Giáo trình Giáo dục đại học - Trần Khánh Đức

pdf 118 trang Hùng Dũng 03/01/2024 1140
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Giáo dục đại học - Trần Khánh Đức", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_giao_duc_dai_hoc_tran_khanh_duc.pdf

Nội dung text: Giáo trình Giáo dục đại học - Trần Khánh Đức

  1. TRẦN KHÁNH ĐỨC (Biên soạn) Giáo trình GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM VÀ THẾ GIỚI (Dùng cho các khóa bồi dưỡng giảng viên cao đẳng/đại học về nghiệp vụ Sư phạm đại học theo chương trình của Bộ GD&ĐT) HÀ NỘI - 2012 1
  2. CHƯƠNG TRÌNH CHI TIẾT 1. Mục tiêu: 1.1. Kiến thức: Trang bị cho người học những kiến thức cơ bản về: 1. Cách tiếp cận và lược sử các giai đoạn phát triển của giáo dục đại học phương Đông và Phương Tây 2. Những đặc trưng và xu hướng phát triển cơ bản của nền GD ĐH hiện đại . 3. Cơ cấu hệ thống và đặc điểm về loại hình, tổ chức nhà trường đại học trong hệ thống GDDH Việt Nam và một số nước 4. Mục tiêu và các giải pháp chiến lược đổi mới GD ĐH Việt nam 5. Các nội dung cơ bản quản lý nhà nước về GD Đại học theo luật GD 2009 sửa đổi 6. Các quy định cơ bản về quản lý nhà trường đại học và chức trách, nhiệm vụ giảng viên theo Điều lệ Trường Đại học/Cao đẳng và Luật GD 2009 sửa đổi 1.2. Kỹ năng: - Hình thành và phát triển ở người học các kỹ năng tư duy: nhận dạng, phân tích, tổng hợp, hệ thống hoá tài liệu, thông tin về GD ĐH; so sánh các đặc trưng, vai trò giáo dục đại học - Kỹ năng tổ chức và quản lý giáo dục đại học cấp khoa/bộ môn - Phát triển năng lực nghiên cứu dự án, trao đổi và trình bày các vấn đề về phát triển và quản lý giáo dục đại học - Kỹ năng làm việc theo nhóm 1.3. Thái độ: - Hình thành thái độ khách quan, khoa học - Ý thức được vị trí và tầm quan trọng của giáo dục đại học trong quá trình phát triển xã hội - Hình thành và phát triển tình yêu nghề nghiệp và trách nhiệm xã hội- nghề nghiệp của giảng viên ĐH 2. Hình thức dạy học: - Thời gian giảng lý thuyết: 30 - Thời gian thực hành, thảo luận, Xemina: 15 2
  3. MỤC LỤC Trang CHƯƠNG I. LƯỢC SỬ PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC ĐẠI HỌC 7 1.1. Các cách tiếp cận trong nghiên cứu lịch sử GD ĐH 7 1.1.1. Tiếp cận theo các hình thái kinh tế-xã hội 1.1.2. Tiếp cận theo các nền văn minh 1.2. Lược sử phát triển GD ĐH thế giới 12 1.2.1. Giáo dục đại học phương Đông 1.2.2. Giáo dục đại học phương Tây 1.3. Lược sử phát triển GD ĐH Việt nam 14 1.3.1. Thời kỳ Phong kiến 1.3.2. Thời kỳ thuộc Pháp 1.3.3. Thời kỳ độc lập và đấu tranh giải phóng dân tộc (1945-1975) 1.3.4. Thời kỳ Đổi mới (1986 đến nay) CHƯƠNG II. HỆ THỐNG GDDH VÀ XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC ĐẠI HỌC THẾ GIỚI 36 2.1. Chuẩn phân loại quóc tế về giáo dục (UNESCO) 36 2. 2. Hệ thống giáo dục đại học một số nước 45 2.2.1. Hoa kỳ 2.2.2. Hà Lan 2.2.3. Nhật Bản 2.2.4. Hàn Quốc 2.2.5. Trung Quốc 2.3. Đặc trưng và xu hướng phát triển giáo dục đại học hiện đại 68 2.3.1. Sự phát triển của nhà trường theo các nền văn minh và nhà trường đại học tương lai 2.3.2. Đặc trưng và các xu hướng phát triển giáo dục đại học hiện đại 2.3.3. Tuyên bố Paris về GD ĐH- 1998 và 2009 CHƯƠNG III. CHIẾN LƯỢC ĐỔI MỚI CĂN BẢN VÀ TOÀN DIỆN GD ĐH VIỆT NAM 87 3.1. Bối cảnh phát triển giáo dục đại học 87 3.1.1. Bối cảnh trong nước 3
  4. 3.1.2. Bối cảnh quốc tế 3.2. Hiện trạng hệ thống GD ĐH Việt nam 91 3.2.1.Về mạng lưới 3.2.2. Về quy mô đào tạo 3.2.3. Về cơ cấu ngành nghề 3.2.4. Về chất lượng đào tạo 3.3. Các giải pháp chiến lược phát triển giáo dục đến 2020 99 3.3.1. Các giải pháp đột phá 3.3.2. Các giải pháp khác 3. 4. Định hướng và các mục tiêu phát triển GD ĐH Việt Nam đến 2020( NQ 14/CP) 112 3.4.1. Định hướng phát triển GD ĐH 3.4.2. Các mục tiêu phát triển GD ĐH 3.5. Hoàn thiện các mô hình cơ sở giáo dục đại học 115 3.5.1. Mô hình đại học đa ngành, đa lĩnh vực 3.5.2. Mô hình đại học nghề nghiệp 3.5.3.Mô hình Học viện 3.5.4. Mô hình Viện Đào tạo 3.5.5. Mô hình đại học thuộc Doanh nghiệp 3.5.6. Mô hình TT tư vấn và chuyển giao công nghệ 3.5.7. Các Khu đại học, khu công nghệ cao CHƯƠNG IV. QUẢN LÝ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC 119 4. 1. Một số khái niệm cơ bản 119 4.1.1. Quản lý 4.1.2. Nhà nước 4.1.3. Giáo dục 4.2. Quản lý nhà nước về giáo dục đại học 121 4.2.1. Khái niệm quản lý nhà nước về GD 4.2.2. Các nội dung quản lý nhà nước về GD 4.2.3. Các công cụ quản lý nhà nước về GD 4. 3. Quản lý nhà trường đại học 128 4.3.1. Chức năng, nhiệm vụ nhà trường 4.3.2 Nhiệm vụ và quyền hạn của trường đại học 4.3.3. Nhiệm vụ và quyền của giảng viên 4
  5. 4.4. Các mô hình quản lý trường đại học trên thế giới 136 Tài liệu tham khảo Phụ lục: Bảng xếp hạng Đại học thế giới và khu vực 5
  6. Giáo trình GIÁO DỤC ĐẠI HỌC - Việt Nam và Thế giới PGS.TS Trần Khánh Đức Đại học quốc gia Hà nội Trong quá trình phát triển của đời sống kinh tế- xã hội và khoa học - công nghệ của các quốc gia, vai trò và vị trí của giáo dục đại học nói chung và của các trường đại học nói riêng ngày càng trở nên quan trọng. Các trường đại học không chỉ có vai trò chủ chốt trong lĩnh vực đào tạo nhân lực khoa học & công nghệ trình độ cao mà thực sự đã và đang trở thành các trung tâm nghiên cứu lớn về sản xuất tri thức mới và phát triển, chuyển giao công nghệ hiện đại, góp phần phát triển bền vững. Ở nhiều nước phát triển như Mỹ, Anh, Australia, Nhật Bản hệ thống giáo dục đại học trở thành một ngành dịch vụ tri thức cao cấp góp phần đáng kể vào thu nhập quốc dân GDP của quốc gia thông qua các hoạt động dịch vụ đào tạo và khoa học&công nghệ. Nhiều nước trong khu vực ASEAN như Thái lan, Malaisia, Philipin đã và đang thực hiện đổi mới, cải cách giáo dục đại học theo hướng phát triển đa dạng hoá, chuẩn hoá, quốc tế hóa hình thành hệ thống bảo đảm chất lượng đại học với nhiều tiêu chí và chuẩn mực đánh giá chất lượng đào tạo; phát triển nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ, dịch vụ cộng đồng. Tuyên bố của Hội nghị quốc tế về giáo dục đại hoc năm 1998 do UNESCO tổ chức đã chỉ rõ: "Sứ mệnh của giáo dục đại học là góp phần vào yêu cầu phát triẻn bền vững và phát triển xã hội nói chung”. Nghị Quyết 14/2005/NQ-CP ngày 2/11/2005 của Chính phủ CHXHCN Việt Nam về đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006-2020 cũng đã đặt ra yêu cầu: “ Hiện đại hóa hệ thống giáo dục đại học trên cơ sở kế thừa những thành quả giáo dục và đào tạo của đất nước, phát huy bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa nhân loại, nhanh chóng tiếp cận xu thế phát triển giáo dục đại học tiên tiến trên thế giới “. 6
  7. CHƯƠNG I LƯỢC SỬ PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC ĐẠI HỌC 1.1. Các cách tiếp cận trong nghiên cứu lịch sử giáo dục đại học Lịch sử phát triển của xã hội loài người là lịch sử phát triển của các hình thái kinh tế-xã hội và các nền văn minh. 1.1.1 Tiếp cận theo các hình thái kinh tế-xã hội. Theo cách tiếp cận các hình thái kinh tế-xã hội, xã hội loài người trải qua 5 giai đoạn hay trình độ phát triển cơ bản và tương ứng với nó là 4 nền giáo dục là: 1. Giai đoạn cộng sản nguyên thủy. Giai đoạn này loài người sống trong điều kiện hoang dã. Cuộc sống các tộc người dựa trên bản năng và phụ thuộc vào tự nhiên (săn bắn và hái lượm), hình thái tổ chức xã hội giải đơn, trình độ phát triển thấp. Giáo dục hình thành trong các hình thức sơ khai qua truyền thụ kinh nghiệm trực tiếp, giản đơn trong thực tiễn đời sống và sinh hoạt ở các cộng đồng người nguyên thủy. Giai đoạn này chưa có hệ thống giáo dục nói chung và hệ thống giáo dục đại học nói riêng 2. Giai đoạn chiếm hữu nô lệ. Cùng với quá trình phân chia giai cấp và hình thành nhà nước chủ nô, nhu cầu giáo dục trong chế độ chiếm hữu nô lệ cho các đối tượng, giai cấp khác nhau đã hình thành (Chủ nô, binh lính, người lao động, nô lệ ).Trên cơ sở đó, hệ thống nhà trường hình thành và phát triển phục vụ cho lợi ích và nhà nước cai trị của giai cấp chủ nô. Cùng với sự phát triển của xã hội đặc biệt là thời kỳ văn minh Hy-La ở Phương Tây, đã xuất hiện các nhà triết học, nhà tư tưởng lớn về giáo dục như Platon, Aristote; Socrate .Ở Phương Đông vào cuối thời kỳ tan rã của chế độ nông nô cũng đã hình thành những mầm mống tư tưởng của Nho giáo (Khổng tử); Ấn độ giáo, Đạo giáo Giai đoạn này đã bắt đầu hình thành các cơ sở giáo dục tập trung 7
  8. để truyền bá và phát triển các hệ tư tưởng đạo đức; chính trị- xã hội và tôn giáo 3. Giai đoạn phong kiến. Chế độ phong kiến hình thành trên cơ sở nền sản xuất nông nghiệp và thủ công nghiệp với trình độ thấp, khoa học và công nghệ chưa phát triển. Ở phương Đông (Trung Quốc; Việt Nam, Ấn Độ, ), nền giáo dục chịu sự chi phối các các hệ tư tưởng Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo và Ấn độ giáo Nền giáo dục Việt nam thời phong kiến chủ đạo là nền giáo dục Nho học (Khổng giáo) với các nhà giáo, nhà tư tưởng giáo dục lớn như Chu Văn An; Thân Nhân Trung; Nguyễn Trường Tộ cùng với sự ra đời của Văn miếu-Quốc Tử Giám (1076) được coi là trường Đại học đầu tiên ở Việt Nam. Đồng thời, những tư tưởng, thiết chế giáo dục Phật giáo cũng được hình thành và phát triển đặc biệt ở thời Lý-Trần và có ảnh hưởng sâu rộng đến các tầng lớp dưới của xã hội Nền giáo dục Phương Tây trong ” đên dài trung cổ” từ thế kỷ thứ 6 đến thế kỷ 13-14 bị chi phối bởi các hệ tư tưởng của Nhà thờ Thiên chúa giáo, Cơ đốc giáo Vào thế kỷ 11-12 đã hình thành các Trường Đại học đàu tiên ở Châu Âu (Ý, Pháp, Anh) tuy còn chịu sự chi phối và ảnh hưởng của Nhà thờ. Sang thế thế kỷ 15-17 (thời kỳ phục hưng và khai sáng) đã có các chuyển biến lớn qua các cuộc cải cách tôn giáo, cách mạng khoa học, tiến bộ xã hội với sự xuất hiện các nhà tư tưởng lớn về xã hội và giáo dục như F.R Bacon (1214- 1294) với các tư tưởng tiên phong về khoa học thực nghiệm; Jean Hus (1360- 1415) nhà cải cách giáo dục Tiệp, hiệu trưởng Trường Đại học Praha; Komenxki (1592-1670) với tác phẩm “ Lý luận dạy học vĩ đại’’ John Locke (1632-1704) nhà triết học và giáo dục Anh; Descartes (1596-1650) với câu nói nổi tiếng “ Tôi tư duy có nghĩa là tôi tồn tại”. 4. Giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa với sự ra đời của nhà nước tư sản và nền sản xuất đại công nghiệp trên cơ sở của cuộc cách mạng kỹ thuật và công nghiệp (thế kỷ 17-19) và cuộc cách mạng khoa học-công 8
  9. nghệ hiện đại (thế kỷ 20 đến nay). Hệ thống giáo dục và nhà trường tư sản thời kỳ đầu hình thành và phát triển trong sự mâu thuẫn và đối kháng gay gắt giữa Tư sản và Vô sản. Giai cấp Tư sản với quyền lực nhà nước tư sản đã sử dụng nhà trường như là một công cụ để củng cố địa vị thống trị của mình, phục vụ cho lợi ích giai cấp tư sản. Trong quá trình đấu tranh cho một xã hội dân chủ, công bằng và tiến bộ. đã xuất hiện nhiều nhà tư tưởng lớn, tiến bộ như J.J Rusouce (1712-1778) – nhà triết học, nhà khai sáng, nhà giáo dục tiến bộ Pháp nổi tiếng; Jean Piaget- nhà tâm lý-giáo dục tiên phong; Emile Durkheim (1858-1917) – nhà tư tưởng xã hội học giáo dục Pháp; Jonh Deway(1859-1952) nhà giáo dục thực dụng Mỹ .Hệ thống giáo dục đại học phát triển mạnh với nhiều loại hình trường Đại học khoa học; đại học kỹ thuật-công nghệ; đại học đa lĩnh vực; đại học nghiên cứu ở các nước tư bản phát triển ở Chầu Âu và Bắc Mỹ 5. Giai đoạn cộng sản chủ nghĩa (với thời kỳ đầu là CNXH) với sự ra đời của hệ thống XHCN (trước đây) đã hình thành và phát triển mô hình nhà trường XHCN- một loại hình nhà trường kiểu mới phục vụ lợi ích và nhu cầu học tập của đông đảo quần chúng nhân dân lao động. Cùng với hệ tư tưởng Mác-Lênin đã hình thành hệ tư tưởng giáo dục cộng sản chủ nghĩa với các đại diện tiêu biểu của Liên xô (cũ) như Krupcaia; Macarencô . Ở nước ta, tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh nói riêng là sự kết tinh của các giá trị tư tưởng giáo dục truyền thống và hiện đại, của nhân loại cả ở phương Đông và phương Tây đồng thời mang đậm bản sắc văn hoá Việt nam. Cùng với sự ra đời của Hệ thống XHCN sau Cách mạng tháng 10 Nga năm 1917, đã hình thành hệ thống giáo dục mới trong đó có giáo dục đại học theo mô hình Liên xô (cũ) ở các nước XHCN (Đông Âu, Trung Quốc, Việt Nam ) 9
