Chuẩn bị cho giáo viên trước đổi mới giáo dục hóa học trung học hiện nay tại Việt Nam

pdf 10 trang Hùng Dũng 05/01/2024 130
Bạn đang xem tài liệu "Chuẩn bị cho giáo viên trước đổi mới giáo dục hóa học trung học hiện nay tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfchuan_bi_cho_giao_vien_truoc_doi_moi_giao_duc_hoa_hoc_trung.pdf

Nội dung text: Chuẩn bị cho giáo viên trước đổi mới giáo dục hóa học trung học hiện nay tại Việt Nam

  1. Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 59 năm 2014 ___ CHUẨN BỊ CHO GIÁO VIÊN TRƯỚC ĐỔI MỚI GIÁO DỤC HÓA HỌC TRUNG HỌC HIỆN NAY TẠI VIỆT NAM ĐÀO THỊ HOÀNG HOA* TÓM TẮT Bài viết này đề cập đến các tiền đề về mặt chính trị (Nghị quyết Đổi mới giáo dục của Đảng), giáo dục và kinh tế xã hội dẫn đến nhu cầu cần phải đổi mới giáo dục hóa học trung học tại Việt Nam. Trong công cuộc đổi mới, giáo viên giữ vai trò đặc biệt quan trọng và vì thế họ cần được chuẩn bị tốt về mặt tư tưởng, kiến thức và kĩ năng để đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo nói chung đổi mới giáo dục hóa học nói riêng. Từ khóa: đổi mới giáo dục, hóa học, đào tạo giáo viên. ABSTRACT Preparing teachers for current chemistry education innovation in secondary schools in Vietnam This paper presents background information related to the political (the Party’s Resolution of Education Innovation), educational, economic and social context that lead to the innovative demand in chemistry education in secondary schools in Vietnam. In the process of innovation, teachers are believed to play a key role and therefore they need to be well-prepared in terms of attitudes, knowledge and skills to meet the need of innovation in education and training in general and chemistry in particular. Keywords: education innovation, chemistry, teacher training. 1. Tiền đề cho đổi mới giáo dục hóa đánh giá là “xứng tầm một cuộc cách học trung học mạng”. Nghị quyết bao gồm mục tiêu 1.1. Nghị quyết đổi mới giáo dục căn chung và mục tiêu cụ thể cho các cấp bản và toàn diện học, cùng với 9 nhiệm vụ trọng tâm và Tháng 11 năm 2013, Ban chấp hành các giải pháp thực hiện. Mục tiêu đối với Trung ương khóa XI đã ban hành Nghị giáo dục phổ thông là tập trung phát triển quyết Hội nghị lần thứ 8 (Nghị quyết số trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, 29-NQ/TW) (sau đây gọi là Nghị quyết) năng lực công dân, phát hiện và bồi với nội dung đổi mới căn bản, toàn diện dưỡng năng khiếu, định hướng nghề giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu nghiệp cho học sinh. Bên cạnh đó cần công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều bảo đảm cho học sinh có trình độ trung kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội học cơ sở (hết lớp 9) có tri thức phổ chủ nghĩa và hội nhập quốc tế [2]. Cuộc thông nền tảng, đáp ứng phân luồng đổi mới giáo dục toàn diện lần này được mạnh sau trung học cơ sở; trung học phổ Bộ trưởng Bộ giáo dục Phạm Vũ Luận thông phải tiếp cận nghề nghiệp và * ThS, Trường Đại học Sư phạm TPHCM 124
  2. Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Đào Thị Hoàng Hoa ___ chuẩn bị cho giai đoạn học sau phổ thì khi thực hiện chương trình dạy học thông có chất lượng [2]. Trong mục tiêu như thế này đã xuất hiện cuộc khủng nói trên có hai điểm nổi bật như sau: hoảng khoa học ở nhiều nước phát triển Thứ nhất, nghị quyết đã nhấn mạnh như Úc, Hoa Kì và các nước châu Âu. Từ về triết lí giáo dục coi trọng việc đào tạo “khủng hoảng” được sử dụng bởi chính năng lực con người, từ đào tạo nặng về phủ, ngành công nghiệp và các nhà giáo