Du lịch văn hóa Khmer Trà Vinh (Nghiên cứu trường hợp làng nghề truyền thống của người Khmer Trà Vinh)

pdf 9 trang Hùng Dũng 04/01/2024 2290
Bạn đang xem tài liệu "Du lịch văn hóa Khmer Trà Vinh (Nghiên cứu trường hợp làng nghề truyền thống của người Khmer Trà Vinh)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfdu_lich_van_hoa_khmer_tra_vinh_nghien_cuu_truong_hop_lang_ng.pdf

Nội dung text: Du lịch văn hóa Khmer Trà Vinh (Nghiên cứu trường hợp làng nghề truyền thống của người Khmer Trà Vinh)

  1. Khoa học Xã hội & Nhân văn 33 DU LỊCH VĂN HÓA KHMER TRÀ VINH (NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI KHMER TRÀ VINH) KHMER CULTURAL TOURISM IN TRA VINH PROVINCE (A CASE STUDY: KHMER TRADITIONAL VILLAGES IN TRA VINH PROVINCE) Sơn Ngọc Khánh1 Nguyễn Đình Chiểu2 Tóm tắt Abstract Bài viết trình bày những tiềm năng và lợi thế The paper presents potentials and advantages của làng nghề truyền thống người Khmer ở Trà of Khmer traditional villages in Tra Vinh province Vinh; đánh giá thực trạng khai thác làng nghề and evaluates the situation of the exploitation to trong hoạt động du lịch. Đồng thời, thông qua hình the villages in tourism. In addition, we propose thức du lịch văn hóa cùng với sự tham gia của cộng solutions in order to link the villages to tourism. đồng, gắn với lợi ích và trách nhiệm của người Thanks to this, we can preserve and develop dân, chúng tôi cũng đưa ra những giải pháp nhằm Khmer culture and tourism sustainably in Tra Vinh gắn kết giữa làng nghề và du lịch. Từ đó, chúng province. ta mới có thể bảo tồn và phát triển bền vững văn Keywords: Cultural tourism, Traditional hóa và du lịch của người Khmer ở tỉnh Trà Vinh. villages, Human tourism resources. Từ khóa: Du lịch văn hóa, làng nghề truyền thống, tài nguyên du lịch nhân văn. 1. Đặt vấn đề12 phần giải quyết việc làm, phát triển kinh tế địa phương thông qua sản phẩm làm ra và hơn nữa Trà Vinh là tỉnh có nhiều tài nguyên du lịch, nó còn có giá trị đặc biệt trong du lịch. Có thể nói, đặc biệt là hệ thống tài nguyên du lịch nhân văn. làng nghề truyền thống còn là một hình thức sinh Trong đó, văn hóa người Khmer được xem như là hoạt văn hóa cộng đồng tiêu biểu mà khách du lịch một trong những tài nguyên du lịch nhân văn đặc - những ai muốn tìm hiểu về văn hóa tộc người biệt hấp dẫn, thu hút sự quan tâm từ khách du lịch, không thể bỏ qua nhất là tìm hiểu về văn hóa người những nhà nghiên cứu muốn tìm hiểu văn hóa tộc Khmer Trà Vinh. người này. Vì thế, loại hình du lịch văn hóa ở Trà Vinh được chú trọng và phát triển. Nhằm mục đích làm rõ thuật ngữ về làng nghề truyền thống của người Khmer được nêu trong bài Du lịch văn hóa là loại hình du lịch chủ yếu viết, chúng tôi trích dẫn các khái niệm nghề truyền dựa vào những giá trị văn hóa như lễ hội truyền thống, làng nghề, làng nghề truyền thống theo Điều thống, phong tục, tín ngưỡng để tạo sức hút đối 2 Qui chế xét công nhận nghề truyền thống, làng với khách du lịch trong và ngoài nước. Đối với nghề, làng nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh Trà du khách có sở thích nghiên cứu, khám phá văn Vinh ban hành kèm theo Quyết định số 09/2015/ hóa và phong tục tập quán bản địa, du lịch văn QĐ-UBND ngày 06/5/2015 của Ủy ban Nhân dân hóa là cơ hội để thỏa mãn nhu cầu trên. Phần lớn tỉnh Trà Vinh, cụ thể như sau: hoạt động du lịch văn hóa gắn liền với địa phương, nơi diễn ra nhiều lễ hội văn hóa và các giá trị văn + Nghề truyền thống: là nghề đã được hình hóa khác. Việc thu hút du khách tham gia du lịch thành lâu đời, tạo ra những sản phẩm độc đáo, có văn hóa tạo ra dòng khách mới, góp phần cải thiện tính riêng biệt, được lưu truyền và phát triển đến cuộc sống của người dân địa phương.3 ngày nay hoặc có nguy cơ mai một, thất truyền. Làng nghề truyền thống là một trong những giá + Làng nghề: là một hoặc nhiều cụm dân cư ấp, trị văn hóa của chính tộc người sở hữu nó; góp khóm hoặc các điểm dân cư tương tự trên địa bàn 1 Giảng viên Khoa NN-VH-NT Khmer Nam Bộ, Trường ĐH Trà Vinh một xã, phường, thị trấn có các hoạt động ngành 2 Giảng viên Khoa NN-VH-NT Khmer Nam Bộ, Trường ĐH Trà Vinh nghề nông thôn, sản xuất ra một hoặc nhiều sản 3 Hoàng, Văn Thành. 2014. Giáo trình văn hóa du lịch. NXB Chính phẩm khác nhau. trị Quốc gia, tr.18 Số 21, tháng 3/2016 33
