Giáo trình Cơ sở Văn hoá Việt Nam - Nguyễn Thị Xuân Hương
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Cơ sở Văn hoá Việt Nam - Nguyễn Thị Xuân Hương", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- giao_trinh_co_so_van_hoa_viet_nam_nguyen_thi_xuan_huong.docx
Nội dung text: Giáo trình Cơ sở Văn hoá Việt Nam - Nguyễn Thị Xuân Hương
- LỜI NÓI ĐẦU Các bạn thân mến! Chào mừng các bạn tham dự chương trình đào tạo Cử nhân biên dịch (B.A. in Translation) - Chương trình đào tạo qua mạng của CCE - Đại học Đà Nẵng nhằm phát triển các kỹ năng giao tiếp bằng tiếng Anh trong các hoạt động thương mại, biên soạn văn bản, dịch tài liệu Ngoài ra học viên còn được trang bị thêm những kiến thức về ngôn ngữ học, về nền văn minh và văn hoá các dân tộc trên thế giới. Đây là môn học Cơ sở Văn hoá Việt Nam do TS. Nguyễn Thị Xuân Hương biên soạn. Môn học này cung cấp cho người người học những hiểu biết đại cương và giản yếu về Văn hoá Việt Nam ở hai mặt lịch đại và đồng đại lẫn những đặc điểm chính của Văn hoá Việt Nam trong quá trình phát triển mấy nghìn năm lịch sử, qua đó góp phần xây dựng quan điểm nhân văn, biết quí trọng và giữ gìn những di sản văn hoá dân tộc biết vận dụng hữu ích vào việc hoàn thiện nhân cách mỗi người. Môn học sẽ kéo dài trong 12 tuần với 12 bài học (units). Tất cả các bài học đều được truyền đạt dưới dạng các file văn bản và hệ thống các câu hỏi, bài tập kiểm tra đánh giá . Để có thể nhận được bài học một cách tốt nhất, bạn cần sử dụng một máy tính với đường truyền có kết nối tốc độ cao. Để hoàn thành chứng chỉ môn học này, bạn cần tự vạch cho mình một lịch học tập cụ thể (ví dụ: truy cập vào mạng và học vào những thời gian nhất định trong tuần). Kinh nghiệm của những học viên tham dự các khóa đào tạo qua mạng cho thấy nếu không tự vạch cho mình lịch học tập, bạn rất dễ bị "trôi", nghĩa là không theo kịp lớp học. Cần nhớ mỗi bài học chỉ tồn tại trên mạng trong năm tuần lễ. Giảng viên hướng dẫn khoá học sẽ nhắc khi bạn chưa nộp bài tập đúng hạn theo quy định. Trong quá trình học, bạn thường xuyên cần tận dụng các công cụ học trên mạng nhưPresentation (thường được thiết kế gắn với một bài tập nào đó), Chat Room (trao đổi với thầy giáo và bạn học trong lớp), Class Roster (danh sách các học viên của lớp), My Grades (bảng điểm cá nhân) vv Bạn cũng có thể đặt câu hỏi hoặc nêu thắc mắc nhờ giảng viên giải đáp qua địa chỉ email: elearning@cce.com.vn. Chúng tôi rất mong các bạn tận dụng một ưu điểm của đào tạo qua mạng là tính giao tiếp hai chiều giữa giảng viên và học viên. Tất cả những thắc mắc liên quan đến bài học của bạn sẽ được giảng viên nhanh chóng giải đáp! Chúc các bạn thành công! CCE - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 1
- Bài 1. DẪN LUẬN VĂN HOÁ VÀ VĂN HOÁ HỌC 1. ĐỊNH NGHĨA/ KHÁI NIỆM VĂN HOÁ Văn hoá là sản phẩm của hoạt động người, là sự sáng tạo của con người từ cái nhỏ nhất đến cái lớn nhất trên mọi lĩnh vực của đời sống . Văn hoá bao trùm lên lên tất cả các mặt của đời sống con người, khiến bất kỳ định nghĩa nào đưa ra cũng khó có thể bao quát hết được nội dung của nó. Do đó cần coi các định nghĩa ấy là những bổ sung lẫn nhau để có thể tái hiện văn hoá như một chỉnh thể. Với tư cách một chỉnh thể, văn hoá mang trong mình những đặc trưng bất biến sau: - Văn hoá là cái phân biệt con người với động vật, văn hoá là đặc trưng riêng có của xã hội loài người. - Văn hoá không phải là sản phẩm của sự kế thừa về mặt sinh học, mà phải qua giáo dục, nhận thức, giao tiếp trao truyền. - Văn hoá là cách ứng xử đã được hình mẫu thành những khuân mẫu ứng xử. 2. CÁC THÀNH TỐ VĂN HOÁ Sự kết tinh của các mặt của cuộc sống được thể hiện qua các thành tố của văn hoá. Sự phân chia văn hoá thành nhiều thành tố hay hai, ba thành tố của hệ thống/ chỉnh thể văn hoá cũng không đi ra ngoài cách phân chia phổ biến (phù hợp với quan điểm của UNESCO về văn hoá và di sản văn hoá), phân văn hoá thành hai thành tố: Văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần. Những thành tố văn hoá mà giáo trình nêu cũng thuộc về hai bộ phận văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần. 3. CÁC CHỨC NĂNG CỦA VĂN HOÁ Văn hoá là sản phẩm của sự nhân hoá thế giới tự nhiên của con người để tạo ra cái "tự nhiên" thứ hai, tức là tạo ra văn hoá. Văn hoá được được xem là một thiên nhiên thứ hai / hệ sinh thái văn hoá phải có của con người. Nó cùng với hệ sinh thái tự nhiên làm nên môi trường sống của con người. Do đó văn hoá mang những chức năng xã hội bao trùm nhất, cơ bản nhất là chức năng giáo dục. Là sản phẩm của hoạt động người, Văn hoá không phải là một thực thể tồn tại tự nó, và tồn tại bên ngoài con người, mà là toàn bộ những sản phẩm, hành động bao chứa vốn kinh nghiệm xã hội, tạo thành "môi trường văn hoá", nuôi dưỡng đời sống con người. Hoạt động văn hoá vì thế diễn ra liên tục. Muốn cho hoạt động này khỏi bị đức đoạn thì mỗi thế hệ người phải thường xuyên làm công việc giáo hoá đối với thế hệ tương lai. Chức năng giáo dục của văn hoá thể hiện ra như sự kế thừa lịch sử, đảm bảo tính liên tục của lịc sử. Bác sĩ Sing người Ấn Độ đã kể về trường hợp phát hiện cô Kamala bị chó sói nuôi từ nhỏ. Khi rời hang sói, Kamala đã 12 tuổi. Ban ngày, cô thường ngũ trong xó nhà, đêm đến thì tỉnh táo và đôi khi sủa lên như chó rừng. Bình thường cô đi hai chân, khi bị đuổi thì chạy bằng bốn chi rất nhanh.Trong bốn năm học nói, Kamala chỉ nhớ được hai từ. Cô không thể trở lại làm người, và chỉ sống đến năm 18 tuổi. Sự kiện trên đây cho thấy vai trò / sự tác động của văn hoá đối với con người cực kỳ quan trọng. Nó chứng tỏ đứa trẻ khi mới sinh ra chưa phải là người, vì không tiếp nhận được một sản phẩm văn hoá xã hội nào của loài người truyền cho cả. Đúng như nhà xã hội học người Mỹ R.E. Pacco đã nói: "người không đẻ ra người, đứa trẻ chỉ trở nên người trong quá trình giáo dục". Môi trường xã hội loài người / môi trường văn hoá, đối với mỗi đứa trẻ mới ra đời chính là cái tập thể bao quanh chúng. Lúc đầu là gia đình, gia tộc, làng xóm tiếp đến là trường học và các nhó xã hội khác, đã nối tiếp nhau thực hiện công việc giáo dục- xã hội hoá một cá nhân. Đó là viêc giáo dục, dạy dỗ nhằm trao truyền cho những đứa trẻ những kỷ năng và tri thức, những chuẩn mực và tập dần cho trẻ cách ứng xử phù hợp với những khuôn mẫu của cộng đồng mà đứa trẻ là thành viên. Công việc này diễn ra liên tục để mỗi cá nhân có trong mình những yếu tố chung của đời sống tập thể, biết tự kiểm soát hành vi của mình để có thể ứng xử hài hoà (theo những điều đã được) trước từng trường hợp cụ thể của đời sống. 2
- 4. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN CỦA VĂN HOÁ HỌC 4.1. Văn hoá với văn minh, văn hiến, văn vật. Đây là những khái niệm gắn liền với văn hoá học. Quan hệ giữa các khái niệm có cả những nét tương đồng và khác biệt. - Quan hệ giữa văn hoá và văn minh: Văn hoá (văn: vẻ đẹp, hoá: biến cải) và Văn minh (văn: cái đẹp, minh: ánh sáng) là những khái niệm gần gũi, có quan hệ mật thiết, không đối lập nhau, song cũng không hoàn đồng nhất. Cả hai khái niệm cùng được dùng để chỉ sức mạnh sáng tạo của con người. Người ta phân biệt nội hàm hai khái niệm này tuỳ theo văn cảnh: Thuật ngữ văn hoá và văn minh thường sử dụng với một nội dung giống nhau khi nó được đặc trong quan hệ dẫn đến các yếu tố khác như: kinh tế, chính trị, xã hội; song khi vấn đề được bàn đến trong khoá học văn hoá, thì sự phân biệt văn hoá văn minh là cần thiết. Văn minh dùng để chỉ trình độ phát triển cao của nền văn hoá.Việc xác định "cao" hay "thấp" được dựa vào hai tiêu chí cơ bản là: tính duy lý và tính phổ biến của nền văn hoá ấy. + Tính duy lý thể hiện ở mức độ hiện thực hoá các sức mạnh vật chất, sức mạnh sáng tạo của con người, được biểu đạc qua hệ thống hoạt động sản xuất xã hội, gồm sản xuất vật chất và sản xuất tinh thần (hệ thống các chuẩn mực, các tri thức). + Tính phổ biến thể hiện ở chỗ các thành viên trong cộng đồng văn hoá đó đều hoạt động dựa trên hệ thống chuẩn mực, giá trị mà cộng đồng ấy xây dựng nên, tạo nên tính đồng nhất văn hoá trong mỗi thành viên; mặt khác những hệ thống chuẩn mực, giá trị ấy có ảnh hưởng mạnh đến các nền văn hoá khác. Chính vì có hai thuộc tính trên nên văn minh còn được dùng để chỉ tình trạng tiến bộ chung các cộng đồng người ở mọi cấp độ, từ địa phương, nhà nước, khu vực cho đến nhân loại. Ở cấp độ phổ quát toàn nhân loại, văn minh được hiểu là sự tổng hoà những thành quả vật chất và tinh thần của loài người trong qúa trình cải tạo thế giới; là thước đo của tiến bộ xã hội và mức độ khai hoá của con người. khi loài người tách mình ra khỏi thế giới động vật thị cũng là bước khởi đầu của văn minh. Theo tinh thần đó, khái niệm văn minh bao gồm bốn nội dung cơ bản: Nhà nước, chữ viết, đô thị và trình độ kỹ thuật. - Văn hiến, văn vật: Đây là những thuật ngữ đặc trưng của văn hoá phương đông. Văn hiến dùng để chỉ những giá trị tinh thần do những người hiền tài chuyển tải. Văn vật dùng để chỉ truyền thống văn hoá lâu đời và tốt đẹp được thể hiện thông qua một đội ngũ nhân tài và hiện vật trong lịch sử. 4.2. Văn hoá tộc người Văn hoá tộc người là tổng thể các yếu tố về tiếng nói, chữ viết, sinh hoạt văn hoá vật chất và tinh thần, cá sắc thái tâm lý và tình cảm, phong tục và lễ nghi khiến người ta phân biệt tộc người này với tộc người khác . Văn hoá tộc người với các yếu tố cơ bản trên làm nên tính đặc trưng và đặc thù của tộc người, là nền tảng nẩy sinh và phát triển ý thức tộc người, thực hiện chức năng cố kết tộc người. Một dân tộc bị mất văn hoá riêng thì ý thức tộc người cũng sẽ bị mai một. Văn hoá tộc người làm nên tính đa dạng của một nền văn hoá dân tộc (quốc gia). 4.3 Văn hoá vùng Văn hoá vùng là một thực thể văn hoá bao chứa những sắc thái văn hoá chung (thể hiện qua nếp sống và lối sống của cư dân như sản xuất, nghi lễ, tín ngưỡng, hội hè, qua các hoạt động văn hoá nghệ thuật, qua phong tục và phong cách sống ) từ đó có thể phân biệt với các vùng văn hoá khác. Những đặc trưng chung ấy hình thành trong quá trình lich sử lâu dài, tạo nên tương đồng văn hoá / tính đồng nhất của các cộng đồng người cùng sống trên vùng lãnh thổ. 4.4. Tiếp xúc và giao lưu văn hoá 3
- Thực tế cho thấy, xuyên suốt tiến trình lịch sử, tất cả các nền văn hoá hiện tồn đều là hiện thân như kết quả của quá trình giao lưu, tiếp xúc. Giao lưu và tiếp xúc là phương thức tồn tại của mọi nền văn hoá trên hành tinh này. Tiếp xúc và giao lưu văn hoá được hiểu là hiện tượng xảy ra khi những nhóm người có văn hoá khác nhau, tiếp xúc lâu dài với nhau gây ra sự biến đổi mô thức văn hoá của một hoặc cả hai bên. Trong giao lưu có thể sảy ra hiện tượng những yếu tố của nền văn hoá này thâm nhập vào nền văn hoá kia, trường hợp này là tiếp thu thụ động; hoặc một số yếu tố của nền văn hoá kia được nền văn hoá này vay mượn, trường hợp này gọi là tiếp thu chủ động. Trên cơ sở của yếu tố nội sinh và ngoại sinh mà chủ nhân nền văn hoá ấy sẻ điều chỉnh, cải biên cho phù hợp, dẫn đến sự giao thao văn hoá. Từ góc độ này thì nội dung của một nền văn hóa cụ thể được phân xuất thành: yếu tố nội sinh và yếu tố ngoại sinh. Việc phân chia như thế chỉ mang tính tương đối. Cùng với thời gian, yếu tố ngoại sinh có thể biến thành yếu tố nội sinh, hoặc bị biến đổi một cách căn bản để trở nên phù hợp hơn với nền văn hoá đã tiếp nhận nó. Việc tiếp thu nho giáo, Phật giáo của Việt Nam và một số nước Đông Nam Á là một minh chứng về sự biến đổi đó. Dưới góc độ giao lưu tiếp xúc văn hoá, có thể nói văn hoá Việt Nam là kết quả của các cuộc gặp gỡ văn hoá lớn trong khu vực. - Giao lưu văn hoá Ấn Độ: Giao lưu trực tiếp qua đường biển đông; giao lưu gián tiếp qua văn hoá Bắc thuộc, qua văn hoá Chămpa ở Trung bộ và văn hoá Óc Eo ở Nam bộ. - Giao lưu văn hoá với Trung Hoa: Chủ yếu bằng con đường cưỡng bức (bị xâm lược, đô hộ và đồng hoá). - Giao lưu văn hoá phương tây: Trong lịch sử, sự giao lưu này chủ yếu diễn ra thông qua các kênh: buôn bán đường biển; sự đô hộ của thực dân Pháp, kế đến là đế quốc Mỹ (miền Nam việt Nam). Ngày nay, giao lưu văn hóa với phương Tây đã có thêm nhiều hình thức mới. 5. VĂN HOÁ VÀ CÁC BỘ MÔN VĂN HOÁ HỌC Văn hoá là môn khoa học tích hợp(Integral Science), vừa nghiên cứu văn hoá nói chung, vừa nghiên cứu hiện tượng văn hoá riêng biệt. Mục đích của văn hoá học là phát hiện ra và phân tích tính qui luật của những biến đổi văn hoá - xã hội. Đối tượng của văn hoá học chính là văn hoá. Văn hoá được xem xet từ nhiều góc độ, do vậy văn hoá học có thể được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau, tạo nên nhiều phân môn như: - Lịch sử văn hoá - Địa lý văn hoá - Văn hoá học đại cương - Cơ sở văn hoá. 4
- Bài 2. KHÁI NIỆM VĂN HOÁ VIỆT NAM I. VĂN HOÁ VIỆT NAM THUỘC LOẠI HÌNH VĂN HOÁ GỐC NÔNG NGHIỆP Các nền văn hoá trên thế giới, bên cạnh những sắc thái riêng thì có không ít những nét tương đồng, vì vậy có thể đối thoại với nhau. Những nét tương đồng đó được lý giải thông qua ba chủ thuyết lớn - Thuyết khuếch tán văn hoá - Thuyết vùng văn hoá - Thuyết loại hình kinh tế - văn hoá Các chủ thuyết này không mâu thuẫn nhau, mà bổ sung cho nhau để đáp ứng yêu cầu nhận biết về văn hoá của con người, trong đó thuyết loại hình kinh tế - văn hoá có ý nghĩa cho việc tìm hiểu những nền văn hoá của các dân tộc ở phương Đông và phương Tây từ góc độ khởi nguyên văn hoá. Loại hình văn hoá được giải thích, phân chia từ góc độ này có cơ sở là căn cứ vào sự khác biệt về môi trường sống. tức là can cứ vào địa bàn cư trúvới điều kiện khí hậu khác nhau giữa các vùng trên thế giới. Theo đó, khởi nguyên ban đầu thế giới chỉ có các vùng: châu Âu, châu Á và châu Phi. Từ ba vùng này đã sản sinh hai loại hình: loại hình văn hoá du mục và loại hình văn hoá nông nghiệp. - Cư dân cư trú ở phía Tây - Bắc tức châu Âu (so với châu Phi ở phía Đông Nam) và cư dân vùng Tây - Bắc châu Á là vùng khí hậu khô lạnh, là xứ sở của những thảo nguyên mênh mông. Ở đây, nghề du mục chăn nuôi phát triển, tạo ra lối sống du cư, vừa đi vừa ở, nay đây mai đó. Nơi này không thuận tiện, họ có thể dễ dàng chuyển đi nơi khác. Cư dân sống không phụ thuộc vào thiên nhiên. Đối tượng sản phẩm của nghề chăn nuôi là đàn gia súc. Khi tách hộ, tách tộc thì dẫn đến việc tính toán phân chia gia súc. Cùng với chăn nuôi là nhu cầu cần phải trao đổi hàng hoá, vì vậy, thương nghiệp đã sớm xuất hiện. Thương nghiệp xuất hiện đòi hỏi phải có kho chứa hàng và bãi trao đổi hàng hoá, dẫn đến sự hình thành đô thị. Đô thị xuất hiện kéo theo các ngành nghề thủ công sớm ra đời. Việc xây dựng nhà cửa, kho bãi, đường giao thông dẫn đến khoa học kỹ thuật sớm phát triển. Tóm lại, tất cả những điều kiện của phương thức sinh tồn này dẫn đến kinh tế du mục. Văn hoá lại được quy định bởi kinh tế, vì vậy loại hình văn hoá du mục là sản phẩm của hình thái kinh tế này, với những đặc tính sau: + Dân du mục sống không phụ thuộc vào thiên nhiên, nên không coi trọng thiên nhiên bằng coi trọng sức mạnh con người; ít chú ý bảo vệ thiên nhiên. Con người trong ứng xử thì độc tôn, trong tiếp nhận theo xu hướng chiếm đoạt và trong đối phó thì cứng rắn. + Du mục ưa di chuyển, trọng động, hiếu chiến (khởi nguyên là từ chiếm đoạt gia súc, chiếm đoạt thị trường). + Sự ra đời của thương nghiệp, đô thị, công nghiệp đòi hỏi phải tính toán, hạch toán, nên tư duy phân tích sớm phát triển. Tư duy phân tích chú trọng các thành tố, yếu tố, dẫn đến phát triển mạnh về cấp số nhân, kéo theo sự xuất hiện trừu tượng hoá thoát khỏi những yếu tố ban đầu, dẫn đến siêu hình. Tư duy phân tích gắn liền với siêu hình nên triết học siêu hình sớm nảy nở. + Thương nghiệp, công nghiệp thì phải hạch toán, dẫn đến rất coi trọng và thiên vềpháp, lý hơn tình cảm. Đó chính là cơ sở cho pháp luật sớm ra đời, nghị trường sớm hình thành. Tất cả những đặc tính trên cũng là những đặc trưng của văn hoá phương Tây sau này. - Cư dân ở vùng Đông Nam thế giới, nhất là vùng Đông Nam châu Á có điều kiện khí hậu nắng, nóng, ẩm nhiều, lắm mưa, sông ngòi, ao hồ, bãi bồi nhiều, đây là điều kiện thuận lợi cho nghề nông nghiệp cấy trồng. Kinh tế nông nghiệp đã ra đời và phát triển, là nền tảng hình thành / tạo nên nền văn hoá nông nghiệp. Văn hoá nông nghiệp có những đặc tính sau: + Nông nghiệp phải phụ thuộc, trông chờ nhiều vào thiên nhiên (mưa nắng phải thì), dẫn đến lối sống hoà hợp cùng thiên nhiên, tôn trọng, không ganh đua với thiên nhiên. Chẳng hạn như ở Việt Nam, người nông nghiệp tôn thờ trời và những hiện tượng thiên nhiên như mây, mưa, sấm, chớp, trong suy nghĩ thì ''ngẫm hay muôn sự tại trời''. 5
- + Làm nông nghiệp cấy trồng thì phải định cư lâu dài, phải trông chờ mùa vụ, sản phẩm cây trái dài ngày hàng đời. Định cư nông nghiệp ưa ổn định, ưa tĩnh và khao khát hoà bình ''trời yên biển lặng mới vui tấm lòng''. + Nông nghiệp cấy trồng thì phải dựa vào nhau để tạo sức mạnh làm thuỷ lợi, chiến thắng thiên tai địch hoạ. Phải dựa vào nhau nên phải yêu thương nhau, vì thế văn hoá nông nghiệp thiên về trọng tình cảm, tình nghĩa ''Một bồ cái lý không bằng một tý cái tình''. + Yêu thương nhau thì ''chín bỏ làm mười', văn hoá nông nghiệp ít ưa hạch toán, ít trọng lý, ít trọng pháp, dẫn đến lối ứng xử xuê xoa, đại khái. + Thành quả nông nghiệp là từ nhiều yếu tố hợp thành: Thời tiết, giống má, kỹ thuật nên dẫn đến phát triển tư duy tổng hợp. Tổng hợp thì kéo theo biện chứng - tư duy không phải là tập họp các yếu tố riêng lẻ, mà là mối quan hệ qua lại giữa các yếu tố. Vì thế tư duy văn hoá nông nghiệp cấy trồng là linh hoạt ''dĩ bất biến, ứng vạn biến'', chủ thể văn hoá có lối ứng xử là dung hợp trong tiếp nhận, mềm dẻo trong đối phó. + Văn hoá nông nghiệp trong cộng đồng, trọng tình nghĩa, tình cảm, khiến nảy nở tâm lý hiếu hoà, cư xử khoan dung, khoan hoà, chấp nhận. Những đặc tính văn hoá trên đây cũng là những đặc tính của văn hoá nông nghiệp Việt Nam, biểu hiện cụ thể trên các lĩnh vực: . Ứng xử với môi trường tụ nhiên . Kiểu tư duy . Nguyên tắc tổ chức cộng đồng . Lối sống . Các ứng xử với môi trường xã hội II. CON NGƯỜI VIỆT NAM - CHỦ/ KHÁCH THỂ CỦA VĂN HOÁ VIỆT NAM - Văn hoá Việt Nam như nó đang tồn tại là một nền văn hoá của một quốc gia đa tộc người, gồm 54 dân tộc, trong đó tộc người Việt (kinh) - ''tộc người đa số'', đóng vai trò là tộc người chủ thể. Đó là một cộng đồng người làm nông nghiệp lúa nước được hình thành trong quá trình khai phá vùng châu thổ Hồng, với đặc trưng nổi bật trong tính cách là sắc thái, triết lý nghĩa nghĩa tình trong quan hệ với tự nhiên, với xã hội, làm nên lối ứng xử duy tình, duy cảm, duy nghĩa, gắn chặt với quan niệm sống của cư dân nông nghiệp, đó làphúc đức và phúc đức tại mẫu. III. NHỮNG DỮ KIỆN CĂN BẢN VỀ ĐỊA LÝ, XÃ HỘI VÀ LỊCH SỬ CỦA VĂN HOÁ VIỆT NAM 1. Văn hoá chịu sự chi phối đáng kể của môi trường tự nhiên. Hoàn cảnh địa lý/ môi trường tự nhiên Việt Nam có ba đặc điểm cơ bản: Nóng ẩm, mưa nhiều và có gió mùa. Việt Nam là một quốc gia nằm trong khu vực Đông Nam Á, vùng bao gồm miền chân núi Himalaya và Thiên Sơn. Các dòng sông lớn của khu vực đều bắt nguồn từ hai dãy núi này. Các hạ lưu của sông gồm Dương Tử, sông Hồng, Mê Công, Chaophaya đều là những vùng đồng bằng màu mỡ đầy phù sa. Một đặc trưng của vùng này là sự chênh lệch khá lớn giữ bình nguyên và núi rừng. Chính nét đặc trưng này cùng với điều kiện khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều và có gió mùa là cơ sở thuận lợi cho sự hình thành và phát triển nghề nông trồng lúa nước. Đặc biệt sông nước đã để lại dấu ấn quan trọng làm nên một nét độc đáo trong văn hoá nông nghiệp lúa nước. Sông nước và thực vật là hai đặc tính nổi trội trong văn hoá Việt Nam, làm nên nền văn minh thực vật (khái niệm của học giả Pháp P. Gourou) hay văn minh thôn dã. Văn hoá lúa nước tính chất thực vật (mà cốt lõi là cây lúa) đã in dấu ấn đậm nét trong trong đời sống hàng ngày của con nguời Việt Nam như: ăn, ở và đi lại. Bữa ăn / bữa cơm hàng ngày của người Việt được mô hình hoá là:cơm - rau - cá, thêm vào đó, người Việt không có thói quen ăn sữa và các sản phẩm từ sữa động vật, cũng không có truyền thống chăn nuôi đại gia súc lấy thịt - chăn nuôi gắn với trồng trọt. Tính chất thực vật cũng thể hiện rõ nét trong đời sống tâm linh qua tục thờ cây. Và môi trường sông nước được coi là một yếu tố quan trọng khi xem xét về những vấn đề văn hoá và con người Việt Nam. Yếu tố nước tạo nên sắc thái riêng biệt trước hết là trong tập quán kỹ thuật canh tác (hình thành một hệ thống: Đê, ao, kênh, rạch ), cư trú (có làng ven sông, làng trên sông, tới những đô thị ven sông, ven biển hay đô thị, thành phố ngã ba, ngã tư sông ), ở (nhà sàn, nhà có mái hình thuyền, nhà - ao; nhà thuyền ), ăn (cá sông, cá bể / biển, các loại nhuyễn thể ), đến tâm lý ứng xử (linh hoạt, mềm mại 6
- như nước), sinh hoạt cộng đồng (đua thuyền, bơi chải ), tín ngưỡng tôn giáo (thờ cá voi, thờ rắn, thờ Thuỷ thần ), phong tục tập quán, thành ngữ, tục ngữ, ca dao, nghệ thuật (chèo, tuồng, rối nước, hò, lý ) và truyền thống cố kết cộng đồng, kiên cường, bất khuất trong cuộc đấu tranh với bão tố thiên tai, với lũ lụt. Việt Nam ở bán đảo Đông Dương, là đầu cầu mở vào Đông Nam Á từ hướng Ấn Độ và Trung Quốc. Vị thế này tạo cho Việt Nam trở thành giao điểm của các nền văn hoá văn minh, là cầu nối Đông Nam Á lục địa và Đông Nam Á hải đảo. 2. Lịch sử Việt Nam là lịch sử đấu tranh chống xâm lực và mở mang bờ cõi về phía biển và phương Nam. 3. Cơ cấu xã hội Việt Nam cổ truyền: nhà - làng - nước. Đây là một thể cộng đồng đồng tâm và đồng dạng: - Nhà/ gia đình (hình thức mở rộng là Họ): Đại đa số là gia đình tiểu nông, với cơ cấu kinh tế tự túc, tự cấp theo mô hình ''chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa''. - Làng: Là một đơn vị cộng cư của cư dân nông nghiệp định cư trên một vùng đất chung, một hình thức tổ chức xã hội nông nghiệp tự túc tự cấp. Đó cũng là mẫu hình phù hợp với xã hội có nền sản xuất tiểu nông. Làng được hình thành và tổ chức chủ yếu dựa vào hai nguyên lý cội nguồn và cùng chỗ. Làng có sức sống mãnh liệt với cấu trúc động, không có làng bất biến. sự biến đổi của làng do sự biến đổi chung của đất nước. Do những đặc thù của tự nhiên và xã hội mà ở miền Trung và miền Nam tuy gốc gác cũng là người Việt từ miền Bắc di cư vào, nhưng với môi trường sống mới, hình thức cơ cấu làng xã và quan hệ xã hội thay đổi nhiều, không còn những đặc điểm như làng Bắc Bộ. Làng Việt ở châu thổ Bắc Bộ là hình thức công xã nông thôn với những đặc thù riêng của làng được thể hiện ở chế độ ruộng đất, chế độ công điền, các loại hình và nguyên tắc tổ chức xã hội như lệ làng, tín ngưỡng, lễ hội của làng. Đặc trưng nổi bật của làng Việt Nam là ý thức cộng đồng làng, ý thức tự quản - quyền quản lý làng xã được thể hiện trong hương ước của làng và tính đặc thù độc đáo rất riêng của mỗi làng trong tập quán, nếp sống, tín ngưỡng, tôn giáo, kể cả giọng nói và cách ứng xử. Các đặc trưng trên có mối liên hệ hữu cơ, tạo cho làng một vị trí đặc biệt làm nên những đặc trưng văn hoá làng, văn hoá dân tộc. Làng là một đơn vị xã hội của văn hoá Việt Nam, đồng thời là một môi trường văn hoá. Ở đó, mọi thành tố, mọi hiện tượng văn hoá được sinh thành phát triển, lưu giữ và trao truyền tới mọi thành viên. - Nước: Là một cộng đồng siêu làng/dân tộc. Khi cộng đồng người đã tiến tới trình độ dân tộc thì cộng đồng làng lớn nhất là nước, là dân tộc. Con người Việt Nam trong lịch sử, từ rất lâu đã là con người vừa của làng, vừa của nước ''sống ở làng sang ở nước''. Nhà - làng - nước của người Việt Nam vốn đã sớm có bản sắc của mình. 4. Cơ cấu xã hội Việt Nam truyền thống: xã hội Việt Nam là xã hội nông nghiệp, văn hoá Việt Nam là văn hoá nông nghiệp. Trong xã hội đó, gia đình, làng là đơn vị xã hội cơ sở, là hai yếu tố cơ bản chi phối toàn bộ hệ thống xã hội Việt Nam. Đặc trưng cơ cấu xã hội Việt Nam truyền thống là những gia đình tiểu nông trong những làng xã tiểu nông. Những dữ kiện trên đây là cơ sở hình thành và củng cố những đặc điểm của dân tộc Việt Nam, trong đó quan trọng và tiêu biểu là những đặc điểm sau đây: 1. Tính cố kết cộng đồng sâu sắc. Đặc điểm này giúp con người Việt Nam vượt qua những khó khăn thử thách của thiên nhiên và kẻ thù xâm lược. + Cộng đồng gia đình: Một giọt máu đào hơn ao nước lã. + Cộng đồng làng xóm: Bán anh em xa mua láng giềng gần. + Cộng đồng lãnh thổ/dân tộc: Bầu ơi thương lấy bí cùng/ Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn; hay: Dù ai đi ngược về xuôi / Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba. 2. Tinh thần tương thân tương ái cộng đồng, lối ứng xử nhân hậu với môi trường tự nhiên. 7