tri thức như trước đây sang hình thành dục nhằm mô tả sự giảm sút đáng kể năng lực công dân và đây là một quan lượng học sinh đăng kí học các môn khoa điểm tiến bộ làm nền tảng cho các vấn đề học sau thời gian học tập bắt buộc ở bậc khác. Việc đặt ra mục tiêu dạy học hình trung học cơ sở. Tự bản thân vấn đề này thành năng lực người học đã được đưa ra sẽ không phải là nghiêm trọng nếu như ở nhiều nước trên thế giới, chẳng hạn chúng ta không xem xét nó đang xảy ra trong một nghiên cứu của Becker (2013a) trong bối cảnh các nước có sự gia tăng [4] cho thấy ở Đức, năng lực người học nhanh chóng nhu cầu về khoa học và (competence) thể hiện 4 khía cạnh sau: công nghệ. Vì thế, đã có nhiều lời kêu gọi kiến thức và việc vận dụng kiến cải cách được thực hiện ở cấp độ quốc thức, gia và khu vực, chẳng hạn như Hội thảo hình thành các kĩ năng tư duy, “Thúc đẩy dạy học khoa học – Những gì kĩ năng giao tiếp, cần phải làm?” (“Boosting science kĩ năng đánh giá. learning – What will it take?) (2006) của Quá trình xây dựng chuẩn năng lực Hội đồng Úc Châu về nghiên cứu giáo học tập ở nước Đức được tiến hành như dục (Australian Council for Educational sau: Bước 1: xây dựng mẫu các khía cạnh Research) [9]; các nghiên cứu của Becker năng lực. Bước 2: thực nghiệm các mô (2013a,b) về giáo dục hóa học bền vững, hình mẫu này để xem chúng có khả thi và có ý nghĩa và hướng tới người học ở Đức có hiệu lực hay không. Bước 3: lên kế [4,5]; hay Dự án PARSEL về Thúc đẩy hoạch dạy học để đạt được các tiêu chuẩn giáo dục khoa học và tăng cường sự yêu này. Chương trình mới hoàn toàn sẽ là thích và liên quan của dạy và học khoa dạy học định hướng tiêu chuẩn và theo học (Popularity and Relevance of Science đó nội dung dạy học sẽ được thiết kế lại Education for Scientific Literacy- [4]. PARSEL) (2009) của các nước châu Âu Thứ hai, giáo dục trung học sẽ [10]. Điều này lưu ý chúng ta cần phải được chia theo hai giai đoạn: bắt buộc ở đổi mới dạy học các môn khoa học tự cấp trung học cơ sở và phân hóa, định nhiên nói chung và môn hóa học nói hướng nghề nghiệp ở cấp trung học phổ riêng sao cho thu hút học sinh và khiến thông. Việc chia hai giai đoạn thế này là các em tiếp tục chọn học các môn này ở hợp lí, tiết kiệm, đi vào trọng tâm giáo cấp học cao hơn. dục và phù hợp với sự phát triển của thế 1.2. Thực trạng dạy và học hóa học giới. Tuy nhiên theo kinh nghiệm thế giới hiện nay ở Việt Nam 125
  3. Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 59 năm 2014 ___ Giáo dục Việt Nam đang bị phê sinh ở vị trí trung tâm. phán không hợp yêu cầu với thực tế xã Các kết quả thu được khi quan sát hội. Ở bậc trung học, học sinh phải học các giáo viên tập giảng khá thú vị nhưng quá nhiều nhưng hiệu quả không cao. cũng không nằm ngoài dự kiến. Đa số Hoàng Tụy nói rằng “Giáo dục của ta các thầy cô, mặc dù giảng bằng tiếng đang lạc điệu với thế giới văn minh” [3]. Anh, đều giảng theo phong cách “rất Việt Văn hóa Khổng và Nho giáo in đậm Nam”. Các bài giảng được dịch từ trong lớp học với vai trò người thầy gần chương trình hóa học của Việt Nam và như là tuyệt đối và lối dạy học chủ yếu là được tiến hành chủ yếu theo lối truyền một chiều, mặc dù đã có nhiều lời kêu thụ một chiều. Các câu hỏi nhằm khơi gọi cải cách cần hướng đến học sinh gợi trí tò mò và tư duy phản biện, lập nhiều hơn. luận của học sinh rất hạn chế, nội dung Tác giả bài viết này đã tiến hành tập trung chủ yếu vào việc viết các nghiên cứu trường hợp (case study) đối phương trình phản ứng và giải các bài với một nhóm các giáo viên hóa học phổ toán hóa học phức tạp