  2. 34 Khoa học Xã hội & Nhân văn + Làng nghề truyền thống: là làng nghề có nghề ứng nhu cầu ẩm thực hằng ngày; nghề điêu khắc, truyền thống được hình thành lâu đời. hội họa phục vụ đời sống văn hóa tâm linh của người dân cũng khá phổ biến. Tuy nhiên, những 2. Tổng quan một số làng nghề truyền thống nghề này được một số gia đình, nghệ nhân hành tiêu biểu của người Khmer Trà Vinh nghề trên khắp các địa bàn trong tỉnh mà không Bài viết tập trung trình bày một số làng nghề hình thành những làng nghề. Tiêu biểu của nghề truyền thống của người Khmer ở Trà Vinh, là tài điêu khắc, hội họa có các cơ sở và nghệ nhân như: nguyên du lịch nhân văn và có khả năng gắn kết, chùa Hang xã Đa Lộc; chùa Qui Nông xã Hòa Lợi, đưa vào chương trình du lịch đặc biệt là du lịch văn huyện Châu Thành; chùa K’tưng phường 7, Thành hóa. Tuy nhiên, chúng tôi cũng điểm qua một số phố Trà Vinh Nghệ nhân Thạch Tư, Sơn Sóc ở nghề và làng nghề truyền thống tiêu biểu khác để khóm 4, thị trấn Châu Thành; nghệ nhân Thạch Ca thấy được sự phong phú, những tiềm năng phát triển Ri Nô, Thạch Phong ấp Chà Dư; ông Lâm Phene của nghề, làng nghề truyền thống của người Khmer. ấp Ba Se A, xã Lương Hòa; Thạch Hoane ấp Giồng Đại đa số người Khmer Trà Vinh sống ở nông Lức, xã Đa Lộc, huyện Châu Thành; nghệ nhân thôn làm nghề nông, một bộ phận sống ven kênh Thạch Phone ấp Nguyệt Lãng B, xã Bình Phú; rạch làm nghề nông kết hợp đánh bắt thủy sản; một Thạch Rụm ấp Giồng Chùa, xã Phương Thạnh, bộ phận không nhiều ở các thị tứ, thị trấn, thị xã huyện Càng Long; nghệ nhân Kim Sô Mit, Thạch kinh doanh buôn bán sản xuất tiểu thủ công nghiệp. Ly Ta ở ấp Trà Tro A, xã Hàm Giang, huyện Trà Cú; Phần lớn người dân ở các phum sóc sống bằng nghệ nhân Thạch Na Rin Đết ở ấp Đa Cần, xã Hòa nghề trồng lúa hoặc trồng lúa kết hợp trồng cây Thuận, huyện Châu Thành; nghệ nhân Thạch Sô hoa màu, trồng lúa kết hợp trồng mía, trồng lúa kết Phi ấp Ô Đùng, xã Hiếu Tử, huyện Tiểu Cần; nghệ hợp trồng cây ăn trái, trồng lúa kết hợp buôn bán nhân Thạch Suône khóm 1, phường 8; nghệ nhân Sơn Cân khóm 8, phường 9, Thành phố Trà Vinh Qua tài liệu của Bảo tàng Tổng hợp Trà Vinh cùng với tư liệu điền dã, chúng tôi nhận thấy ở Trà 2.1. Làng chiếu truyền thống Cà Hom – Bến Bạ Vinh có những làng nghề, nghề thủ công mang tính Đây là một trong những làng nghề thủ công đặc trưng như: truyền thống tiêu biểu nhất của người Khmer ở + Làng nghề dệt chiếu ở ấp Cà Hom, ấp Bến Bạ tỉnh Trà Vinh. Địa điểm tại ấp Cà Hom, ấp Bến Bạ, xã Đại An, huyện Trà Cú; ấp Ô Trao, xã Hiếu Tử, xã Hàm Tân, huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh. Chiếu huyện Tiểu Cần. truyền thống Cà Hom – Bến Bạ đã từng được Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Trà Vinh lập hồ + Làng nghề đan đát các sản phẩm từ cây tre sơ lý lịch di sản văn hóa phi vật thể đề nghị đưa như: Làng nghề đan đát ấp Giồng Đình, ấp Mé vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.4 Rạch B, ấp Mé Rạch E, ấp Cây Da, ấp Xà Lôn, ấp Giồng Lớn A, ấp Trà Kha xã Đại An; ấp Ba Cụm Theo nguồn tài liệu từ Bảo tàng Tổng hợp Trà 5 xã Ngọc Biên; ấp Bến Chùa, xã Phước Hưng và ấp Vinh , năm 2011 ở Trà Cú có trên 162.000 dân, Xóm Tộ, xã Đôn Xuân, huyện Trà Cú. trong đó hơn 85% dân số hai ấp Cà Hom, Bến Bạ là đồng bào dân tộc Khmer. Nguồn thu nhập chính + Làng nghề đóng giường tre ở ấp Đa Hòa Bắc, của nhân dân xã Hàm Tân nói chung, hai ấp Cà xã Hòa Lợi, huyện Châu Thành; ấp Lạc Sơn, xã Hom và Bến Bạ nói riêng là làm ruộng và trồng Thạnh Hòa Sơn, huyện Cầu Ngang; ấp Trà Sất C, mía. Ngoài ra, ở hai ấp này bà con còn trồng gần xã Lưu Nghiệp Anh, huyện Trà Cú. 37 hecta lác làm nguyên liệu cho nghề dệt chiếu. + Làng nghề chầm lá ở ấp Mé Láng, ấp bến Trung bình mỗi hộ dân làm nghề dệt chiếu trồng Chùa, xã Định An, huyện Trà Cú. hơn 1.000m2. + Làng nghề làm bánh phồng ở ấp Qui Nông B, Hiện tại, chúng ta không có tài liệu nào ghi chép xã Hòa Lợi, huyện Châu Thành. về lịch sử làng nghề và trong làng cũng không một ai, không một nơi nào thờ tổ nghề. Theo lời truyền + Làng nghề làm cốm dẹp ở ấp Giồng Chanh A, 4 Bảo tàng tổng hợp Trà Vinh. 2011. Lý lịch Di sản văn hóa phi vật thể ấp Giồng Chanh B, xã Long Hiệp; ấp Ba Cụm, xã đề nghị đưa vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia: Chiếu Ngọc Biên, huyện Trà Cú; ấp Qui Nông B, xã Hòa truyền thống Cà Hom – Bến Bạ. Lợi, huyện Châu Thành. 5 Bảo tàng tổng hợp Trà Vinh. 2011. Lý lịch Di sản văn hóa phi vật thể đề nghị đưa vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia: Chiếu Ngoài ra, nghề làm bánh, làm mắm, nhằm đáp truyền thống Cà Hom – Bến Bạ. Số 21, tháng 3/2016 34
  3. Khoa học Xã hội & Nhân văn 35 kể, làng nghề hình thành vào khoảng những năm chày tay, bằng gỗ thon đứng. Hiện nay, làm cốm 50 thế kỷ XIX. Nó bắt đầu từ cụ Mẹc qua sự truyền (giã cốm) được thay bằng chiếc túi vải hình tròn có nghề từ những người thợ dệt Cà Mau đi bán chiếu. đường kính chừng hơn 20cm, sâu khoảng 15cm, miệng và đáy được cố định bằng hai chiếc khung Lúc mới hình thành, họ dùng những nguyên sắt, đặt trên mặt trụ phẳng cố định rồi dùng chày liệu sẵn có trong tự nhiên mày mò làm thử để sử hình chữ T để giã. Kỹ thuật này giúp cho người dụng: cắt lác đem về chẻ nhỏ, phơi khô, tìm cây dân làng nghề giã cốm dẹp rất đều, trông đẹp mắt, tra, cây bố, cây ké đầu ngựa, bốc vỏ se làm sợi và ít phế phẩm mà năng suất cao hơn giã theo cách dùng