- 3. Tinh thần cởi mở, hỗn dung những tinh hoa văn hoá bên ngoài song vẫn giữ cốt lõi và bản sắc văn hoá Việt Nam trong bất kỳ hoàn cảnh nào. 4. Văn hoá Việt Nam là một nền văn hoá thống nhất trong đa dạng. Quốc gia dân tộc Việt Nam hiện nay gồm 54 tộc người, trong đó tộc người Việt là tộc người chủ thể. Nền văn hoá thống nhất của quốc gia dân tộc Việt Nam bao gồm văn hoá của 54 tộc người, với đặc trưng vừa có tính thống nhất, vừa có tính đa dạng. Tiếp cận văn hoá Việt Nam cần phải tiếp cận và phản ánh được tính thống nhất trong đa dạng ấy. Bài 3. ĐẠI CƯƠNG VỀ TIẾN TRÌNH VĂN HOÁ VIỆT NAM Tiến trình văn hoá Việt Nam có thể phân thành 5 thời kỳ: I. VĂN HOÁ VIỆT NAM THỜI TIỀN SỬ VÀ SƠ SỬ Đây là thời kỳ hình thành nền tảng/cơ tầng văn hoá Việt Nam, được tính từ khi người nguyên thủy biết dùng đá để chế tác công cụ cách ngày nay vài chục vạn năm cho đến thời đại Hùng Vương dựng nước - thời đại làm nên hai thành tựu lớn lao có ý nghĩa lịch sử. Đó là sự hình thành của nền văn minh sông Hồng và sự ra đời của hình thái nhà nước sơ khai: nhà nước Văn Lang của các vua Hùng và tiếp đó là nước Âu Lạc của An Dương Vương. 1. Văn hóa Việt Nam thời tiền sử. Là thời kỳ trước khi xuất hiện nền văn minh cổ đại, tức là trước khi hình thành nhà nước / quốc gia (từ buổi đầu thế kỷ I TCN - cuối thời đại đá mới), trên đất nước Việt Nam đã có một quá trình phát triển văn hoá lâu dài. - Trong thời kỳ tiền sử ấy đã dần dần hình thành một cơ tầng văn hoá chung cho tất cả cư dân ở vùng Đông Nam Á. Đó là nền văn hoá lấy nghề nông làm phương thức hoạt động, thích nghi với điều kiện tự nhiên thuộc khu vực châu Á gió mùa - Nền văn hoá có đặc trưng là một phức thể văn hoá lúa nước với ba yếu tố: văn hoá núi, văn hoá đồng bằng và văn hoá biển. Trong đó, yếu tố đồng bằng tuy có sau nhưng đóng vai trò chủ đạo. Ở sườn đồi, sườn núi thấp, người ta đốt rừng làm nương rẫy, trồng lúa cạn. Ở thung lũng, đồng bằng, ở ven biển, người ta canh tác lúa nước. Ở nhiều nơi, cư dân còn biết dùng trâu bò để cày bừa. Ở ven các dòng sông, ở ven biển, cư dân thạo nghề đi biển và đánh bắt hải sản. Ở các vùng núi, cư dân nói chung còn ở trình độ tổ chức sống bộ lạc, nhưng ở trung du và đồng bằng, cư dân đã dần dần vươn tới trình độ tổ chức liên minh bộ lạc, sống thành vùng cư dân đông đúc, gồm nhiều làng xã lớn. Liên minh bộ lạc là một bước quá độ để vươn lên trình độ tổ chức quốc gia. - Việt Nam là một Đông Nam Á thu nhỏ, có đủ ba yếu tố văn hoá núi, đồng bằng và biển, có đủ các sắc tộc thuộc các ngữ hệ ở Đông Nam Á hiện nay. Thông qua các ngành khảo cổ học và cổ nhân học, chúng ta biết có các nền văn hoá trên đất nước Việt Nam thuộc thời kỳ tiền sử: + Văn hoá Núi Đọ - văn hoá thuộc thời kỳ đá cũ, bắt đầu hàng chục vạn năm kéo dài cho đến một vạn năm cách ngày nay (tên gọi của nền văn hoá này là từ điểm khảo cổ học ở núi Đọ, Thanh Hoá) + Văn hoá Sơn Vi (Phú Thọ) - văn hoá thuộc hậu kỳ đá cũ, tồn tại từ 20 đến 15 nghìn năm trước công nguyên. 8
- + Văn hoá Hoà Bình (Hoà Bình) - văn hoá thuộc thời kỳ đá giữa, kéo dài khoảng từ 12.000 đến 7.000 năm cách ngày nay. Đã có một nền nông nghiệp sơ khai xuất hiện trong lòng văn hoá Hoà Bình. + Văn hoá Bắc Sơn (Lạng Sơn) - văn hoá thuộc thời kỳ đá mới, kéo dài khoảng từ 11.000 năm đến 7.000 năm cách ngày nay. Cùng với nền văn hoá Hoà Bình, văn hoá Bắc Sơn đã làm nên khúc dạo đầu của cuộc cách mạng đá mới. Để đến cuối thời đại đá mới thì phần lớn các bộ lạc nguyên thuỷ đã tiến sang giai đoạn nông nghiệp trồng lúa, cũng tức là chuyển từ kinh tế khai thác sang kinh tế sản xuất, thực sự bước vào lĩnh vực sáng tạo văn hoá. Cư dân thời đại đá mới đã có những tri thức phong phú về tự nhiên và dựa vào những tri thức đó để thích nghi một cách hài hoà với tự nhiên. Chẳng hạn, người Hoà Bình cư trú trong các hang động đã nhận biết được những hiện tượng có tính quy luật của gió mùa, do đó để tránh gió mùa, các hang động của họ đã không có hang động nào quay về hướng chính Bắc, mà có tới hơn 50% quay về hướng nam và hướng đông Nam. Thời kỳ này cũng để lại những dấu vết nghệ thuật, như những hiện vật xương có vết khắc hình cá, hình thú và người trên vách hang Đồng Nội. Trong sự nhận thức về thiên nhiên của người Hòa Bình, còn thấy rõ những cảm nhận về những nhịp điệu vốn có trong tự nhiên, được thể hiện bằng những nhóm vạch 3 vạch một trên các hòn đá cuội trong hang động. Dù chỉ là giả thuyết, những di vật tìm thấy trong văn hoá Hoà Bình và Bắc Sơn cũng cho thấy một bước phát triển mới về tư duy của người nguyên thuỷ. Tư duy về thời gian, vũ trụ còn được thể hiện bằng những hoa văn, ký hiệu biểu thị mặt trời như hình tròn, hình chữ vẽ trên đồ gốm. Có thể bấy giờ đã bắt đầu hình thành loại nông lịch sơ khai. Thời kỳ này cũng xuất hiện những tín ngưỡng nguyên thuỷ: niềm tin vào thế giới bên kia; sự tôn thờ các sức mạnh tự nhiên. Những hiện tượng tự nhiên như mưa, gió, đặc biệt là mặt trời đã trở thành những thần linh quan trọng đối với con người. Về tổ chức xã hội, vào giai đoạn hậu kỳ đá mới, khi con người đã chọn nghề nông và sống định cư, thì có thể tin rằng nhiều bộ lạc đã sống thành hàng xóm. 2.Thời sơ sử. Cách đây khoảng 4000 năm, cư dân Việt Nam từ lưu vực sông Hồng đến lưu vực sông Đồng Nai đã bước vào thời đại kim khí. Thời kỳ này trên lãnh thổ Việt Nam hiện nay đã tồn tại 3 trung tâm văn hoá lớn của 3 quốc gia cổ nhất Đông Nam Á : - Văn hoá Đông Sơn (miền Bắc) gắn với sự ra đời của nhà nước Văn Lang của các vua Hùng và tiếp đó là nước Âu Lạc của vua An Dương Vương. Với nền văn hoá Đông Sơn, kỹ thuật chế tác đồ đồng đã vươn lên trình độ khá cao so với trình độ thế giới lúc đương thời. Sản phẩm đồng thời cũng là biểu tượng của văn hoá Đông Sơn là trống đồng Đông Sơn. Quá trình hình thànhvà phát triển của văn hoá Đông Sơn / văn minh sông Hồng ở miền Bắc là một quá trình hình thành nên cái cốt lõi của người Việt cổ và nhà nước đầu tiên của họ. Đây là một nền văn hoá thống nhất mà chủ nhân của nền văn hoá đó là một cộng đồng cư dân gồm nhiều thành phần tộc người gần gũi nhau về nhân chủng và văn hoá. Văn hoá Đông Sơn là một điển hình của nền văn hoá nông nghiệp lúa nước. - Văn hoá Sa Huỳnh (miền Trung) được coi là tiền nhân tố của người Chăm và vương quốc Chăm Pa. Văn hoá Sa Huỳnh là sản phẩm của cư dân nông nghiệp trồng lúa, nhưng biết khai thác nguồn lợi của rừng và biển, và phát triển các nghề thủ công. - Văn hoá Đồng Nai (miền Nam), một cội nguồn hình thành nền văn hoá Óc Eo ở Nam Bộ vào những thế kỷ đầu công nguyên sau này. Văn hoá Óc Eo gắn với vương quốc Phù Nam, một nhà nước tồn tại từ thế kỷ II đến thế kỷ VII ở châu thổ sông Cửu Long. Văn hoá Đồng Nai cũng là sản phẩm của cư dân có hoạt động kinh tế chủ yếu là nông nghiệp và thủ công. Tóm lại, tiến trình văn hoá thời tiền sử và sơ sử thuộc giai đoạn hình thành nền tảng của văn hoá Việt Nam, với các đặc điểm cơ bản sau đây: - Tiến trình văn hoá Việt Nam thời tiền sử và sơ sử là tiến trình hình thành nên những nền tảng của văn hoá Việt Nam, hình thành cốt lõi của người Việt cổ, là phác thảo khởi nguyên về một nền văn hoá quốc gia dân tộc đa tộc người về sau. - Những nền tảng văn hoá đó có là những nền tảng văn hoá bản địa / nội sinh, nằm trong cơ tầng văn hoá chung của khu vực văn hoá Đông Nam Á thời bấy giờ, nó khác với hai nền văn hoá - văn minh Trung Quốc và Ấn Độ ở châu Á. 9
- - Đỉnh cao của giai đoạn hình thành những nền tảng văn hoá nội sinh Việt Nam là văn hoá Đông Sơn, văn hoá Sa Huỳnh và văn hoá Đồng Nai, cũng là ba đỉnh cao của văn hoá Đông Nam Á, miền đông bán đảo Đông Dương. Ba trung tâm văn hoá đó phát triển theo thế chân vạc, nhưng luôn có mối quan hệ qua lại với nhau, đồng thời phát triển, giao lưu với nhiều văn hoá khác ở khu vực. Đồng thời, ba trung tâm văn hoá ấy đều sẽ phát triển thành ba nền văn minh lớn ở Đông Nam Á, ứng với ba quốc gia cổ đại là Văn Lang - Âu Lạc, Chăm Pa và Phù Nam. - Như thế, trước khi chịu sự thống trị của các triều đại phong kiến Trung Quốc, đất nước ta đã từng tồn tại một nền văn minh cổ như vậy, nên ý thức quốc gia dân tộc của người Việt đã sớm hình thành và làm nên một sức mạnh đủ để dân tộc Việt Nam vừa không bị Hán hoá lại vừa có khả năng thâu hoá những nhân tố của mô hình văn hoá Trung Quốc trong quá trình xây dựng nhà nước Đại Việt tự chủ sau này. II. VĂN HOÁ VIỆT NAM THIÊN NIÊN KỶ THỨ NHẤT SAU CÔNG NGUYÊN Trong khoảng mười thế kỷ đầu công nguyên, trên lãnh thổ Việt Nam hiện nay đã từng tồn tại ba nền văn hoá: văn hoá của cộng đồng cư dân châu thổ Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, văn hoá Chăm Pa ở ven biển miền Trung, và văn hoá Óc Eo ở vùng đồng bằng châu thổ sông Cửu Long. Ba nền văn hoá này có những nét chung do có chung cơ tầng văn hoá Đông Nam Á, nhưng cũng lại có những nét riêng do từng vùng có những đặc điểm và số phận lịch sử khác nhau. Bài giảng trình bày đặc điểm văn hoá của cư dân châu thổ bắc Bộ với tư cách đại diện, điển hình. 1. Năm 179 trước công nguyên, nước Âu Lạc của An Dương Vương bị nước Nam Việt của Triệu Đà (đóng đô ở Phiên Ngung thuộc Quảng Đông, Trung Quốc ngày nay) thôn tính. Năm 111 trước công nguyên, nước Nam Việt bị thôn tính vào đế quốc Hán, nước Âu Lạc lúc ấy thuộc nước Nam Việt cũng bị thôn tính theo. Từ đó, đất nước ta trải qua hơn 10 thế kỷ Bắc thuộc, tức là chịu sự đô hộ, áp đặt văn hoá của phong kiến phương Bắc và có sự chống phong kiến phương Bắc đô hộ để bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc. Lịch sử các cộng đồng dân tộc Việt Nam trong suốt thời kỳ Bắc thuộc là lịch sử của một cuộc đấu tranh đề kháng dai dẳng, bền bỉ để bảo tồn giống nòi, bảo vệ nền văn hoá dân tộc và giải phóng đât nước. Cuộc đấu tranh chống ách đô hộ của phong kiến phương Bắc thành công nên mới tồn tại nền văn hoá Việt Nam hiện nay. 2. Trong hơn mười thế kỷ Bắc thuộc, các triều vua Trung Quốc từ Hán đến Đường, thông qua chính quyền đô hộ nước ta khi ấy, đã kế tiếp nhau thi hành chính sách cai trị tàn bạo, chính sách đồng hoá / Hán hoá đối với người Việt và văn hoá Việt trên mọi phương diện, nhằm vĩnh viễn thôn tính nước ta vào đế quốc phong kiến phương Bắc. Đặc trưng cơ bản trong bối cảnh văn hoá lịch sử giai đoạn này là: - Tiếp xúc cưỡng bức văn hoá Việt - Hán. - Tiếp xúc văn hoá Việt Ấn. - Giữ gìn, bảo tồn và phát triển bản sắc dân tộc, bản sắc văn hoá. 3. Dấu ấn văn hoá thời kỳ Bắc thuộc áp đặt vào Việt Nam mà ngày nay vẫn còn ảnh hưởng rõ nét là các học thuyết, các tôn giáo của phương Đông, là sự du nhập đạo Nho, đạo Giáo - Nho giáo (còn được gọi là đạo Nho hay Khổng giáo) do Khổng Tử (551 - 479 trước CN) sáng lập. Nho giáo không phải là tôn giáo hiểu theo đúng nghĩa, không phải là học thuyết triết học theo nghĩa chính xác, mà thực chất là học thuyết chính trị - xã hội và đạo đức của giai cấp thống trị. Nho giáo thiết lập trật tự xa hội, quan hệ giữ người với người trong xã hội và quan hệ giữa con người với thế giới tụ nhiên (trời). Giai cấp thống trị coi Nho giáo là công cụ để cai trị xã hội theo theo một trật tự nghiêm ngặt cho các mối quan hệ trong xã hội. Tư tưởng này quy định phương châm ứng xử theo thứ bậc: quân, sư, phụ, và con người trong xã hội phải giữ đạo Cương thường (trung quân, ái quốc, tam tòng tứ đức, tam cương ngũ thường) để duy trì và củng cố trật tự xã hội ấy. Học thuyết về con người với thế giới tự nhiên đuợc thể hiện thông qua tư tưởng 'Thiên mệnh', 'Thiên nhân cảm ứng'. - Đạo giáo là một thuật ngữ dùng để chỉ hai dòng triết học và tôn giáo ủa Trung Quốc có bản chất khác nhau: một dòng là đạo Giáo triết học được gọi là đạo Gia, một dòng là đạo giáo tôn giáo thường được gọi là đạo Giáo. Đạo Gia do Lão Tử sáng lập và Trang Tử phát triển, nên còn gọi là đạo Lão - Trang. Đạo này đề cao tư duy trừu tượng, coi thường việc nghiên cứu sự vật cụ thể, khuyên con người sống gần gũi tự 10
- nhiên, không làm gì trái với lẽ tự nhiên. Trong thời kỳ Bắc thuộc, đạo Lão - Trang chủ yếu lưu hành trong số người Hán thất thế. - Đạo giáo, một tôn giáo bản địa của Trung Quốc hỗn hợp rất nhiều tín ngưỡng Saman giáo và các phương thuật của dân gian lẫn cung đình như: đoán mộng, xem sao, bói rùa, cúng quỷ thần, đồng cốt, cầu tiên v.v Đạo này khi được truyền bá vào Việt Nam đã hoà nhập với tín ngưỡng đa thần của người Việt, bổ sung những tín điều cần thiết cho tín nguỡng dân gian Việt Nam. - Phật giáo: Phật giáo từ Ấn Độ truyền vào nước ta cùng từ thời kỳ này, khoảng thế kỷ đầu công nguyên. Đạo Phật (Buddha, tiếng Ấn là 'giác ngộ') phát sinh ở Ấn Độ vào thế kỷ VI trước công nguyên, tại một bang Capilavatxtu gần biên giới Nê pan. Người sáng lập là đức Thích ca Mâu ni (Cakya Mauni). đạo Phật là tiếng nói bất bình của quần chúng nhân dân lao động đối với chế độ đẳng cấp hà khắc, là sự phản ứng mãnh liệt, chống lại quyền uy của đẳng cấp thống trị Bàlamôn. Đạo Phật chủ trương pháp tính bình đẳng, rằng tất cả chúng sinh đều có Phật tính và đều có thể thành Phật, từ chỗ từ giác đến chỗ giác tha. Đạo Phật khuyên mọi người nên tiết chế dục vọng, có tinh thần vô ngã vị tha, tu nhân tích đức, làm điều lành, tránh điều ác. Thuyết 'Nhân quả nghiệp báo' của đạo Phật phù hợp với quan niệm 'ở hiền gặp lành, gieo gió gặt bão' trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Thuyết “Luân hồi” cũng phù hợp với quan niệm dân gian cho rằng linh hồn tồn tại sau khi thể xác tiêu tan và tiếp tục đầu thai để kiếp sau trở lại cuộc sống thực tại. 4. Bên cạnh việc chịu ảnh hưởng những tư tưởng lớn như trên, trên cơ sở văn minh nông nghiệp và xóm làng, người Việt đã tiếp thu một số yếu tố văn hoá Trung Quốc, Ấn Độ và vùng biển phương Nam. 5. Song hành với việc chịu Bắc thuộc, việc chống Bắc thuộc để bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc của dân tộc ta đạt được những kết quả mang tính quyết định sự tồn tại của cả dân tộc VIệt Nam. bản sắc văn hoá dân tộc được bảo vệ có thể kể ra ở một số mặt chính sau đây: - Tiếng nói. - Tín ngưỡng dân gian và lễ hội dân tộc. - Văn nghệ dân gian. 6. Như vậy, nhìn tổng thể có thể kết luận rằng, đã diễn ra hai khuynh hướng đối lập của tiến trình văn hoá Việt Nam thời Bắc thuộc: - Khuynh hướng Hán hoá là mưu đồ có ý thức của bọn đô hộ và tay sai. - Khuynh hướng Việt hoá nhằm gìn giữ và phát huy những tinh hoa văn hoá cổ truyền từ đã có từ thời Văn Lang - Âu Lạc, mặt khác còn tiếp thu, hội nhập những yếu tố văn hoá bên ngoài để làm phong phú văn hoá Việt; sắp xếp, cấu trúc lại nền tảng văn hoá Việt. Khuynh hướng này là chủ đạo. Đối lập lại chủ nghĩa 'bình thiên hạ' của kẻ thù, nhân dân ta đã phát huy mạnh mẽ chủ nghĩa yêu nước, ý chí độc lập tự chủ, tinh thần tự lập tự cường. Đối lập với bộ máu nhà nước đế chế và tổ chức chính quyền đô hộ theo cơ cấu quận huyện, nhân dân ta lo củng cố và giữ gìn cộng đồng xóm làng. Từ làng, người Việt vươn ra giành lại nước. Đối lập với sức mạnh của một đế chế lớn mạnh, nhân dân ta tạo lập nên một sức mạnh đoàn kết toàn dân. Khởi nghĩa chống Bắc thuộc là khởi nghĩa nhân dân, có tính quần chúng rộng rãi, mau chóng phát triển thành chiến tranh nhân dân giải phóng dân tộc, và cuối cùng với chiến thắng Bạch Đằng lịch sử do Ngô Quyền lãnh đạo, cuộc đấu tranh bền bỉ của nhân dân ta đã giành được thắng lợi vẻ vang. III. VĂN HOÁ VIỆT NAM THỜI ĐỘC LẬP Trên mảnh đất Việt Nam ngày nay, từ thế kỷ X đến năm 1858, ba nền văn hoá ở thiên niên kỷ đầu công nguyên đã phát triển theo ba hướng khác nhau. Nền văn hoá Óc Eo ở đồng bằng châu thổ sông Cửu Long, sau thế kỷ thứ VIII, dường như chỉ còn ánh hào quang, không còn được nhắc nhở trong tư liệu và thư tịch nữa. Trên dải đất Trung Bộ, từ thế kỷ XV, Chăm Pa đã chấm dứt sự tồn tại của mình như một nhà vương quốc. Cư dân Chăm Pa trở thành một tộc người trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Nền văn hoá Chăm Pa trở thành nền văn hoá của một tộc người trong nền văn hoá đa tộc người Việt Nam. 11