với những con số thông tham gia khóa học Dạy học hóa không phản ánh được bản chất thực của học bằng tiếng Anh. Mục đích ban đầu hóa học. Các thầy cô mặc dù biết các của nghiên cứu trường hợp này tuy không điểm yếu này, thừa nhận họ và đồng phải để đánh giá thực trạng dạy học hóa nghiệp khó lòng dạy khác được vì nhiều học ở Việt Nam nhưng kết quả thu được lí do; chẳng hạn vì thói quen, vì sức ép lại cho thấy phần nào thực trạng này. Số thi cử, vì chương trình quá nặng, vì phải lượng giáo viên là 16 người có thành chuẩn bị bài lâu, và nhiều lí do khác nữa. phần khá đa dạng, xét về giới tính (thầy Trong số các lí do kể trên, chúng tôi và cô giáo), kinh nghiệm (từ các giáo nhận định rằng nguyên nhân cơ bản làm viên trẻ mới ra trường đến người sắp về giáo viên khó có thể đổi mới triệt để hưu), loại hình trường (trường tư, trường phương pháp dạy học chính là việc kiểm công lập và trường chuyên), khu vực (ở tra đánh giá hiện nay ở Việt Nam. Theo Thành phố Hồ Chí Minh và các khu vực Vũ Thị Phương Anh [1] cho rằng hiện lân cận). Mỗi giáo viên đều phải soạn và nay nền giáo dục nước ta đang áp dụng giảng bằng tiếng Anh một nội dung hóa cách đánh giá đặt nặng khả năng ghi nhớ học tự chọn ở bất cứ chương trình nào, có và tái hiện, nhằm vào khâu cuối của quá thể là chương trình hóa học của Việt trình dạy học và chỉ phục vụ cho công tác Nam, chương trình quốc tế hay chương quản lí như xếp hạng, cho lên lớp hay xét trình của quốc gia khác. Trước đó, giảng tốt nghiệp đã khiến cho vai trò phát triển viên phụ trách khóa học giới thiệu cho năng lực người học của kiểm tra đánh giá học viên các bài giảng hóa học ở Hoa Kì bị bỏ qua. Nguyễn Kim Dung [7] chỉ ra và giảng mẫu (demo) các nội dung của rằng chính việc thực hiện kiểm tra đánh các chương trình hóa học quốc tế theo giá một cách lạc hậu, thiếu khách quan và phương pháp dạy học tích cực, đặt học thiếu chính xác theo phương châm “thi gì 126
  4. Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Đào Thị Hoàng Hoa ___ học nấy” hiện nay ở Việt Nam là nguyên cứu chính thức về việc học sinh có thực nhân làm chậm quá trình đổi mới giáo sự yêu thích hóa học hay không, động cơ dục nói chung và chương trình nói riêng . hiện tại lớn nhất của việc học môn học Cách đánh giá như đã vậy, đã đi ngược này có lẽ đây là một môn học bắt buộc lại với mục tiêu của giáo dục phổ thông trong chương trình và trong kì thi vào đại Việt Nam là phát triển con người toàn học của hai khối thi lớn nhất hiện nay diện đã được nêu rõ trong Luật Giáo dục (khối A và khối B). Không ai biết được Việt Nam [7]. khi chương trình giáo dục mới được thực 1.3. Bối cảnh kinh tế xã hội ở Việt hiện thì liệu môn Hóa học nói riêng và Nam các môn khoa học nói chung có chứng tỏ Việt Nam đang phấn đấu trở thành được sức hút hay không. Học sinh cần nước công nghiệp vào năm 2020, và đang được trang bị những tri thức, kĩ năng cần đến một lượng nhân lực có trình độ sống, có quan điểm riêng để có thể phân và tay nghề để biến ước mơ này thành tích và xử lí thông tin, tự giải quyết các hiện thực. Việt Nam cũng đang ở thời kì vấn đề trong cuộc sống. Để làm được dân số vàng, và nắm bắt thế mạnh này là điều này, việc giáo dục hóa học phải thay điểm mấu chốt cho sự phát triển của đất đổi, nhưng câu hỏi đặt ra sẽ là “Như thế nước. Tương lai phát triển của chúng ta nào?”