tre, gỗ làm khung, làm go, làm văng để dệt. truyền thống. Sản phẩm làm ra là chiếu trắng dùng trong nhà. Qui trình làm ra cốm dẹp trải qua nhiều công Qua thời gian, bàn tay quen dần, điêu luyện hơn, đoạn. Nếp non sau khi thu hoạch được phơi nắng sản phẩm ngày càng đẹp mắt hơn. Đặc biệt, một đến khi se se vỏ, ngâm nếp trong nước khoảng 30 vài người còn biết dùng cây dang, cây nghệ chế ra phút. Sau đó, vớt nếp để ráo và cho vào nồi đất màu dệt thành chiếu màu. Từ chỗ tự sản xuất, tự rang trên lửa đến khi cháy xém vỏ, nổ lách tách tiêu dùng hoặc làm quà biếu, chiếu Cà Hom – Bến bốc lên hương thơm. Nếp sau khi rang được cho Bạ dần dần trở thành hàng hóa từ những năm 1940. vào cối đâm hay vào túi giã. Do nếp còn tươi nên Chiếu được thợ dệt đem đi bán khắp nơi và được ban đầu bị giã, hạt nếp dẹp ra dính nhau từng giề. nhiều người biết đến trong những năm 1960. Nếu dùng cối, vừa đâm người ta vừa dùng đũa bếp Đến với làng nghề, chúng ta sẽ được trải nghiệm hoặc tay trộn gọi là dùa cho đều. Còn dùng bao vải với từng qui trình để tạo ra được một sản phẩm thì người cầm bao vải lật qua lật lại và làm như chiếu hoàn chỉnh. Từ công đoạn cắt, chẻ, phơi lác thế đến khi nào hạt nếp ráo, bong vỏ thì đổ ra nia. (cói) đến những công đoạn nhuộm màu, se sợi và Tiếp sau đó, người ta dùng sàng sẩy bỏ vỏ trấu, dệt thành những chiếc chiếu với hoa văn tinh xảo. lấy những hạt cốm dẹp màu trắng ngà ngà lác đác Hiện nay, làng nghề dệt chiếu vẫn còn hoạt những hạt còn xanh. động nhưng sản phẩm chiếu truyền thống ít được Cốm dẹp là món ăn được nhiều người ưa thích, sản xuất. Tuy nhiên, các sản phẩm hoàn chỉnh lại vừa là phẩm vật dâng cúng không thể thiếu trong mang một giá trị văn hóa tinh thần hết sức sâu sắc, lễ hội Ok – Om – Bok (lễ Đút cốm dẹp) của người thể hiện sự sáng tạo và khéo léo của người nghệ Khmer. Cốm dẹp được người dân Trà Vinh chế nhân. Đây là niềm tự hào của người dân làng nghề, biến thành hai món ăn ngọt là Cốm dẹp trộn dừa đặc biệt đối với người Khmer. và bánh Tét cốm dẹp. Hai món ăn này vừa ngon, 2.2. Làng nghề cốm dẹp Ba So bổ, rẻ lại vừa đặc trưng cho văn hóa ẩm thực của người Khmer Trà Vinh, góp phần làm phong phú Làng nghề cốm dẹp Ba So thuộc ấp Ba So, xã thêm cho nét đặc sắc của ẩm thực Trà Vinh. Nhị Trường, huyện Cầu Ngang. Làng nghề được hình thành khoảng 100 năm nay nhưng trước đây Những năm gần đây, cốm dẹp ở Trà Vinh nói số hộ theo nghề này không nhiều. Từ những năm chung và làng nghề Ba So nói riêng được xếp 1990 trở lại đây, do nhu cầu thị trường ngày càng vào hàng đặc sản của vùng đất Trà Vinh. Cốm tăng, nhiều hộ dân ở Ba so đã làm nghề giã cốm dẹp là loại thực phẩm rất phổ biến và được bày dẹp. Hiện tại, làng nghề có hơn 80 hộ và đa số là bán thường ngày trên thị trường. Điều này không người Khmer tại địa phương. Mỗi ngày, làng nghề những đáp ứng nhu cầu thường xuyên của người cung cấp cho thị trường hơn 400 giạ (khoảng 1.200 dân địa phương mà đối với khách du lịch còn là ký) cốm dẹp. Riêng thời điểm làm cốm dẹp với số món quà “đặc sản” dễ dàng mang về làm quà cho lượng nhiều nhất là khoảng một tháng trước và sau người thân, bạn bè. khi diễn ra lễ hội Ok – Om – Bok hằng năm. Trong 2.3. Làng nghề bánh tét Trà Cuôn mùa lễ hội, nhu cầu tiêu thụ cốm dẹp lớn và giá Làng nghề bánh tét Trà Cuôn (chợ Trà Cuôn, thành cũng được tăng lên nhiều.6 xã Kim Hòa, huyện Cầu Ngang) nằm trên tuyến Trước đây, làm cốm (đâm cốm) bằng chiếc cối Quốc lộ 53, cách trung tâm Thành phố Trà Vinh bồng còn gọi là cối tầm vông. Cối làm bằng gỗ, khoảng 12km. dáng thon đứng cao khoảng gần 1m. Chày giã là 6 Từ một món ăn truyền thống, bánh tét Trà Cuôn Theo tài liệu điền dã của tác giả tại làng nghề cốm dẹp Ba So, đã trở thành thứ hàng hóa đặc sản hấp dẫn không 4/10/2014. Số 21, tháng 3/2016 35
  4. 36 Khoa học Xã hội & Nhân văn chỉ người tiêu dùng ở địa phương mà còn là khoái 15 – 20cm, gồm hai phần: phần khuôn dưới đáy khẩu của nhiều du khách phương xa. Để cung cấp có đục những lỗ nhỏ để bột chui qua; phần trụ ép đủ bánh tét đến người tiêu dùng, Trà Cuôn đã hình vừa khít lòng khuôn, có tay cầm để vặn và đòn để thành nên làng bánh tét chuyên sản xuất theo cách ép. Trước khi ép bún, người thợ bắt sẵn nồi nước truyền thống và xây dựng thương hiệu cho đòn sôi để dưới khuôn. Khi ép, bún sẽ rơi xuống nồi bánh tét Trà Cuôn quê nhà. nước sôi và chỉ sau vài phút bún sẽ chín. Sau đó, bún được vớt ra một thao nước rồi người thợ tiến Theo tư liệu điền dã chúng tôi có được, nghề hành bắt từng bánh bún để vào thúng tre có lót lá gói bánh tét Trà Cuôn ngày xưa xuất phát từ gia chuối cho không bị dính. Khi bún ráo sẽ được đem đình bà Thạch Thị Lết (xã Hiệp Hòa, huyện Cầu đi tiêu thụ. Ngang, tỉnh Trà Vinh). Nhờ tuân thủ cách gói bánh thủ công và không sử dụng các chất phụ gia nên Từ khi hình thành đến nay, làng nghề có những đòn bánh tét Trà Cuôn hội đủ hương vị dẻo, thơm, bước thăng trầm. Năm 1991 và 1992 là giai đoạn ngọt, bùi nên ăn rất vừa miệng và hương vị đặc làng nghề hồi sinh và phát triển mạnh. Đến năm trưng ấy đã được lưu giữ cho đến ngày nay. 2009, làng nghề bắt đầu chuyển sang phương thức sản xuất bán công nghiệp. Năm 2010, Cục sở hữu Các nguyên liệu chính để chế biến bánh tét trí tuệ cấp giấy chứng nhận cho sản phẩm làng gồm nếp sáp, đậu xanh, lá bồ ngót, thịt heo, lòng nghề bún họ Thạch (Sóc Tre). đỏ trứng vịt muối và các gia vị như hành, muối, đường. Bánh tét Trà Cuôn có thể bảo quản từ 5 – Sản phẩm của nghề hiện nay không chỉ có bún 7 ngày vẫn không hư hỏng. Nhờ hương vị thơm mà còn có các loại bánh. Làng nghề Sóc Tre có 14 ngon đặc trưng cùng với sự bảo quản được lâu mà lò trong đó có 7 lò làm bún, bánh canh, bánh hỏi và bánh tét Trà Cuôn đã được nhiều người biết đến. 7 lò làm các loại bánh: bánh thuẩn, bánh bông lan, bánh chuối, bánh bò, bánh ống, bánh ướt. Số người Hiện nay, làng bánh tét Trà Cuôn tiêu thụ mỗi tham gia làm nghề chiếm 30% dân số trong làng. ngày khoảng 2000 – 3000 đòn bánh. Khách hàng chủ yếu là người dân Trà Vinh, khách du lịch từ Hằng ngày, làng nghề cung cấp cho thị trường các tỉnh thành lân cận và thành phố Hồ Chí Minh. một tấn bún. Riêng các ngày lễ tết như Sene Đônta, Đoan Ngọ thì tăng lên khoảng sáu tấn bún cùng 2.4. Làng nghề làm bún họ Thạch các loại bánh. Làng nghề làm bún họ Thạch còn gọi là nghề làm bún Sóc Tre (ấp Sóc Tre, xã Phú Cần, huyện 2.5. Làng nghề đan đát – thủ công mỹ nghệ xã Tiểu Cần, tỉnh Trà Vinh). Sở dĩ có tên làng nghề Lương Hòa, huyện Châu Thành bún họ Thạch là do đa số người dân làm bún ở đây Xã Lương Hòa là một trong 14 xã, thị trấn đều mang họ Thạch. thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh. Trong đó, người Khmer chiếm đa số tổng số nhân khẩu Làng nghề được hình thành cách nay khoảng của xã. Làng nghề đan đát – thủ công mỹ nghệ xã 100 năm do gia đình ông Thạch Sao và bà Thạch Lương Hòa được công nhận theo Quyết định số Thị Suôl khởi xướng. Sau đó, các lò bún của các 1490/QĐ-UBND ngày 07/8/2009 của UBND tỉnh hộ Khmer họ Thạch trong địa phương cũng hình Trà Vinh. thành và sản xuất bún với phương thức thủ công. Hoạt động đan đát – thủ công mỹ nghệ phát Sản phẩm chính của làng nghề là bún và bánh triển mạnh nhất ở các ấp Ba Se A, Ba Se B, Bình hỏi. Nguyên liệu chủ yếu là từ bột gạo cùng với qui La, Sâm Bua, Ô Chích A, Ô Chích B gắn liền với trình chế biến thủ công. Trước hết, người thợ đem các nghề tiêu biểu như chầm lá, đan thúng, đan mê gạo ngâm nước một đêm. Sau đó vớt ra đãi sạch bánh tráng, đan mê bồ, bó chổi, mộc, điêu khắc và cho vào cối xay thành bột. Tiếp theo, bột được Doanh thu năm 2012 đạt trên 1,8 tỉ đồng, năm 2013 tẻ nước thành một khối tròn chắt nịch và được ước đạt gần 2 tỉ đồng. Tuy sản phẩm có phong phú luộc chín lớp vỏ ngoài. Công đoạn đòi hỏi nhiều nhưng về thị trường tiêu thụ chủ yếu là bán lẻ tại sức lực nhất là giã bột. Bột sau khi luộc, được cho địa phương và một phần bán cho thương lái. vào cối và giã đến khi bột dẻo đến độ cần thiết. Lúc đó, bột được bắt từng khối hình trụ cho vào Đặc điểm đáng chú ý nhất tại làng nghề là với khuôn bún. Khuôn bún làm bằng gỗ, có dạng hình số lượng người Khmer đông đảo, nhằm mục đích trụ cao khoảng 25 – 35 cm, đường kính khoảng bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống Số 21, tháng 3/2016 36
  5. Khoa học Xã hội & Nhân văn 37 của dân tộc cùng với sự kết hợp tay nghề thành sản lượng sản phẩm sản xuất trong làng nghề trên thạo, các nghệ nhân đã tạo ra được nhiều sản phẩm 1.400 sản phẩm/năm. Doanh thu năm 2012 đạt trên thủ công tinh xảo phục vụ cho lĩnh vực văn nghệ, 13 tỉ đồng, năm 2013 đạt gần 14 tỉ đồng. Các sản sân khấu dân gian như nhạc cụ dân tộc, dàn nhạc phẩm được sản xuất theo mẫu mã, kiểu dáng do Ngũ âm, các loại mặt nạ được sử dụng trong các vở khách hàng đặt trước. Một số khác, các sơ sở, hộ tuồng Dù kê, Rô băm gia đình tự sáng tác những mẫu mã, kiểu dáng sau đó giới thiệu đến khách hàng. Các dòng sản phẩm Làng nghề Đan đát – Thủ công mỹ nghệ xã này không dùng cho mục đích sinh hoạt hằng ngày Lương Hòa đã góp phần quan trọng vào việc phát mà dùng để trang trí nội thất, làm quà lưu niệm hay triển sản xuất tiểu thủ công nghiệp, giải quyết việc quà tặng du lịch rất được ưa chuộng, đặc biệt là du làm tại chỗ. Điều đặc biệt hơn nữa là lưu giữ và khách quốc tế. truyền dạy được cho các thế hệ tiếp sau những nghề truyền thống trong bản sắc văn hóa dân tộc Như đã trình bày môi trường khu vực làng nghề đang dần có nguy cơ mai một trong xã hội công ở trên, tại đây chủ yếu sản xuất các mặt hàng thủ nghiệp như hiện nay. Đồng thời, đây cũng là một công, nguyên liệu sử dụng là từ tre, trúc, tầm vông. địa điểm tiêu biểu cho du khách có thể tham quan, Những phụ phẩm thải ra được tận dụng làm chất tìm hiểu, trải