Giá trị đạo đức truyền thống trong văn hóa của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên
Bạn đang xem tài liệu "Giá trị đạo đức truyền thống trong văn hóa của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- gia_tri_dao_duc_truyen_thong_trong_van_hoa_cua_dong_bao_cac.pdf
Nội dung text: Giá trị đạo đức truyền thống trong văn hóa của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên
- NGÔN NGỮ - VĂN HỌC - VĂN HÓAGiá trị đạo đức truyền thống Giá trị đạo đức truyền thống trong văn hóa của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên Phạm Huy Thành * Tóm tắt: Giá trị đạo đức truyền thống là một bộ phận quan trọng trong toàn bộ hệ thống giá trị tinh thần của dân tộc Việt Nam. Nói đến giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam là nói đến các giá trị đạo đức đặc thù của con người Việt Nam được thử thách qua hàng ngàn năm lịch sử. Đồng bào các dân tộc Tây Nguyên là một bộ phận của đồng bào các dân tộc Việt Nam, văn hóa đồng bào các dân tộc Tây Nguyên cũng góp phần tạo nên những giá trị văn hóa Việt Nam. Bài viết nêu ra một số giá trị đạo đức truyền thống dân tộc biểu hiện trong văn hóa của các đồng bào dân tộc Tây Nguyên nhằm làm rõ hơn “là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng dân tộc Việt Nam”. Từ khóa: Giá trị đạo đức truyền thống; đồng bào Tây Nguyên; bản sắc; sử thi; lễ hội. Tây Nguyên nằm ở phía tây của Nam Nói đến văn hóa Tây Nguyên, trước hết Trung Bộ Việt Nam, là địa bàn chiến lược phải nói đến văn hóa cồng, chiêng - cái tạo nhiều mặt của cả nước, nơi cư trú của nhiều nên bản sắc Tây Nguyên. Theo quan niệm dân tộc và nhóm dân tộc khác nhau. Bức của đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên: tranh văn hóa Tây Nguyên vốn phong phú, Cồng, chiêng được xem là thứ ngôn ngữ đa dạng đang thay đổi từng ngày do tác hàng đầu để con người tiếp xúc với thần động mạnh mẽ của kinh tế thị trường và sự linh. “Cồng chiêng Tây Nguyên do vậy đã hội nhập ngày càng sâu, rộng của Việt Nam góp phần tạo nên những thiên sử thi, những với khu vực và quốc tế. áng thơ ca đậm chất văn hóa Tây Nguyên (1) Ngoài một số nét tương đồng với văn vừa lãng mạn, vừa hùng tráng” . Với giá hóa dân tộc nói chung, văn hóa Tây Nguyên trị và ý nghĩa nhiều mặt, nhất là về văn hóa, có bản sắc riêng. Sự hình thành, tồn tại và cồng chiêng Tây Nguyên đã được UNESCO phát triển của văn hóa các dân tộc thiểu số công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của (*) ở đây gắn liền với “rừng”, với buôn, làng, nhân loại. nương rẫy. Người Tây Nguyên tin rằng: vạn vật hữu linh, mọi vật xung quanh con người (*) Tiến sĩ, Đại học Kinh tế Đà Nẵng. đều có hồn, có thần linh (Yang) che chở, ĐT: 0966904325. Email: gvphthanh@gmail.com (1) Lê Bảo (2009), "Không gian văn hóa cồng chiêng phù hộ. Tây nguyên - di sản thế giới", Vnexpress.com.vn. 87
