Dự án FDI và vấn đề bảo vệ môi trường

pdf 6 trang Gia Huy 18/05/2022 5760
Bạn đang xem tài liệu "Dự án FDI và vấn đề bảo vệ môi trường", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfdu_an_fdi_va_van_de_bao_ve_moi_truong.pdf

Nội dung text: Dự án FDI và vấn đề bảo vệ môi trường

  1. DỰ ÁN FDI VÀ VẤN ĐỀ BẢO VỆ MƠI TRƢỜNG ThS. Trần Xuân Huy Trường Đại học Kinh tế kĩ thuật cơng nghiệp Tĩm tắt Cĩ thể thấy, kể từ sau khi mở cửa nền kinh tế, đặc biệt là từ sau khi ban hành Luật Đầu tư nước ngồi tại Việt Nam, dịng vốn FDI vào Việt Nam cĩ xu hướng ngày càng tăng lên. Với việc các Hiệp định thương mại tự do (FTA) song phương và đa phương của Việt Nam được ký kết và thực hiện, Việt Nam sẽ ngày càng thu hút được nhiều vốn FDI hơn nữa. FDI mang đến Việt Nam cơng nghệ, kỹ thuật hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến, tạo thêm nhiều ngành nghề, sản phẩm mới, qua đĩ gĩp phần khai thác tốt hơn các nguồn lực trong nước, thúc đẩy tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng cơng nghiệp hĩa, hiện đại hĩa. Nhưng bên cạnh những đĩng gĩp tích cực đĩ, thì FDI cũng đã và đang tạo ra nhiều vấn đề ảnh hưởng tiêu cực đến tính bền vững của tăng trưởng và chất lượng cuộc sống của dân cư. Tác động tiêu cực lớn nhất từ FDI mà vẫn đang là nỗi lo của các ban ngành trung ương và địa phương hiện nay đĩ chính là ơ nhiễm mơi trường do chất thải độc hại từ các nhà máy cơng nghiệp.Vì vậy mà vấn đề cấp thiết bây giờ là cần phải cĩ những giải pháp để nhằm thu hút được lượng vốn FDI thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế cao nhưng vẫn phải đảm bảo sự ổn định xã hội vì mục tiêu phát triển bền vững. Từ khĩa: Vốn FDI, Xả thải, Ơ nhiễm mơi trường, Phát triển bền vững I. BẢO VỆ MƠI TRƢỜNG LÀ YÊU CẦU CỦA PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Khái niệm “phát triển bền vững” được hiểu là một sự phát triển bảo đảm tăng trưởng kinh tế trên cơ sở sử dụng một cách hợp lý tài nguyên thiên nhiên kết hợp với bảo vệ mơi trường sống nhằm vừa cĩ thể thoả mãn được nhu cầu của thế hệ hơm nay, vừa khơng làm ảnh hưởng đến điều kiện thoả mãn nhu cầu và mơi trường sống của các thế hệ mai sau. Thực chất của sự phát triển bền vững là giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ mơi trường tự nhiên, bảo đảm sự cơng bằng giữa các thế hệ trong việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ mơi trường. Nĩi cách khác, phát triển bền vững là sự phát triển trong đĩ bảo đảm kết hợp hài hồ giữa mục tiêu kinh tế, mục tiêu xã hội và mục tiêu bảo vệ mơi trường. Tài nguyên, mơi trường hiện cũng đang là những vấn đề “nĩng”, trở thành một trong những mối quan tâm đặc biệt của xã hội. Biểu hiện của nhĩm vấn đề này tập trung ở một số khía cạnh sau: một là, sự cạn kiệt tài nguyên. Các dạng tài nguyên thiên nhiên của nước ta tiếp tục bị suy giảm, cạn kiệt cả về số lượng lẫn chất lượng. Tình trạng rừng bị tàn phá, kể cả rừng đầu nguồn, rừng phịng hộ nhằm khai thác gỗ hoặc lấy đất canh tác vẫn chưa được ngăn chặn triệt để; rừng trồng mới vừa cần nhiều kinh phí, vừa phải cĩ thời gian, hơn nữa lại giá trị kinh tế cũng như đa dạng sinh học lại khơng thế sánh bằng rừng tự nhiên. Quỹ đất nơng nghiệp cũng đang 186