nghiệm và mua sắm các mặt hàng thủ đốt trong sinh hoạt nên môi trường làng nghề chưa công tiêu biểu của người Khmer trong hành trình bị ảnh hưởng. du lịch Trà Vinh. 3. Đặc điểm làng nghề truyền thống của người Vấn đề môi trường khu vực làng nghề cũng rất Khmer Trà Vinh - lợi thế du lịch văn hóa Khmer được chú trọng. Những phụ phẩm thải ra trong quá Trà Vinh trình sản xuất được tận dụng làm chất đốt trong Văn hóa góp phần làm đa dạng hóa, tạo sự khác sinh hoạt nên môi trường làng nghề không bị ảnh biệt và gia tăng giá trị cho các sản phẩm du lịch. hưởng đến đời sống sinh hoạt của người dân ở Việc khai thác bản sắc văn hóa dân tộc vào kinh làng nghề và các vùng lân cận. Điều này góp phần doanh du lịch nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh, không nhỏ trong việc đảm bảo môi trường trong đồng thời còn giữ gìn bản sắc văn hóa, phát triển hoạt động du lịch. Khách du lịch sẽ cảm thấy yên các sản phẩm du lịch đặc trưng của các địa phương tâm hơn khi vấn đề vệ sinh, cảnh quan sinh thái tại khác nhau và quan trọng là phương tiện giao lưu điểm đến du lịch được đảm bảo. quốc tế, đoàn kết cộng đồng, phát triển du lịch bền 2.6. Làng nghề tiểu thủ công nghiệp Đại An, xã vững. Văn hóa được coi là đầu vào, du lịch là đầu Đại An, huyện trà Cú ra của sản phẩm du lịch văn hóa. Xã Đại An cách trung tâm huyện Trà Cú khoảng Các làng nghề truyền thống của người Khmer ở 8km về phía Nam theo quốc lộ 53, với diện tích đất Trà Vinh không những chỉ mang đến giá trị về mặt tự nhiên 1.236,16 ha. Đặc trưng của đất đai vùng kinh tế mà còn có giá trị về văn hóa và du lịch. Từ này là đất giồng cát và đất triền giồng, rất thích việc tìm hiểu những tư liệu về làng nghề, việc quan hợp cho các loại tre, trúc phát triển. sát, tham dự vào một số làng nghề truyền thống tiêu biểu của người Khmer Trà Vinh, chúng tôi nêu Làng nghề tiểu thủ công nghiệp Đại An, xã Đại khái quát một số đặc điểm chung của làng nghề An, huyện Trà Cú được công nhận theo Quyết định truyền thống người Khmer Trà Vinh như sau: số 2030/QĐ-UBND ngày 31/12/2007 của UBND tỉnh Trà Vinh. - Về địa điểm: đa số làng nghề truyền thống ở trong phum sóc của người Khmer. Ngoài việc tham Làng nghề đan đát, tiểu thủ công nghiệp Đại quan làng nghề, khách du lịch còn có thể kết hợp An hình thành từ lâu đời, trình độ tay nghề của tham quan phum sóc, đời sống sinh hoạt của cộng người dân nơi đây rất điêu luyện cùng với nguồn đồng Khmer, tham quan chùa Khmer ở địa phương, nguyên liệu tre, trúc tại địa phương rất dồi dào đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển làng nghề. - Về lực lượng lao động tại làng nghề: lao Hiện nay, hoạt động sản xuất phát triển mạnh nhất động chính của làng nghề là người Khmer tại địa tại các ấp: Giồng Đình, Giồng Lớn, Cây Da, Xà phương. Các làng nghề giúp giải quyết việc làm Lôn, Trà Kha, Mé Rạch B, Mé Rạch E với các cho một số lượng lớn lao động tại chỗ. Đồng thời, sản phẩm phong phú như cần xé, thúng, rỗ, ki, lực lượng lao động này ngoài việc có tay nghề xịa, đồ dùng nông thôn (dùng để trang trí) tổng thành thạo để tạo ra sản phẩm mà họ còn là những Số 21, tháng 3/2016 37
  6. 38 Khoa học Xã hội & Nhân văn “hướng dẫn viên” tốt nhất cho việc thuyết minh về là câu khẳng định của ông Trần Thanh Thưởng - làng nghề khi du khách đến tham quan. Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Trà Vinh khi trả lời phỏng vấn của - Về nguyên liệu sản xuất: các nguyên liệu chủ phóng viên Báo Trà Vinh. yếu được sản xuất tại địa phương, một số ít được nhập từ bên ngoài. Điển hình như nếp sáp tại làng Thực vậy, với thế mạnh về tài nguyên du lịch nghề bánh tét Trà Cuôn, nếp non tại làng cốm dẹp nhân văn, Trà Vinh đã và đang có lợi thế lớn trong Ba So, lác ở làng nghề chiếu Cà Hom – Bến Bạ, việc phát triển loại hình du lịch văn hóa. Tuy là Điều này không chỉ làm tăng lợi nhuận cho người một tỉnh nhỏ nhưng Trà Vinh lại có một hệ thống sản xuất mà còn giúp chúng ta nhận diện được “di sản văn hóa” đồ sộ có thể kể đến như toàn tỉnh những nguyên liệu đặc trưng tại làng nghề. có đến 142 ngôi chùa Khmer, đặc biệt có nhiều ngôi chùa Khmer mang đậm nét kiến trúc cổ đặc - Về qui trình sản xuất và sản phẩm các sản trưng cùng với những hiện vật quý hiếm; lễ hội Ok phẩm tại làng nghề: chủ yếu là theo qui trình sản – Om – Bok; lễ hội Cúng biển Mỹ Long; Đờn ca xuất thủ công. Để tạo ra sản phẩm hoàn chỉnh, các tài tử Nam Bộ và nghệ thuật Chầm riêng Chà pây. nghệ nhân làng nghề phải mất nhiều thời gian và Ngoài ra, Trà Vinh còn có nhiều di sản văn hóa qua nhiều công đoạn khác nhau. Tuy nhiên chất khác của các dân tộc đang sinh sống tại đây. Trong lượng, sự tỉ mỉ và quan trọng hơn là cái “hồn” dân bức tranh văn hóa các dân tộc của tỉnh có thể nói, tộc đã được các nghệ nhân đặt vào sản phẩm của văn hóa Khmer đã thu hút được sự quan tâm từ các mình rất nhiều. cấp chính