- Bởi vậy, khi nói về văn hoá thời độc lập / tự chủ, là nói về nền văn hoá Đại Việt. Thời tự chủ của quốc gia Đại Việt kéo dài gần một thiên niên kỷ, từ năm 938 đến năm 1858. Đây là thời kỳ có nhiều biến đổi tự thân của nội bộ quốc gia. - Các vương triều thay thế nhau trị vì đất nước, xây dựng một quốc gia tự chủ: nhà Ngô (939 - 967), nhà Đinh (967 - 981), nhà Tiền Lê (981 - 1010), nhà Lý (1010 - 1225), nhà trần (1226 - 1400), nhà Hậu Lê (1427 - 1527), nhà Mạc (1527 - 1592), Trịnh - Nguyễn (1592 -1788), Tây Sơn (1778 - 1802), tên nước Đại Việt được dùng tới đầu thế kỷ XIX, nhà Nguyễn (1802 - 1945), khi Gia Long lên ngôi, tên nước được đổi là Việt Nam. - Trong thời kỳ Đại Việt, nước ta trải qua nhiều cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ Quốc: chống giặc Tống, giặc Nguyên Mông, giặc Minh, giặc xiêm, và giặc Thanh xâm lược. - Cùng với những biến động trong lịch sử, đất nước ta cũng trải qua một quá trình phát triển về phương Nam. Đến giữa thế kỷ XVIII, việc khai phá miền Nam Bộ đã cơ bản hoàn thành. Sau năm 1786 và năm 1802, đất nước Việt Nam đã có một lãnh thổ thống nhất từ Mục Nam Quan đến mũi Cà Mau. - Có ba lần phục hưng văn hoá dân tộc trong thời kỳ độc lập: + Lần thứ nhất vào thời Lý Trần. + Lần thứ hai vào thời Hậu Lê thế kỷ XV. + Lần thứ ba vào cuối thế kỷ XVIII. 1. Đặc điểm văn hoá thời Lý - Trần a. Hệ tư tưởng chủ đạo trong ứng xử với thời cuộc là việc dung hoà Nho, Phật, Đạo, trong đó nổi trội là Phật giáo và Nho giáo. Đây là thời kỳ 'tam giáo đồng nguyên'. - Phật giáo tồn tại và phát triển với tư cách là một đạo và là tác nhân của khối đoàn kết dân tộc. Đạo Phật thời này đã nhập thế và Việt hoá, phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng. Phật giáo thời này cũng đã tác động đến tư tưởng, tâm lý , phong tục và nếp sống của nhân dân. Nó ảnh hưởng to lớn đến văn học nghệ thuật, trong đó có lĩnh vực kiến trúc, điêu khắc. Đặc biệt trong điêu khắc, hình ảnh con rồng thời này khác hẳn các giai đoạn về sau. - Nho giáo trong thời kỳ Lý Trần được sư dụng như là học thuyết thiết lập trật tự trong xã hội. Chế độ giáo dục và thi cử theo tinh thần Nho giáo bắt đầu được coi trọng. Năm 1070, nhà Lý dựng Văn Miếu, mở Quốc Tử Giám. Năm 1075, triều đình mở khoa thi đầu tiên để chọn nhân tài. Dần dần Nho giáo đã có địa vị trong xã hội. Nhà Trần, cùng với việc củng cố tư tưởng Nho giáo, đã chính quy hoá chế độ thi cử. Năm 1247, nhà Trần đặt danh hiệu Tam khôi, dành cho ba người thi đỗ xuất sắc trong các kỳ thi đình. Qua thi cử, tầng lớp nho sĩ ngày càng đông đảo. Nho sĩ và tư tưởng nho giáo ngày càng tăng lên trong triều, lấn át tư tưởng Phật giáo. b. Nền văn hoá bác học bắt đầu hình thành, gắn với sự hình thành của đội ngũ trí thức Phật giáo và Nho giáo. Các trí thức thời Lý chủ yếu là nhà sư, đến đời Trần chủ yếu là nhà nho. Thơ văn tất nhiên ảnh hưởng hệ tư tưởng Phật giáo và Nho giáo, song lại có những áng văn mang tính nhân văn và giá trị văn hoá sâu sắc, như: Nam quốc Sơn Hà (Lý Thường Kiệt), Chiếu dời đô (Lý Công Uẩn) Tư tưởng độc lập cũng thúc đẩy sự phát triển văn tự - chữ Nôm. Chữ Nôm được đưa vào sáng tác văn học, bên cạnh văn học chữ Hán. Các tác giả có thơ Nôm thời kỳ này là Trần Nhân Tông với Cư trần lạc đạo phú và Đắc thử lâm tuyền thành đạo ca; Mạc Đĩnh Chi với Giáo tử phú; Huyền Quang với Vịnh hoa yên tự phú, Nguyễn Thuyên với Phi sa tập (tập thơ vừa chữ Nôm vừa chữ Hán). Cùng với văn học là sự ra đời và phát triển của các ngành nghệ thuật như chèo, tuồng. 2. Đặc điểm văn hoá thời Hậu Lê a. Năm 1400, nhà Hồ lên thay thế nhà Trần. Đến năm 1407, giặc Minh xâm lược Đại Việt, đặt nền đô hộ và đổi tên nước ta thành quận Giao Chỉ. Nhà Minh thi hành chính sách cai trị tàn bạo nhằm thủ tiêu nền độc lập của Đại Việt. Năm 1418, Lê Lợi tụ nghĩa, phất cờ khởi nghĩa Lam Sơn, tổ chức cuộc kháng chiến 10 năm 12
- chống quân nhà Minh, giành lại độc lập cho Tổ quốc. trang sử mới của đất nước được mở ra, văn hoá dân tộc bước vào thời kỳ phục hưng lần thứ hai. b. Thành tựu văn hoá: - Thành tựu văn hoá lớn nhất của thời Hậu Lê là sự ra đời của bộ luật Hồng Đức / Lê triều hình luật. Bộ luật này là thể hiện bước phát triển quan trọng của việc xây dựng nhà nước pháp quyền thời phong kiến. - Giáo dục: giáo dục thời Hậu Lê được chú trọng mở mang. Giáo dục lấy Nho giáo làm chuẩn mực, chế độ đào tạo Nho sĩ được xây dựng theo một xu hướng rất chính quy nhằm tuyển chọn hiền tài, bổ nhiệm vào bộ máy nhà nước. Để khuyến khích học hành đỗ đạt, nhà nước đặt ra lễ xướng danh, lễ vinh quy và lễ khắc tên mỗi người thi đỗ tiến sĩ vào bia đá dựng ở Văn Miếu, gọi là bia tiến. Hệ thống quan lại của nhà Lê đều được tuyển lựa hầu hết qua thi cử. Chính vì vậy, Nho giáo đã trở thành hệ tư tưởng chính thống của nhà Hậu Lê. - Văn hoá ngôn từ, nhiều tác phẩm chữ Nôm vẫn không ngừng ra đời và phát triển. Với Quốc Âm thi tập (254 bài), Nguyễn Trãi được khẳng định là người mở đầu nền thơ cổ điển Việt Nam. - Ở phương diện khoa học cũng có những tác phẩm tiêu biểu, như Lập thành toán pháp (Lương Thế Vinh), Đại thành toán pháp (Vũ Hữu). - Nghệ thuật: hai thể loại sân khấu là tuồng và chèo, đã đạt đến sự ổn định về mặt nghệ thuật, được thể hiện trong cuốn Hý phường phả lục (Lương Thế Vinh) - tác phẩm lý luận đầu tiên về kịch hát cổ truyền. Về nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc, một phần thể hiện ở hình tượng con rồng. Sự tác động của hệ thống tư tưởng Nho giáo của triều đình đã chuyển hoá hình tượng con rồng từ chỗ là biểu tượng cho nguồn nước của cư dân nông nghiệp thành biểu tượng cho quyền uy của phong kiến. Ở nông thôn, đình làng mỗi làng quê, nơi thờ thần làng cũng mang chức năng mới - Công sở của làng xã, nơi ban bố chính lệnh của nhà nước. 3. Đặc điểm văn hoá thời cuối thế kỷ XVIII đến năm 1858 a. Nét đặc trưng của lịch sử thời kỳ này sự phân liệt về chính trị một cách gay gắt, sự xung đột Lê Mạc, Lê - Trịnh ở Đàng Ngoài với các chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Đời sống dân chúng khổ sở dẫn đến nhiều cuộc khởi nghĩa của nông dân. Sự thống nhất đất nước buổi đầu do công lao của Nguyễn Huệ, sau đó là nhà Nguyễn của vua Gia Long, đã tạo cho văn hoá giai đoạn này một diện mạo khá đa dạng. b. Sự mục ruỗng của triều đình phong kiến chứng tỏ sự sụp đổ của hệ tư tưởng Nho giáo. Tuy nhiên, giai cấp phong kiến, từ trong tiềm thức vẫn giữ Nho giáo làm kỷ cương cho đời sống xã hội, nhất là ở thời nhà Nguyễn (từ vua Gia Long tới Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức). Mặc dù vậy, Nho giáo vẫn không có được vị thế như thế kỷ XV. Bắt đầu từ thế kỷ XVI, một tôn giáo mới du nhập vào nước ta, trở thành một bộ phận trong đời sống tư tưởng Việt Nam. Đó là Kitô giáo. c. Ki tô giáo vào Việt Nam đã dẫn đến sự ra đời của chữ quốc ngữ. Chữ quốc ngữ thời kỳ đầu gắn liền với việc giảng đạo, truyền đạo, với vị giáo sĩ được tôn là 'ông tổ chữ quốc ngữ' - AlếcxăngđơRốt. Năm 1649 - 1651, Alếc xăngđơRốt đã công bố cuốn từ điển Việt - Bồ - La tại Rôma, đã khẳng định sự xuất hiện chính thức của chữ quốc ngữ- chữ Việt Latinh. Sự xuất hiện của chữ quốc ngữ sẽ đưa sự phát triển văn hoá lên một bước mới. d. Sự phát triển của văn hoá nghệ thuật, trong đó có văn học chữ Nôm phát triển mạnh. Những tác phẩm Truyện Kiều (Nguyễn Du), thơ Hồ Xuân Hương, Cung oán ngâm khúc (Nguyễn Gia Thiều), thơ của Bà Huyện Thanh Quan; những sáng tác dân gian cũng phát triển mạnh. Kiến trúc đình làng thế kỷ XVI - XVII phát triển mạnh, làm cho vị trí Thành hoàng được xác định chắc chắn tại các làng quê. e. Một đặc điểm lịch sử trong thời kỳ này là sự mở rộng cương vực về phía nam, dẫn đến sự hình thành Đàng Trong để phân biệt với Đàng Ngoài. Đàng Trong là vùng đất mới của người Việt. Trước khi người Việt đặt chân đến, ở đây đã có một nền văn hoá 'tiền Việt' phát triển khá rực rỡ. Đó là nền văn hoá Chăm Pa. Trong quá trình cộng cư, 13
- người Chăm và người Việt đã giao lưu văn hoá tự nguyện, hoà bình.Do đó, văn hoá của người Việt ở Đàng Trong, về cơ bản vẫn đảm bảo tính thống nhất. IV. VĂN HÓA VIỆT NAM THỜI THỰC DÂN PHÁP XÂM LUỢC 1. Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam. Trong vòng gần 10 năm, từ 1858 đến 1867, các tỉnh miền Đông và miền Tây Nam bộ lần lượt bị chiếm và bị đặt dưới ách thống trị của người Pháp. Đến năm 1872, quân Pháp đánh ra Bắc bộ, và đến năm 1883, triều đình nhà Nguyễn phải ký với thực thực dân Pháp hiệp ước ''Hiệp định hoà bình'' tại Huế. Với hiệp ước này, toàn bộ đất nước Việt Nam đã bị đặt dưới ách thống trị của người Pháp. 2. Trong khi triều đình Huế liên tục cắt đất cho giặc và cuối cùng đã đầu hàng thực dân Pháp, công nhận ách thống trị của thực dân Pháp ở Việt Nam, thì nhân dân Việt Nam cùng các sĩ phu yêu nước đã liên tục đứng lên chống Pháp ở khắp ba miền. Tất cả các phong trào yêu nước chống Pháp, bảo vệ độc lập dân tộc, tuy rất kiên cường anh dũng nhưng đều bị thất bại. Khi việc bình định Việt Nam đã căn bản hoàn thành, thực dân Pháp bắt đầu tiến hành công cuộc khai thác thuộc địa. 3. Đặc trưng văn hoá của thời kỳ này là sự tiếp xúc, giao lưu văn hoá tây phương (Pháp), và đối tượng trực tiếp tiếp xúc là các tầng lớp sĩ phu. Còn ở các làng quê thì ảnh hưởng của sự giao lưu rất ít. Tầng lớp sĩ phu - những người nhạy cảm với văn hoá đương thời, đã phân hoá thành ba thái độ ứng xử khác nhau: - Chống lại sự giao tiếp, chống lại văn hoá phương Tây. - Chấp nhận sự giao tiếp, đầu hàng thực dân về mặt chính trị, cố học lấy chữ Pháp, văn hoá Pháp để ra làm quan cho chính quyền thuộc địa. - Chủ động tích cực giao lưu với văn hoá Pháp để tìm đường giải phóng dân tộc. 4. Kết quả của việc giao lưu văn hoá thời kỳ này thể hiện ở các lĩnh vực: - Văn hoá vật chất: sự phát triển đô thị, công nghiệp và giao thông; sự phát triển của kiến trúc đô thị theo kiểu Tây phương; trang phục; những tiện nghi sinh phù hợp với lối sống đô thị có nguồn gốc phương Tây - Văn hoá tinh thần: sự ra đời và phát triển nhanh chóng của báo chí, của văn học chữ quốc ngữ gắn với sự xuất hiện những thể loại văn học mới có nguồn gốc phương tây (tiểu thuyết, thơ mới), những quan điểm nghệ thuật mới (chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa tả chân, phương pháp miêu tả và phân tích tâm lý ). Bối cảnh lịch sử, văn hoá thời này đã thúc đẩy sự phát triển của bộ phận văn học yêu nước chống thực dân Pháp xâm lược. Đó là các nhà thơ - chí sĩ: Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương Về sau các nhà hoạt động chính trị như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh cũng đã dùng ngòi bút của mình tố cáo chế độ thực dân, cổ vũ nhân dân đấu tranh cho độc lập, cho tiến bộ xã hội. Trước Cách mạng Tháng tám, bộ phận nhà văn thuộc chủ nghĩa tả chân đã có những tác phẩm phê phán sắc sảo xã hội của chế độ thực dân như: Tắt đèn (Ngô Tất Tố), Chí Phèo (Nam Cao), Số đỏ (Vũ Trọng Phụng) V. VĂN HOÁ VIỆT NAM TỪ SAU NĂM 1945 ĐẾN NAY 1. Ngày 2/9/1945, nước Việt Nam Dân Cộng Hoà ra đời, chấm dứt hơn 80 năm đất nước bị thực dân Pháp xâm lược. Lịch sử Việt Nam từ sau Cách mạng Tháng tám đã trải qua nhiều biến động lớn lao. Đó là trong vòng một nửa thế kỷ XX, Việt Nam đã phải tiến hành liên tiếp hai cuộc chiến trang giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước. 2. Đặc điểm văn hoá thời kỳ này: - Người lao động trở thành người làm chủ / chủ thể văn hoá có hệ tư tưởng là chủ nghĩa Mác - Lênin. Văn hoá truyền thống, văn hoá chuyên nghiệp, giao lưu văn hoá theo sự định hướng của Đảng Cộng sản Việt Nam, từ các văn kiện như, ''Đề cương văn hoá Việt Nam'', (1943), ''Chủ nghĩa Mác và vấn đề văn hoá Việt Nam'' (1948); các nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng cũng như các Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng - Hệ tư tưởng xã hội / hệ văn hoá - hệ tư tưởng Mác - Lênin. - Văn hoá truyền thống, văn hoá chuyên nghiệp đều phát triển, có sự giao lưu mạnh mẽ với văn hoá nhân loại. 14