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 5(90) - 2015 Nét đặc thù của đồng bào Tây Nguyên là thể hiện tình yêu thiên nhiên (yêu rừng, gắn yêu thích âm nhạc và sáng tạo ra các giá trị chặt với rừng), trách nhiệm và nghĩa vụ bảo âm nhạc. Bên cạnh Cồng chiêng, họ còn vệ bản làng, gia đình, anh em, vợ chồng sáng tạo ra các loại nhạc cụ được làm từ các trước mọi hiểm nguy.(1) vật liệu sẵn có trong tự nhiên như: đàn kôh, Giá trị tiêu biểu nhất trong kho tàng văn klong put, đàn t’rưng, t’rưng nước, t’rưng học dân gian đồng bào dân tộc Tây Nguyên gió, chinh krên (chiêng gió) Đây là những là “trường ca” (sử thi), những tiểu thuyết nhạc cụ gắn chặt với con người Tây lịch sử chia thành chương đoạn, chủ yếu Nguyên trong quá trình lao động, sản xuất, tường thuật những cuộc giao tranh giữa các thể hiện khát vọng hòa nhập với tự nhiên, tù trưởng, hoặc chống thiên nhiên, chống với cuộc sống. thần linh, chống những thế lực bạo tàn để Không gian văn hóa của đồng bào các bảo vệ không gian gian sinh tồn của mỗi dân tộc Tây Nguyên luôn gắn với rừng, dân tộc. Chủ nghĩa yêu nước luôn gắn với buôn làng với những ngôi nhà. “Điểm nổi cộng đồng, xây dựng những nhân vật tiêu bật trong không gian văn hoá Tây Nguyên biểu để ca ngợi khí tiết, biểu hiện sức mạnh là kiến trúc nhà ở (nhà Rông, nhà Guơl, nhà của dân tộc mình để chống lại sức mạnh Dài) đây là một thành tố quan trọng không của tự nhiên, sự tàn bạo, bất công trong xã thể thiếu trong đời sống sinh hoạt cộng hội. Trong “Dăm Di”, bản trường ca đầy đồng dân tộc Tây Nguyên. Nhà Rông ở Tây nét trữ tình, Đam Di đi săn nêu cao khí tiết Nguyên không chỉ là nơi để thực thi các anh hùng và bổn phận của người đàn ông luật tục, nơi tiếp khách, nơi diễn ra các sự trước gia đình, dòng họ và buôn làng. kiện trọng đại, nơi các già làng dùng để tập “Xinh Nhơ Niếp” ca ngợi tài năng và sự hợp dân làng bàn luận những vấn đề quan quả cảm của một chàng trai đấu tranh chống trọng của làng, của đất nước. Mà còn là nơi lại cường quyền để cứu mẹ, trả thù cho cha, thể hiện mỹ thuật trang trí độc đáo, thể hiện giải phóng những con người thoát khỏi thân khát vọng của nhân dân muốn vươn lên trời phận nô lệ. “Xinh Nhã” đề cập đến cuộc xanh, mong muốn hoà nhập với vũ trụ”(2). đấu tranh chống áp bức, bóc lột, bất công, Bên cạnh những đặc điểm văn hóa nổi đề cao chữ hiếu với cha mẹ, trách nhiệm và bật nêu trên, văn hóa Tây Nguyên trong cội nghĩa vụ của trai làng trước sự tồn vong của nguồn của nó luôn thể hiện các giá trị: yêu cộng đồng. “Đăm Noi” nói về cuộc đấu nước, thương yêu con người, cần cù tiết tranh chống cái ác, chống sự thù nghịch kiệm, đoàn kết. Đây chính là giá trị văn hóa trong tự nhiên, để bảo vệ không gian sống thể hiện sự giao thoa, gặp gỡ của nền văn của buôn làng, bảo vệ rừng chỗ dựa tâm hóa Việt Nam “thống nhất trong đa dạng”. linh cho mọi người. “Đam San” kể về vị tù Thứ nhất, chủ nghĩa yêu nước được biểu hiện ở văn hóa, con người đồng bào các dân (2) tộc Tây Nguyên thông qua những áng văn Trần Sĩ Phán, Phạm Huy Thành (2012), “Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của đồng bào Tây Nguyên, sử thi, các lễ hội, phong tục tập quán. Ở đó Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 11, tr.94. 88