. phụ thuộc rất nhiều vào khoa học và kĩ 2. Đổi mới giáo dục hóa học trung thuật, có nghĩa học sinh ngày nay cần học ở Việt Nam như thế nào? phải được chuẩn bị tốt hơn để phát triển 2.1. Tạo sự đột phá cho đổi mới giáo các năng lực phù hợp với một xã hội định dục bằng đổi mới kiểm tra đánh giá hướng khoa học và công nghệ. Mặt khác Như đã phân tích ở trên, để có thể học sinh cần phải được bồi dưỡng tình thực hiện đổi mới căn bản và toàn diện yêu với khoa học nói chung và hóa học giáo dục cần phải đổi mới, phương pháp, nói riêng để có thể tự tin bước vào con cách thức kiểm tra đánh giá trong dạy đường khoa học bao gồm cả việc nghiên học Hóa học hiện nay ở trường phổ cứu, ứng dụng hay giảng dạy. Từ đó thông. Nếu các hạn chế về thi cử vẫn còn chúng ta mới có được một lực lượng các tồn tại thì các biện pháp đổi mới sẽ không nhà khoa học, các công nhân kĩ thuật cao thể nào áp dụng được trong thực tế, và và các giáo viên khoa học tài năng và tâm như vậy đổi mới thực chất chỉ là “bình huyết. mới rượu cũ” và các căn bệnh của giáo Tuy nhiên, việc dạy học hóa học dục Việt Nam như “sức ép thi cử” và hiện nay vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu “bệnh thành tích” sẽ không thể chữa của những công dân tương lai. Những khỏi. Để làm được như vậy cần thực hiện kiến thức và kĩ năng có được khi học việc kiểm tra đánh giá toàn diện bằng môn Hóa ở trung học vẫn chưa thực sự cách kết hợp giữa đánh giá quá trình và liên quan và có ích cho công việc sau này đánh giá tổng kết. Hiện nay chúng ta chỉ của học sinh. Mặc dù chưa có một nghiên quan tâm đến đánh giá tổng kết với mục 127
  5. Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 59 năm 2014 ___ tiêu chính là xác định kết quả học tập và được xem như là việc học tập các “kiến thành tích của học sinh, nhưng KHÔNG thức khoa học”, hơn là ‘giáo dục trong quan tâm nhiều đến kết quả học tập và các tình huống khoa học” [9]. Điều này thành tích đó đã đạt được như thế nào [1]. tạo nên sự nhầm lẫn trầm trọng giữa một Trong khi đó đánh giá quá trình hay còn bên là khoa học và bên kia là giáo dục gọi là đánh giá phát triển (thường được khoa học (chính là cái được sử dụng dùng tạo thành cặp đối lập với đánh giá trong trường trung học) [9]. Báo cáo của tổng kết) chú trọng đến việc phát triển Ủy ban này cũng chỉ ra rằng giáo dục năng lực của người học trong suốt quá khoa học nên liên quan đến các tình trình dạy học nhằm đánh giá hiệu quả của huống khoa học thực, và kết nối hiệu quả hoạt động giảng dạy và kết quả tiếp thu hơn với nhu cầu và hứng thú của người của người học [1]. Các hình thức đánh học [9]. Việc giáo dục hóa học như vậy giá phát triển đưa ra các phản hồi kịp thời sẽ hữu dụng cho số đông học sinh, chứ và cụ thể cho việc dạy học từ đó có không phải chỉ dành cho một số lượng ít những điều chỉnh và hướng phát triển các học sinh giỏi, các học sinh thích học thích hợp. Như vậy, để tạo tiền đề cho môn Hóa và sẽ theo đuổi nghề nghiệp việc đổi mới giáo dục cần một cơ chế liên quan đến môn Hóa. kiểm tra đánh giá thông thoáng và khoa Như vậy giáo dục hóa học nên đặt học hơn nhằm đạt được mục tiêu chính mục tiêu chú trọng đến việc hình thành của nó là hỗ trợ việc học, phản hồi và năng lực người học, không chỉ là tập định hướng cho người học, chứ không trung việc đạt được các kiến thức hóa học chỉ đặt trọng tâm vào điểm số hay thành và các kĩ năng học thuật trừu tượng mà tích. còn nên bao gồm việc phát triển các kĩ 2.2. Đặt mục tiêu dạy học hóa học chú năng phân tích và giải quyết vấn đề, kĩ trọng hình thành năng lực người học năng giao tiếp và sáng tạo. Những phẩm Việc dạy và học các môn khoa học chất này không chỉ cần thiết dành riêng nói chung và môn Hóa học nói riêng tại cho các nhà khoa học mà còn cho tất cả Việt Nam đang gặp vấn đề rất giống với những công dân tương