  2. ngày càng suy giảm do tốc độ đơ thị hố và cơng nghiệp hố diễn ra nhanh chĩng. Tình trạng quy hoạch treo, bỏ hoang hố làm lãng phí tài nguyên đất đai, trong khi nơng dân thiếu đất canh tác. Đĩ là chưa nĩi đến những hệ quả trước mắt và lâu dài do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu tồn cầu. Theo các nhà khoa học, Việt Nam hiện là một trong những nước chịu tác động trực tiếp của biến sự biến đổi khí hậu (trong 40 - 50 năm qua, nhiệt độ trung bình năm của Việt Nam đã tăng lên từ 0,5 - 0,7 độ C, mực nước biển dâng cao 20 cm. Nước biển dâng sẽ tác động mạnh mẽ đến các ngành kinh tế, trước hết là nơng nghiệp. Hiện nay, nước ta vẫn cĩ tới 75 % dân số sống và lao động trên vùng đất nơng nghiệp. Các nhà khoa học đưa ra cảnh báo rằng, nếu vùng đất nơng nghiệp này bị ngập do ảnh hưởng từ sự biến đổi khi hậu sẽ tác động đến 15% dân số tương đương với 12 - 15 triệu người. Điều đĩ cũng cĩ nghĩa là chất lượng cuộc sống của nhiều con người sẽ bị ảnh hưởng đáng kể. Nước sạch hiện cũng đang là một vấn đề cấp thiết ngay tại các đơ thị - nơi được xem là cĩ trình độ phát triển cao hơn, chứ chưa nĩi đến các vùng nơng thơn, vùng sâu vùng xa. Bên cạnh đĩ, tình trạng ơ nhiễm mơi trường đã lên tới mức báo động. Theo báo cáo của Bộ Tài nguyên và Mơi trường, Việt Nam hiện cĩ 110 khu cơng nghiệp đang hoạt động, trong đĩ chỉ gần 1/3 cĩ hệ thống phù hợp để xử lý nước thảỉ và chất thải độc hại khác. Nhìn chung, tình trạng ơ nhiễm mơi trường nước, khơng khí, đất đai do chất thải các loại từ hoạt động sản xuất kinh doanh và sinh hoạt của con người đã tới mức báo động. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến sự xuất hiện ngày càng nhiều với quy mơ khác nhau của các dịch, bệnh đe doạ trực tiếp sức khoẻ nĩi riêng và chất lượng sống nĩi chung của con người trong những năm gần đây. Việc di dời các đơn vị sản xuất gây ơ nhiễm ra khỏi khu vực dân cư là cần thiết; tuy nhiên, đĩ chỉ là giải pháp tình thế, khơng căn bản và triệt để. Vấn đề là ở chỗ, nếu khơng đổi mới và tích cực trang bị cơng nghệ hiện đại, sạch, đồng thời chủ động áp dụng các biện pháp xử lý chất thải, thực hiện nghiêm túc các cam kết về bảo vệ mơi trường thì các đơn vị sản xuất, dù đặt ở đâu cũng vẫn gây ơ nhiễm, làm ảnh hưởng đến chất lượng mơi trường và sức khoẻ cộng đồng. Việc các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh khơng thực hiện nghiêm quy trình xử lý chất thải đã gây nên mâu thuẫn giữa người dân các vùng lân cận với doanh nghiệp, vừa làm gián đoạn hoạt động sản xuất vừa ảnh hưởng đến trật tự an tồn xã hội. Cịn bao nhiêu doanh nghiệp như Cơng ty VÊdan đang hàng ngày hàng giờ tàn phá mơi trường vì mục đích lợi nhuận kinh tế thuần túy của mình, sẽ cịn bao nhiêu con sơng chết như sơng Thị Vải, sơng Tơ Lịch, sơng Nhuệ? Con người sẽ vơ cùng cơ cực nếu đĩi nghèo luơn rình rập, nhưng ngay cả khi cĩ cuộc sống vật chất