- Giá trị đạo đức truyền thống trưởng, biểu tượng cho vị anh hùng bảo vệ sự: khỏe mạnh, có tinh thần dũng cảm, hiểu đời sống cộng đồng, anh dũng, hiên ngang biết quân sự, có tinh thần Thương yêu và đấu tranh với tự nhiên, bất công xã hội, quyết tâm bảo vệ bộ tộc, buôn làng. Trường chống lại các tập tục truyền thống. hợp của các tù trưởng: Nơ Trang Lơng Chủ nghĩa yêu nước đồng bào các dân (Mnông), Ama Yhao (Êđê) đã tụ tập rất tộc Tây Nguyên còn được biểu hiện qua “lễ đông người dân trong buôn làng chống kẻ thành đinh”. “Có nơi gọi lễ cắt việc, thổi bế thù để bảo vệ đồng bào trong kháng chiến bồng, đây là lễ công nhận hết tuổi trẻ con, chống Pháp. Trong hai cuộc kháng chiến, đủ sức và ý thức để trở nên thành viên của Tây Nguyên trở thành căn cứ địa cách cộng đồng, có trách nhiệm gánh vác công mạng vững chắc. Đồng bào các dân tộc Tây việc của gia đình, của bộ tộc”(3). Ngày xưa, Nguyên không chỉ đóng góp lương thực, lễ này rất được chú trọng ở đồng bào các thực phẩm cho cuộc kháng chiến, họ còn dân tộc Tây Nguyên; thể hiện sức mạnh của trực tiếp tham gia lực lượng du kích, bộ đội các tù trưởng bằng việc đi xâm lược, cai trị địa phương, bộ đội chủ lực để bảo vệ buôn các bộ tộc khác. Bộ tộc bị thua, bị tịch thu làng, bảo vệ căn cứ địa cách mạng. Biết bao tất các của cải, con người trong bộ tộc cũng nhiêu người con của đồng bào các dân tộc bị bắt về (trai tráng thì làm nô lệ hoặc xung Tây Nguyên đã hy sinh cho đất nước, lịch vào đội ngũ chiến binh; phụ nữ, trẻ em, sử dân tộc mãi ghi danh những người con người già có thể bị bán cho các bộ tộc ưu tú của núi rừng Tây Nguyên.(3) khác). Chính vì vậy, để bảo vệ được bộ tộc, Qua hai cuộc kháng chiến tên đất, tên các thanh niên trong bộ tộc đến tuổi trưởng người ở Tây Nguyên đã ghi vào lịch sử dân thành luôn được dạy dỗ ý thức trách nhiệm tộc: tên địa danh như chiến khu Dlieya, căn về bảo vệ cuộc sống buôn làng; đồng bào cứ buôn Hoàng, căn cứ Cư Prao, làng Stơr, các dân tộc Tây Nguyên luôn chú trọng việc An Khê, Plâyme, Đăk Tô, Tân Cảnh, Buôn dạy dỗ, nuôi dưỡng tầng lớp thanh thiếu Ma Thuật; tên các anh hùng như Ama Jhao, niên về tinh thần chiến đấu, rèn luyện sức Nơ Trang Gưh, Nơ Trang Lơng, Y Jút và Y khoẻ, tinh thần chịu đựng gian khổ. Thể Út, Đinh Núp Họ mãi mãi là tấm gương hiện tinh thần trách nhiệm của bản thân sáng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng mình trước buôn làng, họ sẵn sàng hy sinh cho đồng bào các dân tộc Tây Nguyên. Từ để bảo vệ buôn làng trước mọi hiểm họa. Lễ đó, tình yêu quê hương đất nước, niềm tự thành đinh luôn đi kèm với các lễ hội: đẩy hào, tự tôn dân tộc được đồng bào các dân cây, phóng lao, bắn nỏ, đánh kiếm, đua voi. tọc Tây Nguyên lĩnh hội và phát huy trong Để lãnh đạo các tráng đinh, đồng bào hoàn cảnh lịch sử mới. Tây Nguyên trước đây đều đề cử ra một Thứ hai, tình yêu thương con người của người chỉ huy quân sự, người Banar gọi “Bok tô” hoặc “Bơ ngai”, người Xêđăng (3) Lâm Tâm - Linh Nga Niêk Đam (1996), Một số gọi “Bok thô”, người Êđê gọi “Pô pin nét đặc trưng của phong tục các dân tộc Tây Blahh”. Tiêu chuẩn của người chỉ huy quân Nguyên, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, tr.121. 89