quyền địa phương, khách du lịch và các Từ những đặc điểm chung đó đã tạo nên giá trị nhà nghiên cứu. văn hóa đặc trưng cho các sản phẩm tại làng nghề Là những người bản địa, được tiếp xúc với truyền thống của người Khmer Trà Vinh mà không nhiều du khách, thường xuyên tìm hiểu, cập nhật nơi nào có được. Khách du lịch khi tham gia trong thông tin từ các cơ quan, công ty du lịch tại địa các tour du lịch văn hóa với các chương trình tham phương, chúng tôi nhận thấy thực trạng về du lịch quan làng nghề truyền thống của người Khmer Trà văn hóa, tham quan làng nghề của tỉnh Trà Vinh Vinh chắc hẳn sẽ nhận ra ngay sự khác biệt của các như sau: sản phẩm tại đây với sản phẩm các nơi khác mà yếu tố cốt lõi tạo nên sự khác biệt chính là yếu tố - Khách du lịch đi theo đoàn hay khách du lịch bản sắc dân tộc của người Khmer Trà Vinh. tự do là khách nội địa hoặc quốc tế đến với Trà Vinh không ít. Tuy nhiên, trong các chương trình Hiện nay, làng nghề truyền thống của người tham quan Trà Vinh hiện nay của các công ty du Khmer tỉnh Trà Vinh đã tạo được vị thế của mình lịch đều mang tính tổ hợp du lịch thiên nhiên và trong hệ thống làng nghề truyền thống của cả tỉnh. văn hóa được đan xen. Có thể nói rằng việc gắn kết Đồng thời tỉnh cũng đã có những định hướng nhằm du lịch với làng nghề chưa được đưa vào trong các thúc đẩy sự phát triển của làng nghề truyền thống chương trình du lịch để giới thiệu cho du khách. của người Khmer nhằm mang lại lợi ích cho cộng Thời gian lưu lại của du khách không lâu do các đồng, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. chương trình được thiết kế dưới dạng tham quan Cụ thể là một số làng nghề truyền thống của người trong thời gian ngắn. Khmer Trà Vinh đã được Sở Văn hóa – Thể thao và Du lịch tỉnh đưa vào danh mục di sản văn hóa phi - Một số tour du lịch văn hóa đến Trà Vinh có vật thể của tỉnh Trà Vinh dự kiến lập hồ sơ khoa hoạt động tham quan làng nghề truyền thống của học đề nghị đưa vào danh mục di sản văn hóa phi người Khmer. Tuy nhiên, các tour du lịch vẫn chưa vật thể cấp quốc gia. đáp ứng được nhu cầu tham quan, tìm hiểu của du khách. Người đi du lịch chưa có nhiều cơ hội trải 4. Thực trạng du lịch văn hóa, tham quan làng nghiệm các qui trình sản xuất tại làng nghề mà chủ nghề truyền thống của người Khmer tại Trà Vinh yếu chỉ là quan sát. “Điểm nhấn của du lịch Trà Vinh hiện nay là du - Do chưa có những chương trình du lịch dành lịch văn hóa của các dân tộc ở địa phương”(7). Đây riêng cho làng nghề nên các làng nghề truyền 7 thống của người Khmer vẫn chưa được đầu tư phát trong-tinh/437-%C4%91i%E1%BB%83m-nh%E1%BA%A5n- du-l%E1%BB%8Bch-tr%C3%A0-vinh-du-l%E1%BB%8Bch- triển một cách hợp lí. Hầu hết, các làng nghề nằm v%C4%83n-h%C3%B3a-l%E1%BB%8Bch-s%E1%BB%AD- rải rác trong các phum sóc nên khó chọn làm điểm v%C3%A0-t%C3%A2m-linh. Bài đăng: 29/1/2013). Số 21, tháng 3/2016 38
  7. Khoa học Xã hội & Nhân văn 39 đến cho các du khách thật sự muốn tham quan, tìm mạnh làng nghề truyền thống trong việc gắn kết hiểu về làng nghề. Từ đó, cơ sở hạ tầng, cơ sở vật với các hoạt động du lịch văn hóa Trà Vinh. chất kĩ thuật phục vụ cho du lịch như đường giao 5. Một số giải pháp cho du lịch văn hóa làng thông, trạm dừng chân, cơ sở lưu trú, quán ăn, dịch nghề truyền thống của người Khmer vụ chụp ảnh, nhà trưng bày sản phẩm, cửa hàng bán sản phẩm tại làng nghề chưa được xây dựng Trước những lợi thế về giá trị văn hóa của làng đã hạn chế nhiều đến việc đi lại và thời gian lưu nghề truyền thống của người Khmer ở Trà Vinh, trú của du khách. Trong vai trò là khách du lịch, mặc dù chưa thật sự phát triển trong trong sự gắn chúng tôi đã đi tham quan, tìm hiểu một số làng kết với các hoạt động du lịch văn hóa tại Trà Vinh nghề truyền thống của người Khmer ở Trà Vinh. cùng với những thực trạng còn tồn tại, tỉnh Trà Điều mà chúng tôi bị cuốn hút là những giá trị bản Vinh đã và đang tiếp tục có những hoạt động cùng sắc văn hóa của người Khmer qua con người, các với những giải pháp khả thi để tìm hướng đi mới qui trình thủ công và sản phẩm tại làng nghề. Tuy cho làng nghề truyền thống trong phát triển du lịch. nhiên, chúng tôi gặp khó khăn khi chọn những địa Bên cạnh đó, đã có những văn bản pháp luật về du điểm hộ sản xuất thích hợp trong làng nghề để lịch nhằm thúc đẩy du lịch nội địa phát triển điển tham quan, đồng thời việc đáp ứng nhu cầu mua hình như Quyết định số: 3423/QĐ-BVHTTDL của sản phẩm tại làng nghề cho khách du lịch cũng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ban hành ngày 17 chưa trở thành một dịch vụ phổ biến. Điển hình tại tháng 10 năm 2014 về việc Ban hành Chương trình làng Cốm dẹp Ba So, chúng tôi đã được anh Thạch kích cầu du lịch nội địa với chủ đề “Người Việt Sa Rươn – cán bộ văn hóa xã Nhị Trường đưa đến Nam du lịch Việt Nam - Mỗi chuyến đi thêm yêu tham quan một hộ Khmer