đủ đầy mà mơi trường sống khơng an tồn thì cũng khơng thể nĩi là cĩ chất lượng sống cao. Điều này một phần là do trong điều kiện kinh tế thị trường và do sự tác động của nhiều yếu tố, vẫn cĩ khơng ít địa phương, ngành và đơn vị sản xuất kinh doanh (cả tập thể lẫn tư nhân) tiếp tục theo đuổi tăng trưởng kinh tế, gia tăng lợi nhuận bằng mọi giá, kể cả ngấm ngầm vi phạm hoặc lợi dụng những kẽ hở pháp luật của Nhà nước, đặc biệt là luật bảo vệ mơi trường. Hiện 187
  3. tượng này tác các doanh nghiệp FDI xảy ra rất nhiều với ví dụ điển hình là cơng ty bột ngọt Vêdan. Ngay một số địa phương cũng xem nhẹ yêu cầu này nhằm mục đích thu hút được nhiều doanh nghiệp đầu tư phát triển sản xuất trên địa bàn. Do vậy, cần tiếp thực hiện giải quyết được bài tốn thu hút FDI nhưng vẫn đảm bảo mơi trường sống cho người dân và các thệ hệ mai sau. II. DOANH NGHIỆP FDI GÂY HẬU QUẢ MƠI TRƢỜNG NGHIÊM TRỌNG Thực hiện chính sách mở cửa thu hút đầu tư nước ngồi, đến nay khu vực kinh tế FDI đã trở thành bộ phận quan trọng của nền kinh tế, cĩ nhiều đĩng gĩp cho sự phát triển của Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, FDI cũng đã bộc lộ một số những hạn chế, trong đĩ cĩ vấn đề về ơ nhiễm mơi trường. Sự việc Cơng ty Vedan phá hoại mơi trường Việt Nam suốt 14 năm được lấy làm ví dụ điển hình để phân tích về trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp. Việc xả thải khơng qua xử lý xuống sơng Thị Vải, việc trốn nộp phí mơi trường suốt nhiều năm của Vedan được cho là một cách tiết kiệm để tăng lợi nhuận của doanh nghiệp mà bỏ qua những quy chuẩn về mơi trường. Tiếp sau vụ Vedan, cơ quan chức năng của Việt Nam lại phát hiện thêm một Vedan thứ 2 đĩ là Miwon – sản xuất bột ngọt tại Việt Trì (Phú Thọ), mỗi ngày xả tới 900 m3 nước thải chưa xử lý ra sơng Hồng. Và gần đây nhất, đường ống xả thải của Cơng ty Formosa Hà Tĩnh thuộc Tập đồn Formosa (Đài Loan) với cơng suất xả thải 12.000m3/1 ngày đêm chứa độc tố phê-non, xy-a- nua, kết hợp hy-đrơ-xít sắt, tạo thành một dạng phức hỗn hợp (mixel) quá tiêu chuẩn cho phép đã làm khoảng 80 tấn hải sản chết hàng loạt dọc bờ biển 4 tỉnh Bắc miền Trung từ Hà Tĩnh đến Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, gây ơ nhiễm mơi trường nghiêm trọng, thiệt hại to lớn về kinh tế - xã hội, ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất, đời sống, tư tưởng của nhân dân, gây bức xúc dư luận và nhận được sự quan tâm lớn của tất cả người dân. Tuy nhiên, khơng chỉ cĩ Vedan, Miwon, Formosa mà ngày càng cĩ thêm nhiều doanh nghiệp bị phát hiện đang ngấm ngầm phá hủy mơi trường. Hoặc như nhiều phương tiện thơng tin đại chúng phản ánh: Ngày 10/5/2016, đồn cơng tác liên ngành tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã phải niêm phong xưởng nhuộm của Cơng ty TNHH Mei Sheng Textiles Việt Nam. Dù khơng được cấp phép nhưng cơng ty tự ý làm phân xưởng nhuộm cơng suất 1.100 tấn/năm; tự ý khoan 26 giếng khoan; khai thác trái phép mỗi ngày hơn 2.700 m3 nước ngầm và xả thải trái phép. Đáng chú ý, đây là lần niêm phong thứ 