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 5(90) - 2015 đồng bào các dân tộc Tây Nguyên thể hiện Nđrênh”, người Cơ Ho có chuyện kể về qua lao động sản xuất, sinh hoạt cộng dòng dõi con cháu nữ thần mặt trời, người đồng, tình cảm gia đình. Mỗi thành viên Ba Na kể về Ông Trống (bok sgơ). Phản đều được làng đùm bọc với nếp sống, cách ánh hiện thực cuộc sống: con người luôn nghĩ vui buồn có nhau. Ở trong làng, khi phải vật lộn trước bao khắc nghiệt và thử gia đình có một vấn đề gì đều được cả làng thách để sinh tồn, phát triển. Sự đối chọi quan tâm chia sẻ, từ chuyện sinh nở, ma giữa cái thiện với cái ác xuất hiện phổ biến chay, cưới xin cho đến chuyện bất hòa tình trong loại truyện, sự tàn bạo và ngự trị của cảm làng xóm. Một gia đình có chuyện thì các thế lực đen tối đối với đời sống đồng cả làng giúp việc ăn uống, lo các thủ tục từ bào. Trong hoàn cảnh đó, các truyện đưa ra thờ cúng cho đến chăm sóc sức khoẻ con mô típ tình yêu trai gái vượt qua mọi thử người. Một thành viên trong làng bắn được thách, con người nghèo khổ nhưng nhân con thú cả làng chia phần, một nhà mở chế hậu cuối đời gặp may mắn. Truyện cổ tích rượu cả làng đều uống. Mỗi người trong của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên bao cộng đồng là một thành viên nhất định của giờ cũng đi theo quy luật nhân quả, kẻ ác bị một làng, sống trong không khí cộng đồng trừng trị, con người nhân hậu thì vượt qua và suốt đời bị chi phối bởi lối sống mang mọi khổ đau chiến thắng số phận. Đồng bào tính cộng đồng. các dân tộc nơi đây đã gửi gắm vào đó ước Trong cộng đồng làng, mọi người gắn kết muốn về sự công bằng, tính hướng thiện với nhau chia sẻ từ đời sống vật chất đến đời của con người, khát vọng no ấm, tình yêu, sống tinh thần. Ngay cả những người đã lòng chung thủy, yêu thương con người chết, họ cùng tồn tại trong tâm trí tưởng cùng nhau vượt qua mọi gian khó. tượng của người trong làng gọi là “làng ma”, Sự thủy chung son sắt của con người “nhà mồ”. Theo quan niệm của đồng bào các đồng bào các dân tộc Tây Nguyên thể hiện ở dân tộc Tây Nguyên, cộng đồng làng với tình yêu đôi lứa, khát vọng hạnh phúc, sự ấm tình cảm con người gắn bó trở thành một no qua các vần thơ. Tộc người nào cũng có chỉnh thể có uy lực siêu nhiên. Tất cả dân vốn ca dao, tục ngữ, thành ngữ và sử dụng làng đều chung số phận: vinh hạnh, may chúng trong đời sống hàng ngày. Những bài mắn hoặc hiểm họa, thua thiệt. Mỗi thành ca dao thường nói về tình cảm đôi lứa, tình viên không thể tách rời, đối chọi sống biệt yêu thiên nhiên, tình cảm gia đình, bạn bè, lập với cộng đồng và cộng đồng cũng không ca ngợi quê hương xứ sở, nói lên ước vọng chấp nhận được những thành viên đi ngược cuộc đời. Qua đó thể hiện tình yêu thương với lợi ích của cộng đồng. con người một cách chân thật, dám hy sinh Tình yêu thương con người còn được thể tất cả để đón nhận tình yêu dù có phải chờ hiện qua những loại truyện cổ của các dân đợi. Bài Hri người Ba Na: “Anh lên núi, em tộc sinh sống trên địa bàn Tây Nguyên: theo anh lên núi; Anh xuống suối, em cũng người Êđê có thuyết hang Ađrên (băng theo anh xuống suối; Anh có đi xa dù bao Ađrên), người Mnông có truyện “Trôm năm tháng, em vẫn chờ anh; Con trâu, cha 90