trong công việc giã cốm Tổ quốc” với thông điệp: “Đất nước Việt Nam thật dẹp. Sau khi tìm hiểu về lịch sử, cùng tham gia vào giàu tiềm năng du lịch. Từ đỉnh Lũng Cú nơi cực qui trình chế biến ra cốm dẹp thành phẩm, chúng Bắc đến mũi Cà Mau nơi cực Nam Tổ quốc, nơi tôi có nhu cầu mua cốm dẹp về làm quà thì được đâu cũng thấy cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp hòa biết những người lao động này chủ yếu là giã cốm quyện với sắc màu văn hóa đa dạng, đặc sắc của dẹp gia công. Họ nhận nguyên liệu về giã thành cộng đồng 54 dân tộc anh em, những di tích lịch sử cốm dẹp, sau đó đem cân lại cho cơ sở thu mua đậm dấu ấn quá trình dựng nước và giữ nước hào và nhận tiền công hàng ngày nên sản phẩm làm hùng của dân tộc. Vẻ đẹp của đất nước lại được ra không được bán tại đây. Bên cạnh đó, cốm dẹp tôn lên bởi đi đến đâu chúng ta cũng gặp những được chế biến thành nhiều món ăn ngọt là đặc sản người dân luôn nở nụ cười đôn hậu, thân thiện và của người Khmer Trà Vinh như bánh tét cốm dẹp, giàu lòng hiếu khách. Vẻ đẹp của đất nước còn cốm dẹp trộn dừa cũng không thể tìm mua được quyến rũ hơn bởi đi tới nơi đâu chúng ta cũng có tại làng nghề.8 thể thưởng thức ẩm thực đa dạng với những món ăn giàu hương vị mà độc đáo, đượm bản sắc và - Theo chú Trần Sênê, Trưởng ấp Bến Bạ, là tinh hoa đất Việt. Mỗi chuyến đi tới mỗi vùng, miền một nghệ nhân làm chiếu cho biết: “Khách du của Tổ quốc thân yêu, từ vùng núi cao tới vùng lịch đến tham quan làng nghề không nhiều, chủ đồng bằng và hải đảo thiêng liêng, chúng ta sẽ yếu là đối tượng sinh viên, nhà nghiên cứu, đoàn được tận mắt chiêm ngưỡng và tận hưởng những làm phim đến đây để tìm hiểu về làng nghề mà vẻ đẹp muôn màu ấy của dải đất hình chữ S. Từ đó thôi”9. Như vậy, có thể nói sự tồn tại của các làng tình yêu Tổ quốc sẽ tự động dâng trào trong sâu nghề truyền thống của người Khmer Trà Vinh nói thẳm trái tim ta. Hãy thu xếp hành trình đi khám chung, làng nghề dệt chiếu nói riêng đã nhận được phá và trải nghiệm vẻ đẹp đất nước, quê hương sự quảng bá không nhỏ từ những đối tượng này mỗi khi Bạn có thể - Mỗi chuyến đi Bạn sẽ thêm nhưng vẫn chưa thu hút nhiều khách du lịch. Các yêu Tổ quốc mình”10. cấp chính quyền địa phương, tỉnh, các nhà làm du lịch nên chăng có sự quan tâm hơn nữa đến các Trong Đề án “Xây dựng sản phẩm Du lịch đặc làng nghề truyền thống của người Khmer Trà Vinh thù vùng Đồng bằng sông Cửu Long” được phê trong việc khai thác tiềm năng văn hóa dân tộc, thế duyệt tại Quyết định 194/QĐ-BVHTTDL ngày 10 8 Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. 2014. Quyết định số: 3423/QĐ- Theo tài liệu điền dã của tác giả tại làng nghề cốm dẹp Ba So (ấp BVHTTDL, ngày 17 tháng 10 năm về việc Ban hành Chương trình Ba So, xã Nhị Trường, huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh, 04/10/2014. kích cầu du lịch nội địa với chủ đề “Người Việt Nam du lịch Việt Nam 9 Theo tài liệu điền dã của tác giả tại làng nghề chiếu Cà Hom – Bến – Mỗi chuyến đi thêm yêu Tổ quốc”. Bạ, xã Hàm Tân, huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh, 04/10/2014. Số 21, tháng 3/2016 39
  8. 40 Khoa học Xã hội & Nhân văn 23/01/2015 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch hình thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng phổ biến cũng đã xác định: “sản phẩm du lịch đặc thù của còn được duy trì và phát triển của người Khmer tỉnh Trà Vinh là văn hóa Khmer”. Trà Vinh, có giá trị rất lớn trong hoạt động du lịch đặc biệt là du lịch văn hóa. Các cấp chính quyền tỉnh phải tiếp tục nắm bắt thời cơ kịp thời cùng với những chương trình kích Sự gắn kết giữa làng nghề và du lịch hay cụ cầu du lịch nội địa để đầu tư hơn nữa cho du lịch thể hơn là du lịch văn hóa cùng với sự tham gia tỉnh nhà. Xác định lợi thế tài nguyên du lịch văn của cộng đồng là giải pháp tốt cho sự phát triển hóa của Trà Vinh, xây dựng các chương trình du làng nghề, du lịch hướng đến mục đích gắn lợi ích lịch văn hóa đặc thù đặc biệt là văn hóa Khmer và trách nhiệm của người dân vào quá trình phát với qui mô và chất lượng phù hợp với từng đối triển du lịch bền vững. Làng nghề truyền thống là tượng du khách. Đồng thời gắn kết nhiều hơn với “đứa con tinh thần” của chính tộc người đã hình các hoạt động tham quan làng nghề truyền thống thành nên nó. Vì vậy, chính những cộng đồng đồng của người Khmer Trà Vinh. tộc người đó sẽ đóng vai trò rất lớn trong việc bảo tồn và phát huy giá trị làng nghề. Bên cạnh đó, Tập trung đầu tư khai thác các tour du lịch địa phương ngoài những chính sách quan tâm trên, văn hóa - tham quan làng nghề thì tại một số địa còn đặc biệt chú ý đến công tác đào tạo, bồi dưỡng phương cũng đã hình thành các hợp tác xã làng tay nghề cho người lao động. Bởi vì hiện nay, tại nghề để cho các hộ dân làm nghề có địa điểm sản các làng nghề số lượng nghệ nhân, thợ lành