- Bài 4. NGÔN NGỮ VÀ VĂN HOÁ GIAO TIẾP CỦA NGƯỜI VIỆT NAM Ngôn ngữ là sản phẩm tư duy đặc thù của dân tộc. Nước ta có 54 dân tộc cũng là có 54 tiếng nói khác nhau, với cuộc sống tinh thần và tập quán xã hội khác nhau. Theo ngôn ngữ văn hoá, các dân tộc được xếp vào 8 nhóm văn hoá ngôn ngữ tộc người. I. DÂN TỘC VÀ NHÓM NGÔN NGỮ TỘC NGƯỜI 1. Nhóm văn hoá ngôn ngữ Việt - Mường: Việt, Mường, Thổ, Chứt. 2. Nhóm văn hoá ngôn ngữ Môn - Khơ Mer Ba Na, Brâu, Bru - Vân Kiều, Co, Chơ Ro, Cơ Ho, Cơ Tu, Gié - Triêng, Hrê, Kháng, Khơ Mer, Khơ Mú, Mạ, Mảng, Mnông, Ơ Đu, Tà Ôi, Rơ Măm, Xinh Mun, Xơ Đăng, Xtiêng. 3. Nhóm văn hoá ngôn ngữ Tày - Thái Bố Y, Giáy, Lào, Lự, Nùng, Sán Chay, Tày, Thái. 4. Nhóm văn hoá ngôn ngữ Mông - Dao Dao, Mông, Pà Thẻn. 5. Nhóm văn hoá ngôn ngữ Ka Đai Cờ Lao, La Chí, La Ha, Pu Péo. 6. Nhóm văn hoá ngôn ngữ Mã Lai - Đa Đảo Chăm, Chu Ru, Ê Đê, Gia Rai, Rag Lai. 7. Nhóm văn hoá ngôn ngữ Hán Hoa, Ngái, Sán Dìu. 8. Nhóm văn hoá ngôn ngữ Tạng - Miến Cống, Hà Nhì, La Hủ, Lô Lô, Phù Lá, Si La. Theo các nhà nghiên cứu ngôn ngữ, lịch sử ngôn ngữ Việt Nam có một nền tảng chung là ngôn ngữ Đông Nam Á, đồng thời có một lịch sử phát triển lâu dài, và có nguồn đa nguồn. Lịch sử phát triển tiếng Việt trải qua ba giai đoạn. Đó là: - Tiền Việt - Mường. - Việt - Mường chung. - Tiếng Việt độc lập. Sắc thái đặc thù của ngôn ngữ Việt Nam là sự giao thoa, tiếp xúc đan xen giữa những yếu tố nội sinh với những bồi đắp ngoại sinh. Lịch sử đã trộn các yếu tố ấy ở vùng lòng chảo Bắc Bộ và vùng vịnh cổ Hà Nội để tạo nên tiếng Việt / kinh phong phú và thanh tao, được thể hiện trong văn hoá giao tiếp cùng cách sử dụng ngôn từ của người Việt Nam. II. CÁC ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN TRONG GIAO TIẾP CỦA NGƯỜI VIỆT NAM - Vừa cởi mở vừa rụt rè: Đặc trưng này bắt nguồn từ văn hoá làng xã với hai đặc trưng cơ bản là tính cộng đồng và tính tự trị, tôn ti. Làng xã người Việt là những không gian văn hoá đóng kín, và ở đó, mỗi cá nhân đều cảm thấy thoải mái rong cộng đồng quen thuộc, bởi ở cộng đồng này, họ hành xử theo những quy tắc đã có sẵn. Tuy nhiên, khi đi ra ngoài cộng đồng quen thuộc đó, họ sẽ tở nên lúng túng vì không định vị được chính xác vị thế của mình, do đó mà mất tự tin, dẫn đến việc rụt rè, tự khép mình lại. - Ứng xử thiên về tình cảm: Ảnh hưởng chủ yếu của văn hoá sông nước và tính cộng đồng làng xã. - Trọng danh dự: Tuy nhiên trọng danh dự thái quá nên mắc bệnh sĩ diện. Đặc điểm này cũng khiến cho người Việt rất sợ dư luận và thường sống dựa theo dư luận. 15
- - Cẩn trọng, giữ ý trong giao tiếp để giữ gìn sự hoà thuận: Không biểu lộ cảm xúc, nguyện vọng hay nhu cầu trước mặt người khác. Đặc điểm này nhiều khi dẫn đến thái độ vòng vo, cân nhắc thái quá trong giao tiếp. - Thiếu tính quyết đoán: Đây là hệ quả của việc giữ gìn ý tứ và cân nhắc thái quá trong giao tiếp. - Hệ thống nghi thức lời nói phong phú với các đặc điểm như trọng tình, khiêm cung, lịch sự, phù hợp với các quan hệ xã hội. III. CÁC ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN TRONG NGHỆ THUẬT NGÔN TỪ VIỆT NAM Văn hoá ứng xử / giao tiếp của người Việt đã được kết tinh lại trong nghệ thuật sử dụng ngôn từ. Nghệ thuật sử dụng ngôn từ của người Việt có những đặc trưng cơ bản như sau: - Tính ước lệ cao: hay diễn đạt bằng các con số biểu trưng, ước lệ: ba thu, nói ba phải, ba mặt một lời, chín tầng mây - Tính cân xứng, so sánh và tương phản cao, tạo nên kiểu từ, câu đối ứng: Trèo cao / ngã đau; Ăn vóc / học hay; Đời cha ăn mặn / đời con khát nước - Giàu tính nhịp điệu và tiết tấu - đậm chất thi ca. - Giàu chất biểu cảm - sản phẩm của nền văn hoá trọng tình. Chất biểu cảm biểu hiện đậm ở mặt từ ngữ. Đó là một từ, bên cạnh yếu tố gốc có sắc thái nghĩa trung hoà, thường có nhiều biến thể với những sắc thái nghĩa biểu cảm. Ví dụ: màu xanh (trung tính), sẽ còn có: xanh rì, xanh rờn, xanh lè, xanh rợn, xanh ngắt, xanh um, xanh lè ; các từ láy mang sắc thái biểu cảm mạnh cũng rất phát triển ở tiếng Việt. Ví dụ: nhỏ (trung tính), sẽ còn có: nhỏ nhoi, nhỏ nhen, nhỏ nhặt, nhỏ nhắn Về ngữ pháp, tiếng Việt có một hệ thống hư từ biểu cảm rõ rệt, đã góp phần làm tăng cường hệ thống phương tiện biểu cảm cho tiếng Việt, như: à, ư, nhỉ, nhé, chăng, chớ, hở, sao, chứ - Linh hoạt và mềm dẻo, do ảnh hưởng từ văn hoá sông nước và văn hoá giao tiếp. Đặc điểm này, trước hết bộc lộ ở hệ thống ngữ pháp ngữ nghĩa hoạt động linh hoạt và có khả năng khái quát cao; trong lời nói, tính linh hoạt bộc lộ ở chỗ người Việt ưa dùng cấu trúc động từ - trong một câu có bao nhiêu hành động thì có bấy nhiêu động từ. Điều này khác với ngôn ngữ phương Tây - ưa thích dùng danh từ. Tính linh hoạt, năng động còn là nguyên nhân khiến tiếng Việt thiên về dùng cấu trúc chủ động, kể cả những câu bị động cũng bị 'hoán đổi' theo cấu trúc chủ động. Như vậy, có thể nói rằng, giao tiếp của người Việt đã phần nào minh chứng cho nền văn hoá trọng tình và văn hoá sông nước Việt Nam. 16
- Bài 5. NHÀ CỬA - KIẾN TRÚC Đối với người làm nông nghiệp, ngôi nhà là cái tổ ấm, với các chức năng: chức năng cư trú, chức năng xã hội và chức năng kinh tế. Người Việt khẳng định: có an cư thì mới lạc nghiệp, và nhất dương cơ nhì âm phần là vậy. I. NHÀ CỬA CỦA NGƯỜI VIỆT NAM TRUYỀN THỐNG Quy mô, kết cấu và hình thức của ngôi nhà nhìn chung nhỏ bé, đơn sơ và mang tính tôn ti. Nguyên nhân: do luật pháp nhà nước phong kiến quy định, đồng thời còn là do môi trường tự nhiên của Việt Nam quy định. 1. Nhà của người Việt/ Kinh Nhà của người Việt / kinh xây dựng trên những miền có địa hình và khí hậu khác nhau sẽ có những khác biệt để thích ứng với môi trường sống. Nhà cửa vùng đồng bằng miền Bắc chau chuốt, trang nhã nhưng không kém phần vững chắc và duyên dáng hơn các vùng khác. Ngôi nhà gắn bó với thiên nhiên, tạo cảm giá gần gũi giữa con người với môi trường tự nhiên. Nhà cửa của người Việt ở những nơi đầu sóng ngọn gió, hàng năm phải chịu sự chà sát của bão gió liên tục, như các tỉnh từ Quảng Ninh xuống Thái Bình, thì căn nhà phải thu mình gọn, bám chặt vào đất, nên ngôi nhà đã giảm đi sự trang trí thanh thoát trang nhã mà chỉ giữ lại những gì thật cần thiết, đảm bảo tránh gió bão từ miền đông vào. Ngôi nhà vùng này đặc biệt chú ý đến sự gia cố phần khung và mái nhà để trụ được trước gió bão.Toàn bộ ngôi nhà tạo sự vững chắc về chiều ngang nên nó như lùn xuống, ì ra chắc nịch. Còn nhà ở miền trung, nơi rất gần biển thì các tiêu chuẩn phải đạt tới là giản dị, chắc chắn. Nhà ở vùng Nam Bộ, một vùng đất trẻ / mới, đất rộng người thưa, sông nước mênh mông, kênh rạch chằng chịt, vật liệu xây nhà là những thứ có sẵn trong vùng như cây tràm, cây đước, lá buông, lá dừa, vừa có khả năng chịu mặn vừa linh hoạt. Nhìn chung nhà cửa có vẻ tạm bợ so với các vùng miền khác. Tóm lại, nhà cửa của cư dân Việt từ truyền thống cho đến hiện đại, từ đồng bằng cho đến ven biển, từ Bắc vào Nam có sự phát triển với những sắc thái riêng song vẫn nằm trong phạm trù dân gian với ý thức thích ứng tốt nhất với môi trường tự nhiên, nên cũng cho nhiều bài học quý giá trong việc xây dựng một nền kiến trúc đậm đà bản sắc dân tộc. 2. Nhà của các dân tộc khác. Ngoài tộc Việt, Việt Nam còn có 53 dân tộc anh em sinh sống trên vùng lãnh thổ Việt Nam, trong số đó, nhiều dân tộc đã đạt được trình độ kỹ thuật trong việc xây dựng nhà cửa, góp phần làm nên bản sắc của tộc người. Nhà cửa của các dân tộc ít người nhìn chung có xu hướng vươn cao và xoè rộng nhằm thích ứng với môi trường rừng núi nhiều khí ẩm, thú dữ. Do đó ngôi nhà ở thích hợp là nhà sàn - căn nhà có khả năng khai thác được nhiều thuận lợi cũng như khắc phục được nhiều khó khăn do môi trường tự nhiên tác động. 2.1. Nhà dân tộc Mường Nhà người Mường truyền thống là nhà sàn, với khung nhà làm bằng gỗ hoặc tre, mái lợp cỏ tranh hoặc lợp nứa hay lá cọ. Vách nhà được thưng bằng ván gỗ hoặc bằng phên nứa đan lại. Khung nhà được giữ chắc do có lắp một cái cựa gà (nét đặc biệt của nhà sàn Mường) nhằm khoá kèo kẹp chặt chiếc đòn tay ở phía trên đầu cột cái vào quá giang. Trong nhà chia làm hai nửa theo chiều ngang, phần nhà ngoài, nơi giành cho nam giới, nơi tiếp khách và cũng là nơi đặt bàn thờ tổ tiên, thuộc nửa bên trái; phần nhà trong - nửa bên phải có bếp giành cho nữ. Dọc theo nhà thì phía trước gọi là bên dưới, phía sau gọi là bên trên - nơi có bàn thờ. Các sinh hoạt trong nhà đều diễn ra trên sàn. Dưới gầm sàn là chuồng gia súc và để các công cụ sản 17
- xuất. Nhà có hàng rào và cửa ngõ. Ngày nay, người Mường có xu hướng chuyển từ nhà sàn sang nhà trệt. Còn những ngôi nhà sàn truyền thống cũng rời chuồng gia súc ra khỏi gầm sàn. 2.2. Nhà dân tộc Thái Nhà sàn Thái là một công trình kiến trúc mang nét đẹp rất riêng của người Thái. Hướng nhà thường là hướng của cả bản. Đó là hướng của cộng đồng nguời sống, gắn với nguyện vọng về cuộc sống no đủ, bình an, đoàn kết của cộng đồng ngươì Thái. Nhà sàn Thái có hai loại, gắn với hai nhóm tộc người là Thái trắng và Thái đen. Người Thái trắng có nhà sàn 'khai điêng', người Thái đen có nhà sàn 'phăng đin'. Hai kiểu nhà này có những đặc điểm chung là: nhà có bốn mái. Ngoài mái trên và mái dưới ở phía trước và phía sau có hình chữ nhật, còn lại hai mái ở hai đầu hồi che cho gian đầu và thân sàn. Bốn mái gặp nhau ở các kèo góc tạo ra một đầu hồi, gọi là hang con mèo (hông meo) làm chỗ cho hồn người chết bay lên trời. Nhà sàn truyền thống có mái nhà giống như mai con rùa hoặc chiếc thuyền úp. Trên mái nhà, ở hai đầu hồi có 'khau cút' vút cao, vừa mang dấu ấn dân tộc, vừa cho biết vị trí xã hội của chủ nhà, đồng thời cũng là nẹp giữ cho đầu hôid khỏi bị tốc. Nhìn trên đại thể, nhà sàn Thái có hình con rùa đứng rụt cổ, các chân rướn thẳng, phù hợp với truyền thuyết của người Thái rằng rùa đã lấy thân mình làm mẫu cho người học làm nhà. Sự trang trí các bộ phận của nhà như mái nhà, thân nhà, cầu thang, đều mang hơi thở và dấu ấn cảnh quan núi rừng và trình độ nghệ thuật của người Thái, xứng đáng là tác phẩm nghệ thuật dân gian. 2.3. Nhà dân tộc Chàm (Chăm) Theo tập quán, làng Chàm được lập trên vùng đất có núi ở phía nam, sông ở phía bắc, có gờ cao phía tây và thoải dần về phía đông. Người Chàm dựng nhà trong một khuôn viên hình chữ nhật, gắn bó với cộng đồng làng. Trong mỗi khuôn viên của gia đình Chàm có đủ bốn ngôi nhà: nhà tục (Thang dơ), nhà cặp đôi (thang mơ- dâu), nhà bếp (thang gìn) và nhà kho (thang tôn). Một số gia đình còn có thêm nhà ngang (thang cần) và nhà lớn (thang pì - nài). Nhà tục là ngôi nhà truyền thống được xây dựng trước tiên trong khuôn viên, gồm ba gian dựng gần góc đông bắc, hướng nhà là hồi phía trước và phải có cửa sinh nhìn về phía tây và của tử hướng nam để khi nhà có tang thì rước xác người chết ra bằng cửa này. Thước để dựng nhà là chiều dài từ khuỷ đến mút ngón tay giữa của ông chủ ngôi nhà. Gỗ làm nhà tục không xẻ, các cấu kiện lắp ghép bằng cách buộc dây rừng. Nhà tục sẽ được nhường cho con gái đầu khi có chồng. Nhà bếp ở góc tây bắc, kiểu thức theo nhà tục nhưng quy mô nhỏ hơn, cửa nhà bếp nhìn thẳng vào cửa sinh nhà tục. Nhà kho dựng ở phía tây khuôn viên, bé nhỏ như cái chòi nhưng sàn rất cao để chứa lương thực và đồ dùng vặt. Nếu có nhà ngang thì nhà ngang dựng trước nhà tục nhưng xoay ngang thước thợ với nhà tục, rộng hai gian một chái để chứa đồ vặt và xay thóc giã gạo. Riêng nhà lớn thì chỉ những gia đình khá giả mới có, có cửa trước nhìn về hướng nam, hướng cửa tử, nên chỉ người già mới được ở. Kiểu dáng nhà ngang giống nhà của người Việt. Nhìn chung, những kiểu nhà truyền thống của người Chàm có quy định nghiêm ngặt nhưng đơn giản và kỹ thuật còn nguyên thuỷ. Trái lại, những toà tháp Chàm từ nhiều thế kỷ trước để lại lại được xây dựng ở trình độ kỹ thuật và mỹ thuật cao. Mỗi khu tháp Chàm là một đài kỷ niệm tôn giáo hoặc vua chúa anh hùng của vương quốc được xây dựng trên đồi cao, mở cửa về hướng đông - hướng của sự sống mà cúng là hướng của thần thánh theo quan niệm của người Chàm. Mỗi khu tháp là một quần thể kiến trúc, điêu khắc, trong đó có một cây tháp chính to, cao hơn cả xây ở giữa, xung quanh có nhiều kiến trúc phụ. Các tháp xây trên mặt bằng gần như vuông, ba phía có cửa giả, chỉ phía đông có cửa ra vào, tường tháp dày, lòng tháp rỗng lên cao thu lại rồi bít kín. Vật thờ trong tháp có thể là tượng thần, chân dung quốc vương hoặc linga bằng đá. Vật liệu xây tháp là gạch, trong và ngoài đều chín đỏ thẫm, không thấy mạch kết dính nhưng kết dính rất chặt. Trang trí mặt ngoài tháp là phù điêu bằng đá, hoặc được chạm trực tiếp trên mặt gạch thành những tác phẩm nghệ thuật quyến rũ và đậm màu sắc Chàm. 2.4. Nhà dài dân tộc Ê Đê 18
