Chính sách tự vệ thương mại của Việt Nam lý luận và thực tiễn
Bạn đang xem tài liệu "Chính sách tự vệ thương mại của Việt Nam lý luận và thực tiễn", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- chinh_sach_tu_ve_thuong_mai_cua_viet_nam_ly_luan_va_thuc_tie.pdf
Nội dung text: Chính sách tự vệ thương mại của Việt Nam lý luận và thực tiễn
- 4. Hiệp định CPTPP, EVFTA: Tạo động lực dịch chuyển dòng vốn đầu tư, dong- luc-dich-chuyen-dong-von-dau-tu. 5. Luật đầu tư năm 2014. 6. TS.Nguyễn Toàn Thắng, TS.Nguyễn Thị Hồng Yến, Những khía cạnh pháp lý về thực thi của Việt Nam đối với cam kết đầu tư trong Hiệp định đối tác toàn diên và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), 13.%20Nhung%20khia%20canh%20phap%20ly%20ve%20thuc%20thi%20cua%20Viet%20 Nam%20doi%20voi%20cam%20ket%20dau%20tu%20trong%20CPTPP.pdf. 7. Văn kiện hiệp định CPTPP, hiep-dinh-cptpp. 8. noi-dung-hiep-dinh/TPP_Chuong%209.pdf. CHÍNH SÁCH TỰ VỆ THƢƠNG MẠI CỦA VIỆT NAM LÝ LUẬN VÀ THỰC TIẾN Ths. Phan Thu Giang Trƣờng Đại học Thƣơng mại Tóm lược: Bài viết trình bày các vấn đề lý luận về chính sách tự vệ thương mại với vai trò là một trong các chính sách thương mại quốc tế đóng vai trò quan trọng trong thực ti n hoạt động trao đổi thương mại toàn cầu giai đoạn hiện nay. Đồng thời, bài viết c ng mô tả cụ thể việc triển khai áp dụng các biện pháp tự vệ thương mại của chính phủ Việt nam nh m bảo vệ thị trường nội địa c ng như đáp ứng các yêu cầu từ thị trường nước ngoài và phù hợp với các thông lệ quốc tế. Cuối cùng, bài viết đưa ra một số khuyến nghị nh m thúc đẩy vận dụng chính sách tự vệ thương mại của Việt Nam sao cho có hiệu quả nhất trong thực ti n hoạt động thương mại quốc tế giai đoạn hiện nay. Từ khóa: Chính sách, tự vệ thương mại, Việt Nam 1. Khái luận về chính sách tự vệ thƣơng mại 1.1. hái niệm Các quốc gia khi chấp nhận mở cửa đều phải lường trước việc gia tăng nhập khẩu hàng hóa khi có sự cắt giảm thuế quan, đặc biệt là việc cắt giảm thuế quan theo lộ trình đã cam kết trong các hiệp định tự do thương mại. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, lượng hàng nhập khẩu gia tăng đột biến, ngoài tiên lượng, gây thiệt hại nghiêm trọng, khó khắc phục thì cần phải sử dụng biện pháp khẩn cấp nhằm ngăn chặn hàng nhập khẩu gây phương hại đến ngành sản xuất trong nước. Vì vậy, các nước đều có quy định về chính sách tự vệ thương mại, và trong nhiều hiệp định thương mại tự do, biện pháp tự vệ thương mại đều được đề cập. 1057
- Các nước có chính sách tự vệ thương mại nhằm bảo vệ ngành sản xuất nội địa trong trường hợp khẩn cấp nhằm ngăn chặn thiệt hại nghiêm trọng xảy ra do hàng nội đị không cạnh tranh được với hàng nhập khẩu. Biện pháp tự vệ là công cụ để đối phó với hành vi thương mại hoàn toàn bình thường, không có hành vi vi phạm pháp luật hay cạnh tranh không lành mạnh. Viêc áp dụng các biện pháp tự vệ bị coi là đi ngược lại với xu hướng tự do hóa thương mại, mở của thị trường hiện nay, song lại là van an toàn cho các nước để ngăn chặn tạm thời luồng hàng nhập khẩu, giúp ngành sản xuất nội địa tránh được đổ vỡ, thiệt hại. Đặc điểm: - Là biện pháp khẩn cấp: Đây là công cụ được sử dụng để đối phó với tình trạng tăng nhập khẩu đột biến gây thiệt hại cho ngành sản xuất hàng hóa trong nước. - Chỉ được áp dụng trong những trường hợp đặc biệt hạn chế khi chứng minh được là ngành sản xuất nội địa bị đe dọa nghiêm trọng, có thể dẫn đến đổ vỡ. - Chính sách này đi ngược lại với xu hướng tự do hóa thương mại. Nếu xu hướng tự do hóa thương mại khuyến khích mở cửa, giảm dần các rào cản thương mại thì chính sách tự vệ thương mại lại cho phép hạn chế nhập khẩu một cách ―cơ học‖. - Là biện pháp tạm thời để ngăn chặn hoặc khắc phục những thiệt hại nghiêm trọng và tạo điều kiện thuận lợi cho việc thích nghi của các ngành sản xuất trong nước. Tuy không có quy định cụ thể nào về mức độ biện pháp tự vệ được đưa ra, song nhìn chung, các biện pháp tự vệ không được vượt quá mức cần thiết để ngăn chặn và khắc phục hậu quả gây ra bởi lượng tăng nhập khẩu đột biến. - Áp dụng cho thương mại hàng hóa, không áp dụng cho thương mại dịch vụ. - Là biện pháp phải bồi thường. Khi thực thi chính sách tự vệ thương mại, các biện pháp tự vệ đưa ra sẽ làm phương hại đến hàng hóa xuất khẩu của nước khác vì vậy để được áp dụng biện pháp tự vệ một cách hợp pháp, nước nhập khẩu cần có biện pháp bồi thường. Đây cũng là ―van an toàn‖ giới hạn việc áp dụng biện pháp tự vệ quá mức cần thiết. - Không phân biệt đối xử về xuất xứ đối với hàng nhập khẩu bị áp dụng biện pháp tự vệ. Biện pháp tự vệ phải được áp dụng chung cho hàng nhập khẩu bị áp dụng biện pháp tự vệ từ tất cả các nước, không nhắm vào một nước cụ thể nào. * Điều kiện áp dụng biện pháp tự vệ thương mại (a) Có sự gia tăng đáng kể của hàng