  10. 1.1.2. Tiếp cận theo các nền văn minh Anwin Toffler (1992) nhà dự báo Mỹ nổi tiếng đã phân tích lịch sử phát triển của xã hội theo 3 làn sóng lớn (giai đoạn phát triển) chính, đó là: 1. Xã hội nông nghiệp. 2. Xã hội công nghiệp. 3. Xã hội hậu công nghiệp (thông tin, trí thức.) Xã hội nông nghiệp là một xã hội mà nền kinh tế dựa vào nguồn tài nguyên thiên nhiên và lao động giản đơn, sản xuất nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp (kinh tế sức người). Sản phẩm nông nghiệp dựa vào những điều kiện tự nhiên (kinh tế tài nguyên) và con người làm việc theo kinh nghiệm với phương pháp thử và sai. Hệ thống giáo dục thời kỳ này chưa phát triển và vì lý do đó, số lượng người được đào tạo và có trình độ học vấn ở mức thấp. Các cơ sở giáo dục nhỏ bé và chủ yếu dựa vào mô hình hệ thống lớp học gia đình trong cộng đồng, làng mạc. Tài nguyên và giá trị của quốc gia dựa vào đất đai và dân số. Ở châu Á (bao gồm Việt Nam, Trung Quốc và Hàn Quốc ) đây là giai đoạn xã hội được xây dựng dưới chế độ phong kiến và chủ yếu theo nền giáo dục Nho giáo của Khổng Tử. Đồng thời, đây cũng là thời kỳ phát triển của các tư tưởng giáo dục Phật giáo ở Ấn độ và lan tỏa sang nhiều quốc gia khác đặc biệt ở Châu á. Ở Châu Âu, trong thời kỳ này giáo dục đại học chịu ảnh hưởng và chi phối bởi Nhà thờ với các hệ tư tưởng Thiên chúa giáo; Cơ đốc giáo; Đạo Tin lành Xã hội công nghiệp bắt đầu hình thành từ thế kỷ 17-18 ở Châu Âu (Đức, Pháp, và Anh) với sự ra đời của cuộc cách mạng kỹ thuật và trên cơ sở đó có sự phát triển nhanh về khoa học-công nghệ và các lĩnh vực sản xuất công nghiệp như: cơ khí, luyện kim, hóa chất Nền kinh tế chủ yếu dựa vào mạng lưới của các cơ sở khai khoáng, nhà máy cơ khí, sản xuất công nghiệp và mạng lưới giao thông vận tải đa dạng Nền kinh tế thị trường và giao dịch 10
  11. thương mại đã thiết lập nên thị trường hàng hóa, thị trường lao động trong phạm vi quốc gia, khu vực và quốc tế. Năng lực làm việc và sức lao động trở thành hàng hóa. Giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu về việc gia tăng nhân lực LĐKT và dịch vụ. Hệ thống trường học theo mô hình nhà máy, đặc biệt là hệ thống giáo dục kỹ thuật- nghề nghiệp. Các loại hình trường đại học khoa học; kiến trúc-nghệ thuật; đại học kỹ thuật-công nghệ phát triển mạnh cả về số lượng và quy mô đào tạo. Giá trị tài nguyên của quốc gia dựa trên nguồn vốn (tiền-tư bản). Con người (người công nhân, nhân lực) là chỉ một thành phần đầu vào của quá trình sản xuất. Xã hội công nghiệp khởi đầu từ thế kỷ 17-18 gắn liền với sự phát triển mạnh mẽ về nghệ thuật, khoa học và công nghệ của nền văn minh Phương Tây và chịu sự chi phối cùng ảnh hưởng của hệ tư tưởng và triết lý phương Tây với các đại diện xuất xắc như Heghen; Kant cùng các nhà tư tưởng giáo dục lớn như Jean Piaget (Thụy sĩ); Emile Durkheim (Pháp); John Dewey (Mỹ) . Xã hội hậu công nghiệp hay còn gọi là xã hội thông tin, kinh tế tri thức bắt đầu hình thành từ sau giữa thế kỷ 20 (1960) với sự phát triển nhanh chóng của khoa học hiện đại và công nghệ cao (Hi-tech). Nền kinh tế chính dựa vào tri thức, điện tử hóa, tin học hóa và mạng lưới thông tin. Giá trị hàng hóa và dịch vụ phụ thuộc vào hàm lượng chất xám. Hệ thống giá trị tài nguyên của quốc gia dựa vào tri thức và kỹ thuật hiện đại. Nguồn vốn con người là giá trị quan trọng nhất. Giáo dục cùng với khoa học và công nghệ là thành phần, là động lực chính để phát triển đất nước. Xã hội hậu công nghiệp đã và đang phát triển mạnh mẽ với nhiều quan điểm, tư tưởng giáo dục mới phù hợp với nhu cầu mới của thời đại kinh tế tri thức như: giáo dục cho mọi người; xây dựng xã hội học tập; học suốt đời; bốn trụ cột của nền giáo dục hiện đại (UNESCO); E-learning . Trong giai đoạn này, trường học theo mô hình của cơ sở nghiên cứu và sáng tạo, nhà trường thông minh (sáng tạo, khai phá, quá trình dạy học dựa 11
  12. vào mạng lưới thông tin). Các trường đại học trở thành đầu tầu của sự phát triển khoa học và công nghệ hiện đại với các các loại hình Đại học nghiên cứu (Research University) và các đại học đa ngành, đa lĩnh vực Sự phát triển của xã hội và nhà trường tại mỗi giai đoạn được trình bày theo hình 1. Hình 1: Các bước của quá trình phát triển xã hội và mô hình nhà trường Xã hội Thông tin Mô hình nhà trường thông minh Xã hội Công nghiệp Mô hình nhà trường nhà máy Xã hội Nông nghiệp Mô hình nhà trường gia đình 1.2. Lược sử phát triển GD ĐH thế giới 1.2.1. Giáo dục đại học phương Đông Nền giáo dục đại học Phương Đông gắn liền với quá trình phát triển của các nền văn minh Phương Đông ở Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam và các nước ở khu vực Đông-Nam Á. Trong điều kiện còn sơ khai và thấp kém của trình độ phát triển của lực lượng sản xuất (nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp) và trong khuôn khổ các thể chế chính trị-xã hội phong kiến, nền giáo dục đại học Phương Đông chủ yếu phản ánh và truyền bá các hệ tư tưởng Nho giáo, Phật giáo, Ấn độ giáo và các giá trị văn 12
  13. hoá-xã hội trong đó chủ yếu là dạy hệ thống các triết lý, quan niệm, tín điều, văn chương, một số kỹ năng tính toán và rất ít tính duy lý, phân tích Thời kỳ hiện đại (thế kỷ 19 cho đến nay) hệ thống giáo dục đại học của các nước Phương Đông phát triển theo mô hình châu Âu (Anh, Pháp, Đức) và mô hình Mỹ. Chẳng hạn như Nhật Bản thời kỳ đầu (cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20) phát triển các trường đại học theo mô hình đại học Đức và sau chiến tranh thế giới thứ 2 (1947) phát triển theo mô hình đại học Mỹ. Việt Nam thời kỳ thuộc Pháp (1858-1945) phát triển mô hình giáo dục đại học Châu Âu (Pháp) với sự ra đời của Đại học Đông Dương năm 1906. 1.2.2. Giáo dục đại học phương Tây Giáo dục đại học phương Tây hình thành và phát triển gắn liền với quá trình phát triển của nền văn minh phương Tây với nhiều bước thăng trầm của lịch sử từ thời văn minh Hy-La và trải qua đêm dài Trung cổ từ thế kỷ thứ 5 đến thế kỷ 14-15. Từ thế kỷ 15, nền văn minh Phương Tây đã trải qua các cuộc cải cách Tôn giáo, cách mạng xã hội, cách mạng khoa học với sự phát triển mạnh mẽ của các tư tưởng tiến bộ-nhân văn, tư duy khoa học đã bước vào thời kỳ phục hưng (thế kỷ 16-17) với nhiều thành tựu rực rỡ trên các mặt của đời sống xã hội (các trường phái nghệ thuật-kiến trúc, triết học, xã hội học; khoa học đặc biệt là các khoa học thực nghiệm ). Tuy có những bước thăng trầm song nền văn minh phương Tây tiếp tục phát triển mạnh trong các giai đoạn của cách mạng kỹ thuật và công nghiệp (thế kỷ 18- 19) và hiện nay là thời đại hậu công nghiệp, kinh tế tri thức trong thế kỷ 20-21 Giáo dục đại học phương Tây thời kỳ đầu gắn liền đào tạo tinh hoa với các nội dung chủ yếu về thần học, văn chương, luật, khoa học và nghệ thuật và sau nay là khoa học-công nghệ hiện đại cùng nhiều lĩnh vực văn hoá- nghệ thuật; khoa học xã hội-nhân văn Hệ thống giáo dục đại học phương Tây đã phát triển qua gần 10 thế kỷ với nhiều bước thăng trầm gắn liền với các cuộc cách mạng khoa học- công nghệ, cách mạng xã hội, phát triển văn hoá và văn minh nhân loại 13
  14. Từ thế kỷ 12-15 (cuối thời trung cổ ở Châu âu) với các Truờng Đại học đầu tiên tại Salerno (NamÝ), Bologna (1088-BắcÝ); Paris (1215), Oxford (Anh-1167); Viện đại học Cambridge (Anh-1209) - Giáo dục đại học Phương Tây thời kỳ đầu chịu ảnh hưởng, sự chi phối của các giáo lý, hệ tư tưởng của Nhà thờ (Thiên chúa giáo, Cơ đốc giáo, Đạo Tin Lành ). - Nhiệm vụ chủ yếu của nhà trường đại học là đào tạo giới tinh hoa ở các lĩnh vực hành chính, luật, y phục vụ nhu cầu cho Nhà nước và Nhà thờ - Nội dung giảng dạy chủ yếu các kỹ năng cơ bản cho các nghề văn chương (ngữ pháp, tu từ, biện chứng) Sau này bổ sung thêm các lĩnh vực âm nhạc, số học, hình học, thiên văn ). Hình thành hệ thống 7 môn nền tảng (liberal art) của học vấn đại học (General Education) Thời kỳ Khai sáng và Phục hưng (TK 16-17) với sự phát triển mạnh mẽ của các tư tưởng tự do, nghệ thuật và các cuộc cách mạng xã hội, cách mạng khoa học. - Các trường đại học dần dần thoát khỏi sự chi phối của Nhà thờ và Giáo hội - Hình thành các trường phái nghệ thuật-kiến trúc nổi tiếng; các trường nghệ thuật-kiến trúc; các Đại học tổng hợp về khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn. - Các trường Đại học dần dần trở thành là các trung tâm khoa học, văn hóa- tri thức của xã hội. - Giáo dục đại học thời kỳ này do hạn chế về đối tượng và quy mô nên chủ yếu vẫn là nền giáo dục tinh hoa. Đào tạo chuyên gia, tầng lớp tri thức của xã hội - Các trường Đại học phương Tây trở thành các trung tâm phát triển các tư tưởng tự do- nhân văn, tinh thần duy lý; tự do học thuật, phương pháp khoa học, biện chứng 14
  15. Hệ thống giáo dục đại học phương Tây phát triển mạnh trong giai đoạn thế kỷ 18-19 với các cuộc cách mạng kỹ thuật, công nghiệp. - Xuất hiện các loại hình đại học/cao đẳng kỹ thuật và công nghệ. Các trường cơ khí ở Anh; các trường Bách khoa về kỹ thuật-công nghệ ở Đức và Pháp ). - Các trường đại học kiểu mới đã trở thành trung tâm đào tạo đội ngũ nhân lực trình độ cao trong nhiều lĩnh vực khoa học, kỹ thuật và công nghệ cho các ngành sản xuất-dịch vụ, góp phần phát triển nhân lực kỹ thuật có trình độ cao cho các ngành kinh tế- xã hội đặc biệt là trong các lĩnh vực công nghiệp. - Thời kỳ này đã xuất hiện mô hình đại học nghiên cứu ở Đức, Scotland và Anh với việc kết hợp chặt chẽ giữa đào tạo và nghiên cứu; lý thuyết với ứng dụng, phát triển các khoa học ứng dụng và thực nghiệm. Với sự ra đời của trường đại học Beclin (1810) đã đánh dấu bước chuyển căn bản của mô hình giáo dục đại học Phương Tây từ khoa học thuần túy, tháp ngà khoa học sang khoa học ứng dụng cao cấp; phát triển khoa học và công nghệ tiên tiến với nhiều ứng dụng rộng rãi trong sản xuất và dịch vụ. - Mô hình trường Grande Ecole của Pháp với tính chuyên sâu cao, tuyển sinh chọn lọc chặt chẽ đã tạo ra những bước tiến lớn về chất lượng và trình độ đào tạo cao của mô hình đại học Châu Âu thời hiện đại và có ảnh hưởng đến nhiều nước trên thế giới. Thời kỳ hậu công nghiệp và kinh tế trí thức (giữa thế kỷ 20 đến nay) Cùng với quá trình phát triển của khoa học-công nghệ và nền sản xuất hiện đại, những tiến bộ trong trong quá trình dân chủ hóa đời sống xã hội, nền giáo dục đại học phương Tây tiết tục phát triển mạnh mẽ cả về quy mô và chất lượng, hiệu quả đào tạo. Mô hình đại học Mỹ ra đời và phát triển trên cơ sở kế thừa các mô hình đại học Anh, đại học Châu Âu (Pháp- Đức) với các cơ sở nổi tiếng như đại học Harvard (1636); đại học Chicago; MIT là những đại học hàng đầu trong top 20 trường đại học đẳng cấp quốc tế. 15
  16. - Đa dạng hóa và phát triển mạnh các đại học nghiên cứu (Reseach Universities) đồng thời phát triển mạng lưới cao đẳng cộng đồng (Communỉty College) ở các địa phương để đáp ứng nhu cầu phổ cập giáo dục đại học. - Phân tầng mạnh mẽ chất lượng đào tạo đại học ở các loại hình trường Đại học, hình thành một phổ chất lượng đào tạo đại học theo sứ mạng và mục tiêu của các loại hình trường đại học. - Đại chúng hóa giáo dục đại học. Gắn bó chặt chẽ giữa nghiên cứu khoa học với đào tạo đại học. Giáo dục đại học trở thành một ngành dịch vụ tri thức cao cấp với một thị trường lớn nhiều tỷ USD/năm - Trường Đại học trở thành trung tâm sản xuất, phát triển, truyền bá và ứng dụng và dịch vụ tri thức, công nghệ cao, phát triển các giá trị văn hóa-xã hội và cộng đồng. 1.3. Lược sử phát triển GD ĐH Việt Nam Trong suốt gần 5000 năm lịch sử dân tộc, nền giáo dục Việt Nam nói chung và nền giáo dục đại học Việt Nam nói riêng đã từng trải những bước thăng trầm, những đổi thay gắn liền với những bước chuyển trong các giai đoạn phát triển của lịch sử dân tộc. 1.3.1. Thời kỳ phong kiến (1076 - 1885) Giáo dục Việt Nam trong thời kỳ phong kiến với giáo dục Nho học là chủ yếu. Bên cạnh giáo dục Nho học có sự tồn tại các loại hình giáo dục của Phật giáo và Đạo giáo. Tuy có sự khác biệt song các loại hình giáo dục trên không có sự bài trừ lẫn nhau. Đặc biệt, Tam giáo thịnh vượng nhất là dưới thời Lý – Trần, triều đình nhiều lần đứng ra tổ chức kỳ thi Tam giáo bao gồm cả 3 nội dung Nho – Phật - Đạo. Tuy nhiên, các triều đại phong kiến nối tiếp nhau luôn lấy Nho giáo làm hệ tư tưởng chính thống. Nền giáo dục Nho học nhờ đó được bảo vệ, dung dưỡng, duy trì, củng cố, dần trở thành hệ thống giáo dục chính thống và bao trùm trong suốt thời kỳ phong kiến. 16