7 đối với cơng ty này từ khi được cấp phép hoạt động. Cĩ thể nĩi nơi nào tập trung càng nhiều khu cơng nghiệp thì nơi đĩ mơi trường càng bị ơ nhiễm nặng. Và đây chỉ là một vài dự án FDI bị phát triền trong rất nhiều dự án đang gây hậu quả nghiêm trọng cho mơi trường. Nguyên nhân được xác định là do: Một là, như đã đề cập ở trên một số doanh nghiệp FDI đã gây ra sự cố mơi trường nghiêm trọng, làm biến đổi hệ sinh thái, ảnh hưởng đến phát triển kinh tế, an sinh xã hội trên địa bàn và gây bức xúc trong dư luận nhân dân. Người ta đã đề cập rất nhiều về FDI “chưa sạch” tại Việt Nam liên quan đến vấn đề xử lý nước thải, các khu cơng nghiệp mở rộng làm diện tích rừng bị thu hẹp, cuộc sống, nơi cư trú của các động vật hoang dã, thực vật đã bị xáo trộn, phá hủy, ảnh 188
  4. hưởng xấu đến đa dạng sinh học, tài nguyên nước, thuỷ sản, biến đổi khí hậu và gia tăng ơ nhiễm các lưu vực sơng Hai là, các doanh nghiệp FDI đầu tư vào Việt Nam về cơ bản cĩ trình độ cơng nghệ sản xuất trung bình, tiêu tốn nhiều tài nguyên thiên nhiên, lượng phát thải lớn. Tính đến năm 2017, dịng vốn FDI đầu tư vào Việt Nam đến từ các nước phát triển, cĩ nền khoa học cơng nghệ hiện đại như: Đức, Pháp, Thụy Sỹ, Mỹ, Canada, Nga cịn khá khiêm tốn mà chủ yếu đến từ châu Á như: Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Hồng Kơng, Trung Quốc Ngoại trừ các đối tác đến từ Hàn Quốc, Nhật Bản, cịn lại về cơ bản cĩ trình độ cơng nghệ trung bình, hàm lượng cơng nghệ cao cịn rất ít, hiệu quả thấp, chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên thiên nhiên, ít cơng nghệ nguồn; nguồn vốn FDI chỉ tập trung ở ngành chế biến, chế tạo, dịch vụ, sử dụng nhiều lao động, vốn lớn nhưng mức độ lan toả cơng nghệ thấp. Theo điều tra của Viện Nghiên cứu và Quản lý kinh tế Trung ương, tính đến năm 2017, chỉ 5% doanh nghiệp FDI đầu tư vào Việt Nam cĩ cơng nghệ cao, 80% cĩ cơng nghệ trung bình, cịn lại 14% là sử dụng cơng nghệ thấp, thậm chí cĩ dây chuyền cơng nghệ xuất hiện từ những năm 70, 80 của thế kỷ XX; từ năm 2011-2015, dịng vốn FDI tập trung nhiều nhất là lĩnh vực: dệt may, hĩa chất, điện tử, giấy, gang thép – tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây ơ nhiễm mơi trường. Trong khi đĩ, lĩnh vực cấp nước, xử lý nước thải chỉ cĩ 28/16.000 dự án FDI, bằng 0,2% và chiếm 0,36% tổng vốn đăng ký (710 triệu USD). Ba là, năng lực thể chế của Việt Nam trong việc thực hiện cĩ hiệu quả các khía cạnh pháp luật về mơi trường cịn nhiều hạn chế, đặc biệt là những quy định đã được giới thiệu gần đây (ví dụ như đánh giá tác động mơi trường và giám sát sau đánh giá tác động mơi trường). Bốn là, doanh nghiệp FDI thiếu kênh chính thống tiếp cận quy định về mơi trường. Chính quyền địa phương bị động trong cung cấp thơng tin chính sách trong khi văn bản pháp luật quy định về mơi trường phức tạp, chồng chéo, thay đổi quá nhanh làm đội chi phí tuân thủ của doanh nghiệp. Năm là, quy định về mơi trường của Việt Nam áp dụng chuẩn của các nước phát triển, song việc thẩm định chỉ mang tính hình thức, tập trung