hóa nhập khẩu; (b) Sự gia tăng này mang tính đột biến do những thay đổi về chế độ thương mại; (c) Chúng gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại nghiêm trọng đối với người sản xuất những sản phẩm tương tự hoặc trực tiếp cạnh tranh (mối liên hệ nhân quả giữa sự gia tăng đột biến của hàng hóa nhập khẩu và thiệt hại đối với ngành công nghiệp nội địa); Thuật ngữ ―thiệt hại nghiêm trọng‖ được định nghĩa như là ―sự gây hại toàn diện và đáng kể đến vị trí của một ngành công nghiệp nội địa‖. Ngoài ra, khi tiến hành thực hiện biện pháp tự vệ, quốc gia phải đảm bảo thực hiện nghĩa vụ bồi thường cho những đối tác thương mại chịu ảnh hưởng xấu bởi hiện pháp hạn chế nhập khẩu dưới hình thức giảm thuế đánh vào 1058
- sản phẩm xuất khẩu của các quốc gia đối tác bị thiệt hại. Nếu không thể đạt được thỏa thuận về bồi thường thương mại tương xứng giữa thì có thể áp dụng hành động trả đũa tương ứng. Biện pháp trả đũa thường được thực hiện dưới hình thức chấm dứt sự nhân nhượng hay không thực hiện nghĩa vụ mà quốc gia áp dụng biên pháp tự vệ lẽ ra có quyền yêu cầu. 1.2. Tác động của biện pháp tự vệ thương mại - Tác động tích cực + Các biện pháp tự vệ là một hình thức van an toàn để ngăn chặn tạm thời luồng nhập khẩu để giúp ngành sản xuất nội địa của mình tránh những đổ vỡ trong một số trường hợp đặc biệt khó khăn. - Tác động tiêu cực: + Phá vỡ cơ chế thị trường. Duy trì các doanh nghiệp chưa đủ sức cạnh tranh. Trên thực tế, việc áp dụng BPTV có nguy cơ dẫn đến tâm lý ỷ lại, thụ động, tạo ra sức ì trong công tác nghiên cứu sản xuất của bản thân DN nội địa thì được xem là không hiệu quả. + Khi áp dụng BPTV, quốc gia nhập khẩu phải bồi thường thương mại cho các quốc gia có hàng hóa bị áp dụng BPTV như một sự đền bù ngang giá (dựa trên sự thỏa thuận giữa các bên) do những biện pháp này được coi là hành vi thương mại hợp pháp, chính đáng và bình thường của bên xuất khẩu. Trong trường hợp các bên không đạt được thỏa thuận về vấn đề bồi thường thương mại, WTO cho phép các nước xuất khẩu áp dụng biện pháp trả đũa đối với nước nhập khẩu. + Khả năng bị khởi kiện do tự vệ là rất cao nếu BPTV được áp dụng một cách tùy tiện. + Khi áp dụng BPTV, đối tượng gánh chịu thiệt hại lớn nhất vẫn là người tiêu dùng. Trong một số trường hợp, hàng hóa nhập khẩu có chất lượng tốt hơn hàng hóa nội địa nhưng vẫn được bán với giá rẻ hơn (do sự tiên tiến về công nghệ, trình độ kỹ thuật và cung cách quản lý khoa học), được người tiêu dùng tin cậy nên thị phần và sản lượng hàng nhập khẩu tăng lên nhanh chóng qua từng năm. Khi đó, việc áp dụng BPTV sẽ khiến giá của hàng hóa đó bị đẩy lên cao, kéo theo sự tăng giá của các ngành sản xuất có liên quan, gây ảnh hưởng tiêu cực đến lợi ích chính đáng của người tiêu thụ và hàng loạt những hệ lụy khác. Do vậy, sử dụng quyền tự vệ chỉ phát huy ý nghĩa thật sự khi được quyết định sử dụng trên kết quả đánh giá khách quan và toàn diện về thực trạng ngành sản xuất nội địa. 2. Chính sách tự vệ thƣơng mại của Việt Nam Mục tiêu chủ yếu của các biện pháp tự vệ là bảo hộ có thời hạn ngành sản xuất nội địa để ngành này khôi phục khả năng cạnh tranh.Chính vì vậy doanh nghiệp Việt Nam cần biết cách sử dụng các biện pháp này trong những hoàn cảnh nhất định để bảo vệ các lợi ích thương mại của mình. Việt Nam đã ban hành các văn bản quy định pháp luật về các biện pháp chống tự vệ, gồm: - Pháp lệnh 42/2002/PL-UBTVQH10 ngày 11/ 06/ 2002 về tự vệ trong nhập khẩu hàng hóa nước ngoài vào Việt Nam 1059
- - Nghị định 150/2003/NĐ-CP ngày 8/12/2003 quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh tự vệ trong nhập khẩu hàng hóa nước ngoài vào Việt Nam - Nghị định 04/2006/NĐ-CP về việc thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của Hội đồng xử lý vụ việc chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ; - Nghị định 06/2006/NĐ-CP về việc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục quản lý cạnh tranh. - Luật Quản lý Ngoại Thương số 05/2017 /QH14 - Nghị định số 10/2018/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý Ngoại thương về các biện pháp phòng vệ thương mại. - Thông tư số 06/2018/TT-BCT - Thông tư ngày 30/9/2019 của Bộ Công Thương hướng dẫn áp dụng biện pháp tự vệ đặc biệt để thực thi Hiệp định CPTPP Nội dung quy định của pháp luật Việt Nam về tự vệ thƣơng mại 1. Biện pháp tự vệ Chính phủ Việt Nam có quyền áp dụng các biện pháp tự vệ trong trường hợp một loại hàng hoá nhất định được nhập khẩu quá mức vào Việt Nam gây thiệt hại nghiêm trọng cho sản xuất trong nước. 2. Các biện pháp tự vệ Các biện pháp tự vệ trong nhập khẩu hàng hoá nước ngoài vào Việt Nam bao gồm: - Tăng mức thuế nhập khẩu; - Áp dụng hạn ngạch nhập khẩu; - Áp dụng các biện pháp khác do Chính phủ quy định. 3. Điều kiện áp dụng các biện