  17. Năm 1076, được coi là điểm mốc đánh dấu sự ra đời của hệ thống giáo dục Nho học, với việc nhà Lý khởi lập Quốc Tử Giám- trường đại học đầu tiên ở Việt Nam. Ban đầu, Quốc Tử Giám tổ chức giảng dạy cho con em trong Hoàng tộc. Đến năm 1253, đổi thành Quốc Tử Viện, giảng dạy cho cả con em thường dân học giỏi ở các tỉnh, huyện. Hệ thống giáo dục Nho giáo bắt đầu mở rộng ra ở các địa phương với đối tượng rộng rãi hơn trong các tầng lớp nhân dân. Hệ thống giáo dục Nho học, trên cơ sở lấy kinh điển Nho giáo làm nội dung giảng dạy, thông thường phân thành các bậc học như sau: 8 tuổi học sách Hiếu kinh, Trung kinh; 12 tuổi học sách Luận Ngữ, Trung dung, Đại học; 15 tuổi học sách Thi, Thư, Dịch, Lễ, Xuân thu, Chư tử. Có hai loại hình trường: trường công và trường tư. Trong đó, nhà nước chỉ quản lý trực tiếp đối với các trường công ở kinh đô và một số ít trường công ở các tỉnh, phủ và huyện; Trường tư phổ biến ở các làng xã do nhân dân đóng góp xây dựng, tự hoạt động ngoài sự quản lý của nhà nước phong kiến tập quyền. Qua vài nét sơ lược trên đây chúng ta thấy: cơ cấu bậc học, cấp độ quản lý của hệ thống giáo dục Nho học là hết sức đơn giản, mang tính chất ước lệ. Vì yếu tố có tính cốt yếu trong hệ thống giáo dục Nho giáo chính là hệ thống khoa cử. Thực ra, dưới thời phong kiến có nhiều hình thức thi cử: thi văn, thi võ và thi lại viên, nhưng thi văn hay còn gọi là khoa cử Nho học vẫn là quan trọng nhất. Có thể khái quát cơ cấu hệ thống khoa cử thời phong kiến bằng sơ đồ dưới đây: (Xem hình 2) Hệ thống khoa cử Nho học được chia làm 3 cấp: thi Hương, thi Hội, thi Đình. Thi Hương là thi cấp địa phương (huyện, phủ); thi Hội là thi ở trung ương do triều đình tổ chức; thi Đình là kỳ thi do nhà vua trực tiếp đứng ra tổ chức, chấm thi và xếp loại. 17
  18. Muốn tham dự kỳ thi Hương, các sĩ tử trước hết phải qua một kỳ thi sát hạch gọi là khảo thí, được Lý trưởng ở địa phương xác nhận lý lịch và gửi danh sách lên hội đồng thi Hương. Thi Hương chia làm bốn trường, trong đó thí sinh phải đỗ đủ cả 4 trường đạt bậc Cử nhân trở lên mới được tham gia thi Hội, đỗ đầu gọi là Giải nguyên, đỗ bậc cao gọi là Cử nhân, đỗ bâc dưới gọi là Tú tài. Thi Hội được phân ra làm 4 trường, trong đó thí sinh phải đỗ cả 4 trường đủ điều kiện tham gia thi Đình. Thi đình không chia ra làm các trường như thi Hương, thi Hội nhưng phân ra thành nhiều cấp bậc đỗ đạt từ cao thấp như sau: - Đệ nhất giáp (hay còn gọi là Tam khôi) có 3 hạng: đỗ đầu là Trạng Nguyên, thứ đến Bảng nhãn, Thám hoa. - Đệ nhị giáp có một hạng duy nhất là Hoàng giáp. Đệ Tam giáp cũng có 3 hạng: Tiến sĩ suất thân, Đồng tiến sĩ suất thân, và cuối cùng là Phó bảng. (xem hình 2) Thực chất, khoa cử chỉ là một trong những loại hình đánh giá, gắn liền với việc phân biệt thứ hạng cao thấp thông qua hệ thống văn bằng, cấp bậc Ví dụ, trong hệ thống khoa cử Nho học tương đương với 3 cấp thi hương, thi hội, thi đình thì có 3 loại bằng cấp tiến sĩ, cử nhân, tú tài. Tuy nhiên, trong mỗi cấp lại phân ra thành các bậc cao thấp, đỗ cao nhất trong thi tiến sĩ thì gọi là Trạng nguyên, thứ đến là Bảng nhãn, Thám hoa. v.v . Giáo dục phong kiến đặc biệt đề cao khoa cử vì đây là biện pháp quan trọng bậc nhất để phát hiện và tuyển chọn hiền tài ra làm quan cai trị giúp vua giúp nước. Thái độ đề cao đối với giáo dục – khoa cử của các vua chúa phong kiến được sử sách ghi lại: Năm 1434, Lê Thánh Tông chiếu định phép thi hương và thi Tiến sĩ có đoạn: “Muốn có nhân tài trước hết phải chọn người có học, phép chọn người có học thì thi cử là hàng đầu” 1 1 Phan Huy Chú, Lịch Triều Hiến chương loại chí, Khoa Mục chí – TIII, tr10. 18
  19. Sắc dụ năm 1499 dưới thời Lê Hiến Tông chỉ ra rằng: “Nhân tài là nguyên khí của Nhà nước, nguyên khí mạnh thì thế đạo mới thịnh. Khoa mục là đường thẳng của quan trường, đường thẳng mở thì chân nho mới có. Cho nên đời xua mở khoa thi chọn người tài giỏi tất phải nghiêm ngặt về quy tắc trường thi, cẩn thận về việc dán tên giữ kín, có lệnh cấm không được bảo nhau nghĩa sách, không được viết thư trao đổi với nhau ”2 Hình 2. Hệ thống thi cử thời phong kiến(*) (THI VĂN) * Đệ nhất giáp: Tam khôi 1. Trạng Nguyên THITHI Đ ĐèÌNHNH 2. Bảng nhãn 3. Thám hoa * Đệ nhị giáp: Hoàng giáp * Đệ tam giáp: Đỗ 4 trường mới được 1. Tiến sĩ xuất thân vào thi Đình 2. Đồng tiến sĩ xuất thân 3. Phó bảng (từ thời Nguyễn) - Trường 4 THI HỘI - Trường 3 - Trường 2 - Trường 1 Đỗ Cử nhân mới được vào thi Hội + Đỗ đầu: Giải Nguyên + Đỗ bậc cao: Hương Công (Cử nhân) - Trường 4 + Đôc bậc dưới: Sinh đồ (Tú tài) - Trường 3 THI HƯƠNG - Trường 2 - Trường 1 2 Phan Huy Chú, Lịch Triều Hiến chương loại chí, Khoa Mục chí – TIII, Tr.13 (*) Nhà trường phổ thông Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử, Nguyễn Đăng Tiến, Nxb ĐHQG Hà Nội, 2001, Tr. 41 19
  20. Thế kỷ XIX, triều Nguyễn rất mực chú tâm phát triển giáo dục - khoa cử. Năm 1822, sau khi lên nối ngôi, vua Minh Mệnh có lời dụ về việc khoa cử như sau: “Khoa thi Hội này là khoa thi đầu tiên, là điển lễ quan trọng, các ngươi nên nhất mực công bằng, đừng phụ lời khuyên của trẫm”3. Tuy nhiên, thái độ đề cao khoa cử qúa mức đã làm cho nền giáo dục phong kiến bị hư hoại. Những hoạt động đóng góp về tư tưởng – học thuật không được chú ý tới, thay vào đó là thói háo danh, hữu danh vô thực. Khoa cử trở thành những nấc thang tiến thân của giới trí thức với nhiều tệ nạn sách vở, hư danh, kinh viện, xa rời thực tiễn giáo dục. Có thể coi đây là một trong những hạn chế có tính cố hữu của hệ thống giáo dục Nho học tồn tại dai dẳng ở nước ta trong suốt thời kỳ phong kiến. 1.3.2. Thời kỳ thuộc Pháp (1885 – 1945) Nếu như Quốc Tử Giám thành lập từ 1076 dưới thời Vua Lý Thánh Tông được coi là trường đại học đầu tiên của Việt nam ở thời kỳ phong kiến trên nền tảng của nền giáo dục Nho học gắn với quá trình tồn tại hàng ngàn năm của nền văn minh nông nghiệp lúa nước ở Việt Nam thì việc ra đời Đại học Đông Dương theo Nghị định của Toàn quyền Pôn Bô ký ngày 16/5/1906 được xem là trường đại học đầu tiên của Việt Nam (và của cả khu vực Đông dương) ở thời kỳ cận đại trong giai đoạn nước ta nằm dưới ách thuộc địa của thực dân Pháp. Đây là trường đại học đầu tiên của Việt Nam theo mô hình hiện đại của Pháp (Mô hình Châu âu) với nhiều chuyên ngành đào tạo về khoa học cơ bản, khoa học kỹ thuật, khoa học xã hội-nhân văn, luật, y-dược Về mặt trình độ và mô hình phát triển, đây được xem là thời kỳ đầu của nền văn minh công nghiệp ở Việt Nam với quá trình xây dựng và phát triển các cơ sở khai thác thuộc địa và công nghiệp chế biến trong khuôn khổ chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ở Việt Nam. Tuy trường Đại học Đông 3 Trích theo Phan Đại Doãn, Một số vấn đề về quan chế triều Nguyễn, Nxb. Thuận Hoá, 1997, Tr. 173 20
  21. dương được thành lập nhằm đào tạo một tầng lớp trí thức mới (Tây học) phục vụ mục tiêu thống trị, khai thác thuộc địa của thực dân Pháp nhưng về mặt phát triển thì đây là một bước ngoặt trong quá trình phát triển của mô hình giáo dục đại học Việt Nam. Sự kiện này đánh dấu sự cáo chung của nền giáo dục Nho học với việc bãi bỏ các kỳ thi Hội và thi Đình vào đầu năm 1919 khi Vua Khải định ký chỉ dụ bãi bỏ tất cả các trường chữ Hán cùng với hệ thống quản lý từ Triều đình đến cơ sở. Sự kiện trên mở đường cho việc hoàn thiện hệ thống giáo dục Pháp-Việt nói chung và hình thành một mô hình giáo dục đại học mới tiếp cận được với các thành tựu khoa học và công nghệ của nền văn minh công nghiệp Phương Tây thời bây giờ. Trong mô hình này, nội dung và phương pháp đào tạo đã được thay đổi căn bản. Ngoài các chuyên ngành về Văn chương, Luật cũng còn có các chuyên ngành đào tạo theo các ngành khoa học-công nghệ hiện đại ở các trường cao đẳng Khoa học, Y học; Công chính .v.v Điều 1 Nghị định về thành lập Trường Đại học Đông dương ghi rõ: “Trường đại học Đông Dương bao gồm một số trường cao đẳng cho sinh viên thuộc địa và các xứ lân cận. Trường sẽ dùng Tiếng Pháp để phổ biến những kiến thức khoa học và phương pháp nghiên cứu của người châu Âu “ Đây là vấn đề có ý nghĩa và giá trị lịch sử rất quan trọng trong mô hình phát triển giáo dục đại học với việc chuyên từ mô hình tổ chức hệ thống theo khoa cử, không có quy trình đào tạo chặt chẽ với phương pháp chủ yếu là thuyết giảng, tầm chương trích cú, nặng về văn sách sang mô hình tổ chức giáo dục đại học hiện đại (mô hình Châu âu ) có mục tiêu, tổ chức và quy trình đào tạo chặt chẽ với các lĩnh vực văn chương, khoa học và kỹ thuật.v.v. và lấy “phổ biến kiến thức khoa học kết hợp chặt chẽ với phương pháp nghiên cứu “. Tuy nhiên, do không được chuẩn bị đầy đủ các điều kiện về tổ chức quản lý, cơ sở vật chất, giáo viên, nội dung, chương trình giảng dạy đặc biệt là trình độ học sinh quá thấp và nguồn tuyển chọn khan hiếm do hệ thống giáo dục trung học 21
  22. chưa phát triển nên chỉ sau một năm trường đại học Đông Dương phải ngừng hoạt động. Phải đến khi Toàn quyên Xa rô ký Nghị định ban hành Bộ “Học chính tổng quy “vào ngày 21/12/1917 thì hệ thống giáo dục ở Việt nam theo mô hình Pháp mới được thành hình đầy đủ ở tất cả các bậc học của hệ thống giáo dục. Mô hình giáo dục đại học được củng cố tiếp tục phát triển từng bước với việc ra đời của Viện Đại học Đông Dương trên cơ sở cải tổ lại các trường hiện có và thành lập thêm một số trường mới như cao đẳng Luật và Pháp chính, Sư phạm, Công chính, Thương mại; Nông nghiệp . Mặc dù có sự phát triển mới về cơ sở đào tạo song quy mô đào tạo của Viện đại học Đông dương rất nhỏ bé. Trong niên khoá 1922-1923 số sinh viên chỉ có 436 người trong đó phần lớn ở ngành Y Dược (106) và Công chính (104 sinh viên).Tuy về hình thức là đào tạo ở bậc cao đẳng nhưng do hạn chế về trình độ sinh viên, thời gian học ngắn, chương trình đào tạo chưa hoàn chỉnh v.v nên tuy sinh viên tốt nghiệp cao đẳng nhưng trình độ thực chất chỉ là trung cấp. Giáo dục cao đẳng, đại học ở Việt Nam chỉ có bước phát triển mới về trình độ đào tạo và loại hình từ năm 1941 khi Nhà cầm quyền Pháp tái lập trường cao đẳng Thú y; thành lập trường cao đẳng Khoa học để đào tạo sinh viên lấy các chứng chỉ cử nhân khoa học như trường Đại học khoa học ở Pháp và nâng cấp các trường cao đẳng thành các trường đại học Y dược, đại học Luật khoa Đông Dương .v.v So sánh dân số nước ta năm 1942, cứ 1 triệu người thì có 38 người theo học bậc đại học và cao đẳng là một tỷ lệ học vấn thấp. Có thể nói sau gần 40 năm phát triển (1906-1945) nền giáo dục đại học Việt nam dưới thời Pháp thuộc tuy quy mô còn nhỏ bé do chính sách thực dân chủ trương ” Phát triển giáo dục theo chiều ngang” nhưng đã định hình khá đồng bộ các loại hình đào tạo chuyên gia ở bậc Đại học (chủ yếu là cao đẳng) trong khuôn khổ của mô hình đại học đa ngành là Trường Đại học Đông Dương hay Viện đại học Đông Dương. Mô hình trường Đại học Đông dương 22
  23. đã có sự liên kết bước đầu trong tổ chức giáo dục đại học tuy còn lỏng lẻo và có sự khác biệt lớn của các trường chuyên ngành. Mặc dầu có những hạn chế về mục đích, nội dung đào tạo nhưng mô hình Đại học Đông dương đã tạo ra được một giai đoạn mới trong lịch sử phát triển của giáo dục đại học Việt nam. Nhiều sinh viên của đại học Đông Dương đó trở thành những người tri thức dân tộc, yêu nước góp phần tích cực và sự nghiệp kháng chiến-kiến quốc và xây dựng nền giáo dục Đại học của nước Việt Nam mới sau cách mạng tháng 8 năm 1945 Sau đây là Sơ đồ hệ thống giáo dục Pháp - Việt hệ 13 năm được chính quyền bảo hộ áp dụng cho người bản xứ (xem hình 3) Hình 3. Hệ thống giáo dục thời cận đại (HỆ THỐNG GIÁO DỤC PHÁP - VIỆT DÀNH CHO NGƯỜI BẢN XỨ)(*) Cao đảng và Đại học Năm thứ 3 Tú tài 2 Trung học (Ban tú tài) Trung Năm thứ 2 Tú tài 1 học Năm thứ nhất Pháp Đệ tứ niên Bằng Vi ệt Cao đẳng Thành Đệ tam niên chung tiểu học Đệ nhị niên Đệ nhất niên Lớp nhất Bằng Tiểu cơ thuỷ Nhì đệ nhị học Pháp Nhị đệ nhất Bằng Việt Sơ lược Sơ đẳng Yếu học (*) Giáo dục Việt NamDự thời bị kỳ Cận đại, Phan Trọng Báu, Nxb KHXH, H, 1994, Tr. 159 Đống ấu 23
  24. 1.3.3. Thời kỳ 1945 -1975 a/ Giai đoạn 1945 – 1954 Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cuộc Cách mạng Tháng 8 năm 1945 thành công, thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Ngay sau khi lên nắm chính quyền, Nhà nước cách mạng phải tiếp quản di sản nền giáo dục đô hộ sau hơn 80 năm thuộc Pháp với nhiều khó khăn chống chất: Ngân khố trống rỗng, sự khác biệt trong chế độ giáo dục, hệ thống giáo dục giữa các vùng miền; đại bộ phận dân chúng thất học với hơn 95% dân số mù chữ Để khắc phục hậu quả nêu trên, trong sắc lệnh số 146/SL ngày 10/8/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "xây dựng nền giáo dục mới, nền giáo dục cách mạng với 3 nguyên tắc căn bản đó là: Đại chúng – Dân tộc - Khoa học." Đồng thời, hệ thống giáo dục mới được cơ cấu lại gồm 3 cấp học: bậc học cơ bản; bậc học tổng quát và chuyên nghiệp; bậc đại học. Cách mạng tháng 8/1945 thành công mở ra một trang sử mới trong qúa trình phát triển của nền giáo dục cách mạng Việt nam thời hiện đại. Ngay từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà mới ra đời, ngày 22/9/1945 với tư tưởng “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu” và kế thừa những giá trị tiến bộ chung của nhân loại, Hồ Chủ Tịch đã đề nghị với Hội đồng Chính phủ cho mở cửa lại các trường đại học hiện có (không xoá bỏ để xây mới hoàn toàn). Lễ khai giảng vào ngày 15/11/1945 tại Hội trường 19 Lê Thánh Tông của Trường Đại học Quốc gia Việt Nam – Trường đại học đầu tiên của nền giáo dục đại học cách mạng Việt Nam đã đánh dấu sự mở đầu của một kỷ nguyên giáo dục đại học dân tộc, hiện đại của nước Việt Nam độc lập. Khoá đào tạo đầu tiên của Trường Đại học Quốc gia Việt Nam bao gồm 5 ban: Y khoa, Khoa học, Mỹ thuật, Văn khoa và Chính trị xã hội trong đó các Ban Y khoa, Khoa học, 24