- Cơ sở dẫn đến sự ra đời của các ngôi nhà dài là các gia đình lớn mẫu hệ. Ngôi nhà dài Ê Đê là nhà sàn, khung tre gỗ, mái lợp nhọn lợp tranh. Bộ khung nhà dài chỉ có cột, dầm, quá giang, xà dọc, mà không có kèo. Ngôi nhà dài Ê Đê có hình dạng giống nhà hình thuyền trên các trống đồng Đông Sơn, khiến có nhà nghiên cứu đã liên hệ và đưa ra giả thuyết về mối liên hệ của tổ tiên người Ê Đê xa xưa với biển, với cư dân vùng Nam Đảo. Không gian trong ngôi nhà dài được chia làm hai phần- phần nhà ngoài (gah) ở phía bắc và phần nhà trong (ôk) ở phía nam. Chức năng phần nhà ngoài: tiếp khách, tiến hành các nghi lễ phong tục, tổ chức các sinh hoạt công cộng của đại gia đình mẫu hệ, có khi còn là chỗ ăn ở của những người đàn ông chưa vợ. Ngoài ra ở nhà ngoài còn bày những 'ghế khách', 'ghế trống' giành cho nhạc công; chiêng, trống, những vò rượu cần, những vũ khí, những xương đầu thú săn được hay gia súc làm lễ hiến sinh. Mỗi cột trong ngôi nhà gắn với một phương và một đối tượng. Đó là các cột: cột chủ (phía đông), cột trống (phía tây); trong bộ vì có cột khách (cột phía đông) và cột chiêng (cột phía tây). Trang trí chạm khắc phần nhà ngoài rất đẹp, thể hiện dấu ấn mẫu hệ rõ nét. Phần nhà trong được ngăn ra thành từng phòng nhỏ dành cho các cặp vợ chồng. Bếp nấu ăn chung được làm trước cửa buồng ngủ chủ gia đình. Các cặp vợ chồng ăn riêng thì có bếp nhỏ trước buồng mình. Phía sau nhà dài là kho lúa. 2.5. Nhà rông Tây Nguyên Nhà rông là ngôi nhà chung của cả buôn làng, có giá trị nghệ thuật cao về kiến trúc, là một biểu tượng của mỗi buôn làng Tây Nguyên. Quy mô nhà Rông to lớn với kiểu thức độc đáo chỉ có ở Tây Nguyên. Vật liệu làm nhà là vật liệu được kiếm tại chỗ, tạo nên bộ khung gỗ, vách ván, và mái tranh như nhà dân. Giữa các ngôi nhà đơn sơ của dân làng, nhà rông nổi bật lên sừng sững với bộ mái vươn cao dựng đứng như lưỡi rìu sắc bén lật ngược chọc lên trời. Hai mái đầu hồi hình tam giác cân nhọn vút, góc ở đỉnh rất hẹp; hai mặt trước và sau gần giống hình thang cân; cạnh bên cong lõm, bờ nóc hơi vồng lên ở giữa. Cạnh mái chạy bốn xung quanh nhà rông được cắt xén rất bằng, mặt mái lợp tranh mịn, mượt óng, ngà vàng, phần trên cùng của mái cài thành những băng hoạ tiết trang trí to chắc. trên bờ nóc cũng có trang trí. Trước nhà rông là một sàn gỗ không mái tạo thành một tiền sảnh rộng, hai bên mặt trước sàn có hai trụ gỗ chấn hai bên cầu thang. Cầu thang là cả một đoạn thân cây gỗ đẽo bảy bậc, lên tận cùng được vuốt uốn cong trang nhã. Nhà rông chỉ ba gian nhưng do các cột đều lẩn ra giáp vách nên tạo thành một không gian thông thống. Trong nhà, nhiều bếp lửa xếp thành hàng và luôn luôn đượm khói; có các khu vực để chiêng, trống, có nơi để treo vũ khí và những bộ xương, da thú rừng; trên phên vách giắt các loại lông chim đẹp và sừng thú quý - sản phẩm săn bắn của dân làng. Cùng tính chất như nhà rông là nhà gươi của dân tộc Cơ Tu. 2.6. Nhà mả (mồ) Tây Nguyên Làm nhà mả /mồ của một số dân tộc Tây Nguyên, tiêu biểu là người Ba Na, người Gia Rai, và người Ê Đê là một việc làm lớn, quan trọng. Cơ sở dẫn đến việc làm nhà mồ là từ niềm tin của các dân tộc rằngngưòi chết sẽ vĩnh viễn đi về thế giới của mình ở rất xa, không còn liên qua gì đến người sống nữa. Nhưng khi còn sống, họ đã gắn bó mật thiết với gia đình và cộng đồng, nên khi mới chết, người sống lưu luyến và thương tiếc họ, cho họ tạm trú trong nhà mả ở nghĩa địa phía tây của làng một thời gian để chăm sóc người chết một lần cuối. Sau thời gian đó, đồng bào làm lễ 'bỏ mả' để trả người chết về với tự nhiên, không còn cúng theo nghi lễ thờ phụng tổ tiên. Nhà mả chỉ có một gian. Mỗi nhà mả là một tổng thể kiến trúc - điêu khắc - trang trí, bố trí trên một mặt bằng rộng chừng 50m2, theo hướng đông - tây - hướng quy định cho người chết. Người ta tin rằng với nhà mả đẹp và đầy đủ tiện nghi, người chết sẽ an tâm và vui vẻ ra đi mà không trở lại 19
- quấy rầy người sống. Tổng thể nhà mả thể hiện tình cảm nhân đạo của cộng đồng, gia đình giành cho người chết. II. NHỮNG GIÁ TRỊ CỦA KIẾN TRÚC DÂN GIAN TRUYỀN THỐNG 1. Khai thác vật tư tại chỗ, sơ chế đơn giản mà hiệu quả cao Nhà cửa của người Việt Nam dù nhà tranh hay nhà ngói thì vật liệu xây dựng đều là vật liệu sẵn có trong thiên nhiên. Kiến trúc nhà linh hoạt, chú trọng nhất là bộ khung nhà sau đó là mái che, nên vật liệu làm những bộ phận này đều phải qua sơ chế để tăng độ bền của ngôi nhà. Ngôi nhà không cần đến sự tham gia của kim loại. Khi cần đóng đinh cho một vài bộ phận, người ta dùng tre già vót nhọn giống đinh sắt; khi cần tháo dễ dàng và không bị han rỉ. 2. Khai thác và chế ngự thiên nhiên Khai thác vật liệu làm nhà từ trong thiên nhiên, sơ chế theo kỹ thuật và kinh nghiệm, đó cũng là bước chế ngự thiên nhiên. Chế ngự thiên nhiên còn thể hiện ở chỗ phải thích ứng với khí hậu của thiên nhiên - vừa khai thác tối ưu mặt thuận lợi cũng như hạn chế được nhiều mặt thiệt hại từ thiên nhiên. điều này trước hết thể hiện ở cấu trúc ngôi nhà. Tiêu chuẩn ngôi nhà Việt Nam về mặt cấu trúc là nhà cao, cửa rộng. Ngoài ra còn phải tuân theo những quy định mang tính kiêng cữ. Một số kiêng cữ phổ biến như xem tuổi chủ nhà, chọn đất và hướng nhà (Lấy vợ hiền hoà / Làm nhà hướng nam) , những kiêng cữ khi chọn vật liệu, những lễ thức từ lúc khởi công cho đến khi vào nhà, tuy mang màu sắc tín ngưỡng nhưng thể óc thẩm mỹ và nguyện vọng về cuộc sống bình an, no đủ của người Việt Nam trong ngôi nhà. 3. Cách thức kiến trúc Được thể hiện bằng cây thước tầm. Đó là một thân tra bổ đôi, dài hơn chiều cao của cột cái, trong lòng máng vạch những ký hiệu cho phép xác định kích thước của các bộ phận ngôi nhà. Thước tầm được cấu tạo dùng chung cho mọi nhà nhưng thước nhà nào chỉ nhà ấy dùng, bởi kích thước được tính bằng đốt ngón gốc ngón tay út của chủ nhà. Do đó, thuóc tầm còn là vật xác định quyền sở hữu ngôi nhà của chủ nhân. Chính vì vậy, nó được gìn giữ cho đến hết đời ngôi nhà. 4. Kiến trúc là cả một tổng thể Ngôi nhà của người Việt Nam có sự cân đối giữa kiến trúc với môi trường xung quanh. Một kiến trúc đầy đủ, lý tưởng phải là ''nhà trên ao dưới'', ''nhà trước vườn sau'', ''nhà có bụi chuối đằng sau, rặng cau đằng trước'', ''có sự gắn bó nhà ngói cây mít''. Nhà có địa trạch ăn mạch với địa thế để cuộc sống yên vui. Tuỳ vào thổ cư rộng hay hẹp mà thiên nhiên xung quanh nhà được sắp xếp hợp lý ''thuận mắt'', vừa có giá trị kinh tế, vừa có giá trị thẩm mỹ. làm cho ngôi nhà trở thành một bộ phận nổi bật của thiên nhiên, tất cả gắn bó với nhau để phục vụ con người ở mức cao nhất. Ngôi nhà của người Việt được bố trí theo chiều ngang, xung quanh thông thoáng, người trong nhà luôn thấy gần gũi với ngoại cảnh. Và không thể thiếu trong mỗi gia đình là bàn thờ tổ tiên được đặt ở vị trí trang trọng nhất và thiêng liêng nhất, mà mọi hoạt động đều lấy đó làm trung tâm. Ngôi nhà của người Việt còn mang ý nghĩa xã hội, phản ánh một quan niệm thẩm mỹ trong nếp sống nông thôn và xã hội nông nghiệp. 20
- BÀI 6. TÍN NGƯỠNG Dân tộc nào cũng có tín ngưỡng. Lịch sử tín ngưỡng gắn chặt với lịch sử xuất hiện, hình thành và phát triển các dân tộc. Bản thân tín ngưỡng phát triển từ đa thần sang độc thần. Quá trình này gắn với lịch sử phát triển của xã hội loài người từ xã hội nguyên thuỷ sang xã hội văn minh. - Đa thần tin vào vạn vật hữu linh. Nhìn chung, tín ngưỡng đa thần hướng niềm tin vào đối tượng thiên nhiên, không gắn với chính kiến xã hội. - Độc thần nghĩa là chỉ tin vào một thần. Hiện tượng này được gọi là tôn giáo. Cùng với xã hội loài người bước vào thời kỳ văn minh, nhân loại hiện nay có ba tôn giáo lớn, tranh giành ảnh hưởng đến nhân loại và cạnh tranh sự độc tôn với nhau. Đó là Phật giáo - xuất hiện đầu tiên ở Ấn Độ vào thế kỷ thứ VI trước công nguyên. Cùng với thời gian và lịch sử, từ Ấn Độ, Phật giáo truyền sang Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên và một số nước ở Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam; Kitô giáo - xuất hiện ở Italia vào năm thứ nhất công nguyên. Và từ đất Tây Dương đó, tôn giáo này lan truyền lên phía Bắc, chiếm lĩnh cả lãnh thổ châu Âu. Rồi theo thời gian và bối cảnh phát triển của các nước châu Âu, Kitô giáo tràn sang các vùng miền khác trên thế giới; Islam giáo - xuất hiện muộn hơn so với hai tôn giáo trên, thế kỷ thứ VI ở vùng Trung Đông. Và từ nơi này, Islam giáo phát triển xâm nhập cả thế giới Ả Rập, Bắc Phi rồi ngược lên Thổ Nhĩ Kỳ, lên vùng Trung Á và về phía Đông Nam Á (các nước Malayxia, Inđônêxia). Ở Việt Nam, khi nói đến tín ngưỡng / tín ngưỡng dân gian là nói đến sự biểu thị niềm tin đa thần, có nghĩa là niềm tin, lòng ngưỡng mộ và các hoạt động bày tỏ niềm tin, lòng ngưỡng mộ đối với các thế lực siêu nhiên ngoài con người. Không chỉ là tâm linh, tín ngưỡng dân gian Việt Nam còn là một thành tố cấu thành nên bộ mặt văn hoá Việt Nam truyền thống, góp phần củng cố khối đoàn kết dân tộc trong quá trình dựng nước và giữ nước. 1. TÍN NGƯỠNG MẶT TRỜI Nền kinh tế nông nghiệp trồng cấy lúa nước là chính, người Việt phụ thuộc nhiều vào nước và ánh sáng, đó là cơ sở hình thành tín ngưỡng mặt trời và các hiện tượng tự nhiên có liên quan. Tín ngưỡng mặt trời hình thành từ thời văn hoá Đông Sơn. Dấu ấn tín ngưỡng thể hiện trên tất cả các mặt trống đồng, ở vị trí trung tâm trang trọng nhất, gắn với việc cầu mưa của cư dân nông nghiệp thời Đông Sơn. Về sau này mặt trời / ông trời vẫn luôn là vị thần tối cao được mọi người tôn xưng là Ngọc Hoàng thượng đế - cai quản cả vũ trụ. Tục thờ mặt trời với tư cách là vị thần ánh sáng sau này có mờ đi, nhưng những biểu thị văn hoá của tục thờ này thông qua các trò chơi phong tục thì đã phản ánh rõ dấu vết của tín ngưỡng. Đó là các trò chơi đánh phất, vật cù, cướp cầu, ném giỏ có mặt ở rất nhiều lễ hội cầu mưa ở vùng trung châu Bắc Bộ và Thanh Nghệ. Với tình cảm gia đình, người Việt gọi mặt trời với thái độ gần gũi tôn kính - Ông Trời. Còn Ngọc Hoàng thượng đế ở trên cao là chỗ dựa tinh thần để người dân tin vào công lý, chân lý ở mọi phán xét cuối cùng. Với tư cách này, mặt trời được tôn là Ông Cao Xanh. 2. TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU Với cư dân nông nghiệp, ngoài ánh kỹ thuật, cây giống và ánh sáng, các yếu tố của tự nhiên khác là mây, mưa, sấm, chớp cũng có vai trò quan trọng không kém. Vì thế mà các yếu tố này được người Việt xem là các vị Nữ thần - bà đỡ của nghề nông. Các Bà được thờ phụng và tôn vinh thành các Mẫu. Khi Phật giáo có mặt ở Việt Nam, các Mẫu đã hoá thân vào Phật đài trở thành các vị Bụt của hệ thống tín ngưỡng Tứ pháp: Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi và Pháp Điện. Các vị Tứ Pháp, theo huyền thoại, có chung bà mẹ là Phật Mẫu Man Nương. Sau hệ thống Tứ Pháp là tín ngưỡng Tam phủ, Tứ phủ - các vùng không gian mà con người nông nghiệp quan hệ, được biểu thị bằng Mẫu thượng Thiên, Mẫu thượng Ngàn, Mẫu Thoải, Mẫu Địa (công chúa Liễu Hạnh được hoá thân làm Mẫu Địa / Thánh Mẫu che chở con người trên mặt đất.). Trên cơ sở tín ngưỡng thờ Mẫu, người Việt đã tin và sống theo triết lý ''Phúc đức tại Mẫu''. 3. TÍN NGƯỠNG TỔ TIÊN Đây là tín ngưỡng của nhiều dân tộc Đông Nam Á và là nét đặc thù của khu vực văn hoá này. Tuy nhiên ở người Việt, nó gần như một thứ tôn giáo dân tộc / Đạo Tổ tiên / Đạo Nhà, và được coi như truyền thống đạo đức dân tộc. Sự biểu hiện / biểu thị của tín ngưỡng tổ tiên ở cả ba cấp cộng đồng trong cấu trúc xã hội, đã khẳng định chức năng và giá trị của tín ngưỡng này. 21