pháp tự vệ Các biện pháp tự vệ chỉ được áp dụng đối với hàng hoá nhập khẩu khi có đủ các điều kiện sau đây: - Khối lượng, số lượng hoặc trị giá hàng hoá nhập khẩu gia tăng đột biến một cách tuyệt đối hoặc tương đối so với khối lượng, số lượng hoặc trị giá của hàng hoá tương tự hoặc hàng hoá cạnh tranh trực tiếp được sản xuất trong nước; - Việc gia tăng khối lượng, số lượng hoặc trị giá hàng hoá nhập khẩu quy định tại khoản 1 Điều này gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất hàng hoá tương tự hoặc hàng hoá cạnh tranh trực tiếp trong nước. 4. Quy trình điều tra để áp dụng các biện pháp tự vệ. Bƣớc 1. Tổ chức, cá nhân đại diện cho ngành sản xuất trong nước với điều kiện toàn bộ hàng hoá do tổ chức, cá nhân đó sản xuất chiếm ít nhất 25% sản lượng hàng hoá tương tự hoặc hàng hoá cạnh tranh trực tiếp được sản xuất trong nước. Bƣớc 2. Bộ Thương mại tiến hành điều tra khi có hồ sơ yêu cầu áp dụng biện pháp tự vệ hoặc Bộ Thương mại chủ động tiến hành điều tra trong trường hợp có bằng chứng chứng minh sự cần thiết phải áp dụng các biện pháp tự vệ. 1060
- Bƣớc 3. Cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân có liên quan có trách nhiệm phối hợp, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình điều tra và cung cấp thông tin cần thiết theo yêu cầu của Bộ Thương mại. Kể từ khi có quyết định tiến hành điều tra cho đến khi kết thúc quá trình điều tra, Bộ Thương mại có thể thực hiện chế độ cấp giấy phép nhập khẩu đối với loại hàng hoá đang là đối tượng điều tra. Việc cấp giấy phép đó chỉ nhằm mục đích thống kê, không hạn chế về số lượng, khối lượng hoặc trị giá hàng hoá nhập khẩu. Bƣớc 4. Tham vấn 1. Bộ Thương mại có thể tiến hành tham vấn với các bên liên quan đến quá trình điều tra và áp dụng các biện pháp tự vệ theo yêu cầu của họ nhằm tạo điều kiện cho tất cả các bên liên quan trình bày ý kiến và cung cấp thông tin cần thiết. 2. Các bên liên quan không bắt buộc phải có mặt tại các cuộc tham vấn; nếu bên nào không có mặt tại các cuộc tham vấn thì lợi ích của họ liên quan đến biện pháp tự vệ vẫn được bảo đảm. Bƣớc 5. Tiến hành điều tra Việc điều tra phải bảo đảm khách quan, có tính đến các yếu tố đặc trưng của tình hình sản xuất trong nước và làm rõ các nội dung sau đây: - Sự gia tăng nhập khẩu của loại hàng hoá thuộc đối tượng điều tra một cách đột biến về khối lượng, số lượng hoặc trị giá; - Thiệt hại nghiêm trọng hoặc đe doạ gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất trong nước - Quan hệ giữa việc gia tăng hàng hoá nhập khẩu với thiệt hại nghiêm trọng hoặc nguy cơ gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất trong nước. Bƣớc 6. Quyết định của Bộ Thương mại: - Đình chỉ điều tra trong các trường hợp sau đây: + Người có hồ sơ yêu cầu áp dụng biện pháp tự vệ rút hồ sơ trong quá trình điều tra; + Bên nước ngoài liên quan cam kết loại trừ thiệt hại nghiêm trọng hoặc nguy cơ gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất trong nước; - Quyết định áp dụng hoặc không áp dụng các biện pháp tự vệ - Áp dụng biện pháp tự vệ tạm thời trước khi kết thúc điều tra, nếu xét thấy việc chậm thi hành các biện pháp tự vệ gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất trong nước và thiệt hại đó khó có thể khắc phục về sau. - Áp dụng các biện pháp tự vệ Bƣớc 7. Bù đắp thiệt hại 1. Việc bù đắp và mức độ bù đắp thiệt hại do áp dụng các biện pháp tự vệ được thực hiện theo quy định của pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập. 2. Việc bù đắp và mức độ thiệt hại được xác định trên cơ sở kết quả tham vấn giữa các bên liên quan. Bƣớc 8. Rà soát các biện pháp tự vệ 1061
- 3. Thực trạng vận dụng chính sách tự vệ thƣơng mại của Việt Nam (1) Chính phủ Việt Nam áp dụng các biện pháp thương mại nhằm hạn chế hàng nhập khẩu vào Việt Nam Đến cuối năm 2017, Việt Nam đã chủ động kiện tự vệ 6 vụ, trong đó có 1 vụ kính nổi đã tuyên chấm dứt điều tra và không áp đặt biện pháp tự vệ, các vụ kiện khác gồm: vụ tự vệ sản phẩm thép, Bột ngọt và Dầu thực vật đã tuyên áp dụng biện pháp tư vệ, vụ Tôn mầu đang trong tiến trình điều tra. Năm 2018, Việt Nam mới chỉ thực hiện điều tra, khởi kiện 4 vụ việc phòng vệ thương mại liên quan tới chống bán phá giá, chống lẩn tránh thuế, chủ yếu từ thị trường Trung Quốc. Năm 2019, Bộ Công Thương đã khởi xướng điều tra 15 vụ việc phòng vệ thương mại, trong đó gồm 8 vụ việc chống bán phá giá, 6 vụ việc tự vệ và 1 vụ việc chống lẩn tránh thuế tự vệ. Theo điều tra của Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam thì đa phần doanh nghiệp đã có hiểu biết sơ bộ về các biện pháp phòng vệ thương mại (65%), tuy nhiên số doanh nghiệp hiểu sâu để có thể vận dụng các biện pháp này lại rất ít (2%). Với đặc thù của nền kinh tế quy mô nhỏ, nguồn vốn