- Giá trị đạo đức truyền thống mẹ cho đã buộc ở cây to; Chiếc cườm năm chủ đạo, lúa được trồng trên ruộng cạn và xưa anh tặng em vẫn giữ”(4). cả ở ruộng nước. Đồng bào các dân tộc Tây Cách ứng xử trong gia đình ở đồng bào Nguyên luôn tranh thủ thời gian và các điều các dân tộc Tây Nguyên thể hiện rõ không kiện về khí hậu để tăng cường sản xuất trên có chế độ đa thê, đa phu (nhiều vợ, nhiều mảnh đất mà mình đã khai hoang. Họ tạo ra chồng). Trong xã hội con người đến tuổi kinh tế rẫy để đáp ứng được sự phát triển trưởng thành thì sống phải có gia đình, quan dân số trong gia đình và buôn làng. hệ vợ chồng bình đẳng. Đến mảnh đất Tây Nguyên, chúng ta Xã hội truyền thống Tây Nguyên trước thấy đồng bào nơi đây rất giỏi các nghề làm đây chưa có sự phân hoá giai cấp, chưa xuất mộc, đan lát, dệt vải, rèn, làm gốm. Hầu hết hiện nhà nước. Vì vậy, các quan hệ xã hội đồng bào các dân tộc Tây Nguyên đều có mang tính bình đẳng, mọi người tham gia truyền thống dệt vải, tuy cách thức dệt còn lao động đều được hưởng thụ như nhau. thô sơ, chưa có cả khung cửi, mà chỉ có loại Mức sống của các gia đình trong làng “khung dệt kiểu Anh - đô - nê - điêng”. không chênh lệch nhau, quan hệ giữa con Người Mạ đã đề ra tiêu chuẩn của thủ lĩnh người với con người gắn bó chặt chẽ, mọi làng: “Ai dệt giỏi thì có mền đẹp, ai se sợi người sống ngay thẳng. Trong quan hệ gia giỏi thì có chỉ tốt, ai am hiểu truyền thống đình vợ chồng bình đẳng, con cái được tự và làm theo đúng thì trở thành thủ lĩnh”(5). do, người già được tôn trọng. Tính cộng Hoạt động săn bắn thú rừng của đồng đồng rất cao, mọi người đều sẵn sàng giúp bào các dân tộc Tây Nguyên thể hiện tinh đỡ lẫn nhau khi cần thiết. thần thượng võ, các kỹ thuật điêu luyện khi Thứ ba, đức tính cần cù, tiết kiệm ở đồng sử dụng vũ khí để tiêu diệt con mồi. Người bào các dân tộc Tây Nguyên được thể hiện Mnông và Êdê nổi tiếng săn voi, người Gia thông qua lao động sản xuất nương rẫy, Rai và Ba Na giỏi săn bò tót. Hoạt động săn những con người nơi đây yêu tự nhiên, đề bắn của đồng bào có mùa, với các hình thức cao các thành quả lao động của gia đình. khác nhau: đi săn tập thể, cá nhân, vây Những chàng trai cô gái rất giỏi dệt vải, săn đuổi, rình, bẫy Với mỗi loại thú rừng có bắn, trồng trọt. cách săn bắn và sử dụng vũ khí khác nhau. Rẫy của đồng bào các dân tộc Tây Họ tiết kiệm thời gian chỉ khi nương rẫy ít Nguyên được canh tác theo hình thức đa việc thì họ vào rừng săn bắn hoặc khi nhu canh, xen canh, quảng canh phù hợp với cầu thực phẩm của gia đình và làng đang trình độ sản xuất của bà con nơi đây. Trong cần phải có. Mỗi người con trai đồng bào đó, kỹ thuật xen canh phổ biến trong nông các dân tộc Tây Nguyên đều được dạy dỗ từ nghiệp nương rẫy: hình thức trộn lẫn các nhỏ về các kỹ thuật săn bắn, lớn lên họ loại hạt giống rồi gieo trỉa cùng lúc. Người Chil và Lát trồng nhiều ngô, xen với lúa, (4) cây thuốc lá, cà, dưa, bầu, mỗi loại được Lưu Hùng (1996), Văn hóa cổ truyền Tây Nguyên, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, tr.216. trồng một hốc riêng. Cây lúa giữ một vị trí (5) Sđd, tr.203-204. 91
