Giáo trình nội bộ Hát dân ca - Trường Cao đẳng Lào Cai

pdf 71 trang Gia Huy 21/05/2022 2010
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình nội bộ Hát dân ca - Trường Cao đẳng Lào Cai", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_noi_bo_hat_dan_ca_truong_cao_dang_lao_cai.pdf

Nội dung text: Giáo trình nội bộ Hát dân ca - Trường Cao đẳng Lào Cai

  1. UBND TỈNH LÀO CAI TRƯỜNG CAO ĐẲNG LÀO CAI GIÁO TRÌNH NỘI BỘ MÔN HỌC: HÁT DÂN CA NGÀNH: THANH NHẠC; BIỂU DIỄN NHẠC CỤ TRUYỀN THỐNG; ORGAN Lào Cai, năm 2019 1
  2. TUYÊN BỐ BẢN QUYỀN Tài liệu này thuộc sách giáo trình nên các nguồn thông tin có thể được phép dùng nguyên bản hoặc trích dùng cho các đào tạo và tham khảo. Mọi mục đích khác mang tính lệch lạc hoặc sử dụng với mục đích kinh doanh thiếu lành mạnh sẽ bị nghiêm cấm. 2
  3. LỜI NÓI ĐẦU Dân ca là những bài hát cổ truyền do nhân dân sáng tác, được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác và được nhân dân ca hát theo phong tục tập quán của từng địa phương, từng dân tộc. Dân ca là những bài hát, khúc ca được sáng tác và lưu truyền trong dân gian mà không thuộc về riêng một tác giả nào. Đầu tiên bài hát có thể do một người nghĩ ra rồi truyền miệng qua nhiều người, từ đời này qua đời khác và được phổ biến ở từng vùng, từng dân tộc Các bài dân ca được gọt giũa, sàng lọc qua nhiều năm tháng bền vững cùng với thời gian. Do chính người dân lao động tự sáng tác theo tập quán, phong tục. Trong sinh hoạt cộng đồng người quần cư trong vùng đất của họ, thường trong làng xóm hay rộng hơn cả một miền. Các làn điệu dân ca thể hiện phong cách bình dân, sát với cuộc sống lao động mọi người. Các dịp biểu diễn thường thường là lễ hội, hát làng nghề. Thường ngày cũng được hát lên trong lao động để động viên nhau, hay trong tình yêu đôi lứa, trong tình cảm giữa người và người. Việt Nam là đất nước phong phú về văn hoá, với hơn 54 dân tộc anh em cùng sinh sống. Dân ca mỗi dân tộc, tỉnh thành của Việt Nam lại có âm giọng và ca từ khác nhau nên dân ca cũng có thể phân theo tỉnh nhưng gọi chung cho dễ gọi vì nó cũng có tính chung của miền bắc, miền Trung, miền Nam. Tring bối cảnh của thời kì hội nhập và toàn cầu hóa, khi mà sự giao thoa và tiếp biến các giá trị văn hóa nói chung và văn hóa dân gian nói riêng đã tạo nên những trào lưu mới trong xã hội, và cũng tạo nên những ảnh hưởng không ít tới sự hình thành và phát triển những nét tâm lý, tính cách của thế hệ trẻ. Chính vì vậy, giáo dục âm nhạc truyền thống, trong đó có dạy hát dân ca hình thành cho thế hệ trẻ những tình cảm đúng đắn với âm nhạc nói chung, với âm nhạc truyền thống nói riêng và để hình thành nhân cách của con người Việt Nam chân chính. học hát các làn điệu dân ca sâu lắng mượt mà người học có thể cảm nhận được vẻ đẹp của quê hương, đất nước, tình cảm giữa người với người. Bên cạnh đó, việc thấm nhuần các giai điệu dân ca còn giúp người sinh không chỉ biết thưởng thức cái đẹp mà vận dụng vào chuyên ngành khi xử lý, diễn tấu các bài bản có âm hưởng dân ca, biết sáng tạo, từ đó hình thành nên những người có năng lực sáng tạo về nghệ thuật và có khả năng đem cái đẹp vào đời sống trên mọi phương diện, học tập, lao động, ứng xử Giáo