngoài tiềm năng có công nghệ cao tương ứng. 304
- Thứ ba, việc tiếp thu FDI công nghệ cao còn yếu, thể hiện qua việc chúng ta chưa chủ động đào tạo, bố trí cán bộ và công nhân kỹ thuật trẻ vào làm việc tại các doanh nghiệp FDI công nghệ cao, để lực lượng này có thể từng bước tiếp nhận, vận hành và làm chủ được công nghệ, áp dụng vào thực tiễn Việt Nam sau này. Ngược lại, đầu tư cho hoạt động R&D của các doanh nghiệp FDI còn ít, mới chỉ ở mức công nghệ nhỏ, đơn giản , hoặc để cải tiến phù hợp với điều kiện của Việt Nam, do vậy việc học hỏi công nghệ thông qua FDI nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu. Thứ tư, chương trình đào tạo kỹ thuật ở các cơ sở dạy nghề vẫn còn nặng về lý thuyết, ít điều kiện thực hành, nên người lao động cũng như cán bộ quản lý khi được tiếp xúc với công nghệ mới khó vận hành, tiếp thu, không đáp ứng được đòi hỏi tuyển dụng của các doanh nghiệp FDI công nghệ cao. Đó là chưa kể lượng công nhân có tay nghề cao, được đào tạo bài bản không đủ cung cấp cho các doanh nghiệp FDI công nghệ cao có quy mô lớn. Thứ năm, hoạt động liên kết sản xuất sản phẩm công nghệ cao giữa các doanh nghiệp FDI với các doanh nghiệp Việt Nam hầu như chưa có. Nguyên nhân xuất phát từ hỗ trợ của Nhà nước cho các doanh nghiệp Việt Nam trong việc nâng cao trình độ công nghệ, năng lực sản xuất còn chưa đáp ứng được yêu cầu và tổ chức thực hiện định hướng, chương trình phát triển công nghệ cao còn yếu. III. GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC NHỮNG NHƢỢC ĐIỂM Một là, nâng cao trình độ công nghệ của doanh nghiệp trong nước. Khoảng cách về trình độ công nghệ, kỹ năng quản lý chính là trở ngại mà các doanh nghiệp FDI gặp phải khi chuyển giao công nghệ hiện đại vào Việt Nam. Hai là, đẩy mạnh phát triển công nghiệp phụ trợ để thu hút được những dự án công nghệ cao từ các TNCs. Ðồng thời chú trọng thu hút các dự án R&D Ba là, ban hành các văn bản quy định rõ ràng về tiêu chuẩn công nghệ, môi trường, nhằm kiểm soát công nghệ mà các nhà đầu tư nước ngoài mang vào. Bốn là, hoàn thiện hành lang pháp lý cho chuyển giao công nghệ Năm là, cần có chính sách thu hút và đáp ứng yêu cầu của các TNCs hàng đầu thế giới, trong đó đặc biệt quan tâm chiến lược xúc tiến đầu tư tầm quốc gia với các TNCs cùng các chính sách ưu đãi đầu tư hấp dẫn. Trên cơ sở đó hướng các nhà đầu tư FDI vào các dự án công nghệ cao mà Việt Nam cần, trong giai đoạn tới chỉ nên dành ưu tiên đặc biệt cho các dự án FDI công nghệ cao. Đối với những lĩnh vực và địa bàn mà các doanh nghiệp Việt Nam đã có thể thực hiện bằng công nghệ và kỹ thuật ngang bằng mức tiên tiến thế giới, thì không thu hút FDI (như: bất động sản, du lịch nghỉ dưỡng, bán buôn - bán lẻ ). Sáu là, đưa ra hệ thống ưu đãi mới, thích ứng với đòi hỏi của nhà đầu tư và kinh nghiệm quốc tế trong việc thu hút FDI vào ngành công nghệ cao, dịch vụ hiện đại Chính sách ưu đãi 305
- đầu tư cần bảo đảm hấp dẫn nhà đầu tư tiềm năng vào ngành, nghề lĩnh vực theo định hướng mới, đồng thời phải tính toán và được thực hiện trên cơ sở bảo đảm lợi ích quốc gia, hiệu quả kinh tế - xã hội của từng địa phương, chấm dứt tình trạng thu hút FDI theo phong trào, bất chấp chất lượng và hiệu quả. Bảy là, nâng cao chất lượng nguồn lao động. Cần xây dựng chiến lược phát triển nhân lực công nghệ cao dài hạn và phù hợp, có chính sách thu hút đầu tư các nguồn lực xã hội hóa trong đào tạo. Cùng với đó, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao phải gắn bó hữu cơ với chính sách sử dụng và đãi ngộ. Tiên hành phát triển nhân lực theo chuẩn đầu ra của khu vực và thế giới. Bên cạnh đó, việc ban hành các tiêu chuẩn kỹ năng đào tạo cũng là vấn đề cấp bách và cần thiết, để các cơ sở đào tạo dựa theo đó, mà chuẩn bị nguồn nhân lực có chất lượng phục vụ cho ngành công nghệ cao; chấm dứt tình trạng sinh viên ra trường nhiều, nhưng lại không đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp, dẫn đến một số lượng lớn không có việc làm. Hơn tất cả là nâng cao chất lượng đào tạo. Các cơ quan quản lý giáo dục cũng như bản thân mỗi trường cần cập nhật chương trình đào tạo trên cơ sở tham khảo mô hình quốc tế. Đặc biệt là đầu tư chuẩn hóa hệ thống giáo trình, bài giảng đối với tất cả các đơn vị đào tạo. Một trong những biện pháp cần thực hiện là sự phối hợp giữa bên đào tạo và bên sử dụng lao động. Trên cơ sở đánh giá lại chương trình đang được đào tạo, các trường đại học, cao đẳng có đào tạo nhân lực trong công nghệ cao phải điều chỉnh nội dung môn học; đồng thời, cập nhật nội dung mới đưa vào chương trình giảng dạy phù hợp với nhu cầu của doanh nghiệp. Ngược lại, các doanh nghiệp cũng cần tham gia trong một số khâu của quá trình đào tạo, đặt yêu cầu đối với các cơ sở đào tạo về nội dung kiến thức, kỹ năng sát với nhu cầu của sản xuất, kinh doanh. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. PGS. TS. Nguyễn Bạch Nguyệt - TS. Từ Quang Phương, (2004) “Giáo trình Kinh tế đầu tư”, NXB Thống kê, Hà Nội. 2. PGS. TS Trần Quang Lâm – TS. An Như Hải, (2006) “Kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam hiện nay”, NXB Chính trị Quốc Gia Hà Nội. 3. Báo cáo tổng kết 30 năm hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài 306