ít, doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm đa số, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ gặp khó khăn rất nhiều trong cuộc đua giành thị trường với các công ty nước ngoài, lại càng không có đủ nguồn lực để theo đuổi các vụ kiện. Vì vậy, không lạ vì sao doanh nghiệp Việt Nam có xu hướng sử dụng biện pháp tự vệ là biện pháp không nhắm thẳng vào doanh nghiệp hay chính phủ nước nào mà chỉ bảo vệ cho nền sản xuất trong nước nói chung. Hộp 1. Vụ kiện áp dụng biện pháp tự vệ phôi thép và thép dài Ngày 25/12/2015, theo yêu cầu của các doanh nghiệp sản xuất, bao gồm: Công ty CP Thép Hòa Phát, Công ty TNHH MTV Thép Miền Nam, Công ty CP Gang thép Thái Nguyên và Công ty CP Thép Việt Ý, Bộ Công Thương đã ban hành quyết định về việc điều tra áp dụng biện pháp tự vệ đối với mặt hàng phôi thép và thép dài. Căn cứ Kết luận sơ bộ của Cơ quan điều tra, ngày 7/3, Bộ Công Thương đã áp dụng biện pháp tự vệ tạm thời đối với sản phẩm phôi thép và thép dài nhập khẩu vào Việt Nam với mức thuế 23,3% đối với phôi thép và 14,2% đối với thép dài dưới dạng thuế nhập khẩu bổ sung. Theo quy định của pháp luật, biện pháp tự vệ tạm thời được áp dụng tối đa trong vòng 200 ngày. Ngày 5/5, thực hiện quy trình luật định, cơ quan điều tra đã tổ chức Phiên tham vấn công khai với sự tham gia của hơn 100 đại diện đến từ các nhà sản xuất trong nước, nhà nhập khẩu, nhà sản xuất/xuất khẩu nước ngoài, cơ quan đại diện ngoại giao các nước và cơ quan quản lý khác. Tại phiên tham vấn, cơ quan điều tra đã ghi nhận toàn bộ các ý kiến ủng hộ cũng như phản đối vụ việc của các bên liên quan và thể hiện những ý kiến này cũng như ý kiến phản hồi của cơ quan điều tra trong bản báo cáo cuối cùng. Ngày 25/6, cơ quan điều tra đã hoàn tất bản báo cáo cuối cùng và trình Bộ trưởng Bộ Công Thương xem xét phê duyệt. Thực hiện quy trình luật định, ngày 11/7, cơ quan 1062
- điều tra cũng đã gửi bản báo cáo cuối cùng tới các bên liên quan để đóng góp ý kiến và trình bày quan điểm, kiến nghị của mình. Theo kết luận của cơ quan điều tra tại báo cáo cuối cùng, nhập khẩu phôi thép và thép dài vào Việt Nam, đặc biệt là phôi thép, đã có sự gia tăng đột biến trong giai đoạn 2012-2015, đặc biệt là năm 2015. Trên cơ sở tổng hợp các chỉ số đánh giá thiệt hại theo quy định của WTO và Pháp lệnh về Tự vệ của Việt Nam, đã xảy ra thiệt hại nghiêm trọng đối với các nhà sản xuất phôi thép và thép dài của Việt Nam trong giai đoạn 2012-2015, đặc biệt là năm 2015. Đồng thời, có tồn tại mối quan hệ nhân quả rõ ràng giữa sự gia tăng của hàng nhập khẩu và thiệt hại của ngành sản xuất trong nước. Sau khi xem xét các phân tích, đánh giá trong bản báo cáo cuối cùng của cơ quan điều tra, ý kiến đóng góp của các cơ quan quản lý và quan điểm, kiến nghị của các bên liên quan, ngày 18/7, Bộ Công Thương đã ban hành về việc áp dụng biện pháp tự vệ chính thức. Theo quyết định này, mức thuế tự vệ chính thức đối với phôi thép được giữ nguyên ở mức 23,3%, trong khi mức thuế đối với thép dài tăng nhẹ từ 14,2% lên 15,4%. Theo quy định của Hiệp định Tự vệ của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) mà Việt Nam là thành viên, Bộ Công Thương cũng đã quyết định lộ trình áp thuế tự vệ theo hướng giảm dần đối với các mặt hàng phôi thép và thép dài. Cụ thể, đối với phôi thép mức thuế 23,3% sẽ được duy trì tới 21/3/2017, sau đó giảm dần và về 0% từ 22/3/2020. Tương tự, với thép dài mức thuế tự vệ 14,2% được áp dụng đến 21/3/2017 và về 0% từ 22/3/2020. Nguồn: Tác giả tổng hợp - Quyết định áp dụng biện pháp tự vệ đã giúp các doanh nghiệp thép Việt Nam thoát khỏi tình trạng phá sản, thiệt hại nghiêm trọng. - Thuế tự vệ cho sản phẩm thép không phải là vĩnh viễn và giảm dần đến năm 2020, nhưng đây là khoảng thời gian giúp cho doanh nghiệp thép ―duy tu bảo dưỡng‖ lại năng lực của mình để có thể cạnh tranh với các doanh nghiệp ngoại. - Để theo đuổi điều tra, rất cần sự hợp tác của doanh nghiệp trong việc cung cấp thông tin, chuẩn bị hồ sơ. Đặc biệt là cần sự nhận thức của doanh nghiệp về lợi ích của biện pháp tự vệ. (2) chính phủ Việt Nam đối phó với việc chính phủ nước ngoài áp dụng biện pháp tự vệ đối với hàng hóa của Việt Nam nhập khẩu vào nước họ. Tính đến cuối năm 2017, số lượng biện pháp tự vệ mà nước ngoài kiện Việt Nam lên tới 18 vụ, nhiều gấp 3 lần so với Việt Nam đi kiện nước khác. Thống kê từ Cục Phòng vệ thương mại (Bộ Công Thương), tính đến tháng 12/2018, đã có hơn 140 vụ việc khởi xướng điều tra phòng vệ thương mại liên quan tới hàng xuất khẩu của Việt Nam. Chủ yếu tập trung vào kiện chùm, kiện chống lẩn tránh thuế, kiện domino, kiện kép (kiện đồng thời chống bán phá giá và chống trợ cấp).Điển hình một số vụ việc có tác động tiêu cực đến sản xuất của doanh nghiệp trong nước như Hoa Kỳ điều tra áp dụng biện pháp tự vệ với pin năng lượng mặt trời, thép cán nguội và thép carbon chống mòn, tôm, cá da trơn 1063