lai. Các kiến thức các nước châu Âu, như nhận định sau đây hóa học cần phải được sử dụng trong các trong báo cáo của Ủy ban châu Âu về bối cảnh thực. Để làm được điều này cần việc sụt giảm số lượng các nhà khoa học tích hợp dạy học các chủ đề liên quan tới ở châu Âu mà nguyên nhân chính nằm ở hóa học hiện nay dưới các góc độ khác giáo dục khoa học: “Giáo dục khoa học nhau như xã hội, cá nhân và đạo đức. Từ đang tự cô lập với giáo dục và có xu đó học sinh mới có thể phát triển sự hiểu hướng cô lập với cả xã hội. Dạy học khoa biết về các khái niệm hóa học trong hành học đang không còn thuộc về lĩnh vực động thực tế, và có khả năng chuyển đổi của sự giáo dục nhằm phát triển con giữa các khái niệm trừu tượng được học người, mà chủ yếu nhằm mưu cầu các và cách chúng được áp dụng trong các vấn đề khoa học. Giáo dục khoa học tình huống trong đời sống thực. 128
  6. Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Đào Thị Hoàng Hoa ___ Một cách xác định mục tiêu dạy khái niệm liên quan đến hóa học. học hóa học khác của Becker (2013a) Theo Becker (2013a) [4], khái niệm chính là từ việc trả lời câu hỏi “Dạy học “liên quan” gắn với bốn tình huống sau: hóa học để làm gì?” và câu trả lời nằm ở Thứ nhất là liên quan đến môn học trong ba chữ H: Head (Đầu óc), Hand (Bàn tay) đó học sinh có thể hình thành quan điểm và Heart (Trái tim) [4]. Mục tiêu Head có hóa học về thế giới, tiếp thu được kiến nghĩa là dạy học hóa học cần hình thành thức hóa học về các hiện tượng và tính cho học sinh các kĩ năng tư duy, bao gồm chất của chất. Thứ hai là liên quan đến kĩ năng phân tích và đánh giá, đặt câu hỏi người học trong đó hình thành cho học và giải quyết vấn đề. Mục tiêu Hand có sinh tư duy trừu tượng, khả năng nhận nghĩa là dạy học hóa học cần phát triển kĩ biết và giải quyết vấn đề, kĩ năng giải năng thực nghiệm cho học sinh, chính thích, lập luận. Thứ ba là liên quan đến xác hơn là kết nối khối óc và bàn tay của xã hội trong đó nhấn mạnh môn Hóa các em theo định hướng “dạy học thực đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống nghiệm”. Mục tiêu Heart có nghĩa là dạy và các bài học nên phản ánh được ứng học hóa học cần giúp học sinh hình thành dụng của hóa học trong xã hội và giúp để các giá trị, thái độ và tình cảm đối với hiểu được thế giới. Thứ tư là liên quan môn học. Ba yếu tố này kết hợp tạo nên đến môi trường nhấn mạnh rằng ngày nay năng lực người học. dạy học hóa học đặc biệt cần hình thành 2.3. Giáo dục hóa học theo hướng liên ý tưởng, kiến thức và trách nhiệm đối với quan đến và gây hứng thú cho người môi trường và hệ sinh thái, điều này được học gọi là phát triển bền vững. Việc dạy học hóa học chỉ thực sự Thế nào là giáo dục hóa học được có ý nghĩa khi nó lôi cuốn được tình cảm yêu thích (popularity)? và trí tuệ của học sinh, liên quan tới các Theo Holbrook (2008), “yêu thích” em và được các em học sinh yêu thích. liên quan đến các trạng thái cảm xúc, Như vậy thế nào là liên quan nghĩa là học sinh thích các hoạt động học (relevance)? tập và các chủ đề của môn học. Hơn thế Theo dự án PARSEL, “liên quan” nữa các em mong ước được học môn học có nghĩa là học sinh nhận thấy các bài này ở trường và được tìm hiểu nhiều hơn học đáng được học; hiểu mục đích của về nó [8]. việc học và được thúc đẩy bởi chúng. Tytler và Symington (2006) đã tiến Liên quan trong tình huống này không hành phỏng vấn một nhóm các nhà khoa nhất thiết là liên quan tới chương trình, học Úc về các quan điểm của họ đối với hay tới thi cử, hay tới sách giáo khoa chương trình khoa học ở nước này. Trong [10]. Và bằng cách thúc đẩy động cơ học cuộc phỏng vấn, các nhà khoa học cho tập của học sinh sẽ hướng học sinh đi rằng chương trình học của nhà trường đã theo con đường học tập các em mong lỗi thời và mang nặng tính hàn lâm [9]. ước, khi đó các em cũng sẽ thích học các Họ cho rằng trọng tâm của chương trình 129