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 5(90) - 2015 được trải nghiệm trong thực tế. Săn bắn dạm hỏi, lễ cưới, sau đến việc lại mặt của không chỉ đề cao thành quả lao động, lợi đôi uyên ương.(6) ích kinh tế, mà còn thể hiện niềm vinh dự Con người nơi đây đã làm chủ núi rừng và sự tự hào về thành quả mà mình đã đạt bằng chính sức mạnh lao động, họ đã biến được. “Nhiều người ở Buôn Đôn suốt cuộc vùng đất bazan, khí hậu nhiệt đới ẩm gió đời đã bắt và thuần dưỡng hàng trăm con mùa phục vụ nhu cầu đời sống của chính họ voi rừng như cụ Ypui bắt được 450 con, cụ từ vật chất cho đến tinh thần. Yniê bắt được 240 con, “Vua voi” Ythu là Thứ tư, truyền thống đoàn kết là một người săn voi nổi tiếng ở cả Thái Lan, Lào, truyền thống quý báu, tạo nên bản sắc văn Campuchia. Những người này được trân hoá của con người Tây Nguyên. Sinh hoạt trọng gọi là Kru”(6). cộng đồng luôn gắn với cuộc sống hàng Tình yêu lao động của đồng bào các dân ngày của mỗi con người nơi đây, ngay cả tộc Tây Nguyên thể hiện qua các bài dân ca, trong các hình thức nghi lễ tín ngưỡng, tôn ca ngợi quê hương giàu đẹp, đề cập đến giáo đến việc săn bắn thú rừng. Nếu như cuộc sống lao động, đến tình yêu, đến vẻ người Kinh có truyền thuyết “Lạc Long đẹp con người. Qua các bài hát, hình tượng Quân và Âu Cơ” nói về chung một nguồn nổi bật là con người lao động siêng năng, cội, thì người H’mông có truyền thuyết giàu tình cảm, đầy nghị lực, có tâm hồn “Sinh trong bọc thịt”. Họ cho rằng các dân trong sáng, hồn nhiên, có phí phách đấu tộc được sinh ra và sống ở miền núi và tranh luôn hướng tới các thiện. Con người miền xuôi đều chung một nguồn gốc đó là trong dân ca thường gắn với công việc sản từ những cục thịt được hai anh em băm ra xuất, tha thiết với rừng, rẫy, cây cỏ, hoa lá, từ lời mách bảo của thần qua giấc ngủ. luôn thể hiện tình yêu lao động. Đồng bào các dân tộc nơi đây có tục kết Hôn nhân gia đình là vấn đề quan trọng nghĩa cha con, anh em với các dân tộc khác, của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên, mọi hoặc cùng dân tộc nhưng khác dòng họ. người đều rất tôn trọng và luôn tạo sự tự do Tục kết nghĩa cha con, anh em, đều làm lễ lựa chọn người bạn đời của mình. Ở hầu hết trước Yàng và phải có người làm chứng. các dân tộc Thượng khi lựa chọn người bạn Sau khi đã làm lễ, mọi người coi nhau như đời, họ đều đề cao đến năng lực lao động, ruột thịt ở trong nhà, vui buồn, hoạn nạn sức khỏe và đức hạnh. Tiêu chuẩn sắc đẹp đều phải được chia sẻ. Biểu hiện qua lời và của cải ở xã hội không được đề cao, các khấn: “Hỡi Yàng y pơm (con của vợ chồng đức tính cần cù, chịu khó, hay làm, khéo thần tạo ra trời đất). Yàng bok glaih (sấm tay, trai thì xốc vác, gái thì nết na. Phong sét), Yàng Kong (núi), Yàng Dak (nước) tục cưới hỏi của đồng bào các dân tộc Tây xuống uống rượu và ăn gan lợn, gan gà, Nguyên nói chung thuần phác đơn giản. Trai gái tỏ tình, cầu hôn thường tặng cho (6) Lâm Tâm - Linh Nga Niêk Đam (1996), Một số nét nhau vật phẩm mà chủ yếu là chiếc vòng. đặc trưng của phong tục các dân tộc Tây Nguyên, Nxb Trong nghi lễ cưới hỏi đi theo tuần tự gồm: Văn hóa dân tộc, Hà Nội, tr.138. 92