- Australia điều tra chống bán phá giá với dây thép; Canada điều tra chống bán phá giá và chống trợ cấp đối với sản phẩm khớp nối bằng đồng của Việt Nam Năm 2019, Bộ Công Thương cho biết đến hết tháng 11/2019, đã có 154 vụ việc phòng vệ thương mại được khởi xướng điều tra bởi 19 quốc gia và vùng lãnh thổ đối với hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam. Đáng chú ý, trong số đó, Hoa Kỳ là nước khởi xướng điều tra nhiều nhất (30 vụ, chiếm 19%); thứ hai là Thổ Nhĩ Kỳ (21 vụ, chiếm 14%); thứ ba là Ấn Độ (20 vụ, chiếm 13%) và thứ tư là EU (14 vụ, chiếm 9%).Dẫn đầu là các vụ việc điều tra chống bán phá giá (87 vụ việc, chiếm 56%); tiếp đó là các vụ việc tự vệ (33 vụ, chiếm 21%); thứ ba là các vụ việc chống lẩn tránh thuế chống bán phá giá (19 vụ việc, chiếm 13%) và cuối cùng là các vụ việc chống trợ cấp (15 vụ việc, chiếm 10 %). Hộp 2. Philipin áp dụng biện pháp tự vệ đối với kính nổi của Việt Nam Khởi nguồn của việc áp dụng các biện pháp tự vệ này là 2003, Hiệp hội Kính nổi Philipines đã yêu cầu Bộ Công thương nước này áp dụng biện pháp tự vệ đối với các sản phẩm kính nổi. Trong quá trình điều tra sơ bộ từ 5/2003 – 9/2003, Philippines quyết định sẽ áp dụng các biện pháp tạm thời nhưng Việt Nam được đưa vào danh sách các nước được miễn áp dụng. Từ 9/2003 – 3/2004, Ủy ban Thuế quan Philippines đã tiến hành điều tra chính thức và đến ngày 14/4/2004, Philippines ra quyết định chính thức áp dụng biện pháp tự vệ có hiệu lực hồi tố từ 13/10/2003 là thời điểm bắt đầu áp dụng các biện pháp tạm thời. Đối tượng áp dụng là một số nước trên thế giới trong đó có Việt Nam. Mức thuế cụ thể, năm thứ nhất, kính không nổi không màu là 4,63% và kinh nổi phủ màu là 5,85%; năm thứ hai lần lượt là 4,4% và 5,56%, năm thứ 3 là 4,18% và 5,28% Có sự thay đổi này là do trong thời gian các nước bị áp dụng biện pháp tự vệ tạm thời, xuất khẩu của Việt Nam vào Philippines tăng mạnh lên đến 11,86% tổng nhập khẩu sản phẩm này của Philippines. Do vậy, khi ban hành quyết định chính thức ngày 14/4/2004, Philippines đã quyết định loại Việt Nam ra khỏi danh sách các nước được miễn áp dụng biện pháp tự vệ đối với sản phẩm kính nổi không màu. Từ đầu năm 2006, Bộ Công thương Philippines tiến hành rà soát việc áp dụng các biện pháp tự vệ đối với sản phẩm kính nổi. Và Pháp lệnh mới đã điều chỉnh lại danh sách các nước được miễn áp dụng biện pháp tự vệ đối với kính nổi. Theo danh sách mới này, các nước ASEAN gồm Brunei Darusalam, Cambodia, Lào và Myanmar được miễn áp dụng các biện pháp tự vệ đối với kính nổi không màu. Malaysia và Ấn Độ trước đây được miễn áp dụng nay đã bị loại ra khỏi danh sách do nhập khẩu của hai nước này tăng lên quá 3% tổng nhập khẩu của Philippines. Việt Nam vẫn nằm trong danh sách các nước bị áp dung các biện pháp tự vệ. Ngày 25 tháng 9 năm 2012 Bộ Công Thương Philippines (DTI) đã ban hành Quyết định giảm thuế đối với 2 giai đoạn cuối của giai đoạn thực thi biện pháp tự vệ áp dụng đối với sản phẩm kính nổi (với mã HS 7005.2990 và 7005.2190) Năm 2012, Philippines rà soát biện pháp tự vệ hiện tại áp dụng đối với sản phẩm kính nổi. Nguồn: Tác giả tổng hợp 1064
- - Thực tiễn giải quyết tranh chấp liên quan đến biện pháp tự vệ cho thấy các cơ quan có thẩm quyền của nước nhập khẩu hàng thường bị khiếu kiện về những hoạt động điều tra, phân tích để đi tới áp dụng biện pháp tự vệ, gồm: vi phạm do việc xác định căn cứ áp dựng biện pháp tự vệ (xác định ngành công nghiệp trong nước bị ảnh, xác định sự tăng nhập khẩu đột biến, xác định thiệt hại, mối quan hệ giữa tăng nhập khẩu và thiệt hại - Cơ qua điều tra cần tuân thủ nghĩa vụ cung cấp thông tin, không phân biệt đối xử trong áp dụng biện pháp tự vệ, phương pháp tiến hành điều tra. - Hiện trạng giải quyết tranh chấp về biện pháp tự vệ cho thấy việc phân tích đánh giá sự việc hết sức phức tạp, trong khi các quy định trong luật phát Việt Nam còn sơ sài Đằng sau việc áp dụng biện pháp tự vệ là việc bảo hộ có điều kiện ngành sản xuất nội địa nước nhập khẩu trước sự gia tăng đột biến của hàng nhập khẩu. Vì vậy, để đối phó với nguy cơ bị áp dụng các biện pháp tự vệ, các doanh nghiệp xuất khẩu cần: - Doanh nghiệp cần phải chủ động phối hợp với cơ quan đầu mối thay mặt chính phủ tham gia tranh chấp trong việc chuẩn bị hồ sơ, cung cấp thông tin trong nước. - Doanh nghiệp cần phải có hiểu biết chung về biện pháp tự vệ là gì. Cần phải nhận biết về sự tồn tại của nguy cơ bị kiện tại các thị trường xuất khẩu và cơ chế vận hành của chúng, nhóm thị trường và mặt hàng thường bị kiện. - Doanh nghiệp cần phải xây dựng chiến lược trong kinh doanh một cách cụ thể và bài bản. Cần phải tính đến khả năng bị kiện khi xây