  7. Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 59 năm 2014 ___ nên định hướng người học và lôi cuốn học sinh. các em vào môn học, chứ không phải là 3. Giáo viên là lực lượng then chốt đào tạo những nhà khoa học tương lai. cho đổi mới Nền khoa học lôi cuốn người học được Để đổi mới căn bản và toàn diện gọi là một nền khoa học nhân văn giáo dục trung học cần có sự đổi mới (humanistic science) [9]. đồng bộ từ giáo viên, kiểm tra đánh giá, Deborah Corrigan, Đại học chương trình, sách giáo khoa, chế độ Monash, Úc cho rằng trong dạy học hóa lương bổng, trong đó người giáo viên giữ học giáo viên cần phải chú ý đến hai yếu vai trò then chốt. tố: học sinh và tình huống. Bà cho ví dụ: Nhiệm vụ thứ sáu trong số 9 nhiệm “Là một nhà khoa học, tôi biết rất nhiều vụ trọng tâm của Nghị quyết liên quan về axit và bazơ, nhưng khi tôi dạy cho đến việc phát triển đội ngũ nhà giáo và học sinh các khái niệm này sẽ rất khác cán bộ quản lí, đáp ứng yêu cầu đổi mới khi tôi dạy các họa sĩ, bởi vì các đối giáo dục và đào tạo. Nhiệm vụ này đòi tượng này có các mục đích học tập khác hỏi đổi mới mạnh mẽ mục tiêu, nội dung, nhau. Điều này không có nghĩa là các phương pháp đào tạo, đào tạo lại, bồi khái niệm sai khác nhau, mà là vì cái dưỡng và đánh giá kết quả học tập, rèn cách mà giáo viên chuyển tải tới người luyện của nhà giáo theo yêu cầu nâng cao học sẽ khác nhau. Các giáo viên hóa học chất lượng, trách nhiệm, đạo đức và năng cần phải nhìn nhận rằng chúng ta không lực nghề nghiệp [2]. Điều này cũng được chỉ tái hiện lại kiến thức khoa học mà còn Bộ Giáo dục và Đào tạo xác định khi Bộ phải giáo dục học sinh về khoa học theo trưởng Phạm Vũ Luận khẳng định giáo cách có ý nghĩa với các em”. Nếu học viên là yếu tố then chốt và đào tạo nguồn sinh không hứng thú với môn học, các giáo viên là khâu đầu tiên phải bắt đầu em sẽ không cố gắng để học và hiểu các khi đổi mới. Vậy sinh viên sư phạm và khái niệm hóa học mà giáo viên đang cố giáo viên hóa học cần phải được chuẩn bị gắng để dạy chúng. những gì trước cuộc thay đổi mang tính Cùng một quan điểm này, Becker cách mạng này? (2013b) cho rằng nền giáo dục hóa học 3.1. Đối với sinh viên sư phạm nên có sự cân bằng giữa lấy học sinh làm Đào tạo giáo viên cần phải phản trung tâm (lưu tâm đến hoàn cảnh, khả ánh được các xu thế đổi mới đã đề cập ở năng, kĩ năng, tình cảm và ước muốn của phần 2. Giáo viên có xu hướng dạy học học sinh) và lấy môn học làm trung tâm giống những gì được dạy và được học ở (tập trung vào các khái niệm, các kiến trường phổ thông và trường đại học, theo thức của môn học) [5]. Dạy học lấy học lối truyền thụ một chiều (tranmissive sinh làm trung tâm không có nghĩa là phủ pedagogy) chủ yếu nhấn mạnh vào các nhận kiến thức hóa học mà là tạo cơ hội khái niệm môn học trừu tượng, ít có sự để làm cho dạy học hóa học trở nên có ý cập nhật. Để đổi mới, phải phá bỏ cái nghĩa và phù hợp hơn với mọi đối tượng vòng luẩn quẩn này, làm thay đổi suy 130