  25. Mỹ thuật về cơ bản kế thừa mô hình đào tạo đa lĩnh vực của trường Đại học Đông dương với những cải tổ lại cho phù hợp với sự phát triển của các lĩnh vực khoa học và công nghệ thế giới. Các Ban Chính trị xã hội và Ban Văn khoa được thành lập mới nhằm đào tạo đội ngũ tri thức phục vụ sự nghiệp phát triển của chế độ mới có khả năng giảng dạy và nghiên cứu một số chuyên ngành như Pháp luật, Chính trị, Hành chính, Triết học, Văn học, Lịch sử v.v. Đặc biệt tham gia giảng dạy tại Trường đại học Quốc gia Việt Nam có một số giáo sư, nhân sĩ, trí thức nổi tiếng của Đại học Đông Dương và một số cơ sở đào tạo, khoa học cũ như Giáo sư Nguyễn Văn Huyên, GS Nguỵ Như Kontum; Luật sư Vũ Đình Hòe; các học giả Đặng Thai Mai, Đào Duy Anh, Cao Xuân Huy, GS.Tôn Thất Tùng.v.v. Tham gia giảng dạy còn có các nhà cách mạng, trí thức tên tuổi như Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng v.v. Thành phần giáo chức của Trường Đại học Quốc gia Việt Nam thể hiện rực rỡ chính sách đại đoàn kết dân tộc, trọng dụng trí thức và người hiền tài không phân biệt nguồn gốc và thành phần xuất thân của Đảng và Nhà nước Việt nam Dân chủ Công hoà còn non trẻ do Hồ Chủ Tịch đứng đầu đề cùng nhau xây dựng nền giáo dục đại học Việt Nam tiến bộ và hiện đại. Ngày 19/12/1946 cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ, đặt ra cho giáo dục nước ta những nhiệm vụ mới: trong đó vừa phục vụ kháng chiến vừa góp phần vào công cuộc kiến quốc. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ đó làm gián đoạn sự phát triển của mô hình đào tạo đa lĩnh vực của Đại học quốc gia Việt Nam trong quá trình kháng chiến chống thực dân Pháp. Các cơ sở đào tạo theo các lĩnh vực Y khoa, Khoa học, Mỹ thuật v. v được sơ tán chuyển về các vùng tự do, khu căn cứ địa cách mạng để tiếp tục đào tạo đội ngũ trí thức, cán bộ khoa học có trình độ cao phục vụ sự nghiệp kháng chiến chống thực dân Pháp theo phương châm “Căn cứ vào nhu cầu của kháng chiến và điều kiện thực tế để mở trường. Phải sinh động về cấu tạo chương trình và quy định thời gian học, hình thức học, học đi đôi với hành “ Các cơ sở đào tạo đại học, cao đẳng thời kháng 25
  26. chiến đó thực sự trở thành những cơ sở đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ khoa học-kỹ thuật phục vụ công cuộc kháng chiến và các nhà khoa học, tri thức lớn cho các trường đại học sau này như đại học Sư phạm, đại học Y- Dược, đại học Bách khoa Hà Nội v.v Trong thời kỳ đầu (1946-1950) ngoài các cơ sở giáo dục đại học /cao đẳng đó có như trường ĐH Y; các trường Nông lâm, Công chính, Mỹ thuật, Thú y.v.v đã mở thêm 2 trường sư phạm cao cấp văn, sử, địa và lớp dự bị đại học ở Thanh hóa; trường Khoa học cơ bản và Sư phạm cao cấp ở Khu học xá Nam Ninh-Trung quốc.Từ 1953 đã hoàn toàn dùng tiếng Việt làm chuyển ngữ ở bậc đại học. Song song với việc tiến hành cuộc kháng chiến trường kỳ chống Pháp, nhận thấy nhu cầu cần phải chuyển đổi cơ cấu hệ thống giáo dục để phù hợp hoàn cảnh kháng chiến, tháng 5 năm 1950, TW Đảng và Chính phủ đã quyết định thông qua đề án tiến hành cải cách giáo dục lần thứ nhất. Mục tiêu của cuộc cải cách giáo dục năm 1950 là nhằm chuyển đổi cơ cấu hệ thống giáo dục, để phù hợp với điều kiện của cuộc kháng chiến. Trên cơ sở cơ cấu lại hệ thống của nền giáo dục quốc dân bao gồm 3 bộ phận: phổ thông – bổ túc văn hoá - chuyên nghiệp để thực hiện các nhiệm vừa khỏng chiến vừa sản xuất và xây dựng đất nước. Trong đó, chú trọng phát triển hệ Bổ túc văn hóa để tăng cường xóa nạn mù chữ. Trong giáo dục phổ thông, có một thay đổi quan trọng đó là: rút ngắn thời gian và chương trình đào tạo với việc áp dụng hệ giáo dục phổ thông 9 năm, gồm 3 cấp học như sau: - Cấp I (4 năm): lớp 1, 2, 3, 4 thay thế cho bậc tiểu học cũ - Cấp II (3 năm): lớp 5, 6, 7 thay thế cho bậc trung học cũ - Cấp III (2 năm): lớp 8, 9 thay thế cho bậc trung học chuyên khoa cũ Đặc biệt, do điều kiện chiến tranh, giảm bớt các kỳ thi chuyển cấp, cuối lớp 9 có một kỳ thi tốt nghiệp. Có sự quan hệ liên thông giữa 3 bộ phận phổ 26
  27. thông – chuyên nghiệp – bổ túc. Sau khi tốt nghiệp ở tất cả 3 bộ phận này đều theo học tiếp lên bậc cao đẳng và đại học. (xem hình 4) Hình 4. Hệ thống giáo dục quốc dân - năm 1950(*) CAO ĐẲNG VÀ ĐẠI HỌC DỰ BỊ ĐẠI HỌC (2 NĂM) CHUYÊN NGHIỆP TRUNG CẤP PHỔ THÔNG CẤP III (2 NĂM) TRUNG CẤP BÌNH DÂN PHỔ THÔNG CẤP II (3 NĂM) BỔ TÚC - ĐÀO TẠO NGHỀ BÌNH DÂN PHỔ THÔNG CẤP I - CN SƠ CẤP (4 NĂM) SƠ CẤP BÌNH DÂN VỠ LÒNG (1 NĂM) MẪU GIÁO b/ Giai đoạn 1956 – 1975 Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, trên thực tế đã tồn tại song song cả 2 hệ thống giáo dục, đó là: Hệ thống giáo dục tiểu học và trung học 12 năm của Pháp ở vùng tạm chiếm và Hệ thống giáo dục phổ thông 9 năm ở vùng tự do. Năm 1954, hòa bình lập lại ở miền Bắc, đứng trước nhu cầu thống nhất hệ thống giáo dục, tháng 3/1956, Đại hội giáo dục phổ thông toàn miền Bắc đã họp và thông qua đề án lập hệ thống giáo dục phổ thông mới 10 năm. Ngày 27/8/1956, Nghị định về hệ thống giáo dục mới hệ 10 năm (Xem Hình 5) đã (*) 50 năm phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo (1945 – 1995), Nxb GD, H, 1995, Tr. 431 27
  28. được Thủ tướng Chính phủ ký ban hành. Trong bậc đại học hình thành hệ thống các trường đại học và cao đẳng theo mô hình Liên xô (cũ) bao gồm các trường đại học Tổng hợp, các trường đại học chuyên ngành như Bách khoa, Y-Dược, Sư phạm, Nông-Lâm .v.v Ở Miền Nam hình thành hệ thống giáo dục đại học theo mô hình Mỹ với Viện đại học Sài gòn (1955); Viện đại học Huế (1957); Viện Đại học Cần thơ (1966) bao gồm nhiều cơ sở đào tạo đại học và cao đẳng và một số Viện đại học cộng đồng ở Nha trang, Mỹ tho, Đà nẵng.v.v Hình 5. Hệ thống giáo dục – theo cải cách năm 1956(*) ĐẠI HỌC VÀ CAO ĐẢNG 17 tuổi BTVH CẤP III (3 NĂM) THCN CẤP III 14 tuổi BTVH CẤP II (3 NĂM) DẠY NGHỀ CẤP II 11 tuổi CẤP I (4 NĂM) BTVH CẤP I VÀ 6 tuổi XOÁ LỚP VỠ LÒNG MÙ CHỮ 5 tuổi MẪU GIÁO Nhìn chung, về cơ cấu khung của hệ thống giáo dục quốc dân thời kỳ có một số thay đổi so với giai đoạn trước. Hệ thống giáo dục phổ thông, nâng từ hệ 9 năm lên hệ 10 năm bao gồm: Cấp I (4 năm): lớp 1, 2, 3, 4 Cấp II (3 năm): lớp 5, 6, 7 (*)(*) 50 năm phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo (1945 – 1995), Nxb GD, H, 1995, Tr. 432 28
  29. Cấp III (3 năm): lớp 8, 9, 10. Khôi phục lại các kỳ thi hết cấp, trong đó: Cuối cấp I, II: thi hết cấp Cuối cấp III: thi tốt nghiệp phổ thông. Đây là sự thay đổi, điều chỉnh đúng đắn và cần thiết để tiến tới hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân, đặt nền tảng giáo dục kịp thời phục vụ cho công cuộc xây dựng phát triển kinh tế - xã hội theo mô hình xã hội chủ nghĩa đang được tiến hành trên khu vực miền Bắc và cuộc đấu tranh thống nhất đất nước . c/ Giai đoạn 1975 – 1986 Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, tháng 11/1/1979, Bộ chính trị ĐCSVN đã thông qua Nghị quyết 14 về vấn đề cải cách giáo dục, xây dựng hệ thống giáo dục quốc dân mới thống nhất trong cả nước. Trong cuộc cải cách giáo dục năm 1979, cơ cấu khung của toàn bộ hệ thống gồm có các bậc sau: (xem hình 6) - Giáo dục mầm non: Nhà trẻ, mẫu giáo - Giáo dục phổ thông: Tiểu học, Trung học cơ sở, Trung học chuyên ban - Giáo dục chuyên nghiệp: Trung học chuyên nghiệp, Trường đạo tạo nghề - Giáo dục đại học: Cao đẳng, Đại học, Sau đại học - Giáo dục thường xuyên Cuộc cải cách giáo dục năm 1979, đã hoàn chỉnh hệ thống giáo dục bao gồm đầy đủ các bậc học: tiền học đường, tiểu học, trung học, đại học và sau đại học. Bậc trung học có sự liên thông giữa các loại hình trường Phổ thông trung học, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề và hệ Bổ túc Cấp II và III, nhằm nâng cao trình độ văn hoá lên bậc trung học cho mọi đối tượng xã hội. 29
  30. Cuộc cải cách lần này đề ra vấn đề cải cách giáo dục phổ thông hệ 10 năm nâng lên thành hệ 12 năm, bao gồm: - Câp I (5 năm, từ lớp 1 đến lớp 5) ; - Cấp II (4 năm (từ lớp 6 đến lớp 9) ; - Cấp III (3 năm (từ lớp 10 đến lớp 12); Thi tốt nghiệp phổ thông trung học, lần đầu tiên thống nhất bộ đề thi tốt nghiệp trong phạm vi cả nước, năm 1981 Như vậy, trong khoảng thời gian 10 năm, vừa phải tiến hành hàn gắn vết thương chiến tranh, vừa triển khai xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước, Đảng và Nhà nước vẫn có những chỉ đạo kịp thời, tiến hành những điều chỉnh, cải cách cần thiết để dần hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân. Hình 6: Hệ thống giáo dục - theo cải cách năm 1979(*) TIẾN SĨ PHÓ TIẾN SĨ ĐẠI HỌC VÀ CAO ĐẲNG (3 - 6 NĂM) 18 tuổi BẬC PTTH CẤP III (3 NĂM) THCN BTVH CẤP III 15 tuổi DẠY NGHỀ BTVH CÂP CẤP II (4 NĂM) II 11 tuổi BẬC PTCS BTVH CẤP I CẤP I (5 NĂM) VÀ XMC 6 tuổi 5 tuổi GIÁO DỤC MẦM NON (*) 50 năm phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo (1945 – 1995), Nxb GD, H, 1995, Tr. 433 30
  31. 1.3.4. Thời kỳ đổi mới (1986 –đến nay) Sau 10 năm đất nước hoàn toàn thống nhất, vấn đề xây dựng và phát triển kinh tế- xã hội đất nước trở thành một trong những mục tiêu hàng đầu. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển chúng ta cũng gặp nhiều khó khăn, khủng hoảng kinh tế do cơ chế quản lý quan liêu, bao cấp cũ không phù hợp với giai đoạn phát triển mới của đất nước. Công cuộc đổi mới năm 1986 do Đảng khởi xướng và lãnh đạo đã đưa nền kinh tế -xã hội nước ta nói chung và nền giáo dục cách mạng nói riêng bước sang giai đoạn phát triển mới. Cùng với công cuộc đổi mới toàn diện về kinh tế- xã hội, năm 1986, Đảng ta có chỉ đạo đối với ngành giáo dục và đào tạo thực hiện những bước đổi mới quan trọng trong hệ thống giáo dục. Theo Nghị định 90/ CP- 1992 quy định cơ cấu khung hệ thống giáo dục quốc dân cho ở hình 6 với chuyển đổi cơ bản cơ cấu trình độ đào tạo ở bậc đại học. (xem hình 7) Theo qui định tại Chương II Luật Giáo dục 1998 hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam bao gồm 4 loại hình giáo dục sau (xem hình 8): 1). Giáo dục mầm non thực hiện việc nuôi dưỡng chăm sóc giáo dục trẻ từ 3 tháng tuổi đến 6 tuổi. 2). Giáo dục phổ thông : bao gồm các bậc, cấp học sau: - Giáo dục tiểu học: 5 năm bắt buộc từ 6-11 tuổi. - Giáo dục THCS: 4 năm từ 11-15 tuổi. - Giáo dục THPT: 3 năm từ 15-18 tuổi. 3). Giáo dục nghề nghiệp bao gồm 2 loại: - Trung học chuyên nghiệp: 2- 4 năm. - Dạy nghề: 1-3 năm. - Đào tạo nghề < 1 năm 4) Giáo dục đại học và sau đại học bao gồm: - Cao đẳng 3 năm. 31
  32. - Đại học 4-6 năm. - Sau đại học : + Đào tạo thạc sĩ 2 năm. + Đào tạo tiến sĩ 2-3 năm. Song song với hệ thống giáo dục chính qui là loại giáo dục không chính qui bao gồm nhiều chương trình đào tạo từ chương trình xoá mù chữ, bồi dưỡng cập nhật nâng cao trình độ kiến thức, kỹ năng thường xuyên đến các chương trình giáo dục để lấy văn bằng của hệ thống giáo dục quốc dân theo hình thức vừa học, vừa làm, học từ xa, tự học có hướng dẫn. Về loại hình trường có các loại hình trường công lập và ngoài công lập như dân lập, tư thục, bán công ở các bậc mầm non, phổ thông, GD nghề nghiệp và đại học . Trong hệ thống giáo dục Việt Nam còn có các cơ sở đào tạo trẻ thiểu năng giáo dục chuyên biệt cho người tàn tật, các cơ sở giáo dưỡng cho nhiều đối tượng khác nhau. Luật giáo dục 2005 đã quy định cơ cấu khung mới của Hệ thống giáo dục quốc dân cho ở hình 7. Như vậy, từ sau công cuộc đối mới năm 1986, hệ thống giáo dục quốc dân nói chung và hệ thống giáo dục đại học nói riêng đã có những thay đổi đáng kể về cơ cấu bậc học và các loại hình đào tạo. Hệ thống giáo dục quốc dân đã từng bước được hoàn thiện và thống nhất trên phạm vi toàn quốc. Sự phát triển của hệ thống giáo dục đã tạo điều kiện thuận lợi cho chúng ta tiến hành hợp tác quốc tế để phát triển giáo dục nước nhà. Công cuộc Đổi mới, đem lại một diện mạo mới cho hệ thống giáo dục theo hướng hiện đại hoá, chuẩn hoá, dân chủ hoá và đa dạng hoá. Đây là những tiền đề cơ bản để hệ thống giáo dục Việt Nam phát triển theo kịp xu hướng toàn cầu đồng thời cũng là một thử thách lớn đối với công tác quản lý hệ thống giáo dục đại học 32
  33. Hình 7. Hệ thống giáo dục quốc dân 1993 (*) (THEO NGHỊ ĐỊNH 90/CP NGÀY 24/11/1993) ĐÀO TẠO TIẾN SĨ CAO HỌC Giáo GIAI ĐOẠN II CAO ĐẲNG ĐẠI HỌC (4 - 6 NĂM) (3 NĂM) GIAI ĐOẠN I dục 18 tuổ i TRUNG HỌC TRUNG HỌC TRUNG HỌC ĐÀO TẠO CHUYÊN BAN NGHỀ CHUYÊN NGHIỆP NGHỀ (3 NĂM) (3-4 NĂM) (3 - 4 NĂM) (1 -2 NĂM) 1518 tutuổổi i thường 15 tuổi TRUNG HỌC CƠ SỞ (4 NĂM) ĐÀO TẠO NGHỀ 11 tuổi (1 NĂM) 11 tuổi TIỂU HỌC (5 NĂM) 6 tuổi xuyên 6 tuổi MẪU GIÁO (3 NĂM) 3 tuổi NHÀ TRẺ 3-4 thỏng (*)50 năm phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo (1945 – 1995), Nxb GD, H, 1995, Tr. 435 33