dựng chiến lược xuất khẩu hàng hoá của mình để có kế hoạch chủ động phòng ngừa và xử lý khi không phòng ngừa được, ví dụ đa dạng hoá thị trường xuất khẩu, tránh phát triển quá nóng một thị trường, tăng cường cạnh tranh bằng chất lượng, tiến tới giảm dần cạnh tranh bằng giá rẻ - Doanh nghiệp tích cực hợp tác khi vụ kiện xảy ra. Phối hợp, liên kết với các doanh nghiệp có cùng mặt hàng xuất khẩu để có chương trình, kế hoạch đối phó chung đối với các vụ kiện có thể xảy ra; sử dụng các chuyên gia tư vấn và luật sư trong những tình huống cần thiết và thích hợp; giữ liên hệ với cơ quan quản lý nhà nước về thương mại để các cơ quan này có tiếng nói bảo vệ quyền lợi tốt hơn cho doanh nghiệp, kể cả việc đàm phán các hiệp định có cam kết không áp dụng hoặc hạn chế áp dụng biện pháp tự vệ đối với hàng hoá của nhau, bày tỏ quan điểm đối với các nước áp dụng biện pháp tự vệ đối với hàng hoá của Việt Nam, yêu cầu có bồi thường quyền lợi thương mại khi có việc nước khác áp dụng biện pháp tự vệ. 4. Đề xuất giải pháp nhằm thúc đẩy vận dụng chính sách tự vệ thƣơng mại của Việt Nam 4.1. Hoàn thiện văn bản quy phạm pháp luật về tự vệ thương mại Như đã phân tích ở chương 3, không có quy định nào của pháp luận về tự vệ của Việt Nam trái hay mâu thuẫn với quy định của WTO. Tuy nhiên, do các chế định hiện tại còn chưa được chi tiết, cụ thể hóa nên có thể có vẫn đề nảy sinh trong quá trình thực thi và áp dụng các biện pháp tự vệ. Hơn nữa, theo cam kết của Việt Nam với WTO về phòng vệ thương mại, các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam về tự vệ thương mại cần phải đảm bảo phù hợp hoàn toàn với các quy định lien quan trong Hiệp định về các biện pháp tự 1065
- vệ thương mại của WTO. Vì vậy, cần tiếp tục hoàn thiện pháp luật Việt Nam về tự vệ thương mại theo hướng vừa phù hợp với các quy định của WTO, vừa thuận lợi cho quá trình triển khai và áp dụng. Cụ thể: Thứ nhất, Pháp lệnh về tự vệ chỉ quy định về quyền tự vệ của Việt Nam mà chưa đề cập đến các quy định trong trường hợp nào thì Việt Nam sẽ áp dụng biện pháp trả đũa một nước nếu nước đó đã áp dụng biện pháp tự vệ không có căn cứ hoặc điều kiện áp dụng trái với nguyên tắc và quy định trong các Hiệp định song phương giữa nước đó với Việt Nam. Việc bổ sung quy định này vào Pháp lệnh trong thời gian tới hoặc xây dựng riêng một văn bản về trả đũa trong thương mại là vô cùng cần thiết để bảo vệ quyền lợi của các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam. Thứ hai theo quy định của Pháp lệnh tự vệ thì các biện pháp tự vệ được áp dụng không phân biệt đối xử và không phân biệt xuất xứ hàng hoá trừ trường hợp ngoại lệ là các biện pháp tự vệ có thể không áp dụng đối với hàng hoá có xuất xứ từ những nước kém phát triển. Về mặt lý luận, quy định này phù hợp với các quy tắc và thông lệ của các nước trên thế giới cũng như của WTO. Tuy nhiên, trên thực tế, việc áp dụng quy định này lại nảy sinh ra một số khó khăn nhất định, chẳng hạn, trong số các nước có lượng hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam thì chỉ có một số nước có lượng nhập khẩu tăng mạnh trong khi thị phần nhập khẩu của các nước khác không tăng thậm chí còn giảm đi. Việc áp dụng biện pháp hạn ngạch dựa trên tỷ lệ hàng hoá nhập khẩu sẽ gây bất lợi đối với một số nước có lượng nhập khẩu vào Việt Nam giảm đi trong khi những nước có lượng nhập khẩu tăng mạnh thì sẽ ít bị ảnh hưởng hơn bởi quyết định của nước áp dụng biện pháp tự vệ. Việt Nam cần nghiên cứu bổ sung thêm ngoại lệ này bằng cách đưa thêm vào Pháp lệnh quy định việc phân bổ hạn ngạch, thỏa thuận áp dụng hạn ngạch chỉ đối với một số nước có thị phần nhập khẩu tăng lên một cách tuyệt đối hay tương đối so với lượng nhập khẩu trung bình trong khoảng thời gian 3 năm trước đó. Hơn nữa, Việt Nam cũng nên quy định bổ sung thêm vào khoản 2 điều 21 Pháp lệnh về tự vệ năm 2002 trường hợp nếu thị phần nhập khẩu từ các nước kém phát triển vượt quá bao nhiêu phần trăm thì có thể vẫn áp dụng một biện pháp tự vệ nhằm mục đích kiểm soát được lượng hàng hoá nhập khẩu từ những nước này. 4.2. Nâng cao năng lực của bộ máy thực thi pháp luật về tự vệ thương mại Để áp dụng được các biện pháp tự vệ thương mại, chúng ta cần nhanh chóng đào tạo nguồn nhân lực ở nhiều lĩnh vực khác nhau liên quan tới triển khai áp dụng các biện pháp tự vệ. Cụ thể: - Cần có kế hoạch đào tạo sớm các luật sư chuyên về thương mại quốc tế để đội ngũ này có thể tham gia giải quyết tranh chấp liên quan tới việc áp dụng các biện pháp tự vệ. - Đội ngũ cán bộ tham gia trực tiếp vào quá trình điều tra phải có trình độ chuyên môn sâu và nhiều kinh nghiệm. Do đó, cần liên tục được đào tạo về lý thuyết và tập huấn kinh nghiệm. Bộ Công thương cần hoàn thiện và củng cố bộ máy cũng như đào tạo nguồn nhân lực của Cục Quản lý cạnh tranh và Hội đồng xử lý vụ việc để giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình áp dụng các biện pháp tự vệ. Đồng thời, tổ chức các khóa đào tạo về tự vệ thương mại cho cán bộ thuộc Bộ Công thương và các bộ ngành liên quan. 1066