- Giá trị đạo đức truyền thống chứng giám cho (tên) kết nghĩa làm cha nhau. Trong sinh hoạt cộng đồng mọi người (mẹ, anh) với (tên) làm con (em). Cầu cùng làm, cùng hưởng, cả cộng đồng cùng xin Yàng cho chúng nó được khỏe mạnh, nhau gánh vác.(7) sống lâu và cho đến đời con cháu sau này Tính đoàn kết cộng đồng thể hiện trong cũng vẫn thân thiết ruột thịt mãi mãi. các lễ hội, theo kiểu vui tập thể, có rượu Không được kiện cáo, bắt vạ, gây chiến với mọi người cùng uống, có chiêng thì đánh nhau. Ai làm sai lời, sẽ bị Yàng phạt ”(7). chiêng, ai biết hát thì cất cao lời ca. Mọi Trong xã hội cổ truyền Tây Nguyên làng người tham gia lễ hội cùng nhau chia vui, là đơn vị tổ chức xã hội cao nhất, mỗi làng cùng nhau biểu diễn, cùng nhau thi tài. đều có tên riêng và mang tính ổn định bất Hình thức và nội dung biểu diễn cồng chấp những biến đổi của lịch sử. Đặc điểm chiêng luôn thể hiện sự gắn kết từ cử chỉ của đồng bào các dân tộc nơi đây là tính cho đến các tiết tấu của những con người cộng đồng sâu sắc, đậm nét trong mọi tham gia biểu diễn. Cách thức uống rượu phương diện của đời sống. Đây không chỉ cần của đồng bào nơi đây thể hiện tình cảm là cộng đồng dân cư cư trú, dân làng còn gắn kết cộng đồng hoà chung vào chum gắn bó chặt chẽ, khăng khít với nhau trong rượu, chia sẻ nhưng vui buồn trong cuộc sống, hoặc cùng nhau kính cẩn trước các lao động sản xuất, trong sinh hoạt hàng nghi lễ dâng rượu trước thần linh. Sự đoàn ngày từ đời sống vật chất cho đến tinh thần. kết còn được thể hiện ở những cuộc đi săn Đứng đầu làng là “già làng”, có trách nhiệm voi của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên. quán xuyến đời sống mọi mặt của cộng Săn voi phải huy động sức mạnh của nhiều đồng từ quân sự đến kinh tế, sinh hoạt tinh người đặt dưới sự chỉ huy đoàn săn, con thần. Già làng đại diện cho cộng đồng, thực người cùng với voi nhà khi phát hiện ra hiện ý nguyện của dân làng, chịu trách được voi rừng lập tức bao vây, khua chiêng, nhiệm trước dân làng về: thiên tai, dịch tung ra những vũ khí để đánh trả lại sự bệnh, mất mùa. chống chọi của voi rừng. Sinh hoạt văn hoá cộng đồng đồng bào Tinh thần đoàn kết, cố kết cộng đồng chi các dân tộc Tây Nguyên như lễ cúng bến phối toàn bộ đời sống kinh tế - xã hội và nước, cúng cầu mưa, cúng trừ dịch bệnh, sinh hoạt văn hoá của đồng bào Tây hay là công việc riêng của từng gia đình Nguyên. Tính cộng đồng trong làng được như lễ đặt tên, cầu sức khoẻ của từng biểu hiện rõ trong lao động sản xuất, trong người, cưới xin, ma chay, mừng nhà mới là quan hệ láng giềng đã trở thành nếp sống, công việc của mọi người trong làng. Mọi suy nghĩ và hành vi ứng xử của mọi người, người cùng nhau góp rượu, thịt để dâng mọi gia đình. Đây chính là những chuẩn cúng thần. Khi mùa màng thu hoạch tốt, mực và giá trị về đạo lý, nhân cách được được mùa, sinh con khoẻ, đón dâu hiền rể hình thành như một nguyên tắc lớn nhất của thảo, dọn nhà mới mọi người cùng góp vui. quan hệ cộng đồng cư trú. Đánh mất tính Còn lỡ may gặp chuyện buồn thì mọi người cùng nhau chia sẻ, đùm bọc nương tựa lẫn (7) Sđd, tr.53. 93