  34. Hình 8 . Cơ cấu khung của hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam (*)1998 4. GIÁO DỤC ĐẠI HỌC SAU ĐẠI HỌC Đào tạo tiến sĩ 2-3 năm Cao học 2 năm Giáo Cao đẳng Đại học (3 years) Dục (4-6 years) 18 tuổi Không 2. GD PHỔ THÔNG 3. GD NGHỀ NGHIỆP chính qui Trung học 18 tuổi Trung học chuyên Dạy nghề phổ thông nghiệp (1-3 năm) ( 3 năm) (2-4 năm) 15 tuổi 15 tuổi Đào tạo nghề Trung học cơ sở (< 1 năm) 11 tuổi (4 năm) 11 tuổi Tiểu học (5 năm) 6 tuổi 1. GIÁO DỤC MẦM NON Mẫu giáo (3 năm) 6 tuổi 3 tuổi 3 tuổi 3- 4 tháng Nhà trẻ (1 năm) (*) Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI, Phạm Minh Hạc, Nxb CTQG, H, 1999, Tr. 54 34
  35. Hình 9. Cơ cấu khung của hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam ( theo Luật GD 2005 ) 4. GIÁO DỤC ĐẠI HỌC SAU ĐẠI HỌC Đào tạo tiến sĩ 2-3 năm Cao học 2 năm Giáo - Cao đẳng (3 năm) Đại học - Cao đẳng nghề Dục (4-6 years) ( 2 năm) 18 tuổi không 2. GD PHỔ THÔNG 3. GD NGHỀ NGHIỆP chính qui Trung học - Trưng cấp Trung cấp nghề phổ thông chuyên 18 tuổi ( phân ban ) - Sơ cáp nghiệp nghề (3 năm) (2-4 năm) 15 tuổi 15 tuổi Trung học cơ sở 11 tuổi (4 năm) 11 tuổi Tiểu học (5 năm) 6 tuổi 1. GIÁO DỤC MẦM NON Mẫu giáo (3 năm) 6 tuổi 3 tuổi 3 tuổi 3- 4 tháng Nhà trẻ (1 năm) 35
  36. CHƯƠNG II HỆ THỐNG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VÀ XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC ĐẠI HỌC THẾ GIỚI 2.1. Chuẩn phân loại quốc tế về giáo dục ( ISCED 97-UNESCO) Trong nhiều năm qua, để thực hiện công tác thống kê, phân tích và phân loại giáo dục quốc tế nói chung và các chương trình giáo dục nói riêng UNESCO đã nghiên cứu và đưa ra hệ thống chuẩn phân loại giáo dục quốc tế (ISCED). Hệ thống phân loại này đã được hoàn thiện qua nhiều năm và phiên bản 1997 là phiên bản mới nhất hiện nay. Theo ISCED 1997 Hệ thống giáo dục được phân thành 7 bậc từ Bậc 0 đến Bậc 6 ( xem bảng 1) Bảng 1. Bảng phân loại các bậc giáo dục ISCED 1997 Tiêu chí chính Tiêu chí phụ Bậc Giáo dục Bậc Dấu hiệu Tính giáo dục, Trình độ chuyên Giáo dục tiền Trường hoặc môn của giáo tiểu học trung tâm viên (Pre-primary 0 Không có Độ tuổi tối education) thiểu Độ tuổi giới hạn cao nhất Bắt đầu việc Vào các cơ sở Tiểu học học đọc, viết và hoặc chương (Primary làm tính có hệ trình giáo dục education) hay I Không có thống tiểu học quốc gia giai đoạn đầu của giáo dục cơ bản (Frist stage of basic education) 36
  37. Hinh thành các Vào học sau 6 Giáo dục trung Loại hình môn học tuổi học tiếp tục Hoàn thành và đã tốt nghiệp cơ sở định hướng đầy đủ các kỹ tiểu học. Kết thúc (Lower của năng cơ bản và chu kỳ sau 9 năm secondary) hay II chương trình đặt nền tảng kể từ khi bắt đầu là giai đoạn 2 cho giáo dục vào tiểu học của giáo dục bắt suốt đời Kết thúc giáo dục buộc (Second bắt buộc stage Giáo viên đứng of basic lớp bao gồm education) nhiều loại theo bộ môn Trình độ đầu Trung học phổ Loại hình vào thông giáo nhập học (Upper dục tiếp tục Yêu cầu tối secondary III Định hướng thiểu education) của chương nhập học trình Thời gian đào tạo tính từ khi bắt đầu ISCED bậc 3 Yêu cầu nhập Giáo dục sau Loại hình học trung học (Post giáo Nội dung secondary non dục tiếp tục Chương trình tertiarry IV Định hướng Tuổi education) của chương Thời gian đào trình tạo Thời gian đào tạo tính từ khi 37
  38. bắt đầu ISCED bậc 3 Yêu cầu nhập Giai đoạn đầu Loại chương học tối thiểu của giáo dục đại trình Loại văn bằng học Thời gian đào Thời gian đào (Fist stage of V tạo lý thuyết tạo tertiarry Cấu trúc hệ education) thống văn không dẫn trực bằng tiếp đến các văn và chứng chỉ bằng quốc gia nghiên cứu tương ứng Định hướng Đào tạo chuyên Giai đoạn 2 của nghiên cứu của gia có trình độ giáo dục đại học nội dung cao cho (Second stage of VI Không có Các luận văn và giảng dạy nghiên tertiarry khoá luận cứu education) Bậc IV. Giáo dục sau trung học và trước đại học Các chương trình ISCED 4 ở miền tiếp giáp giữa trung học bậc cao và giáo dục sau trung học theo quan niệm quốc tế hoặc theo quan niệm quốc gia là giữa trung học bậc cao và các chương trình sau trung học (hay là đại học) Các chương trình ISCED 4 theo nội dung thì không thuộc và nhóm các chương trình giáo dục đại học. Các chương trình này thường không nặng theo hướng ứng dụng như các chương trình ISCED 3, song chúng cung cấp một khối lượng tri thức rộng cho người học đã hoàn thành bậc III. Các chương trình được thiết kế để chuẩn bị cho sinh viên đã hoàn thành chương trình không định hướng ở bậc III vào học ở bậc V như các chương trình dự bị đại học, chương trình dạy nghề ngắn hạn. Chu kỳ 2 của các chương trình cũng 38
  39. bao hàm trong bậc này. Các tiêu chí phân loại như ở bậc III. Tuy nhiên chưong trình 4 năm trong đó có 2 năm ở bậc 3 thường được xếp ở bậc IV. Các chương trình có tính chuyên môn hoá, chi tiết hơn và tổ hợp hơn so với các chương trình trung học bậc cao. Đặc trưng bậc học này là: - Học sinh có độ tuổi lớn hơn bậc III - Thời gian qui đổi từ 6 tháng đến 2 năm Các định hưóng phân loại chưong trình : - Loại hình giáo dục tiếp tục và định hướng - Thời gian đào tạo qui đổi kể từ khi bắt đầu bậc III - Định hướng của chương trình Các loại chương trình ở bậc IV - Chương trình 4A để chuẩn bị lên học tiếp chương trình ISCED 5 A - Chương trình 4 B không định hưóng lên bậc V mà định hướng ra thị trường lao động Thời gian đào tạo được tính từ khi bắt đầu bậc ISCED 3. Các loại chưong trình bao gồm giáo dục phổ thông, tiền kỹ thuật và nghề nghiệp và kỹ thuật- nghề nghiệp. Bậc này bao gồm cả giáo dục người lớn như các khoá bồi dưỡng kỹ thuật, các khoá đào tạo phần mềm v.v Bảng 2. Bảng phân loại các chương trình ở bậc IV Loại chương trình Các Chương trình ISCED bậc 4 Hướng GD tiếp tục Lên ISCED bậc V Chưong trình không hưóng lên bậc V Kiểu chương trình ISCED 4A ISCED 4B 39
  40. Chương trình Định hướng học lên Các chương trình Chương Chuẩn bị trực tiép vào 5A trình 5B thị trưòng lao động, Thời gian 4 năm >4 năm Bậc V. Giai đoạn đầu của giáo dục đại học (Không hướng đến các trình độ nghiên cứu ứng dụng) Bậc này bao hàm các chương trình giáo dục đại học có nội dung giáo dục nặng về hướng ứng dụng hơn các chương trình ở bậc III và IV. Vào học các chương trình nay đòi hỏi phải hoàn thành các bậc 3A và 3B hoặc văn bằng ở bậc IV. Tất cả các văn bằng và chứng chỉ được phân loại theo loại chương trình, vị trí trong hệ thống văn bằng quốc gia và thời gian đào tạo. Các tiêu chí phân loại ở bậc học này là : - Yêu cầu tối thiểu nhập học là người học đã hoàn thành bậc 3A 3 B và 4A - Các chương trình bậc V không định hướng trực tiếp lên trình độ nghiên cứu ứng dụng ở bậc VI - Các chương trình tối thiểu phải có thời gian đào tạo 2 năm kể từ khi bắt đầu bậc V. Các căn cứ phân loại chưong trình ở bậc V. - Các chương trình đào tạo nghề nghiệp theo hướng lý thuyết hoặc chuẩn bị nghiên cứu và các chưong trình theo hướng thực hành, kỹ thuật - Các chương trình đào tạo toàn thời gian - Vị trí của chương trình trong hệ thống văn bằng, chứng chỉ quốc gia Theo căn cứ đầu tiên ở trên, sẽ phân loại chưong trình hưóng lý thuyết hoặc chuẩn bị nghiên cứu như lịch sử, triết học, toán.v.v. (Chương trình 5A) 40
  41. và các chương trình đào tạo nghề nghiệp với các yêu cầu cao về kỹ năng như y, nha khoa, kiến trúc.v.v. (chương trình 5B) Với xu hưóng tăng nhu cầu giáo dục đại học ở nhiều nước việc phân loại chương trình giáo dục theo loại dài hạn và ngắn hạn rất quan trọng. Các chương trình dài hạn có phần lý thuyết nhiều hơn và có thể hướng vào các chương trình nghiên cứu và nghề nghiệp với yêu cầu cao về kỹ năng. Các chương trình ngắn hạn thường hướng nặng vào thực hành. Cấu trúc tổ chức của các chương trình giáo dục đại học của các nước rất rộng nên không thể dùng một tiêu chí để phân định biên giới giữa chương trình 5A và 5B. Theo các tiêu chí yêu cầu tối thiểu để phân loại chương trình 5 A một chương trình không thoả mãn chỉ 1 tiêu chí thì không được đương nhiên xếp vào loại 5A. Nếu chương trình có nội dung giống một chương trình khác thoả mãn các tiêu chí 5A thì được xếp vào loại 5A. Các chương trình ISCED 5A là các chương trình thuộc giáo dục đại học nên có phần cơ sở lý thuyết rộng chuẩn bị cho các loại hình đào tạo nghiên cứu ứng dụng và nghề nghiệp với yêu cầu trình độ kỹ năng cao. Các chương trình này phải thoả mãn các tiêu chí sau: - Thời gian đào tạo tối thiểu quy đổi toàn phần là 3 năm. Thông thường là 4 năm hoặc hơn 4 năm. Nếu văn bằng chương trình 3 năm qui đổi tương đương toàn phần thì chúng phải dựa trên tối thiểu 13 năm học trước. Đối với hệ thống văn bằng theo tích luỹ học phần- tín chỉ thì cần so sánh thời gian và cường độ giảng dạy. - Chương trình bao hàm cả các chương trình nghiên cứu và luận văn tốt nghiệp - Chương trình cung cấp trình độ giáo dục đáp ứng yêu cầu lao động nghề nghiệp với kỹ năng cao và vào các chương trình nghiên cứu ứng dụng. Chương trình 5 B có trình độ lý thuyết thấp hơn 5A và chú trọng vào các kỹ năng nghề nghiệp chuyên môn để đi vào thị trường lao động. Một số 41
  42. chương trình 5B có thể có phần lý thuyết cơ bản. Nội dung chương trình 5B định hướng sâu vào thực tế và nghề nghiệp và được thiết kế chủ yếu cho người học có các kỹ năng thực tế nghề nghiệp để đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động. Sau khi hoàn thành chương trình này người tốt nghiệp có trình độ chuyên môn phù hợp với nghề nghiệp ở thị trường lao động. Các tiêu chí để phân loại chương trình 5B là: - Định hướng thực tế và nghề nghiệp rõ hơn chương trình 5 A và nói chung không chuẩn bị cho người học đi vào các chương trình nghiên cứu . - Thời gian đào tạo quy đổi tối thiểu là 2 năm nhưng thường thường là 2-3 năm. Đối với hệ thống văn bằng theo tích luỹ học phần- tín chỉ thì cần so sánh thời gian và cường độ giảng dạy. - Đối tượng nhập học đòi hỏi nắm vững các môn học chuyên môn ở các chương trình ISCED 3B và 4 A. - Đào tạo nghề nghiệp cho thị trường lao động. Về thời gian đào tạo: đối với các chương trình giai đoạn đầu của giáo dục đại học thời gian đào tạo lý thuyết thường là thời gian qui đổi toàn phần của chương trình từ khi bắt đầu bậc V. Đối với các chương trình đòi hỏi phải thực hiện trước một chương trình khác (đối chiếu với hệ thống văn bằng và trình độ đào tạo của từng nước ) thời gian đào tạo được tính thêm thời gian thời gian học thêm chương trình khác. Đối với các chương trình không rõ thời gian đào tạo ( bán thời gian hoặc linh hoạt) thì tính tương đương với chương trình có cùng nội dung. Các loại chương trình theo thời gian - Dưới 3 năm - Dưới 4 năm - Dưới 5 năm - Dưới 6 năm 42
  43. - Trên 6 năm Về phân loại các chương trình 5A và 5 B trong hệ thống văn bằng và chứng chỉ quốc gia bậc đại học ở từng nước, thời gian và nội dung đào tạo là dấu hiệu cơ bản để phân biệt các trình độ đào tạo ở các nước. Ví dụ ở một nước sinh viên học xong chương trình 3 năm (Bachelor degree) ở nước X được xem là có nghề nghiệp và có khả năng tiếp tục học lên trong khi đó ở nước khác học 5-6 năm mới ra làm việc do hệ thống đại học không chia làm 2 giai đoạn. Trong trường hợp này có thể coi họ đã có trình độ tương đương Master ở nước X. Cơ cấu văn băng và chứng chỉ phụ thuộc và cấu trúc hệ thống giáo dục từng nước .Ví dụ chương trình 5A tương ứng với văn bằng đầu tiên ở bậc đại học theo hướng lý thuyết và dẫn đến trình độ nghề nghiệp và trình độ giáo dục đại học. Văn bằng nghiên cứu có ở các nước có văn bằng nghiên cứu sau đại học như Master philosofy. Các chương trình nặng về lý thuyết có hướng lên bậc VI đều được xếp ở bậc 5A. Các văn bằng Bachelor degree ở các nước nói tiếng Anh, Diplom ở các nước nói tiếng Đức và Licens ở các nước nói tiếng Pháp đề đáp ứng các tiêu chí chung phân loại chương trình hướng lý thuyết đầu tiên ở bậc đại học. Các chương trình hướng lý thuyết ở giai đoạn 2 và cao hơn như Master degree của các nước nói tiếng Anh và Maitrise ở các nước nói tiếng Pháp cần được phân loại riêng khác với các chương trình và văn bằng nghiên cứu ứng dụng ở Bậc ISCED VI Các văn bằng và chứng chỉ với hệ thống phân loại khác nhau ở 2 nước có thể qui đổi theo nội dung giáo dục. Ví dụ như các chương trình dẫn đến tốt nghiệp hoặc bằng 2 ở nhiều nước nói tiếng Anh được phân loại ở bậc V giống như các văn bằng nghiên cứu dài hạn ở các nước nói tiếng Đức. 43