- 3.1. Cấp độ quốc gia - Tổ tiên là người sáng lập ra đất nước: Vua Hùng. - Là những vị có công với nước dù huyền thoại hay thực tế: Tản Viên, Thánh Gióng, Chử Đồng Tử, Liễu Hạnh, Hai Bà Trưng, Trần Hưng Đạo Trong số này, bốn nhân vật huyền thoại - Tản Viên, Thánh Gióng, Chử Đồng Tử, Liễu Hạnh được dân gian tôn thờ là Tứ Bất Tử. Đó là những biểu tượng cho sức mạnh liên kết của cộng đồng trong làm ruộng và đánh giặc, biểu trưng cho khát vọng xây dựng một cuộc sống phồn thịnh và hạnh phúc. 3.2. Cấp độ làng xã Cả cộng đồng làng cùng cộng mệnh với nhau vì có chung một ông Tổ làng - Thần Thành hoàng. Đó là vị thần cai quản, che chở, định đoạt phúc hoạ, thịnh suy cho cả làng, được cả làng tin tưởng với tình cảm thiêng liêng kính cẩn. Thành hoàng được thờ phụng từ cuối thế kỷ XV, gắn với sự lên ngôi của Nho giáo - hệ tư tưởng / hình thái ý thức của xã hội phong kiến từ thời Hậu Lê. Những đối tượng sau đây được các làng quê Việt Nam tôn làm Thành Hoàng: - Những vị thần trong huyền thoại và cổ sử. - Những anh hùng võ tướng có công đối với các triều đại. - Những nhà khoa bảng, những ông quan thanh liêm, những vị có công khai hoang lập ấp, mở mang cơ nghiệp, những công chúa, hoàng hậu đã có công lao giúp đỡ dân làng. - Người chết bất đắc kỳ tử, người hành khất, người ăn trộm. Việc suy tôn những đối tượng này là một cáh bộc lộ nguyện vọng muốn được sống yên lành. Thành hoàng được thờ ở đình làng - một công trình kiến trúc thường được xây dựng ở đầu làng, trên thế đất đẹp nhất; trong việc dựng đình, hướng đình được đặc biệt chú ý, bởi hướng đình cũng liên quan đến sự thịnh suy của làng. Điều này được ca dao phản ánh: Toét mắt là tại hướng đình Cả làng toét mắt chứ mình em đâu. Đình làng là nơi trú sở của Thành hoàng - vị thần đứng đầu làng, là Tổ làng, nên các thần khác phải đứng sau Thành hoàng trong những ngày lễ hội. Các ngày lễ Thành hoàng hàng năm là: + Lễ kỳ yên (cầu an): thường tổ chức vào tháng Giêng, tháng 7 để cầu mong cho làng được sống thanh bình, yên ổn. + Lễ Khai hạ: khai hạ nghĩa là bắt đầu ngày vui đầu năm, phải chờ ngày lễ này mới khai trống, khai mõ, đánh chiêng, làng mới được bắt đầu động thổ. + Lễ hạ điền: hạ điền có nghĩa là xuống đồng. Ngày ấy cúng Thành hoàng xong thì ông Thủ chỉ (hay còn gọi là ông Tiên chỉ) - người đứng đầu làng sẽ tự thân cày ruộng ở thửa ruộng trước đình làng. Chỉ vài đường cày mang ý nghĩa tượng trưng cho hoạt động nông nghiệp của dân chúng trong làng. + Lễ sắp ấn: Tổ chức vào dịp cuối năm để thay mũ áo mới cho Thành hoàng và cho các vị thần khác trong làng. Lễ cúng tế được tổ chức ở đình, thể hiện nghiêm trang và quy mô. Việc lễ bái mô phỏng theo quy cách của lễ tiết cung đình, đúng theo tinh thần 'Hương đảng tiểu triều đình'. Các vị hương chức đầu phải mặc áo gấm thụng, đội mão ra làm lễ. Có phân công tiến tửu (dâng rượu), độc chúc (đọc văn khấn). Các phường bát âm phục vụ theo nghi lễ bài bản. Trống đánh, cờ mở, tạo một quang cảnh vô cùng náo nhiệt. Có làng tổ chức vui chơi giữa cuộc tế lễ hoặc ngay sau đó. Vui chơi giữa cuộc có hát cửa đình, vui chơi sau đó là các trò đu, trò vật và các tích chèo. Nhiều làng mở hội vào dịp này với những trò diễn mà mục đích / ý nghĩa là diễn cho vị Tổ làng xem những kết quả hoạt động của dân làng trong năm. Những làng mà Thành hoàng là một nhân vật giỏi võ thuật hay có sở trường về một môn nghệ thuật thì trong ngày lễ hội, dân chúng cũng phải diễn lại sự tích cho thần xem. Nhiều lại còn giữ lại một số tục lễ gọi là hèm. Sau những nghi thức cúng bái ở đình, Thành hoàng được rước kiệu đi quanh làng. Kiệu Thành hoàng bao giừo cũng đi trước kiệu các vị thần khác. Đám rước có khi diễn ra trên quy mô tổng, huyện. Thành hoàng giữ vị trí quan trọng trong đời sống tâm linh của làng như vậy, nên vào đời vua Lê 22
- Anh Tông (1572), triều đình đã ra lệnh sưu tập và soạn ra thần tích Thành hoàng để vua ban sắc phong thần. 3.3. Cấp độ gia đình (gia tộc) Tổ tiên của gia đình, dòng họ là người có công sinh dưỡng và khai sáng ra dòng họ. Cơ sở vật chất để biểu hiện ý niệm thờ Tổ Nhà là Bàn thờ (gia đình) và Nhà thờ Họ / Nhà tờ Tổ (Từ đường) với cuốn tộc phả (dòng họ). Nghi thức thờ cúng Tổ tiên thể hiện ở ngày giỗ. Ngoài ngày này, Tổ tiên còn được lễ bái trong các ngày lễ tết, sóc vọng, trong những sự kiện vui mừng cũng như những biến cố buồn của gia đình. Ý nghĩa cơ bản của đạo thờ Tổ tiên của người Việt là ý nghĩa giáo dục. Thờ Tổ tiên dấy lên lòng hiếu thảo, nuôi dưỡng lòng biết ơn, thực hiện đạo lý 'uống nước nhớ nguồn'. 4. TÍN NGƯỠNG PHỒN THỰC Ý thức về nòi giống đã dẫn đến sự hình thành tín ngưỡng phồn thực. Đây cũng là một tín ngưỡng phổ biến ở khu vực Đông Nam Á - vùng văn hoá, văn minh lúa nước. Sự khác nhau thể hiện ở những biểu thị văn hoá ở mỗi nước. Ở Việt Nam, tín ngưỡng phồn thực từng tồn tại suốt chiều dài lịch sử, với hai dạng biểu hiện: thờ cơ quan sinh dục và thờ hành vi giao phối / thiêng liêng hoá hành vi tính giao. Nguyên do của tục thờ bắt nguồn từ phương thức sinh tồn và điều kiện sống của người Việt thủa xưa. Khi chưa có sự trợ giúp của khoa học, kỹ thuật, con người lao động và sống thuần bằng tri thức kinh nghiệm, nên khó có thể khắc phục tình trạng người hiếm của mọn. Để nuôi ước vọng dân đông, vật thịnh, người xưa, bằng kinh nghiệm trực quan đã nhận thấy / cho rằng: sự đơm hoa kết trái của cây cối, sự sinh con đẻ cái của con vật, con người phải qua hoạt động tính giao của giống đực với giống cái. Đây cũng chính là cơ sở tâm linh của tín ngưỡng phồn thực Việt Nam, một tín ngưỡng được duy trì cho mãi đến giáp Cách mạng Tháng tám 1945. Dấu ấn của nó thể hiện đậm trên các biểu tượng vật thể, hàm chứa chiều sâu văn hoá làng và tạo cho văn hoá dân tộc những nét đặc sắc để góp cho kho tàng văn hoá nhân loại. Dấu ấn tín ngưỡng phồn thực đối với chúng ta ngày nay đã trở thành dấu son đáng trân trọng, bởi đó là văn hoá cổ truyền của dân tộc. 23
- Bài 7. LỄ HỘI 1. KHÁI NIỆM Lễ hội là hoạt động tinh thần của cộng đồng, là hình thức sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng truyền thống. Lễ hội của các dân tộc là sự phản ánh nhận thức liên quan đến tập quán sản xuất, đến các hoạt động tập thể của cộng đồng. Lễ hội còn là dịp để nhớ về cội nguồn dân tộc. Lễ hội bao gồm hai bộ phận: lễ và hội. - Lễ là các nghi lễ, lễ thức được biểu thị qua việc đọc các bài văn tế, hành vi cúng tế, các động tác lạy, đọc tụng Gắn với lễ có đối tượng thờ / vật thờ, lễ vật dâng cúng và các nghi thức lễ. Tóm lại, lễ là một hệ thống nghi thức, hành vi, động tác theo các quy định chặt chẽ, ổn định của truyền thống văn hoá lễ nghi, đã trở thành di sản trong đời sống sinh hoạt lễ hội của nhân dân. - Lễ là hành vi thể hiện lòng tin, sự tôn kính của một tập thê cộng đồng người đối với đối tượng được tín ngưỡng - đối tượng có tác động sâu sắc trong đời sống tâm linh của họ. Lễ còn mang ý nghĩa thể hiện sự trật tự, sự chiêm tưởng của con người đối với thần linh. Với những đối tượng tín ngưỡng là những nhân vật lịch sử, văn hoá thì hành vi lễ còn mang tính chất thể hiện lòng tôn kính, biết ơn người đã có công đối với đát nước. - Ở mỗi địa phương khác nhau thường có những lễ hội khác nhau, gắn với nhân vật tín nguỡng cũng khác nhau, đúng như câu tục ngữ của người Việt: 'Trống làng nào làng ấy đánh / Thánh làng nào làng ấy thờ'. - Căn cứ vào mục đích và nội dung của lễ, thấy có ác loại lễ hội sau: + Lễ hội nghề nghiệp. + Lễ hội kỷ niệm các anh hùng dựng nước và giữ nước. + Lễ hội tôn giáo và văn hoá. - Hội: Bao gồm các trò diễn, trò chơi dân gian hết sức phong phú, xưa gọi là 'bách hí', tức nhiều trò vui. Hội được sinh ra từ lễ, có đặc điểm căn bản là vui: 'Vui xem hát, nhạt xem bơi, tả tơi xem hội'. Nói cách khác, nếu bản chất của lễ là thiêng thì bản chất của hội là vui. Các trò chơi, trò diễn trong lễ hội, phần lớn bắt nguồn từ những ước vọng thiêng liêng của cư dân nông nghiệp. Đó là: + Các trò chơi, cuộc thi xuất phát từ ước vọng cầu mưa: Các trò chơi thi tiếng nổ, mô phỏng tiếng sấm nhắc trời làm mưa (thi đốt pháo, đi thuyền đốt pháo, đánh pháo đất). + Các trò thể hiện tư tưởng phồn thực: cướp cầu thả lỗ, đánh đáo, ném còn, nhún đu. + Các trò thể hiện ước vọng luyện rèn sự khéo léo: thi nấu cơm, thi luộc gà, thi dệt vải, thả diều. + Các trò nhằm mục đích luyện rèn sức khoẻ: đấu vật, kéo co. - Thời gian mở lễ hội: Tập trung vào hai mùa trong năm: mùa xuân và mùa thu. 2. MỘT SỐ LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM 2.1. Lễ hội chùa Lễ hội chùa ở Việt Nam có hai dạng. Đó là lễ hội chùa gắn với sinh hoạt thuần tuý Phật giáo và lễ hội chùa gắn với hội xuân dân tộc 2.1.1. Lễ hội chùa với sinh hoạt thuần tuý Phật giáo Ở dạng lễ hội chùa này có: lễ Phật đản, lễ Phật thành đạo và lễ Vu Lan. Ngoài ra, trong chùa còn có lễ 'Tam nguyên'. Lễ Tam nguyên bao gồm ba lễ hội riêng: - Lễ Thiên quan tích phúc tổ chức vào rằm tháng Giêng, mục đích là cầu trời ban phúc lành, chăm lo cuộc sống cho con người: 'Lễ Phật quanh năm không bằng rằm tháng Giêng'. - Lễ Địa quan xá tội tổ chức vào rằm tháng bẩy, mục đích hướng chúng sinh hành lễ để xả ác tòng thiện. Lễ trùng và hoà nhập với lễ Vu Lan 24
- - Lễ Thuỷ quan giải ách tổ chức vào rằm tháng mười, gắn với hy vọng là lấy nước để rửa hết tai ương. - Các lễ hội thuần tuý là sinh hoạt Phật giáo, gồm: lễ Phật đản - kỷ niệm ngày sinh của Phật, tổ chức vào rằm tháng tư âm lịch hàng năm, gắn với một nghi thức quan trọng là tắm Phật bằng nước thơm, khăn lau đỏ, sau đó xé ra chia cho mọi người để lấy khước; lễ Phật thành đạo tổ chức vào rằm tháng chạp để ghi nhớ ngày Phật thành Bậc Giác ngộ (Bụt, Phật). Tóm lại, hai lễ này là để kỷ niệm những mốc lớn trong cuộc đời đức Phật tổ Thích Ca Mâu Ni. Qua đó mọi người như nhận thấy mỗi chúng sinh đều có Phật tính trong mình, ai cũng có thể thành Phật nếu tu hành tinh tấn, như lời Đức Phật rằng: 'Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật đã thành'. Còn lễ Vu Lan là lễ cúng cô hồn và phổ độ quần sinh, tiến hành vào rằm tháng bẩy, được kết hợp với lễ Địa quan xá tội, nhằm nêu cao tấm gương về đạo hiếu, và vạch ra con đường tội lỗi và diệt trừ tội lỗi, mà tất cả đều xuất phát từ chữ Tâm, nhân duyên quả báo. Các lễ trên đều là lễ trọng Phật giáo. Về hình thức được tổ chức giản dị, cốt ở lòng thành kính. Lễ vật dâng cúng chỉ có hương hoa với nghi thức 'Lục cúng' được thể hiện theo quy định nghi lễ nhà Phật. Chính nghi thức dâng 'lục cúng' này đã được nâng thành nghệ thuật múa, đó là múa hoa đăng, hay còn gọi là múa 'Lục cúng hoa đăng'. Điều quan trọng ở những lễ hội nêu trên là sự chuyển tải Phật Pháp, thắp sáng đuốc tuệ để xua đi sự u minh trong con người. 2.1.2. Lễ hội chùa với hội xuân dân tộc Đó là các lễ hội được vẫn được tổ chức tại chùa, nhưng còn gắn với hội vui của làng, của vùng. Lễ hội loại này gồm một số lễ hội phản ánh một lớp văn hoá cổ sơ gắn với những tín ngưỡng dân gian, và một số khác là hội chơi, hội xuân của dân tộc, của tuổi trẻ. Đó là những lễ hội gắn với những nghi lễ cầu mưa ở những ngôi chùa thờ Tứ Pháp vùng Bắc bộ, gắn với hội đua thuyền ở chùa Keo Thái Bình, cũng là cầu mưa. Cầu mưa cũng là cầu mùa. Lễ hội chùa còn gắn với những sinh hoạt văn nghệ, như hội làng quan họ Bắc Ninh. Ở đây hội làng cũng là hội chùa. Hội hát quan họ có thể diễn ra trênsân đình, bến bãi, và cả trên sân chùa nữa. Sinh hoạt văn hoá ở những chùa vùng đồng bằng nhưng lại có những núi đá thì hội chùa còn gắn với tục chơi hang, chơi núi - một phong tục chơi xuân xa xưa của dân tộc. Chẳng hạn như hội chùa Thầy (Hà Tây), một công trình kiến trúc nghệ thuật nổi tiếng, người đi chùa cũng là đi hội vãn cảnh, thăm hang, thăm núi. Và trai thanh, gái lịch cũng nhớ hội chùa Thầy vì nơi đây có hang Cắc Cớ, để trai gái từng nhóm lên núi, xuống hang thoả mãn tình cảm tuổi trẻ, đúng như câu ca được truyền tụng từ lâu: Gái chưa chồng nhớ hang Cắc Cớ Trai chưa vợ nhớ hội chùa Thầy Hội chùa có thời gian dài nhất, với không gian rộng nhất là hội chùa Hương (Hà Tây). Hội kéo dài ba tháng mùa xuân, song nhộn nhịp nhất là từ giữa tháng giêng đến cuối tháng hai. Trẩy hội chùa Hương để lễ Phật, lễ Mẫu, đề cầu tự, cầu lộc, cầu tài, và tất nhiên để chiêm ngưỡng cảnh đẹp kỳ thú của Hương Sơn Một vùng non nước bao la Rằng đây lạc quốc hay là Đào Nguyên Hương Sơn là chốn non tiên Bồng Lai mà ở giữa miền non tiên 2.2. Lễ hội đền Đền là nơi thờ thần. Đó là những nhân vật lịch sử hoặc huyền thoại được tôn vinh là anh hùng dân tộc; thần có thể là những vị thần tín ngưỡng dân gian. 25
- 2.2.1. Lễ hội đền với việc thờ các anh hùng dân tộc - Lễ hội đền Hùng, biểu thị của tín ngưỡng Tổ tiên dân tộc. Trẩy hội đền Hùng (ngày mười tháng ba) là trở về với cội nguồn dân tộc - Lễ hội đền Gióng tổ chức vào ngày mùng chín tháng tư, tại xã Phù Đổng (Hà Nội), để kỷ niệm kỳ công giết giặc Ân xâm lược, để nhớ về hào khí của dân tộc, để từ đây xây dựng truyền thống bất khuất, quật cường của dân tộc. Từ việc gợi lại truyên thống xa xưa, hội Gióng góp phần xây dựng tư cách văn hoá cho mỗi người con dân nước Việt như câu ca dao địa phương còn truyền với tính giáo dục được khẳng định: Ai ơi mùng chín tháng tư Không đi hội Gióng cũng hư mất đời - Nếu Thánh Gióng là anh hùng huyền thoại, thì phổ biến trong lịch sử dân tộc lại là các anh hùng lịch sử đã tạo những kỳ tích trong sự nghiệp giữ nước của dân tộc. Các ngôi đền thờ các vị anh hùng có ở khắp nơi, như các đền thờ Hai Bà Trưng, Trần Hưng Đạo. Lễ hội với ý nghĩa kỷ niệm, tưởng nhớ hai nhân vật lịch sử này là: + Đền Hạ Lôi (Mê Linh, Vĩnh Phú), được tổ chức vào ngày 6 tháng giêng, tương truyền là nhằm kỷ niệm ngày yến hạ khao quân của Hai Bà. + Đền Hát Môn (Hà Tây), nơi xuất phát cuộc khởi nghĩa và là nơi diễn ra chiến thắng lớn của Hai Bà, cũng là nơi Hai Bà trầm mình trở thành bất tử. + Đền Kiếp Bạc tổ chức lễ hội từ ngày 15 đến 20 tháng Tám vào dịp giỗ Trần Hưng Đạo, nhằm ôn lại cuộc đời và sự nghiệp hiển hách của Trần Hưng Đạo. - Lễ hội Đền Đô - Đền Lý Bát Đế thờ tám vị vua nhà Lý ở Đình Bảng, tổ chức vào ngày 15 tháng Ba để kỷ niệm ngày vua Lý Thái Tổ đăng quang. 2.2.2. Lễ hội đền với việc thờ thần theo tín ngưỡng dân gian - Lễ hội các đền thờ thần sông, thần núi - Lễ hội đền thờ Tứ Trấn (4 phía bảo vệ kinh thành Thăng Long từ thời nhà Lý, trong đó có đền Voi Phục ở phía tây thờ Linh Lang - thần sông, và đền Kim Liên ở phía Nam thờ Cao Sơn - thần núi. Đó là hai vị thần dân tộc phụ trách hai bộ phận Sơn Hà / Đất Nước. - Lễ hội đền thờ thần Trống đồng, tổ chức vào ngày 25 tháng 3. - Lễ hội các đền, phủ thờ Mẫu Liễu Hạnh, như lễ hội Phủ Giầy. 2.3. Lễ hội đình Đình là nơi thờ Thành hoàng, vị thần bảo trợ, định đoạt phúc hoạ thịnh suy cho cả làng. Đình làng đã trở thành gương mặt văn hoá của cả làng - mái đình, bến nước, cây đa đã trở thành biểu tượng của làng quê Việt / quê hương. Lễ hội đình làng là lễ tế Thành hoàng làng để cầu xin sự bảo trợ cho người an vật thịnh. Lễ tế diễn ra uy nghi, sang trọng với nghi thức đã được quy định chung cho tất cả các làng. nếu làng nào có hèm đặc biệt thì giữa cuộc lễ có những động tác diễn lại một cách nghệ thuật các hoạt động đặc biệt của Thành hoàng, chẳng hạn như hoạt động múa nõ nường, tục chém lợn, tắt đèn, ôm cột đình Phần hội ở đình là hội xuân, là nơi diễn ra tất cả các trò chơi vui kể cả các trò ở hội đền và hội chùa cũng có ở hội đình. Tất cả các trò chơi vui ở đình tạo cho không khí hội náo nhiệt, thắt chặt thêm tinh thần cộng đồng, sự bình đẳng. Qua hội đình, người dân được cân bằng nhịp sống lao động nặng nhọc với giải trí, vui chơi. Lễ hội đình làng là một hình thức sinh hoạt văn hoá thường kỳ, trong trọng mà náo nức, có ý nghĩa giáo dục các thế hệ dân làng noi theo người xưa và gắn bó với người hiện tại, đồng thời vừa là sự giải toả căng thẳng, mệt nhọc để thăng hoa văn hoá. 2.4. Lễ hội thiên chúa giáo 26