- - Đối với các doanh nghiệp, cần nâng cao năng lực nguồn nhân lực của mình thong qua các khóa đào tạo do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) tổ chức, một mặt nâng cao hiểu biết về tự vệ thương mại để có thể bảo vệ quyền lợi của mình, một mặt chủ động phòng tránh và đối phó với các vụ kiện tự vệ ở nước ngoài. Các doanh nghiệp nên sớm tạo cho mình thế chủ động trong mọi tình huống. Bên cạnh sự trợ giúp của các cơ quan Nhà nước hay các Hiệp hội cùng ngành nghề, các doanh nghiệp cũng cần tự tìm hiểu và chuẩn bị cho mình đầy đủ các thông tin kiến thức về chủ trương, chính sách tự vệ thương mại của Việt Nam nói riêng và tình hình tự vệ thương mại của thế giới nói chung để trên cơ sở đã hiểu sâu bản chất, nắm bắt kịp thời vấn đề, có thể chủ động đối phó lại với những tình huống khi bị nước khác áp dụng biện pháp tự vệ cũng như khi cần thiết phải yêu cầu Nhà nước sử dụng biện pháp tự vệ để bảo vệ quyền và lợi ích của doanh nghiệp. 4.3. Nâng cao năng lực nhận thức và phối hợp của các doanh nghiệp trong vấn đề khởi kiện và yêu cầu áp dụng các biện pháp tự vệ thương mại Vấn đề tự vệ thương mại là một vấn đề còn rất mới mẻ trong nhận thức của các cơ quan từ cấp Nhà nước xuống cấp doanh nghiệp của Việt Nam. Từ trước khi ban hành Pháp lệnh về tự vệ năm 2002 trở về trước, ở Việt Nam chưa hề có một văn bản bản nào quy định hay giải thích về vấn đề này. Sự hiểu biết về vấn đề liên quan đến các biện pháp tự vệ ngay trong các cơ quan và công chức hoạch định chính sách thương mại cũng còn rất hạn chế. Kể từ khi ban hành Pháp lệnh tự vệ tháng 5 năm 2002 đến nay, tình hình đã được cải thiện đôi chút. Tuy nhiên, sự nhận thức về vấn đề này còn chưa phổ biến và chưa thực sự có chiều sâu. Tự vệ thương mại được xem là công cụ hữu hiệu nhằm đối phó với việc hàng ngoại nhập tràn vào một cách ồ ạt làm suy giảm nền sản xuất trong nước. Đây là giải pháp được nhiều nước trên thế giới áp dụng và được cho phép trong thương mại quốc tế. Tuy nhiên, ở Việt Nam, vấn đề này vẫn còn khá mới mẻ và chưa được áp dụng nhiều. Thực tế cho thấy, từ năm 2002, khi Việt Nam ban hành Pháp lệnh 42/2002/PL- UBTVQH10 về phòng vệ thương mại, đến nay chỉ mới có ba doanh nghiệp nộp đơn yêu cầu áp dụng biện pháp này trước tình trạng hàng nhập khẩu gây nhiều thiệt hại, gồm một vụ kiện đối với mặt hàng kính nổi năm 2009, nhưng kết quả không đủ cơ sở để áp dụng biện pháp tự vệ; vụ kiện dầu ăn vừa được Cục Quản lý cạnh tranh áp dụng biện pháp tự vệ chính thức vừa qua và vụ kiện đối với mặt hàng thép không gỉ đang được cục này xem xét. Về vụ kiện Công ty Viglacera yêu cầu áp dụng biện pháp tự vệ đối với mặt hàng kính nổi nhập khẩu, sau hai tháng Cục Quản lý cạnh tranh tiến hành điều tra, Bộ Công thương ra quyết định sẽ không áp dụng biện pháp tự vệ đối với mặt hàng này do chưa đủ cơ sở chứng minh kính nổi nhập khẩu đe dọa nền sản xuất trong nước. Đây cũng chính là điểm yếu nhất của các doanh nghiệp Việt Nam khi tiến hành các vụ kiện áp dụng biện pháp tự vệ. Vụ việc cho thấy doanh nghiệp Việt Nam chưa thực sự tận dụng được biện pháp tự vệ thương mại để bảo vệ mình do đây còn là vấn đề khá mới mẻ. Do vậy, các doanh nghiệp Việt Nam thiếu kinh nghiệm trong việc khởi kiện, tìm hiểu, thu thập dữ liệu chứng minh về thiệt hại kinh tế đối với mình. 1067
- Xuất phát từ thực tế trên, trong bối cảnh hội nhập mạnh mẽ như hiện nay, việc nâng cao nhận thức của các doanh nghiệp là hết sức cần thiết để có thể chủ động tiến hành khởi kiện cũng như ứng phó với các tranh chấp thương mại trong tương lai. Để làm được điều này cần có sự phối hợp đồng bộ của Nhà nước và các doanh nghiệp. Cụ thể: * Tư vấn và hỗ trợ các doanh nghiệp những thông tin về tự vệ thương mại Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần sớm ban hành những văn bản thông tin có liên quan đến vấn đề tự vệ thương mại trong nước và quốc tế để nâng cao sự hiểu biết, đồng thời hướng dẫn, tư vấn cho các doanh nghiệp trong việc nhận biết các nguy cơ, điều kiện để áp dụng biện pháp tự vệ cũng như các thủ tục cần thiết để yêu cầu áp dụng tự vệ và các nghĩa vụ cần phải làm để trợ giúp các cơ quan chức năng trong quá trình điều tra áp dụng biện pháp tự vệ đó. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam cần tăng cường tuyền truyền, phổ biến pháp luật về các biện pháp tự vệ thương mại của Việt Nam và thế giới; đào tạo, hỗ trợ kỹ thuật cho các doanh nghiệp, hiệp hội ngành hang Việt Nam dưới nhiều hình thức khác nhau như: tổ chức các khóa đào tạo ngắn ngày, hội thảo, tọa đàm theo chuyên đề Trên thực tế, VCCI đã tổ chức một số khóa học, hội thảo chuyên đề nhằm bồi dưỡng kiến thức về tự vệ thương mại của một số quốc gia cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên, số lượng các khóa học còn ít và mới chỉ tập trung ở một số thành phố lớn. Trong thời gian tới, VCCI cần tổ chức nhiều hơn nữa, mở rộng ra nhiều tỉnh thành và cho nhiều đối tượng hơn. Nội dung các khóa đào tạo cũng cần đa dạng hơn, đi sâu hơn vào các vấn đề mang tính chi tiết, kỹ thuật nhằm thực thi pháp luật về tự vệ của Việt Nam như: vấn đề thu thập chứng cứ, lập hồ sơ yêu cầu áp dụng biện pháp tự vệ VCCI cần tăng cường sự phối hợp với Cục Quản lý cạnh tranh nhằm tư vấn hỗ trợ doanh nghiệp, hiệp hội trong việc lựa chọn luật sư, công ty tư vấn luật phù hợp trong quá trình khởi kiện và điều tra áp dụng biện pháp tự vệ. * Chủ động tham gia vào các Hiệp hội Doanh nghiệp để tăng cường sức mạnh trong tự vệ thương mại Hiện nay ở Việt Nam, Hiệp hội các doanh nghiệp cùng ngành nghề đã ra đời. Việc thành lập này có ý nghĩa rất quan trọng khi xảy ra tranh chấp thương mại với các doanh nghiệp nước ngoài. Thực trạng hiện nay là tuy các doanh nghiệp đã hợp tác với nhau trong các hoạt động thương mại quốc tế nhưng sự hợp tác này chỉ dựa trên mức độ nhất định, còn nặng về quản lý hành chính và mang tính ―câu lạc bộ‖ chứ chưa thực sự là nơi các chủ doanh nghiệp có thể tin tưởng trao thẩm quyền nhất định. Qua các vụ kiện về bán phá giá cá tra, cá ba sa với Hoa Kỳ, vụ bán phá giá bật lửa ga với Hàn quốc, vụ giầy dép với Canada chúng ta hơn lúc nào hết ý thức được rằng việc thành lập các hiệp hội cùng ngành nghề hay hiệp hội doanh nghiệp là rất cần thiết. Thông qua hiệp hội, các nhà sản xuất sẽ dễ dàng hơn trong việc nộp đơn yêu cầu cơ quan chức năng điều tra và áp biện pháp tự vệ. Ngoài ra, chính các hiệp hội mới có nhiều điều kiện để cung cấp và thẩm định thông tin liên quan tới nhà xuất khẩu. 1068
- * Khẩn trương tìm hiểu, chuẩn bị đầy đủ hồ sơ, b ng chứng để yêu cầu tiến hành áp dụng biện pháp tự vệ hay biện pháp trả đ a Các doanh nghiệp giữ vai trò quan trọng trong việc điều tra áp dụng biện pháp tự vệ bởi đây là những đối tượng chịu ảnh hưởng trực tiếp của việc hàng hoá nhập khẩu gia tăng hay chịu tác động bất lợi trực tiếp bởi việc áp dụng các biện pháp tự vệ của các nước khác. Doanh nghiệp là những nhân tố chính trong cuộc điều tra và đưa ra những bằng chứng trong quá trình điều tra. Chính vì vậy, các doanh nghiệp cần phải có những hành động sau: - Giám sát thường xuyên tác động của hàng nhập khẩu đối với ngành công nghiệp nội địa. Thông báo ngay lập tức khi có sự thiệt hại nghiêm trọng hay sự đe dọa gây ra thiệt hại nghiêm trọng xuất phát từ việc gia tăng của lượng hàng nhập khẩu. Tiếp xúc với cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước, cụ thể Bộ Công thương để đưa đơn kiến nghị và yêu cầu điều tra, áp dụng biện pháp tự vệ. - Khi công việc điều tra bắt đầu, các doanh nghiệp chịu trách nhiệm chính trước ngành sản xuất nội địa về việc khẩn trương tìm hiểu, chuẩn bị đầy đủ và cung cấp các bằng chứng liên quan đến thiệt hại nghiêm trọng và mối quan hệ nhân quả giữa việc gia tăng nhập khẩu và sự tổn hại nghiêm trọng cho Bộ Công Thương. - Để đề phòng việc áp dụng biện pháp tự vệ của một nước khác, các doanh nghiệp cũng nên thiết lập một hệ thống thu thập, thống kê định kỳ về việc sản xuất và buôn bán các sản phẩm nhạy cảm ở các nước khác. Việc theo dõi những mặt hàng và thông tin đăng tải trên báo chí cũng rất hữu ích. Tất cả những thông tin đó có thể cảnh báo trước về một cuộc điều tra áp dụng biện pháp tự vệ sắp được tiến hành. - Khi công việc điều tra được tiến hành, các doanh nghiệp phải trình bày vấn đề trước các cơ quan có thẩm quyền. Do vậy, doanh nghiệp cần chuẩn bị đầy đủ bằng chứng, chứng cứ, thông tin, ý kiến đóng góp để sử dụng khi cần thiết. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Tranh chấp về Chống bán phá giá trong WTO, Hội đồng Tư vấn về Phòng vệ Thương mại (Hội đồng TRC) thuộc Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, 2013. 2. Biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế, VCCI, 2016 3. Pháp lệnh 42/2002/PL-UBTVQH10 ngày 11/ 06/ 2002 về tự vệ trong nhập khẩu hàng hóa nước ngoài vào Việt Nam 4. Nghị định 150/2003/NĐ-CP ngày 8/12/2003 quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh tự vệ trong nhập khẩu hàng hóa nước ngoài vào Việt Nam 5. Nghị định 04/2006/NĐ-CP về việc thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của Hội đồng xử lý vụ việc chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ 6. Nghị định 06/2006/NĐ-CP về việc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục quản lý cạnh tranh. 7. Luật Quản lý Ngoại Thương số 05/2017 /QH14 1069