  8. Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Đào Thị Hoàng Hoa ___ nghĩ, bồi dưỡng niềm tin cho giáo viên các nội dung đặc trưng của môn học theo vào giáo dục hóa học bền vững, liên cách mà tất cả học sinh đều có thể học quan, thú vị và có ý nghĩa. Sinh viên sư được. Muốn phát triển kiến thức sư phạm phạm cần được thử thách và lôi cuốn vào bộ môn xa hơn, giáo viên cần phải luôn quá trình đào tạo, mới có thể hi vọng khi xem xét nên dạy những gì, dạy như thế tới phiên họ trong dạy học, họ cũng sẽ nào và tại sao phải dạy như vậy [6]. làm như vậy với học sinh. Sinh viên sư phạm cần được tiếp Xây dựng chuẩn nghề nghiệp cho cận với những thành quả và ứng dụng giáo viên hóa học và đảm bảo chất lượng hóa học đương thời. Việc đào tạo giáo đào tạo bằng cách thực hiện theo chuẩn viên cũng nên kết nối với các bối cảnh xã này. Chuẩn nghề nghiệp phải cho thấy hội liên quan đến hóa học và cung cấp các yêu cầu của đổi mới giáo dục hóa cho sinh viên các kinh nghiệm học tập học, được xây dựng chi tiết, có thể đo phản ánh được sự giao thoa quan trọng lường được. Các tiêu chuẩn tiêu chí dùng giữa hóa học và cộng đồng. Có như thế, trong đào tạo giáo viên cũng sẽ dựa trên lực lượng này mới thực hiện được đổi chuẩn nghề nghiệp này. Chẳng hạn như mới trong dạy học trung học theo hướng tiêu chuẩn đánh giá giờ dạy của giáo viên tăng cường sự liên quan của hóa học với cũng cần phải thiết kế lại, một cách cụ thực tiễn. thể và đo lường được năng lực dạy học 3.2. Đối với giáo viên của giáo viên chứ không nên sơ sài như Việc thay đổi thói quen dạy học của tiêu chuẩn đang sử dụng hiện nay. các giáo viên đã có ít nhiều kinh nghiệm Trường phổ thông và trường sư phạm không phải là vấn đề đơn giản. Tuy nhiên cũng nên dùng chung các tiêu chuẩn đánh đã và đang có nhiều giáo viên sẵn sàng giá giáo viên để có sự thống nhất giữa và hứng khởi tham gia vào quá trình đổi đào tạo và thực hành nghề nghiệp. mới. Theo tác giả, để chuẩn bị cho giáo Sinh viên sư phạm cần được cung viên trước cải cách giáo dục lần này có cấp các kiến thức và kĩ năng cần thiết thể làm những việc sau. cho việc thực hiện đổi mới giáo dục như Thứ nhất, cung cấp các chương đã nêu trên. Trong đó cần chú ý đến tầm trình bồi dưỡng thường xuyên cho giáo quan trọng của kiến thức sư phạm bộ viên về các vấn đề của đổi mới giáo dục môn, vốn chưa thể hiện được hiệu quả hóa học. Tiến hành bồi dưỡng thường trong đào tạo giáo viên hiện nay. Sulman xuyên giáo viên cũng đã được các Sở (1986) (trích dẫn trong Corrigan, 2006) Giáo dục Đào tạo các tỉnh và thành phố nói rằng kiến thức sư phạm bộ môn tiến hành định kì hằng năm. Tuy nhiên (pedagogical content knowledge - PCK) trong thực tế các chương trình bồi dưỡng cho thấy tầm quan trọng của sự chuyển thường không đạt hiệu quả cao vì thiếu đi hóa từ kiến thức hóa học sang kiến thức các hoạt động hỗ trợ theo sau (follow- hóa học dùng cho việc dạy học [6]. Đây through activities). Chẳng hạn, chính bản là kiến thức về việc làm thế nào liên hệ thân tác giả khi đi bồi dưỡng cho các giáo 131
  9. Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 59 năm 2014 ___ viên hóa học ở tỉnh Kiên Giang về kĩ sẽ là chưa đủ nếu như giáo viên không có năng ứng dụng công nghệ trong dạy học được các hướng dẫn sử dụng, các hồ sơ hóa học cũng gặp phải vấn đề này. Giáo bài dạy mẫu hay các nguồn tài liệu tham viên rất hoan nghênh những kĩ năng mới khảo. Do đó, xây dựng và cung cấp được học, nhưng họ cũng băn khoăn sẽ nguồn tài nguyên dạy học hóa học cho lại phải “xóa mù tin học” vì không có giáo viên sẽ giúp họ nhanh chóng bắt nhiều cơ hội thực hành các kĩ năng này nhịp và thực hiện việc đổi mới giáo dục trong trường học. Vì thế, cần có sự kết hóa học. nối giữa các chương trình bồi dưỡng giáo 4. Kết luận viên với các ưu tiên hoạt động của trường Cải cách nền giáo dục nói chung trung học và với nhu cầu và