trình Hát dân ca chỉ lựa chọn một số bài dân ca tiêu biểu của một số dân tộc, vùng miền trải dài từ bắc tới nam. Cấu trúc mỗi bài đều có 2 phần là giới thiệu một số nét văn hoá dân tộc hoặc địa phương liên quan đến bài dân ca và phần 2 là hướng dẫn thực hành. Trong quá trình biên soạn, chúng tôi đã cố gắng tìm hiểu chọn lọc các nội dung chính xác, ngắn gọn. Tuy nhiên giáo trình vẫn chưa thể hoàn hảo, vì vậy rất mong ý kiến phản hồi của chuyên gia và người học để giáo trình hoàn thiện hơn. Lào Cai, năm 2019 Người biên soạn Lê Quang Chiến 3
  4. MỤC LỤC Bài 1. Dừng chân (dân ca Mông) 8 1. Lý thuyết 8 1.1. Khái quát về dân tộc 8 1.2. Một vài đặc điểm về bài dân ca 12 2. Thực hành 13 3. Hướng dẫn tự học 14 Bài 2. Mưa rơi (dân ca Xá) 15 1. Lý thuyết 15 1.1. Khái quát về dân tộc La Chí 15 1.2. Một vài đặc điểm về bài dân ca 18 2. Thực hành 19 3. Hướng dẫn tự học 20 Bài 3. Soi bóng bên hồ (Dân ca Giáy) 21 1. Lý thuyết 21 1.2. Một vài đặc điểm về bài dân ca 23 2. Thực hành 24 3. Hướng dẫn tự học 25 Bài 4. Inh lả (Dân ca Thái) 26 1. Lý thuyết 26 1.1. Khái quát về dân tộc Thái 26 1.2. Một vài đặc điểm về bài dân ca 29 2. Thực hành 29 3. Hướng dẫn tự học 30 Bài 5. Bà rằng bà rí (Dân ca Phú Thọ) 31 1. Lý thuyết 31 1.1. Khái quát về dân tộc 31 1.2. Một vài đặc điểm về bài dân ca 35 2. Thực hành 35 3. Hướng dẫn tự học 36 Bài 6. Bèo dạt mây trôi (Dân ca Quan họ) 37 1. Lý thuyết 37 1.1. Khái quát về dân ca Quan họ 37 1.2. Một vài đặc điểm về bài dân ca 39 2. Thực hành 39 4
  5. 3. Hướng dẫn tự học 40 Bài 7. Đi cấy (Dân ca Thanh Hóa) 41 1. Lý thuyết 41 1.1. Khái quát về văn hoá tỉnh Thanh Hoá 41 1.2. Một vài đặc điểm về bài dân ca 46 2. Thực hành 47 3. Hướng dẫn tự học 48 Bài 8. Tát nước đêm trăng (Dân ca Chăm) 49 1. Lý thuyết 49 1.1. Khái quát về dân tộc 49 1.2. Một vài đặc điểm về bài dân ca 52 2. Thực hành 52 3. Hướng dẫn tự học 53 Bài 9. Ru em (Dân ca Xơ Đăng) 54 1. Lý thuyết 54 1.1. Khái quát về dân tộc 54 1.2. Một vài đặc điểm về bài dân ca 56 2. Thực hành 56 3. Hướng dẫn tự học 57 Bài 10. Lý thương nhau (Dân ca Nam trung bộ) 58 1. Lý thuyết 58 1.1. Khái quát về văn hoá Nam Trung bộ 58 1.2. Một vài đặc điểm về bài dân ca 60 2. Thực hành 60 3. Hướng dẫn tự học 61 Bài 11. Lý dĩa bánh bò (Dân ca Nam bộ) 62 1. Lý thuyết 62 1.1. Khái quát về văn hoá vùng Nam bộ 62 1.2. Một vài đặc điểm về bài dân ca 65 2. Thực hành 65 3. Hướng dẫn tự học 66 Bài 12. Lý chiều chiều (Dân ca Nam bộ) 67 1. Lý thuyết 67 1.1. Một vài đặc điển văn hoá Nam bộ 67 1.2. Một vài đặc điểm về bài dân ca 70 2. Thực hành 70 5
  6. 3. Hướng dẫn tự học 71 6
  7. GIÁO TRÌNH MÔN HỌC Tên môn học: Hát dân ca Mã môn học: MH28 Vị trí, tính chất, ý nghĩa và vai trò của môn học Vị trí: Sau khi hoàn thành môn Lý thuyết âm nhạc 1; Ký xướng âm 1 Tính chất: Môn học thuộc khối kiến thức, kỹ năng chuyên môn Mục tiêu môn học Sau khi học xong môn này, người học có khả năng: Kiến thức: kể tên được một số bài dân ca thuộc các vùng miền; trình bày được đặc điểm một số bài dân ca. Kỹ năng: Hát được các bài dân ca trong giáo trình. Năng lực tự chủ và trách nhiệm: Người học biết cách tìm hiểu và phương pháp hát các bài dân ca không năm trong chương trình học. Yêu thích dân ca Việt Nam. NỘI DUNG CHI TIẾT CỦA GIÁO TRÌNH: 7