  44. Bảng 3. Phân loại chương trình và văn bằng Lý thuyết Bậc V Loại chưong trình Chương trình 5A Chương trình 5B Văn bằng Đại Học/ Bằng 2 / nghiên Trình độ 1/ Trình cứu độ 2 Bậc V bao gồn cả các chương trình nghiên cứu không ở trình độ tiến sĩ ) như các chương trình Master. Ở một số nước sinh viên vào học các chương trình nghiên cứu ứng dụng trực tiếp từ khi bắt đầu vào học đại học. Trong trường hợp này phần nghiên cứu ứng dụng được xếp vào bậc VI và nhưng năm đầu đại học được xếp vào bậc V. Các chương trình giáo dục người lớn qui đổi nội dung như bậc V thì được xếp vào bậc V Bậc VI. Giai đoạn 2 của giáo dục đại học Bậc này liên quan đến các chương trình đại học dẫn đến chứng nhận các trình độ nghiên cứu. Các chương trình được chia làm 2 loại nghiên cứu ứng dụng và nghiên cứu cơ bản. Các chương trình không dựa và việc tổ chức các khoá đào tạo Các tiêu chí phân loại sau : - Tiêu chí chính là phải có luận văn hoặc báo cáo khoa học kết quả nghiên cứu cơ bản và có đóng góp có ý nghĩa vào phát triển kiến thức - Các tiêu chí hỗ trợ là chủ yếu đào tạo chuyên gia cho các lĩnh vực giảng dạy và nghiên cứu ở các cơ sở đào tạo theo chương trình 5A Phạm vi của bậc này rất hạn chế không cần các định hưóng phân loại. Phần liên quan đến nghiên cứu ứng dụng ở các nước mà sinh viên bắt đầu học đại học đã có hướng trực tiếp vào các chương trình nghiên cứu ứng dụng thì xếp loại như ở trên. 44
  45. 2. 2. Đặc trưng giáo dục đại học một số nước 2.2.1. Hoa kỳ Hoa kỳ là một quốc gia có nền kinh tế và trình độ khoa học - công nghệ phát triển cao, dẫn đầu thế giới. Theo báo cáo phát triển con người năm 2005 của UNDP thu nhập đầu người (GDP/người/ năm) đạt 37.648 USD. Chỉ số HDI đạt 0,95 xếp hạng 6 trên tổng số gần 177 nước trên thế giới với dân số 292,6 triệu người (Năm 2005) Hoa kỳ là một quốc gia được xếp hạng ở nhóm các nước phát triển cao và có hệ thống giáo dục đặc thù của một nước có nền kinh tế thị trường, phát triển mạnh theo cơ chế phi tập trung hoá . Cơ cấu hệ thống giáo dục Hoa kỳ bao gồm các bậc học cơ bản như trước tuổi đến trường (Kindergartens); Tiểu học; Trung học và Đại học. Cơ cấu các loại hình trường ở các bậc học phổ thông rất đa dạng không thống nhất trong toàn quốc mà tuy thuộc vào từng Bang khác nhau.( xem hình 10) Bậc trước tuổi đến trường bao gồm các loại hình Nhà trẻ và Mẫu giáo từ 3-5 tuổi. Hàng năm có khoảng 1 triệu trẻ em vào Nhà trẻ và 3,4 triệu trẻ em vào Mẫu giáo. Bậc Cơ bản hay Tiểu học (Elementary hay Primary schools). Trẻ em Hoa kỳ nhập học lớp đầu tiểu học (Lớp 1) vào độ tuổi 6 tuổi. Hàng năm có khoảng 3,7 triệu trẻ em vào lớp 1. Bậc tiểu học bao gồm 6 năm ở phần lớn các bang và 4-8 năm ở các Bang khác tuy thuộc và cấu trúc mô hình các loại hình trường phổ thông ở từng Bang là 8-4; 4-4-4; 6-3-3; 6-6 v.v Bậc trung học là một bậc học với nhiều loại hình trường đa dạng với 3 nhóm chính. Nhóm thứ nhất là các trường Trung học bậc thấp (Junior High Schools) và tiếp nối là Trường trung học bậc cao (Senior High Schools). Nhóm thứ hai là nhóm các trường Trung học (Middle Schools) tiếp nhận học sinh hết lớp 4 và học tiếp 4 năm để vào trường Trung học bậc cao (High Schools ) với thời gian học 4 năm. Nhóm thứ ba là loại hình trường kết hợp 45
  46. (Combined Junior- Senior High Schools) với thời gian đào tạo là 6 nặm. Như vậy tuy có nhiều mô hình cấu trúc khác nhau ở các Bậc Tiểu học và Trung hoc phổ thông nhưng nhìn chung loại hình giáo dục phổ thông bao gồm 12 năm và kết thúc ở độ tuổi 17. Ở bậc Trung học không hình thành riêng hệ thống các trường phổ thông, kỹ thuật và nghề nghiệp như ở nhiều nước khác mà các hướng đào tạo này chủ yếu được thể hiẹn ở cấu trúc chương trình đào tạo theo các môn bắt buộc và các môn tự chọn. Các cơ sở đào tạo nghề chủ yếu hình thành ở các công ty, xí nghiệp với nhiều loại hình đào tạo trưc tiếp tại sản xuất. Bậc đại học bao gồm các Đai học (University) và Cao đẩng. Loại hình trường Cao đẳng như Cao đẳng cộng đồng (Community Colleges); Cao đẳng (Junior Colleges); Các trường cao đẳng kỹ thuật, nghề nghiệp (Voc/Tech Institutions). Hệ thống Đại học Hoa kỳ chủ yếu là các đại học đa lĩnh vực, đại học nghiên cứu (Research University) và có nhiều loại hình đào tạo khác nhau từ cử nhân (Bachelor degree ) đến Thạc sĩ (Masters degree ) và Tiến sĩ (Ph.D ). Trong hệ thống đại học còn có một số loại hình trường chuyên ngành ( Professional Schools) như trường Luật, Trường Y.v.v. 46
  47. Hình 10. Sơ đồ cấu trúc hệ thống giáo dục Hoa kỳ Đào tạo sau Tiến sĩ và Nghiên cứu (Postdoctora Study and Research ) Đào tạo Tiến sỹ Các trường chuyên Doctor s Degree Study ngành như Luật, Y Professional Schools (Medicine, Theology, Cao học (Master s Degree Study Law vv Các chương trình đào tạo đại học Các chương trình đào tạo đại học ( Undergraduate Programs) Các trường đào Cao đẳng cộng tạo KT-NN đồng (Community college) Trường trung Trường trung học bậc Trường cao trung tổng cao- 4 năm cao (Senior High hợp. 6 năm (High School Schools) 3 năm Combined Junior- -4 years Seniore High Schools 6 years Trường trung học bậc Trường thấp (Junior High sơ trung Schools) 3 năm 4 (Middle Schools) Các trường tiểu học 4 Các trường Tiểu học 6 năm năm. Primary sch Elementary (or Primary) Schools- 6 years Mẫu giáo (Kindengartens ) Nhà trẻ (Nursery Schools ) 47
  48. 2.2.2. Hà Lan Hà Lan là một nước thành viên trong Liên minh Châu Âu (EU) nằm ở khu vực Tây-Bắc Âu với diện tích 33,948 km, dân số 16,1 triệu người (năm 2001). Là một nước nhỏ về diện tích và dân số nhưng Hà Lan là một nước công nghiệp phát triển với kim ngạch thương mại chiếm 4% kim ngạch thương mại thế giới, thu nhập bình quân đầu người GDP/ người) đạt 25.657 USD năm 2001. Hà Lan được xếp thứ 8 (0,935) trên gần 200 quốc gia trên thế giới về chỉ số phát triển con người (HDI ) năm 2001. Cơ cấu kinh tế nang đặc trưng của một nước công nghiệp phát triển với tỷ trọng thương mai, dịch vụ chiếm 47%, công nghiệp 21%. Hà Lan là một nước có trình độ dân trí cao với trình độ phổ cập trung học và có khoảng 22% dân số từ độ tuổi 15-64 có trình độ đại học. Trong lực lượng lao động 8,5% có trình độ đại học,17% có trình độ cao đẳng nghề nghiệp (đào tạo nghề ở bậc đại học). Hệ thống giáo dục Hà Lan mang đặc trưng của mô hình các nước ở Tây Âu có truyền thống văn hoá lâu đời và đã sớm đi vào quá trình công nghiệp hoá. Hệ thống giáo dục Hà Lan là một hệ thống giáo dục tập trung nhà nước ở tất cả các bậc học và loại hình đào tạo. Hà Lan hầu như không có hệ thống trường tư như ở Anh, Mỹ và một số nước Châu Âu khác. Bộ Giáo dục, Khoa học và Văn hoá chịu trách nhiệm quản lý theo luật định tất cả các bậc học và loại hình đào tạo trừ một số chương trình đào tạo trong các lĩnh vực y tế và nông nghiệp do các Bộ chuyên ngành quản lý. Hiện đang có khuynh hướng tăng cường sự chế tài của hệ thống luật lệ của nhà nước đối với tất cả các bậc học và loại hình giáo dục. Cũng như nhiều nước khác, hệ thống giáo dục Hà Lan có các bậc học cơ bản như Tiểu học, Trung hoc, Đại học với nhiều loại hình giáo dục và đào tạo đa dạng. (xem hình 11) Bậc tiểu học : Trẻ em Hà Lan vào bậc Tiểu học bắt đầu từ 4 tuổi và tốt nghiệp Tiểu học ở độ tuổi 12 sau 7-8 năm học tập. Bậc tiểu học hoàn toàn do nhà nước tài trợ với kinh phí khoảng 3086 Ero/ năm cho 1 học sinh. Khoảng 48
  49. 1/3 trẻ em Hà Lan ở bậc tiểu học vào học ở hệ thống trường công (public school) do chính quyền địa phương quản lý. Khoảng 2/3 trẻ em vào học các loại hình trường tiểu học của các dòng đạo và tôn giáo khác nhau. Ở đó, trẻ em có học một số môn có liên quan đến các tôn giáo. Bậc trung học: ở Hà Lan, sau khi tốt nghiệp tiểu học, học sinh và cha mẹ học sinh lựa chọn các loại hình trường trung học khác nhau. Việc lựa chọn này cũng dã được định hình ở lớp cuối bậc tiểu học với sự định hướng của nhà trường. Trong 3 năm đầu bậc trung học, tất cả các loại hình giáo dục về cơ bản có chương trình các môn học như nhau (tương tự như trung học cơ sở ở các nước) sau dó mới phân luồng theo các loại hình giáo dục khác nhau như: Giáo dục nghề nghiệp (Vocational Education) : Bao gồm 2 giai đoạn cơ bản. Giai đoạn đầu gọi là giai đoạn giáo dục trung học định hướng nghề nghiệp (Preparatory Secondary Vocational Education). Giai đoạn này có 4 lĩnh vực nghề nghiệp diện rộng cơ bản như: Công nghệ, Y tế và bảo trợ xã hội; Kinh tế; Nông nghiệp. Sau khi tốt nghiệp giai đoạn trên, học sinh đi vào giai đoạn 2 được gọi là Giáo dục trung học nghề nghiệp (Senior Secondary Vocational Education ), Giai đoạn này được chia thành 4 trình độ đào tạo Bậc 1 đào tạo thợ phụ (assistant) với thời gian từ 6 tháng đến 1 năm. Bậc 2 đào nghề cơ bản với thời gian từ 2-3 năm. Bậc 3 đào tạo nghề bậc cao từ 3-4 năm. Bậc 4 đào tạo quản đốc từ 3-4 năm. Nói chung người học phải hoàn thành bậc trước mới được tiếp tục học ở giai đoạn sau. Người đã tốt nghiệp khoá đào tạo nghề bậc cao có thể theo học các khoá đào tạo chuyên môn từ 1-2 năm và sau tốt nghiệp khoá này hoặc khoá đào tạo quản đốc có thể tiếp tục theo học ở các trường đại học nghề nghiệp (HBO) Giáo dục trung học phổ thông bậc cao (HAVO). Đây là loại hình đào tạo ở bậc trung học nặng theo hướng thực hành với mục tiêu chính là chuẩn bị nguồn cho các loại hình đào tạo nghề nghiệp ở bậc đại học nghề nghiệp (HBO). Loại hình này có 4 lĩnh vực chính: tự nhiên và công nghệ; tự nhiên và 49
  50. y tế; kinh tế và xã hội; văn hoá và xã hội. Mỗi một lĩnh vực có các môn học chung như nhau ở các lĩnh vực; phần chuyên ngành và phần tự chọn. ; Post- PhD (IS) Post-HBO doctoraal Tiến sĩ programs programme and Các CT sau đại học N /N promotie Internati Open University University of Senio Secondary onal Univ Educational Professional Vocational Universi ersity 4-6Years (II) Education Education (MBO ty Đại Giáo dục đại (HBO) 4 ) Đ ại học học học. 4-6 years. Giáo dục trung qu ốc tế mở Năm GDDH nghề học nghề bậc cao University Senior General Preporatory Secondary Education Education (VWO) (HAVO) 5 years 6 years Giáo dục trung Giáo dục tiền học bậc cao Preparatory Secondry đại học 6 năm 5 năm Vocational Education (VMBO) Lớp chuyển Lớp chuyển tiếp Lớp chuyển tiếp tiếp Primary education (7- 8 years ) Giáo dục tiểu học (7- 8 năm ) Hình 11. Cấu trúc hệ thống giáo dục ở Hà Lan Nguồn: The Halan Handbook-2002-2003 50
  51. Giáo dục tiền đại học là một loại hình giáo dục trung học phổ thông có định hướng chính là tiếp tục lên các loại hình giáo dục đại học (University) với thời gian học là 6 năm. Loại hình này cũng có 4 lĩnh vực như trên nhưng chưong trình đào tạo được thiết kế nặng về các kiến thức lý thuyết cơ bản, hàn lâm. Giáo dục đại học Hà Lan đang trong quá trình chuyển đổi từ mô hình Tây Âu truyền thống sang mô hình Châu Âu hiện đại. Ở bậc giáo dục đại học có 3 loại hình đào tạo chính. Loại hình đào tạo tại các Đại học đa lĩnh vực ( University) với các chương trình đào tạo nặng hướng hàn lâm để đào tạo chủ yếu là các chuyên gia trong các lĩnh vực khoa học và nghiên cứu, đào tạo. Ngoài ra, loại hình này có một số chương trình đào tạo các ngành nghề xã hội như công nghiệp, kinh tế.v.v. Hiện Hà Lan có 14 đại học đa lĩnh vực (bao gồm đại học mở Heerlen) với qui mô đào tạo đại học khoảng 150.000 sinh viên. Qui mô mỗi Đại học khoảng từ 6000 đến 30.000 sinh viên. Loại hình thứ hai là các trường đại hoc nghề nghiệp (Higher Education Institutions) với các chương trình đào tạo nặng về hướng thực hành công nghệ và nghề nghiệp theo các chuyên ngành.Đây là loại hình đào tạo có qui mô lớn với khoảng 300.000 sinh viên ở hơn 50 truờng với nhiều chuyên ngành khác nhau. Loại hình này có một số trường có qui mô lớn lên dến 30.000 sinh viên. Loại hình thứ 3 là loại hình giáo dục quốc tế. Hà Lan có 15 trường giáo dục quốc tế với các chương trình đào tạo sau đại học ở nhiều lĩnh vực chuyên ngành khác nhau. Các khoá đào tạo được thực hiện bằng tiếng Anh và chưong trình đào tạo được thiết kế cho sinh viên nước ngoài. Điều kiện nhập học ngoài văn bằng học viên còn phải có một số năm kinh nghiệm công tác thực tế. Hệ thống văn bằng của các đại học (University) ở Hà Lan không theo hệ thống của Anh- Mỹ. Văn bằng chung cho tất cả các loại hình đào tạo ở các loại ngành nghề với thời gian khác nhau như 4 năm với các ngành phi công nghệ, 5 năm đối với các công nghệ, khoa học tự nhiên, toán, nông nghiệp, nha khoa., 6 năm đối với các ngành y-dược đều nhận văn bằng Tiến sĩ ( 51