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 5(90) - 2015 cộng đồng cũng có nghĩa là làm suy yếu hệ và gia đình. Trong xã hội Tây Nguyên cổ giá trị, lung lay nền tảng tinh thần xã hội. truyền chưa thấy việc học tập mang tính lý Thứ năm, truyền thống hiếu học chưa luận khoa học, tư tưởng, giảng dạy mang được thể hiện một cách rõ nét ở văn hóa tính hệ thống. “Trong xã hội Tây Nguyên đồng bào các dân tộc Tây Nguyên, xuất phát cổ truyền chưa có hình thức truyền thụ kiến từ chính mảnh đất nơi đây, là một vùng đất thức, dù là hình thức truyền thụ bằng rộng người thưa. Mặc dù ở một trình độ kinh miệng, chưa có việc thầy truyền nghề cho tế thấp, nhưng lại là vùng đất có tiềm năng trò và trò học nghề. Vì vậy, có thể nói xã lớn, người dân chủ yếu sống vào nông hội Tây Nguyên trước đây chưa có hình nghiệp, săn bắn thú rừng. Truyền thống hiếu thức tổ chức giáo dục, chưa hoạt động giáo học của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên dục thực sự”(8). chỉ thể hiện qua cách dạy dỗ mọi người cách Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trồng trọt, chăn nuôi, dệt vải, săn bắn thú đô thị hóa cùng với tác động mạnh mẽ của rừng và các kỹ thuật trình diễn cồng chiêng, nền kinh tế thị trường đang làm thay đổi bộ đàn t’rưng, đàn gió, đàn đá. mặt mảnh đất Tây Nguyên nói chung và Trong xã hội Tây Nguyên cổ truyền, mọi bản sắc văn hóa nói riêng. Bên cạnh những người tích luỹ kiến thức từ nhiều mặt, rất đa thay đổi tích cực cả về vật chất lẫn tinh dạng và phong phú. Điều đó thể hiện ở việc thần, quá trình đó cũng đang làm cho những tiếp thu các kiến thức về lao động sản xuất giá trị văn hóa, đạo đức tồn tại hàng ngàn trong nông nghiệp: săn bắn, hái lượm, trồng năm có nguy cơ bị mất dần đi; không gian trọt, chăn nuôi, dệt vải. Tiếp thu kiến thức văn hóa bị thu hẹp, trong tiềm thức của về lao động chế tác: các vật dụng liên quan đồng bào các dân tộc Tây Nguyên, hình ảnh đến sản xuất nông nghiệp (dao, móc trỉa hạt, kể chuyện sử thi và khan bên bếp lửa nhà cuốc), các công cụ liên quan đến các loại âm Rông, nhà Dài ngày càng xa dần. Những nhạc (cồng chiêng, đàn gió, đàn t’rưng). Học vấn đề đó đang đặt ra cho việc giữ gìn và tập kiến thức xã hội: lệ làng, các nghi thức phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu tín ngưỡng, cách tổ chức của làng, thông qua số ở Tây Nguyên những thách thức lớn. các bài giảng hoặc kể chuyên của già làng Chính vì vậy, khơi dậy những giá trị văn trong sinh hoạt cộng đồng ở nhà Rông, nhà hóa dân tộc truyền thống của đồng bào các Dài. Đồng bào học tập kiến thức văn học dân tộc Tây Nguyên nói chung trong đó có nghệ thuật: kể chuyện sử thi, truyện truyền những giá trị đạo đức truyền thống nói thuyết về làng, về dòng họ, ca hát, đánh riêng sẽ góp phần giữ gìn và phát triển các cồng chiêng, chơi các nhạc cụ. giá trị truyền thống của văn hóa, xây dựng Đồng bào các dân tộc Tây Nguyên học hệ giá trị chung của con người Việt Nam tập các kiến thức chỉ là những kỹ năng thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại mang tính phổ thông, phổ cập đối với toàn hóa và hội nhập quốc tế. bộ xã hội. Mọi người có thể biết được các (8) Nguyễn Tấn Đắc (2005), Văn hóa, xã hội và con kiến thức đó để tham gia vào các hoạt động người Tây Nguyên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, cộng đồng, tạo nên cuộc sống cho bản thân tr.139. 94
- Giá trị đạo đức truyền thống 95