nhiều vào khâu tiền kiểm, dẫn đến nhiều dự án khi triển khai đã vi phạm nghiêm trọng quy định về mơi trường, gây tác động lâu dài tới sức khỏe người dân và hệ sinh thái khu vực. Khơng ít dự án nhập khẩu máy mĩc, thiết bị lạc hậu, gây ơ nhiễm mơi trường khơng được phát hiện kịp thời. Cĩ chiều hướng dịch chuyển dịng ĐTNN tiêu tốn năng lượng và tài nguyên, nhân lực, khơng thân thiện với mơi trường, vào Việt Nam nhưng nhiều địa phương khơng cĩ cơ chế kiểm sốt về mơi trường. Một số dự án chiếm giữ đất lớn nhưng khơng triển khai gây lãng phí tài nguyên. Sáu là, nhiều doanh nghiệp FDI chưa tuân thủ nghiêm các quy định về bảo vệ mơi trường khi đầu tư sản xuất, kinh doanh vào Việt Nam. Nghiên cứu của Viện Nghiên cứu và Quản lý kinh tế Trung ương: cĩ khoảng 67% doanh nghiệp FDI thuộc ngành sản xuất cĩ giá trị gia tăng thấp, ngày càng cĩ nhiều doanh nghiệp FDI gây ơ nhiễm mở rộng đầu tư vào Việt Nam. Kết quả điều 189
  5. tra 150 doanh nghiệp FDI năm 2016, cĩ 45% doanh nghiệp chưa áp dụng quy trình sản xuất ít phát thải, 69% doanh nghiệp cho rằng họ sẽ khơng thực hiện quy trình giảm phát thải nếu như đĩ khơng phải là yêu cầu bắt buộc, tương tự như thế 57,7% lấy lý do chi phí cao Trên thực tế, nhiều khu cơng nghiệp đi vào hoạt động nhưng chưa triển khai xây dựng hệ thống xử lý nước thải cục bộ hoặc cĩ nhưng khơng vận hành, hay vận hành khơng hiệu quả hoặc xuống cấp; hiện chỉ cĩ khoảng 66% trong số 289 khu cơng nghiệp trên cả nước cĩ trạm xử lý nước thải tập trung. Đặc biệt, tại Đồng bằng sơng Cửu Long cĩ 75% khu và 85% cụm cơng nghiệp chưa cĩ xử lý nước thải tập trung. Thậm chí trong giai đoạn năm 2011-2015, cĩ hơn 50% đối tượng thuộc diện thanh tra và kiểm tra bị phát hiện cĩ vi phạm về bảo vệ mơi trường. Nguyên nhân vi phạm nhiều là do mức nộp phạt thấp hơn so với chi phí đầu tư hệ thống xử lý chất thải. Bên cạnh đĩ, nhiều doanh nghiệp cịn hạn chế về năng lực và tài chính, nếu cĩ đầu tư hệ thống bảo vệ mơi trường cũng mang tính đối phĩ và chỉ vận hành khi bị kiểm tra. Một điều tưởng như rất nghịch lý là gần 70% doanh nghiệp FDI cho biết đầu tư vào Việt Nam sẽ tiết kiệm chi phí về mơi trường so với đầu tư ở nước họ. Bởi lẽ chi phí xử lý nước thải ngành dệt nhuộm, sắt thép rất lớn, việc quản lý, giám sát xả thải rất khĩ, địi hỏi trình độ kỹ thuật cao. Vì thế, khi đầu tư tại Việt Nam sẽ tiết kiệm chi phí 10-15% so với đầu tư ở nước họ. Phải chăng do chúng ta đang chạy theo thành tích tăng trưởng GDP nên dễ dãi trong thu hút FDI, nhập khẩu ơ nhiễm vào Việt Nam. Nhiều dự án FDI hiệu quả thấp, chỉ sử dụng tài nguyên và lao động giá rẻ nhưng vẫn nhận được nhiều ưu đãi của các tỉnh về giá đất, nước, tài nguyên, thậm chí hạ thấp tiêu chuẩn mơi trường đối với dự án thuộc lĩnh vực nhuộm, luyện kim Vì thế FDI tạo động lực tăng trưởng cho nền kinh tế Việt Nam nhưng ơ nhiễm mơi trường cũng tăng theo, chưa thành nước cơng nghiệp hĩa nhưng vấn đề ơ nhiễm mơi trường đã rất nghiêm trọng. III. GIẢI QUYẾT TÁC ĐỘNG XẤU CỦA THU HƯT ĐẦU TƢ FDI VÀ BẢO VỆ MƠI TRƢỜNG Một là: Tiếp tục