- Lễ thức Thiên chúa giáo có hai dạng: lễ thường và lễ trọng. Lễ thường gồm có lễ chầu lượt biểu thị sự tôn kính mình Thánh và lễ diễn ra tại nhà thờ xứ đạo vào ngày của Chúa / ngày chúa nhựt (chủ nhật). Vào ngày này, các giáo dân đến nhà thờ nghe linh mục rao giảng về một số chủ điểm như về Đức tin, Đức khiêm nhường, Cầu cho các linh mục, Kính chuác các chân phúc Việt Nam. Lễ thường chỉ có phần lễ. Lễ trọng mới là lễ hội vì có cả hai phần là lễ và hội. 2.4.1. Lễ rước Thánh Quan thầy xứ Với các làng Công giáo, Thánh Quan thày xứ được xem là Thành hoàng của xứ họ đạo và địa phận. Cuộc rước lễ diễn ra náo nhiệt, trang nghiêm, rầm rộ, uy nghi với đầy đủ các nghi trượng của lễ hội truyền thống người Việt. 2.4.2. Các lễ trọng trong mùa chay và mùa vọng - Mùa chay (cuối tháng hai, kết thúc vào nửa đầu tháng tư còn gọi là mùa thương khó kỷ niệm những sự kiện chúa Giê Su chịu nạn rồi sống lại, gồm các lễ: lễ tro, lễ kính thánh cả Guse, lễ truyền tin, lễ lá, lễ kỷ niệm Chúa tử nạn, lễ Phục sinh. - Mùa vọng từ cuối tháng 11 đến lễ Giáng sinh ngày 25 tháng 12, là mùa giáo dân đón chờ ngày Chúa Giê Su thấy trần thế làm người. 2.4.3. Múa hát tháng hoa Đức Mẹ Lễ diễn ra vào các ngày chủ nhật của tháng năm, là lễ múa hát và dâng kiệu hoa, rước kiệu hoa bày tỏ sụ cung kính và lòng thành đối với Đức Mẹ. 2.4.4. Lễ rước Thánh thể. Diễn ra ở nhà thờ xứ họ đạo và địa phận, rất trang nghiêm và náo nhiệt. về hình thức, lễ cơ bản giống lễ rước Thánh Quan thày xứ. Như vậy, lễ hội Thiên chúa giáo là những sinh hoạt văn hóa của một bộ phận khá đông là giáo dân của nước ta, là sự cố kết cộng đồng cùng chung một tín ngưỡng tôn giáo. Ở các lễ hội này, chúng ta gặp lại nhiều yếu tố của văn hoá dân tộc truyền thống như khăn xếp, áo thụng xanh, lọng, các nghi trượng của lễ hội, các làn điệu dân ca, các nhạc cụ dân tộc. Những lễ hội này ca ngợi Chúa và Đức mẹ, qua đó cũng gián tiếp đề cao đạo đức dân tộc. Đây cũng là những dịp nghỉ ngơi, giải trí tích cực trong chu kỳ nhịp điệu đan xen với lao động sản xuất. 27
- Bài 8. VĂN NGHỆ DÂN GIAN I. KHÁI NIỆM Văn nghệ dân gian là tiếng nói của người bình dân phản ánh cuộc sống, ước vọng của mình thông qua nghệ thuật, văn chương. Trong văn nghệ dân gian có sự tổng kết kinh nghiệm cuộc sống lao động sản xuất, có cái nhìn của đạo đức luân lý trong gia đình, cộng đồng xã hội, có cả lời than thân trách phận của những số phận mồ côi nghèo khổ, của những thân phận làm dâu khổ sở Văn nghệ dân gian của các dân tộc Việt Nam rất phong phú và đa dạng và độc đáo, đã góp phần tạo nên diện mạo và bản sắc văn hoá dân tộc. Văn nghệ dân gian gồm nhiều loại hình, ở đây, chúng ta chỉ tìm hiểu hai loại hình là diễn xướng dân gian và tạo hình dân gian. II. DIỄN XƯỚNG DÂN GIAN 1. Âm nhạc / nhạc cụ cổ truyền Việt Nam có nhiều nhạc cụ thuộc ba bộ: bộ gõ, bộ dây và bộ hơi, trong đó các nhạc cụ thuộc bộ gõ có nguồn gốc lâu đời nhất và phổ biến nhất. 1.1. Bộ gõ: gồm cồng, chiêng, trống cái, trống cơm, trống đồng, đàn đá. 1.2. Bộ dây: gồm đàn bầu (độc huyền cầm), đàn nhị, đàn tam thập lục, đàn tỳ bà, đàn nguyệt, đàn tranh (thập lục), đàn t/rưng. 1.3. Bộ hơi: Khèn và sáo. 2. Diễn xướng dân gian 2.1. Các thể loại dân ca Các thể loại dân nước ta rất phong phú. Miền đất nào cũng có những làn điệu dân ca độc đáo. - Hát ru: ru em, ru con ba miền. - Hò: hò sông nước và hò cạn. - Hát quan họ ( Bắc Ninh), hát xoan (Phú thọ), hát đúm (Hưng Yên), hát ví, hát dặm (Nghệ Tĩnh); ca Huế; hát bài chòi (miền Trung) và các làn điệu lý (miền Nam). - Hát trống quân, hát xẩm, hát chầu văn, hát ca trù. Sau đây chúng ta tìm hiểu một vài thể loại dân ca tiêu biểu của ba miền Bắc - Trung - Nam. a. Hát quan họ: xuất xứ từ Kinh Bắc (Bắc Ninh). Lề lối tổ chức theo tùng canh gọi là canh quan họ. Tham gia canh quan họ là các 'liền anh', 'liền chị'. Hát quan họ thường là hát đôi (đôi nam, đôi nữ) và hát đối. Hát đôi được phân công người 'hát chính' và người 'hát luồn'. Quan họ có tới 200 làn điệu, trong đó có những là điệu đặc sắc như bài 'Giã bạn'. b. Hát trống quân: Cũng là một hình thức hát đối đáp nam nữ, diễn ra ở một số vùng nông thôn Bắc bộ. Không gian hát thường ở đình làng hoặc đầu xóm, vào những đêm trang sáng. Người hát chia làm hai phe là phe nam và phe nữ. Có một chiếc thùng được úp ngược xuống một cái hố đào nông, trên đáy thùng có miếng gỗ để làm căng sợi dây thép mắc sang hai bên. Hai đầu dây buộc vào hai cái cọc đóng chắc xuống đất. Trên tay nguời hát cầm một que cứng dài khoảng một gang tay gõ vào sợi dây để bật ra tiếng 'thùng thình'. Hình thức hát là một bên hỏi va một bên đáp, với diễn trình như sau: hát chào, hát mừng, hỏi quê quán rồi hát đối đáp. Lối hát có cả ứng tác, đối đáp tinh nghịch. Hát trống quân tạo không khí vui nhộn và say mê cho cả người hát lẫn người xem. c. Hát ví (dặm) Nghệ Tĩnh: Là lối hát đối đáp trong lao động. Có những loại hát ví sau: ví phường vải, ví đò đưa, ví phường củi, ví phường nón, ví phường gặt, ví phường cấy. Các cuộc hát ví có khi kéo dài mấy ngày. Nhiều đôi nam nữ đã nên vợ nên chồng từ lối hát này. Lối hát này thu hút cả thanh niên lẫn người già. 28
- d. Hát xẩm: Là điệu hát rong của những người mù tài năng có tâm tư góp tiếng đàn, tiếng hát của mình với cuộc đời, đồng thời cũng là cách kiếm sống duy nhất của họ. Người hát xẩm vừa hát vừa đàn, thường có vợ hoặc con dắt đi. Các bài hát thường mang tính tự sự, toát lên tâm hồn, tính cách người Việt: quý trọng nghĩa tình, lẽ phải và đạo đức. Bài hát xẩm tiêu biểu là xẩm 'Thập ân". e. Hò Huế: Là đặc sản văn nghệ dân gian xứ Huế, còn gọi là ca Huế. Hò Huế rất đa dạng, gắn bó với lao động sản xuất, đậm chất trữ tình. Sự đa dạng của hò Huế thể hiện ở nhiều làn điệu hò, thể hiện ở các môi trường diễn xướng: trên cạn, dưới nước, ru con, đưa linh g. Hát bài chòi: Là đặc sản văn nghệ của miền Trung, đặc biệt là vùng Bình Định. Thoạt kỳ thuỷ, bài chòi vốn là một trò chơi của nhân dân Bình Định trong những ngày tết mùa xuân, được kết hợp với những làn điệu dân ca địa phương. Điệu hò bài chòi về sau được kết hợp với những yếu tố trình diễn. Những người lo việc sóc bài, chia bài gọi là anh hiệu. Anh hiệu thường là những người có giọng hát tốt, có tài sáng tác những câu thơ ứng với các con bài. Ví dụ như các câu thơ trong con bài Nhì nghèo chẳng hạn. Những anh hiệu dần dần chuyên nghiệp hoá và sống bằng nghề hò bài chòi trong ngày tết, làm cho bài chòi trở thành một hình thức diễn xướng sinh hoạt dân gian, từng làm say mê nhiều người. Rủ nhau đi đánh bài chòi Để cho con khóc đến lòi ruột ra. h. Các điệu lý Nam Bộ: Lý là những bài hát của làng quê. Những bài hò quê mùa của miền Trung miền Nam không phải là hò thì được gọi là lý. Nam bộ là kho tàng vô tận về lý, trong đó có lý giao duyên - một thể dân ca, tình ca với nội dung tâm tình, rất thông dụng, được mọi người ưa thích. 2.2. Nghệ thuật sân khấu cổ truyền a. Hát chèo: Chèo là đặc sản văn nghệ dân gian của nhân dân vùng châu thổ Bắc bộ và trung du Bắc bộ, gắn với môi trường diễn xướng ở nông thôn, tong các dịp hội hè, đình đám. Cơ sở hình thành hát chèo là từ các điệu dân ca, dân vũ, múa hát tôn giáo vùng đồng bằng sông Hồng. Chèo định hình và thịnh vượng trong những thế kỷ XV, XVI. Những vở chèo cổ được lưu truyền đến ngày nay như: Quan Âm Thị Kính, Trương Viên, Lưu Bình - Dương Lễ. Nội dung các tíhc chèo cổ hầu hết kể về số phận bi thương của người phụ nữ trong xã hội phong kiến; xen vào đó là những tiếng cười châm biếm, đả kích vò trật tự phong kiến của các vai hề áo ngắn và hề áo dài/ áo chùng. Xưa chèo diễn xướng ở sân đình, trong các dịp hội hè đình đám, nên gọi là chèo sân đình, còn những người hát chèo thì gọi là phường chèo. Đầu thế kỷ XX, chèo vào đô thị, diễn trên sân khấu có phông màn, cảnh, đèn điện, nên sự ước lệ khác hẳn lối diễn ước lệ khi còn là chèo sân đình. Cũng trong thời gian này, do ảnh hưởng của thị hiếu tầng lớp tiểu thị dân và xu hướng thương mại hoá trong nghề hát nên chèo bị tha hoá, nghệ thuật trở nên hỗn tạp, dẫn đến sự ra đời phong trào chèo văn minh, tức là hình thức chèo pha tuồng, pha hát tây. Tiếp theo là sự ra đời của phong trào chèo cải lương của Nguyễn Đình Nghị - hình thức theo khuynh hướng tả thực của sân khấu kịch nói phương Tây du nhập vào Việt Nam đầu thế kỷ XX. Chèo cải lương đã làm mất đi nhiều lối diễn ước lệ truyền thống của chèo cổ. Sau cách mạng tháng Tám 1945, hình thức diễn xướng này mang tên gọi là chèo hiện đại - có các đoàn hát chuyên nghiệp, có kịch bản viết về các tích dân gian và lịch sử, và về đề tài hiện đại. b. Hát tuồng: 29
- Tuồng là đặc sản văn nghệ của miền Trung và miền Nam, được hình thành do ảnh hưởng của hí khúc Trung Quốc qua quân lính nhà nguyên bị giữ làm tù binh dưới thời nhà Trần (thế kỷ XIII). Tuồng phát triển mạnh ở Đàng Trong vào những thế kỷ XVII, XVIII, XIX. Những vở tuồng cổ đặc sắc còn đến ngày nay là: Sơn Hậu, Tam nữ đồ vương, Châu Dương Tử. Theo trật tự thời gian và nội dung vở diễn, có thể phân ra các loại tuồng: tuồng cổ, tuồng cung đình, tuồng đồ, tuồng văn thân, tuồng tân thời và tuồng hiện đại/ tuồng cách mạng. Tuồng là nghệ thuật mang tính cổ điển, là tác phẩm văn chương bác học. nghệ thuật biểu diễn mang tính ước lệ cao và có những quy phạm chặt chẽ trong các lối nói, hát, múa và hoá trang. c. Múa rối nước: Là loại hình sân khấu gắn bó với thiên nhiên, lao động sản xuất trồng cấy lúa nước. Đó là một loại hình mang tính tổng hợp rất cao của nhiều loại hình nghệ thuật dân gian khác. Múa rối nước có truyền thống từ lâu đời (có từ thời nhà Lý). Nhà của các diễn viên điều khiển rối nước gọi là Thuỷ đình. Chương trình biểu diễn rối nước khá phong phú và đa dạng. Bên cạnh các trò thuộc về đề tài sản xuất như : Tứ dân (ngư, tiều, canh, độc) là các trò thuộc về những sinh hoạt văn hoá, như các nhóm trò vật, đua leo thang, đánh kiếm, đua ngựa; có cả những trích đoạn các tích chèo tuồng cổ, các trò lễ nghi hội hè, các trò diễn tích lịch sử như Hai Bà Trưng, Lê Lợi, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo Nhân vật quen thuộc trong rối nước truyền thống là chú Tễu (người đảm nhiệm vai trò giáo đầu vở diễn) - hình ảnh tiêu biểu của người nông dân đồng bằng Bắc Bộ. Các tiết mục rối nước thường nhắn gọn, luôn thay đổi, được kết hợp với âm nhạc, pháo hoa, lửa đuốc phản quang trên mặt nước nên càng tăng phần hấp dẫn. d. Cải lương: Là loại hình kịch hát dân tộc ra đời vào đầu thế kỷ XX ở Nam Bộ. Tiền thân của hát cải lương là hình thức ca ra bộ (ca thể hiện / minh hoạ bằng điệu bộ). Điệu hát chủ chốt của nghệ thuật cải lương là điệu ca vọng cổ nổi tiếng - điệu nhạc vua của sân khấu cải lương, bắt nguồn từ bài Dạ cổ hoài lang, tác giả là Cao Văn Lầu. Khởi thuỷ mỗi câu vọng cổ có hai nhịp, nên gọi là Dạ cổ nhịp đôi, sau mở ra thành Dạ cổ nhịp tư (mỗi câu bốn nhịp), rồi nhịp tám sau Dạ cổ nhịp tám lại được mở thành bản nhịp 16 và đổi tên là vọng cổ. Vọng cổ nhịp 16 tiếp tục phát triển thành nhịp 32, 64, nhưng từ 20 câu rút lại thành 6, rồi 4 câu. Có thể giữa hai cặp của 4 câu vọng cổ xen vao một bài lý, hoặc tân nhạc. Cải lương phát triển mạnh trong khoảng 10 năm, từ 1920 - 1930, với nhiều ban gánh và nghệ sĩ tên tuổi lừng danh còn lưu danh đến tận bây giờ. Nghệ thuật truyền thống Việt Nam có những đặc trưng cơ bản sau: - Tính biểu trưng: Thiên về biểu đạt nét tinh thần, nhấn mạnh nội dung tư tưởng. - Tính biểu cảm: Đậm chất trữ tình. - Tính tổng hợp: Các loại hình nghệ thuật cùng tham gia trong một loại hình. - Tính linh hoạt: Diễn viên đượ phép sáng tạo trong khi diễn và có mối giao lưu mật thiết với người xem. III. NGHỆ THUẬT TẠO HÌNH - Tạo hình là thuật ngữ dùng để chỉ hai loại hình nghệ thuật có liên quan mật thiết, chặt chẽ với nhau là hội hoạ và điêu khắc, được thực hiện trên các chất liệu: đá, đất, gỗ, kim loại, giấy. 1. Điêu khắc: Từ đá người Việt đã sáng tác những tượng Phật như tượng A Di Đà ở chùa Phật Tích (Hà Bắc); từ đất, gốm đã xuất hiện ở Việt Nam từ lâu đời (cách đây một vạn năm) và có những thành công; từ chất liệu kim loại, người 30