  52. Doctoraal degree). Văn bằng này được tính tương đương như văn bằng Thạc sĩ của hệ thống văn bằng Anh-Mỹ. Sau văn bằng Doctoraal degree là Bằng Doctorate (Tương đương Bằng Ph.D hệ Anh-Mỹ ) được cấp cho nghiên cứu sinh 4 năm sau khi đã bảo vệ thành công Luận án quốc gia trước Hội đồng giáo sư. 2.2.3. Nhật Bản Nhật Bản- cường quốc kinh tế thế giới đã vươn lên từ đống tro tàn của cuộc chiến Thế giới thứ II với những nỗ lực phi thường và chiến lược phát triển khôn ngoan. Là một nước nghèo về tài nguyên thiên nhiên nên nhà cầm quyền Nhật Bản ngay từ thời cải cách của Minh trị (1868-1912) đã đặc biệt chú ý đến giáo dục nhằm phát triển nguồn vốn con người. Ngay từ đầu thế kỷ 20 (1900) Nhật Bản đã phổ cập giáo dục tiểu học. Giáo dục cơ bản ( Elementary Education) là giáo dục bắt buộc và miễn phí. Từ thập niên 70, Nhật Bản đã phổ cập giáo dục trung học bậc cao (upper secondary education) cho học sinh trong độ tuổi. Đây là nền tảng vững chắc cho công cuộc phát triển giáo dục đại học Nhật Bản được bắt đầu từ sau Thế chiến thứ II và cho đến nay (2010) đã có khoảng gần 60% học sinh tốt nghiệp trung học tiếp tục theo học ở các trường cao đẳng, đại học. Giáo dục đại học Nhật Bản đã thực sự bước vào thời kỳ phát triển mới theo hướng hiện đại hóa, quốc tế hóa và đại chúng hóa với quá trình tập đoàn hóa được khởi động từ những năm 70 của thế kỷ 20 Hệ thống giáo dục đại học hiện đại của Nhật Bản được hình thành từ cuối thế kỷ 19 với sự ra đời của Đại học Tokyo (sau này được gọi là Đại học hoàng gia Tokyo) vào năm 1887. Các Đại học hoàng gia khác lần lượt được thành lập như Đại học Kyoto, Tohoku, Osaca Các đại học này là những đại học đa ngành được hình thành theo mô hình Đại học Châu Âu (mô hình Đức) với hệ thống quản lý hành chính tập trung mạnh ở cấp trường và quyền tự chủ 52
  53. (quasi-autonomous) về học chính của các đơn vị học thuật ( Khoa/Trung tâm). Ngoài các đại học hoàng gia, nhiều cơ sở giáo dục đại học của nhà nước, trường công của các địa phương (public local) và nhiều trường tư (private) cũng được tiếp tục thành lập trong thời gian sau chiến tranh. (Xem Bảng 4) Trước chiến tranh thế giới thứ II, hệ thống giáo dục đại học Nhật Bản được dặc trưng bởi hệ thống quản lý hành chính-tập trung (tuy không hoàn toàn) ở các trường nhà nước đặc biệt là các Đại học hoàng gia do các trường này nhận được nhiều đặc quyền ưu đãi về đội ngũ nhân sự, trang bị, đầu tư tài chính từ ngân sách nhà nước Hệ thống giáo dục đại học mới, hiện đại của Nhật Bản được hình thành từ sau khi kết thúc Thế chiến II theo mô hình Mỹ (America Model) với hệ thống đào tạo 4 cấp ở bậc đại học: cao đẳng, cử nhân, thạc sĩ và tiến sĩ. Đây là thời kỳ phát triển mạnh các loại hình đại học đa ngành, đa lĩnh lực ở các đại học lớn như Đại học Tokyo, Đại học Osaca.v.v đồng thời cũng là thời kỳ phát triển mạnh về số lượng và quy mô đào tạo đại học ở các đại học, trường đại học tư. Bảng 4 . Số lượng các cơ sở GD ĐH ở Nhật bản ( 1943) chia theo loại hình trường và loại hình sở hữu. Loại hình Đại học Các trường chuyên ngành Tổng số ( University) ( Specialíed Schools) ( Total) Trường hoàng gia 7 7 Natioal (Imperial Uni) Trường nhà nước 12 58 70 TW (Governmental ) Trường công địa phương 2 24 26 (Local public) Trường tư (Private ) 28 134 162 Tổng số 49 216 275 53
  54. Đến năm 1949, Hệ thống giáo dục đại học Nhật Bản đã có thêm 70 trường đại học quốc gia, 17 trường đại học công ở địa phương và 81 trường đại học tư cùng hàng trăm trường cao đẳng. Hệ thống các trường cao đẳng ( Junior College) cũng được mở rộng theo nhiều lĩnh vực như sư phạm, kỹ thuật, kinh tế v.v. Đặc biệt là từ năm 1961 đã hình thành loại hình cao đẳng công nghệ 5 năm (College of Techonogy) dành cho học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở (lower secondary schools). Cho đến nay, Nhật Bản đã có hơn một nghìn trường đại học và cao đẳng với hơn 3 triệu sinh viên trong đó phần lớn là ở loại hình trường tư. (xem bảng 5) Bắt đầu từ những năm 70 của thế kỷ 20, quy mô giáo dục đại học Nhật Bản đã tăng mạnh, mở đầu cho quá trình đại chúng hóa giáo dục đại học. Nếu như ở Hoa kỳ quá trình đại chúng hóa giáo dục đại học có vai trò lớn của hệ thống các trường cao đẳng cộng đồng (community college) thì ở Nhật Bản vai trò lớn thuộc về hệ thống các trường đại học, cao đẳng tư. Quy mô giáo dục đại học tăng lên khoảng 5 lần từ 1965 đến 2007. Tỷ lệ sinh viên trong độ tuổi vào đại học, cao đẳng tăng từ 10% (1960) lên khoảng 60% (2007). Số sinh viên nước ngoài học đại học ở Nhật Bản tăng mạnh từ khoảng 10.000 Sv (1983) lên 117.000 sv (2004) Bảng 5. Quy mô giáo dục đại học Nhật Bản phân theo loại hình trường ( 2004 ) Loại hình Số trường Số sinh viên Số giảng viên ( trường tư ) ( ở Trường tư ) ( ở trường tư ) Cao đẳng công nghệ 63 58.681 4.474 (College of ( 3 ) ( 2.296) ( 247 ) Techonogy) Cao đẳng (Junior College) 508 233.749 12.740 ( 451) ( 214.264) ( 11.082 ) Đại học (University) 709 2.809.323 158. 756 ( 542 ) ( 2.062.065 ) ( 86.683 ) 54
  55. Các trường đào tạo chuyên 3.443 791.540 40.675 ngành ( 3.228 ) ( 761.735 ) ( 37.902 ) (Special training Schools ) Khác với giáo dục cơ sở là giáo dục bắt buộc và miễn phí, giáo dục đại học Nhật Bản có mức học phí khá cao ở trường tư cũng như ở trường công. Ngoài số sinh viên được cấp học bổng của Chính phủ Nhật Bản để trang trải học phí, còn lại đều phải đóng học phí theo mức thu của từng trường phù hợp với khung quy định chuẩn của Bộ Giáo dục, Văn hóa, Thể thao, Khoa học và Công nghệ (METX) nhưng không được vượt quá 10%. Ví dụ trong năm 2007 mức thu học phí của Đại học Hiroshima là 535.800 Yên/năm cho bậc cử nhân và thạc sĩ. Phí tuyển sinh đầu vào là 282.000 Yên. Cơ cấu tài chính cho giáo dục đại học công (trung ương và địa phương ) bao gồm khoảng cấp từ ngân sách nhà nước theo hình thức trọn gói (lump sum) chiếm khoảng 50-55%; phần thu từ học phí, lệ phí tuyển sinh không lớn ( khoảng 10-15%) còn lại khoảng 25-30% là được hình thành từ các nguồn thu nhập khác của nhà trường như thu từ các hợp đồng dịch vụ nghiên cứu khoa học-công nghệ với các doanh nghiệp; các hợp đồng dự án trong nước và quốc tế; dịch vụ công đồng (ví dụ như thu từ hoạt động của các cơ sở giáo dục thực hành và bệnh viện của đại học Hiroshima). Cơ cấu chi ở các trường đại học công bao hàm khoảng 50-55% chi cho con người (lương bổng và chế độ phụ cấp cho giảng viên, nhân viên, sinh viên ); khoảng 20% chi cho các hoạt động giáo dục và đào tạo thường xuyên. Đối với các trường tư nhà nước có chính sách hỗ trợ một phần kinh phí thông qua các khoảng trợ cấp và cho vay ưu đãi tuy theo nhu cầu và khả năng của từng trường trên cơ sở cạnh tranh chất lượng và đáp ứng các mục tiêu, yêu cầu phát triển quốc gia. Nhật Bản không tổ chức kỳ thi quốc gia tuyển sinh đại học. Học sinh tốt nghiệp phổ thông trung học sẽ phải qua hai vòng thi tuyển: vòng 1 do 55
  56. Trung tâm quốc gia truyển sinh đại học tổ chức (sơ tuyển); vòng 2 do từng đại học tổ chức theo yêu cầu của từng Khoa/Ngành đào tạo ở nhà trường. Do kết quả của quá trình giảm tỷ lệ sinh trong nhiều thập niên vừa qua nên trong một vài năm gần đây và hiện nay số học sinh thi tuyển vào đại học giảm đáng kể. Ví dụ mùa tuyển sinh đầu năm 1/2008 số lượng thí sinh nộp đơn đăng ký dự tuyển là 543.385 giảm khoảng 10.000 người so với năm 2007. Xu hướng trên đang gây lo ngại cho nhiều trường cao đẳng/ đại học công và tư ở Nhật Bản đang phải đối mặt với tình hình giảm nguồn đầu vào cao đẳng/đại học ở trong nước. Trong tinh hình đó, với chính sách quốc tế hóa hệ thống giáo dục, Nhật Bản chủ trương đẩy mạnh việc thu hút sinh viên quốc tế theo học và mời các Giáo sư nước ngoài tham gia giảng dạy và nghiên cứu tại các trường cao đẳng và đại học. Từ năm 1983 Chính phủ Nhật đã chủ trương tăng số sinh viên quốc tế từ 10.000 lên khoảng 100.000 vào những năm đầu thế kỷ 21 (Kế hoạch Nakasone). Đến năm 2004 số sinh viên nước ngoài đã tăng lên con số 117.302 sinh viên trong đó có khoảng 10% là theo tài trợ của Chính phủ Nhật qua các kênh tài trợ khác nhau. Trong đó có phần dáng kể là sinh viên bậc sau đại học (Thạc sĩ và Tiến sĩ). Số lượng sinh viên nước ngoài theo học tại các trường đại học Nhật Bản tăng nhanh trong những năm gần đây (2007) đặc biệt là từ các nước Châu Á như Trung quốc có khoảng 71.277 sv chiếm khoảng 66% tổng số sinh viên nước ngoài; Hàn quốc có 17.274 sv; Thái lan có 2.090 sv; Malaisia có 2.146; Việt Nam có 2.582 sv; Hoa kỳ có 1.805 sv Các ngành học của sinh viên quốc tế rất đa dạng trong đó chủ yếu là Tiếng Nhật; Phát triển quốc tế, Môi trường; Công nghệ, Kinh tế và quản trị .v.v. Phần lớn các chương trình đào tạo sau đại học cho sinh viên quốc tế ở các trường cao học (Graduate School) đều theo chương trình Tiếng Anh và có các Giáo sư thỉnh giảng (Visiting Professor) nước ngoài tham gia giảng dạy và hướng dẫn nghiên cứu. 56
  57. Để đáp ứng nhu cầu phát triển của Nhật Bản trong những thập niên cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21, từ những năm 80 của thế kỷ 20 Nhật Bản đã tiến hành cải cách hệ thống giáo dục đại học. Đây là cuộc cải cách sâu rộng nhất về giáo dục kể từ sau khi kết thúc thế chiến II. Năm 1984 Hội đồng cải cách giáo dục được thành lập và sau đó đến 1987 là Uỷ ban đại học trực thuộc Thủ tướng Nhật Bản đã được thành lập. Ủy ban giáo dục đại học đã đưa ra những khuyến cáo về cải cách giáo dục đại học nhằm đáp ứng những biến đổi nhanh chóng của đời sống kinh tế-xã hội Nhật Bản hiện đại và môi trường quốc tế với các đặc điểm sau: 1. Những tiến bộ nhanh chóng về nghiên cứu khoa học và những thay đổi cơ bản về nguồn nhân lực đặc biệt là nhân lực trình độ cao. 2. Xu hướng tăng nhanh quy mô và nhu cầu giáo dục đại học và tính đa dạng của cơ cấu sinh viên 3. Sự tăng cường nhu cầu học suốt đời và những kỳ vọng ngày càng tăng của xã hội vào giáo dục đại học Uỷ ban cải cách giáo dục đại học đã khuyến nghị nhiều biện pháp để mở rộng và nâng cao chất lượng giáo dục đại học đặc biệt là các loại hình đào tạo sau đại học (graduate schoos); cải cách và nâng cao hiêu quả công tác quản lý giáo dục đại học; cải cách cấu trúc và nội dung, chương trình đào tạo đại học (đại cương và chuyên nghiệp) theo hướng tăng tính tự chủ và tính chất riêng của các trường đại học; đưa ra các tiêu chuẩn thành lập trường đại học và hệ thống đào tạo theo tín chỉ ở bậc đại học v.v Vào năm 1998 Uỷ ban giáo dục đại học đã đưa ra Bản báo cáo về “ Tầm nhìn giáo dục đại học trong thế kỷ 21 và các biện pháp cải cách cho tương lai “ với các nội dung cơ bản sau: 1. Nâng cao chất lượng giáo dục và nghiên cứu với định hướng khuyến khích, nuôi dưỡng năng lực tìm kiếm và sáng tạo 57
  58. 2. Bảo đảm tính tự chủ của các trường đại học bằng việc hình thành một hệ thống cấu trúc mềm dẻo, linh hoạt trong đào tạo và nghiên cứu 3. Hình thành hệ thống quản lý và quản trị đại học với trách nhiệm của từng cơ sở đại học trong việc ra quyết định và tổ chức thực hiện 4. Cá biệt hóa các trường đại học (individualise universities) và tiếp tục năng cao chất lượng nghiên cứu và đào tạo thông qua hệ thống đánh giá nhiều bên. Qua hơn nửa thế kỷ tái cấu trúc hệ thống giáo dục đại học (1945- 2010) và đặc biệt là các chính sách và biện pháp cải cách giáo dục đại học từ 1984 cho đến nay, hệ thống giáo dục đại học Nhật bản đã có những thay đổi cơ bản cả về cấu trúc hệ thống, loại hình, quy mô và trình độ đào tạo. Nhật Bản đã có một hệ thống giáo dục đại học ngang tầm quốc tế với khả năng cạnh tranh quốc tế ngày càng cao, đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội hiện đại Nhật Bản trong thế kỷ 21. Những kinh nghiệm của Nhật Bản rất có giá trị và ý nghĩa đối với Việt Nam trên các bình diện sau đây: 1. Cải cách giáo dục đại học là một công việc khó khăn, lâu dài cần có tầm nhìn xa, sáng suốt trong hoạch định chính sách phù hợp với xu hướng phát triển chung và kiên trì, kiên quyết trong tổ chức thực hiện từng bước. 2. Chính phủ và các Bộ ngành hữu quan có vai trò quyết định trong tiến trình cải cách trên cơ sở các khuyến nghị của các tổ chức tư vấn (như Uỷ ban giáo dục đại học trực thuộc Thủ tướng). Cải cách giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng không là việc riêng của ngành giáo dục. 3. Việc đổi mới mô hình quản lý đại học không phải chỉ riêng của Bộ giáo dục mà cần đặt trong quá trình cải cách quản lý hành chính quốc gia (có liên quan đến Chính phủ và Bộ nội vụ & quản lý công) 4. Sớm hình thành các đại học đa ngành, da lĩnh vực ở các khu vực trên cơ sở quy hoạch và đầu tư khu đại học để tạo môi trường thuận lợi (đất đai, 58
  59. cơ sở vật chất, đội ngũ giảng viên, chương trình đào tạo) cho phát triển GD đại học ngang tầm quốc tế 5. Tập đoàn hóa giáo dục đại học, phát triển các đại học đa ngành, đa lĩnh vực là môt xu hướng tất yếu (không chỉ đơn thuần là ghép các trường/cơ sở đại học với nhau) mà cần tổ chức, sắp xếp lại để tập trung đầu tư, tạo mối liên kết trên cơ sở tăng tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đại học. 6. Từng bước bãi bỏ cơ chế bao cấp nhà nước cho đại học công. áp dụng mô hình và phương pháp quản lý doanh nghiệp phù hợp với đặc điểm của đại học (doanh nghiệp tri thức ) nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và chất lượng đào tạo, nghiên cứu và hiệu quả đầu tư 7. Năng cao vai trò của các tổ chức chuyên môn, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội-nghề nghiệp, các tổ chức đánh giá độc lập (không nhất thiết là phải tổ chức tư nhân) trong đánh giá và kiểm định chất lượng giáo dục đại học thông qua đánh giá 3 bên. Phát huy vai trò của Hội đồng chức danh nhà nước trong các hoạt động đánh giá các trường đại học như kinh nghiệm Nhật Bản và Trung Quốc trong công tác này. 8. Tăng cường liên kết với đại học quốc tế (mời GS sang nghiên cứu và giảng dạy, bổ nhiệm chuyên gia nước ngoài vào các vị trí quản lý thích hợp, quốc tế hóa chương trình đào tạo, liên kết đào tạo.v.v 9. Cần có chính sách và chương trình quốc gia hỗ trợ để tăng số sinh viên Việt Nam sang học tập và nghiên cứu tại các trường đại học Nhật Bản theo các chuyên ngành thích hợp. Tranh thủ nguồn vốn ODA của Nhật Bản trong lĩnh vực đào tạo và phát triển nguồn nhân lực 59