mối quan theo Nghị quyết đã đề ra và đổi mới giáo tâm của người học. Nhà trường cũng nên dục hóa học nói riêng là xu thế phát triển có các kế hoạch phát triển trung và dài tất yếu của thế giới và là điều kiện cần hạn trong đó có nhiệm vụ hỗ trợ giáo cho sự phát triển của Việt Nam. Có nhiều viên thực hiện những điều được học từ yếu tố ảnh hưởng đến công cuộc đổi mới các chương trình bồi dưỡng giáo viên trong đó giáo viên đóng vai trò quyết này. định. Sinh viên sư phạm và giáo viên nên Thứ hai, nhà trường trung học cần có sự chuẩn bị về mặt tư tưởng, kĩ năng tạo cơ hội cho giáo viên được tham gia và kiến thức để tham gia và cùng khiến vào sự phát triển và thực hành các ứng cho việc giáo dục hóa học trở nên thu hút dụng của hóa học trong cộng đồng và và liên quan đến người học. trong nhà trường. Giống như sinh viên sư Nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là phạm, chỉ khi giáo viên thường xuyên các nước phát triển đã thực hiện nền giáo được tiếp xúc và vận dụng với các thành dục trung học giống như trong Nghị tựu khoa học đương thời, họ mới có khả quyết đã nêu từ rất lâu. Chúng ta hoàn năng ứng dụng những điều này vào việc toàn có thể học tập và kế thừa những dạy học và làm cho những bài học hóa có thành công đồng thời khắc phục các điểm tính thực tiễn cao. yếu từ họ. Vì thế các nghiên cứu ra đời từ Thứ ba, các ý tưởng giáo dục mới Nghị quyết và quay trở lại phục vụ Nghị luôn đi kèm với các nguồn tài nguyên hỗ quyết về các vấn đề đổi mới giáo dục hóa trợ dạy học. Việc cung cấp cho giáo viên học như đã nêu trong bài sẽ có ý nghĩa to các phương pháp và kĩ năng dạy học mới lớn trong công cuộc đổi mới này. 132
  10. Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Đào Thị Hoàng Hoa ___ TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Vũ Thị Phương Anh (2006), Kiểm tra đánh giá để phục vụ học tập: xu hướng mới của thế giới và bài học cho Việt Nam, Kỉ yếu Hội thảo khoa học của Viện Nghiên cứu Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm TPHCM, tr. 5-15. 2. Ban Chấp hành Trung ương, Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 Khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, Hà Nội. 3. Báo Giáo dục Việt Nam, Giáo sư Hoàng Tụy : “Giáo dục của ta đang lạc điệu với thế giới văn minh”, tải về từ Giao-duc-cua-ta-dang-lac-dieu-voi-the-gioi-van-minh-post90742.gd ngày 25/12/2014. 4. Becker, H. J., Nguyen, M. Q., (2013a), “Chemistry teaching and Science of Education in Germany Part 1: Aspects of Chemical Education in Germany”, Tạp chí Khoa học Trường Đại học Sư phạm TPHCM, 48(82), tr.25-33. 5. Becker, H. J., Nguyen, M. Q., (2013b), “Chemistry teaching and science of education in Germany Part 2: Pupil-orientation”, Tạp chí Khoa học Trường Đại học Sư phạm TPHCM, 50(84), tr.38-45. 6. Corrigan, D. J., (2006), O wonder the kids are confused: the relevance of science education to science, Camberville, VIC: ACER. 7. Nguyễn Kim Dung (2009), Một số ý kiến đóng góp nhằm cải tiến chất lượng công tác kiểm tra, đánh giá kết quả học tập ở bậc phổ thông, Tải về ngày 25/12/2013 từ trang web 8. Holbrook, J. (2008), Introduction to the Special Issue of Science Education International Devoted to PARSEL, Science Education International, 19(3), pp.257- 266. 9. Tytler, R., (2007), Re-imaging science education - Engaging students in science for Australia’s future, Camberville, VIC: ACER. 10. Website của dự án PARSEL, http:a//www.parsel.uni-kiel.de/cms/. (Ngày Tòa soạn nhận được bài: 03-12-2013; ngày phản biện đánh giá: 26-12-2013; ngày chấp nhận đăng: 19-6-2014) 133