tuyên truyền nâng cao nhận thức cộng đồng về bảo vệ mơi trường nhằm xây dựng thĩi quen, nếp sống trong nhân dân, đồng thời phát huy tốt các phong trào cộng đồng bảo vệ mơi trường; Hai là: Rà sốt và ban hành đồng bộ các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật Bảo vệ mơi trường, nâng cao hiệu lực thi hành các quy định về bảo vệ mơi trường; Ba là: Cơ quan quản lý cần kiểm sốt chặt từ khâu phê duyệt, chấp nhận dự án với những đánh giá tác động mơi trường một cách nghiêm túc, tuân thủ thực sự đầy đủ các quy định về pháp luật mơi trường. Đơi khi những dự án nhỏ hơn, lợi ích kinh tế dường như ít hơn nhưng bảo vệ mơi trường tốt hơn, về dài hạn lại là những dự án cĩ lợi ích kinh tế cao hơn những dự án lớn mà nguy cơ ơ nhiễm cận kề. 190
  6. Bốn là: Phải sàng lọc lại các dự án FDI và siết chặt tất cả khâu cấp phép dự án, giám sát. Mất đi một số dự án FDI xấu và đi kèm là những lợi ích kinh tế là khĩ tránh khỏi. Nếu thực sự quyết tâm thốt khỏi mơ hình tăng trưởng dựa vào FDI và xuất khẩu hàng gia cơng, lắp ráp phải chấp nhận một sự hy sinh tốc độ tăng trưởng kinh tế. Đĩ là một con đường khơng hề dễ dàng nhưng phải đi tới cùng, như Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã khẳng định: “Chúng ta phải thay đổi tư duy về vấn đề mơi trường. Phát triển kinh tế phải gắn với bảo vệ mơi trường, kiên quyết khơng vì kinh tế mà đánh đổi mơi trường”. Năm là: Tăng cường năng lực cho cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ mơi trường, trong đĩ phải tập trung nguồn lực, nhân lực cho các đơn vị cấp huyện (huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh) và cấp xã (xã, phường, thị trấn); Sáu là: Triển khai và áp dụng cĩ hiệu quả các đề tài nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực bảo vệ mơi trường, đặc biệt là các cơng nghệ mới về xử lý chất thải, khắc phục suy thối mơi trường; khuyến khích các cơ sở sản xuất áp dụng các biện pháp sản xuất sạch hơn; trong những năm tiếp theo, tỉnh cần ban hành cơ chế khuyến khích đầu tư cĩ lựa chọn, ưu tiên áp dụng cơng nghệ sạch, thân thiện với mơi trường; Bảy là: Tăng cường hợp tác trong nước và quốc tế về bảo vệ mơi trường, tranh thủ các nguồn vốn hỗ trợ và tài trợ của các tổ chức quốc tế. Kết luận: Nhiều vấn đề mơi trường phức tạp đã và sẽ nảy sinh địi hỏi phải xem xét phịng ngừa, khắc phục trong quá trình mở cửa thu hút nguồn vốn FDI. Khơng thể cĩ một chính sách kinh tế nào mà lại khơng ảnh hưởng tới mơi trường tự nhiên, xã hội; và ngược lại cũng khơng thể cĩ một thay đổi nào trong mơi trường mà khơng tác động đến kinh tế - xã hội. Chỉ cĩ thể giải quyết tốt mối quan hệ sâu sắc này bằng những chính sách, giải pháp phù hợp thì mới đảm bảo được mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội bền vững. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Báo cáo của Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội 2. Điều tra thực tế của Viện CIEM, từ năm 2011 - 2015, 3. Luật đầu tư nước ngồi 2014 4. Trang web Bộ tài nguyên mơi trường 5. Trang web Cục đầu tư nước ngồi 191