  60. 2.2.4. Hàn Quốc Hàn Quốc là một quốc gia ở Đông Bắc Á, nằm giữa 33o - 43o vĩ độ Bắc, 124- 132 kinh tuyến Đông. Hàn Quốc có 5 ngàn năm lịch sử, hiện là một nước Cộng hoà Hiến pháp. Cả nước chia làm 16 đơn vị hành chính gồm: Thủ đô Seul, 6 thành phố lớn và 9 tỉnh.Về mặt chủng tộc, nhân dân Hàn Quốc là đồng nhất, sử dụng cùng một tiếng nói và chữ viết. Trong 5 thập kỉ gần đây, giáo dục Hàn Quốc phát triển mạnh và là lực lượng hàng đầu của sự phát triển quốc gia. Để chuẩn bị cho thế kỉ XXI, giáo dục Hàn Quốc đã xác lập các mục tiêu: nhân đạo, sự trong sạch, công nghệ thông tin, phúc lợi con người và tinh thần cởi mở. Giáo dục giúp cho mỗi trẻ em trở thành một con người tự lập với tinh thần độc lập, một con người sáng tạo độc đáo và một con người đạo đức với đạo đức vững chắc và tinh thần dân chủ. Hệ thống giáo dục đại học Hàn Quốc phát triển mạnh từ những năm 80 của thế kỷ 20 trong quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Điều 2 của Luật Đại học qui định các loại trường sau: 1) Cao đẳng và Đại học (Colleges and University) 2) Các trường Đại học Công nghiệp (Industrial Universities) 3) Các trường Đại học Giáo dục (Universities of Education) 4) Trường Cao đẳng (Junior Colleges) 5) Đại học mở quốc gia Korean (Korean National Open University) 6) Các trường Cao đẳng kỹ thuật (Technical Colleges) 7) Các trường Hỗn hợp (Miscellanous Schools) Thời gian học ở Đại học từ 4 đến 6 năm. Tất cả các trường đều trực thuộc Bộ giáo dục và phát triển nhân lực Hàn Quốc (MOEHRD). 60
  61. Để mở rộng quyền tự trị của các trường đại học và bình thường hoá giáo dục trung học bị lệ thuộc vào thi cử, năm 1998 Hàn Quốc đã công bố hệ thống thi tuyển mới được áp dụng từ 2002. Từng trưòng đại học được tự do xác định các tiêu chuẩn tuyển chọn của mình trong các chỉ số như kết quả hoạt động ở trung học, điểm thi trắc nghiệm khả năng học đại học CSAT (College Scholastic Ability Test) hay tự luận, bằng (licenses), thư giới thiệu. CSAT có 5 môn: tiếng Hàn, toán, khoa học xã hội, khoa học, ngoại ngữ (tiếng Anh) tập trung đánh giá khả năng xử lí trí tuệ và khả năng phân tích. CSAT được bổ sung thêm những môn tự chọn khác nhau theo xu hướng giảm các môn bắt buộc, tăng các môn tự chọn trong chương trình phổ thông mới, ví dụ ngoại ngữ 2 là một môn tự chọn từ 2001. Có 3 kỳ tuyển sinh: tuyển vào mọi lúc, kỳ tuyển sinh chính thức định kỳ, kỳ tuyển sinh thêm. Học sinh được phép nộp đơn vào học bao nhiêu trường cũng được. Nhà nước tăng cường giúp đỡ các trường đại học địa phương. Các trường trung học kĩ thuật vùng đổi thành các trường cao đẳng kĩ thuật, công nghệ với sự trợ giúp của chính phủ. Hệ thống các trường cao đẳng ngày nay là các trường 2 hoặc 3 năm, được khởi đầu từ 1979 bằng cách nhập các trường cao đẳng 2 năm và các trường trung học nghề 2-3 năm 61
  62. Hình 12. Hệ thống giáo dục Hàn Quốc Lớp Tuổi Đ 29 23 Học ại 28 22 27 21 26 20 25 19 Đh.Y Cao đ 24 18 6 năm ẳng Công nghiệp Mở 23 17 PhCĐ Sư Đ 22 16 ạimở học Các 21 15 trường ạm Đại Học 20 14 (4 năm) 1 2 19 13 Trung Giáo d H Trung 18 12 Học Trung Học Bậc cao Dạy Nghề 3 4 17 11 (3 năm) (3 năm) choụcng biệt những đặc 16 10 ọc 15 9 Trung Học Bậc thấp (3 năm) 14 8 6 7 8 13 7 Sơ H 12 6 10 ư 5 t ời ọc 10 4 Sơ Học (6 năm) ànt ật 9 3 8 2 7 1 9 6 Mẫu giáo (1-3 năm) 5 4 3 1. Cao đẳng dạy nghề bậc thấp 5. Trường Thương Mại bậc cao 2. Trường hỗn hợp 6. Trường Thương Mại 3. Trường chuyên 7. Trường chuyên biệt 8. Trường hỗn hợp 4. Trường Trung học hàm thụ 9. Tiền học đường 62
  63. Tuyển sinh cao đẳng Tuyển học sinh tốt nghiệp trung học và tương đương Thi tuyển dựa trên kết quả học trung học, CSAT, phỏng vấn và trắc nghiệm khả năng (Aptitude Test). Hiệu trưởng từng trường xác định trọng số từng tiêu chuẩn. Khoảng 50% chỉ tiêu dành cho những người tốt nghiệp trung học nghề cùng lĩnh vực, các thợ kỹ thuật được hệ thống chứng chỉ quốc gia cấp chứng chỉ và công nhận đã có kinh nghiệm sản xuất. Chương trình Được xây dựng trong mối liên kết công nghiệp – trường học. Việc đào tạo đặt trọng tâm vào công nghiệp với các phương pháp như bảng kế hoạch (planning sheet) hay bảng công việc (job sheet), đào tạo theo các đòi hỏi của chứng chỉ kỹ thuật quốc gia Các môn học được ghi theo số đơn vị giờ tín chỉ. Từng trường xác định độ dài của từng giờ tín chỉ, yêu cầu tối thiểu để được đánh giá, giờ tín chỉ chuẩn cho từng học kì và số giờ tín chỉ tối đa đạt được. Khuynh hướng chung là trọng số các môn nghề nghiệp tăng còn các môn đại cương giảm Hợp tác công nghiệp – cao đẳng Các hình thức hợp tác là: sinh viên đi thực tế, đào tạo giảng viên trong công nghiệp, công nhân công nghiệp đi học cao đẳng, các đề tài nghiên cứu chung, thành lập các tiểu ban hợp tác, xây dựng chương trình cao đẳng theo đòi hỏi của công nghiệp Phát triển nghề nghiệp của sinh viên tốt nghiệp Những người tốt nghiệp cao đẳng muốn học tiếp có thể được nhận vào trường 4 năm, trường Đại học mở thông qua cách tuyển riêng trong lúc thi bổ sung. Những người ra làm việc thì tỉ lệ nhận được việc làm tăng lên hàng 63
  64. năm, ví dụ tháng 4/2001 đạt 81%. Dự báo nhu cầu nhân lực có bằng cao đẳng sẽ tăng nên nhà nước Hàn Quốc chủ trương tăng đầu tư cho loại trường này. Năm 1999 Bộ GD và PTNNL đưa ra dự án cải cách Đại học trong chương trình quốc gia Trí tuệ Hàn Quốc 21 (Brain Korea 21) với mục đích cấu trúc lại hệ thống đại học cho thích hợp với thế kỷ XXI. Các mục tiêu chính là: - Củng cố các đại học tầm cỡ thế giới, là cơ sở sản sinh các ý tưởng khoa học và công nghệ sáng tạo, độc đáo. - Tăng cường tính cạnh tranh của các đại học địa phương. - Xây dựng các trường đại học nghề nghiệp để đào tạo nghề nghiệp trong các lĩnh vực. - Tạo môi trường để các trường đại học cạnh tranh với nhau không phải về tên gọi mà về chất lượng đào tạo và nghiên cứu. Chủ để nghiên cứu bao gồm 4 lĩnh vực: khoa học ứng dụng, KHXH và NV, khoa học bản địa Hàn Quốc và các lĩnh vực nghiên cứu mũi nhọn mới. Từ 1999 chính phủ HQ đầu tư 1,2 tỷ USD trong 7- 8 năm cho dự án này, ngoài ra còn thêm 285 triệu USD cho các đại học địa phương. Chính phủ mong đợi thông qua dự án này sẽ có 3 - 4 trường đại học đạt trình độ quốc tế trong lĩnh vực công nghệ cao. 2.2.5. Trung Quốc Sau hơn 30 năm (1978- 2010) thực hiện chính sách mở cửa, hội nhập quốc tế và hiện đại hoá giáo dục đại học, Trung Quốc đã và đang có những bước phát triển vượt bậc về mọi mặt đặc biệt là năng lực đào tạo, nghiên cứu và chuyển giao công nghệ hiện đại phục vụ sự nghiệp phát triển KT-XH, gắn nghiên cứu khoa học với đào tạo và chuyển giao công nghệ hiện đại. Các cơ sở giáo dục đại học Trung Quốc đặc biệt là các trường đại học trọng điểm như 64
  65. Đại học Bắc Kinh, Đại học Thanh Hoa .v.v đã và đang thực sự trở thành những trung tâm đào tạo và nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ hiện đại hàng đầu của Trung quốc. Với nhận thức vai trò và vị trí đặc biệt quan trọng của giáo dục đại học trong thời đại kinh tế tri thức, toàn cầu hoá và sự phát triển nhanh chóng của khoa học-công nghệ hiện đại, chiến lược phát triển giáo dục Trung Quốc nói chung và giáo dục đại học nói riêng được tập trung và các mặt sau:" - Phát triển chất lượng cao trên nền giáo dục đại học đại chúng Cũng như nhiều nước khác, việc chuyển đổi từ giáo dục đại học "Tinh hoa " sang một nền giáo dục đại học "đại chúng" là tất yếu. Qui mô đào tạo đại học tăng từ 2 triệu sinh viên (1980) lên gần 10 triệu sinh viên (2010). Dự kiến đến 2015 số sinh viên sẽ tăng lên đến 12,6 triệu người chiếm 15% trong độ tuổi từ 18-23. Cùng với phát triển qui mô, Trung Quốc tập trung đầu tư vào 10 trường đại học trọng điểm quốc gia với mục tiêu biến các trường đại học trọng điểm thành các trung tâm đào tạo nhân lực có chất lượng và trình độ cao (sau đại học). Đồng thời các trường này cũng là các trung tâm nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ hiện đại, có tác dụng làm đầu tầu cho sự phát triển hệ thống giáo dục đại học và có khả năng hội nhập và cạnh tranh cao trong quá trình hội nhập quốc tế đặc biệt là các lĩnh vực công nghệ hiện đại như công nghệ sinh học, thông tin, vật liệu mới và tự động hoá. Các cơ sở giáo dục đại học hàng đầu của Trung Quốc như đại học Bắc Kinh, Đại học Thanh Hoa đã và đang thực sự trở thành các trung tâm đào tạo, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ với hệ thống các viện nghiên cứu hàng đầu, cơ sở vật chất và các phòng thí nghiệm hiện đại, đội ngũ giáo chức có trình độ cao.v.v. Đồng thời, các đại học là người nắm giữ cổ phần hoặc sở hữu nhiều cơ sở nghiên cứu triển khai công nghệ (R&D) và doanh nghiệp lớn. 65
  66. - Định hướng thị trường và hội nhập quốc tế Trong bối cảnh Trung quốc phát triển mạnh kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước và vào WTO, hệ thống giáo dục đại học đã và đang phải đối mặt với nhu cầu nhân lực đa dạng và chiụ sức ép cạnh tranh mạnh mẽ cả trong nước và quốc tế. Trong bối cảch đó khả năng cạnh tranh của các trường đại học là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển. - Tăng tính tự chủ và tự chiụ trách nhiệm của các trường đại học. Trung Quốc đã và đang phát triển hệ thống bảo đảm chất lượng đáp ứng yêu cầu tăng tăng tính tự chủ và tự chiụ trách nhiệm của các trường đại học trong các hoạt động đào tạo, nghiên cứu và dịch vụ xã hội -. Các chính sách đòn bẩy cho phát triển GDDH Để thực hiện các mục tiêu chiến lược phát triển giáo dục đại học đặc biệt là mục tiêu nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ, gắn nghiên cứu khoa học với đào tạo và chuyển giao công nghệ của các trường đại học, Trung Quốc đã ban hành và thực thi hàng loạt các chính sách sau; - Khuyến khích các doanh nghiệp thành lập hoặc liên doanh để thành lập các phòng thí nghiệm ở các cơ sở đại học. - Khuyến khích các đại học tham gia phát triển các đặc khu kinh tế, vùng kinh tế trọng điểm - Thành lập các công viên khoa học, các khu công nghệ cao cạnh các trường đại học - Thành lập Quĩ đặc biệt thuộc Bộ Giáo Dục để hiện đại hoá các cơ sở công nghệ cao và các loại quĩ quốc gia khác để trợ giúp các cơ sở đại học trong các lĩnh vực khoa học tự nhiên, nghiên cứu cơ bản, công nghệ chủ chốt, sản xuất thử, tạo ra sản phẩm mới v.v - Thực hiện chính sách thu hút chuyên gia giỏi có trình độ cao ở nước ngoài về giảng dạy và nghiên cứu khoa học ở các đại học. Trong những năm qua Trung Quốc đã gửi ra nước ngoài học tập khoảng 66
  67. 800.000 sinh viên (chủ yếu ở các nước Mỹ và Tây Âu) và hiện có khoảng 200.000 người đã trở về nước làm việc trong đó có nhiều chuyên gia trình độ cao. Đồng thời cũng có hàng nghìn chuyên gia nước ngoài có trình độ cao được mời sang Trung quốc giảng dạy và nghiên cứu. Đã có khoảng 500.000 sinh viên các nước sang du học ở Trung quốc Một trong những khó khăn lớn mà các trường đại học Trung Quốc phải đương đầu là khả năng hạn chế của đội ngũ cán bộ quản lý và giảng viên trong các hoạt động quản lý đầu tư và kinh doanh, chuyển giao công nghệ. Để khắc phục tình trạng đó Trung quốc đã có chính sách tách quản lý kinh doanh khỏi quyền sở hữu các doanh nghiệp trong đại học. Trường đại học với tư cách là người góp vốn lớn nhất của doanh nghiệp trực thuộc sẽ kiểm soát Hội đồng quản trị doanh nghiệp và được hưởng lãi. Doanh nghiệp được quản lý bởi các nhà quản lý chuyên nghiệp và có tư cách pháp nhân riêng. Nhờ có các chính sách đủ mạnh mà trong thời gian qua Trung quốc dã đầu tư xây dựng được 20 công viên khoa học (Science Parks) và 100 phòng thí nghiệm trọng điểm với 140.000 chuyên gia. Năm 1997 các doanh nghiệp ở 35 trường đại học đã có lợi nhuận hơn 50 triệu NDT. Một số trường đại học trọng điểm đã có nguồn tài chính tự làm ra chiếm 50% thu nhập chung của trường. Kinh nghiệm Trung quốc chỉ rõ muốn gắn công tác NCKH với đào tạo và chuyển giao công nghệ ở các trường đại học cần có chiến lược phát triển phù hợp và một hệ thống chính sách đòn bẩy thúc đâỷ sự phát triển nhanh chóng và vững chắc hệ thống GD ĐH. 67