nghề xuất cố định trong đó có các chính sách hỗ trợ còn không nhiều. Vì vậy, nếu chúng ta muốn phát về vốn, đảm bảo đầu ra cho sản phẩm, xây dựng triển làng nghề gắn với du lịch một cách tốt nhất thương hiệu cho làng nghề và là địa điểm kết nối thì vấn đề này cần được quan tâm. với các công ty lữ hành khi có du khách đến tham quan. Bên cạnh đó, tỉnh nên đẩy mạnh đầu tư nhằm Qua những nội dung đã trình bày, chúng tôi kết hoàn thiện đồng bộ để hình thành ở mỗi làng nghề luận vấn đề khai thác lợi thế của làng nghề truyền là một điểm đến. Ưu tiên tiên nâng cấp hệ thống thống của người Khmer ở Trà Vinh gắn với việc cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kĩ thuật, dịch vụ du phát triển du lịch là một hướng đi đúng đắn và lịch cho làng nghề nhưng cần tính toán để không khả thi. Điều này góp phần đa dạng hóa sản phẩm làm mất đi cảnh quan tự nhiên – văn hóa vốn có ở du lịch của tỉnh, khẳng định vai trò của làng nghề mỗi làng nghề. truyền thống của người Khmer trong việc bảo tồn văn hóa và phát triển du lịch. Tuy nhiên, khó khăn Nhằm tạo động lực thúc đẩy lòng yêu nghề, và thách thức không hề nhỏ và để đạt được sự phát kích thích sáng tạo đối với lao động trẻ, đồng thời triển bền vững thì cũng không dễ dàng. Tất cả đều tạo cơ hội quảng bá, giới thiệu làng nghề trở thành cần đến sự phối hợp đồng bộ của các cấp chính điểm hẹn cho khách du lịch. Chúng tôi nghĩ, tỉnh quyền, các nhà kinh doanh du lịch, cộng đồng địa Trà Vinh nên có những kế hoạch tổ chức lễ hội phương nhằm tăng thu nhập cho người dân, phát làng nghề truyền thống, các hội chợ tại địa phương triển kinh tế địa phương; góp phần nâng cao nhận với nhiều hoạt động trưng bày, triển lãm, biểu diễn thức của cộng đồng trong việc bảo tồn các giá trị nghề, hội thi tay nghề kết hợp với các hoạt động văn hóa truyền thống của dân tộc và phát huy có biểu diễn văn hóa, văn nghệ dân gian truyền thống hiệu quả trong hoạt động du lịch. định kì hằng năm. Đồng thời hỗ trợ, thúc đẩy việc tham gia các cuộc triển lãm, hội chợ trong và ngoài nước cho các làng nghề nhằm tăng cường công tác quảng bá đến bạn bè trong nước và quốc tế. Hướng đến việc xác định không gian - chủ thể - thời gian dành cho các hoạt động du lịch văn hóa tham quan làng nghề truyền thống của người Khmer. Khuyến khích các hoạt động nghiên cứu với những đề tài liên quan đến văn hóa – du lịch tỉnh Trà Vinh, nhằm chung tay góp sức xây dựng “thương hiệu” cho du lịch văn hóa Trà Vinh ngày càng vững mạnh. Trong đó, làng nghề truyền thống theo chúng tôi đánh giá là một trong những Số 21, tháng 3/2016 40
  9. Khoa học Xã hội & Nhân văn 41 Tài liệu tham khảo Bảo tàng tổng hợp Trà Vinh. 2007. Báo cáo kết quả điều tra di sản văn hóa phi vật thể dân tộc Khmer tỉnh Trà Vinh. Bảo tàng tổng hợp Trà Vinh. Báo cáo kiểm kê di sản văn hóa phi vật thể tỉnh huyện Trà Cú, huyện Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh năm 2011. Bảo tàng tổng hợp Trà Vinh. Báo cáo kiểm kê di sản văn hóa phi vật thể tỉnh huyện Cầu Ngang, Châu Thành, Tiểu Cần, tỉnh Trà Vinh năm 2012. Bảo tàng tổng hợp Trà Vinh. 2008. Báo cáo kết quả thực hiện Dự án: Điều tra, sưu tầm, bảo tồn và phát huy văn hóa phi vật thể dân tộc Khmer, Đề tài: Bảo tồn và phát huy nghề dệt chiếu truyền thống Cà Hom – Bến Bạ, xã Hàm Tân, huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh. Bảo tàng tổng hợp Trà Vinh. 2014. Danh mục di sản văn hóa phi vật thể tỉnh Trà Vinh dự kiến lập hồ sơ khoa học đề nghị đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Bảo tàng tổng hợp Trà Vinh. 2011. Lý lịch Di sản văn hóa phi vật thể đề nghị đưa vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia: Chiếu truyền thống Cà Hom – Bến Bạ, tr.5. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. 2014. Quyết định số: 3423/QĐ-BVHTTDL, ngày 17 tháng 10 năm 2014 về việc Ban hành Chương trình kích cầu du lịch nội địa với chủ đề “Người Việt Nam du lịch Việt Nam – Mỗi chuyến đi thêm yêu Tổ quốc”. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. 2015. Quyết định số: 194/QĐ-BVHTTDL, ngày 23 tháng 01 năm 2015, về việc phê duyệt Đề án “Xây dựng sản phẩm du lịch đặc thù vùng Đồng bằng sông Cửu Long”. Nhiều tác giả. 2014. Kỷ yếu hội thảo Làng nghề và phát triển Du lịch. NXB ĐH Quốc gia TP.HCM. Sơn, Ngọc Khánh và Nguyễn, Đình Chiểu.2014. Tư liệu điền dã của tác giả ngày 04/10/2014 tại làng nghề cốm dẹp Ba So (ấp Ba So, xã Nhị Trường, huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh và làng nghề dệt chiếu Cà Hom – Bến Bạ (ấp Cà Hom, ấp Bến Bạ, xã Hàm Tân, huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh). Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh. 2014. Quyết định số: 2009/QĐ-UBND, ngày 25 tháng 11 năm 2014 về việc Ban hành Đề án Bảo tồn và phát triển làng nghề tỉnh Trà Vinh giai đoạn 2014-2015, tầm nhìn đến năm 2020. Số 21, tháng 3/2016 41