  8. Bài 1. Dừng chân (dân ca Mông) MỤC TIÊU: Sau khi học xong bài này, người học có khả năng: - Kiến thức: trình bày được một số đặc điểm về văn hoá dân tộc Mông; trình bày được đặc điểm bài dân ca Dừng chân - Kỹ năng: Hát được giai điệu của bài hát - Năng lực tự chủ và trách nhiệm: tự học, tự tiểm hiểu các bài dân ca DUNG CHÍNH: 1. Lý thuyết 1.1. Khái quát về dân tộc Tên tự gọi: Mông, Na Miẻo. Tên gọi khác: Mẹo, Mèo, Miếu Hạ, Mán Trắng. Nhóm địa phương: Mông Trắng, Mông Hoa, Mông Ðỏ, Mông Ðen, Mông Xanh, Na Miẻo. Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc ngôn ngữ hệ Mông - Dao. Hoạt động sản xuất: Nguồn sống chính là làm nương định canh hoặc nương du canh trồng ngô, lúa, lúa mạch. Nông dân có truyền thống trồng xen canh trên nương cùng với cây trồng chính là các cây ý dĩ, khoai, rau, lạc, vừng, đậu Vẽ bằng sáp ong, nhuộm chàm là một cách tạo hoa văn đặc trưng của người Mông hoặc Dao. Người phụ nữ dùng bút chấm sáp ong nóng chảy để vẽ vào những hoa văn trên tấm vải lanh trắng. Vẽ xong, tấm vải đó được nhuộm chàm nhiều lần cho đến khi được màu đen vừa ý. Sau đó người ta đem vải nhúng vào nước nóng cho sáp ong tan ra, để lại những hoa văn màu trắng trên nền chàm xanh. Chiếc cày của người Hmông rất nổi tiếng về độ bền cũng như tính hiệu quả. Trồng lanh, thuốc phiện (trước đây), các cây ăn quả như táo, lê, đào, mận, dệt vải lanh là những hoạt động sản xuất đặc sắc của người Hmông. 8
  9. Người Mông chăn nuôi chủ yếu trâu, bò, lợn, gà, ngựa. Ngựa thồ là phương tiện vận chuyển rất có hiệu quả trên vùng cao núi đá. Con ngựa rất gần gũi và thân thiết với từng gia đình Mông. Họ phát triển đa dạng các nghề thủ công như đan lát, rèn, làm yên cương ngựa, đồ gỗ, nhất là các đồ đựng, làm giấy bản, đồ trang sức bằng bạc phục vụ nhu cầu và thị hiếu của người dân. Các thợ thủ công Mông phần lớn là thợ bán chuyên nghiệp làm ra những sản phẩm nổi tiếng như lưỡi cày, nòng súng, các đồ đựng bằng gỗ ghép.Chợ ở vùng Mông thoả mãn vừa nhu cầu trao đổi hàng hoá vừa nhu cầu giao lưu tình cảm, sinh hoạt. Ăn: Người Mông thường ăn ngày hai bữa, ngày mùa ăn ba bữa. Bữa ăn với các thực phẩm truyền thống có mèn mén (bột ngô đồ) hay cơm, rau xào mỡ và canh. Bột ngô được xúc ăn bằng thìa gỗ. Phụ nữ khéo léo làm các loại bánh bằng bột ngô, gạo vào những ngày tết, ngày lễ. Mông quen uống rượu ngô, rượu gạo, hút thuốc bằng điếu cày. Ðưa mời khách chiếc điếu do tự tay mình nạp thuốc là biểu hiện tình cảm quý trọng. Trước kia, tục hút thuốc phiện tương đối phổ biến với họ. Chợ phiên, nơi giao lưu trao đổi hàng hoá, gặp gỡ của anh em, bạn bè trai gái, là một sinh hoạt đặc trưng của người Mông ở vùng cao biên giới. Người ta thồ trên lưng ngựa đến chợ đủ mọi thứ hàng hoá như: ngô, rau, củi Ðàn ngựa thồ được quần tụ trên bãi để ngựa ở chợ Bắc Hà (Lao Cai), Ðồng Văn (Hà Giang) là nét văn hoá đẹp ở vùng cao. Mặc: Trang phục của người Mông rất sặc sỡ, đa dạng giữa các nhóm. Phụ nữ Mông Trắng trồng lanh, dệt vải lanh, váy màu trắng, áo xẻ ngực, thêu hoa văn ở cánh tay, yếm sau. Cạo tóc, để chỏm, đội khăn rộng vành. Phụ nữ Mông Hoa mặc váy màu chàm có thêu hoặc in hoa văn bằng sáp ong, áo xẻ nách, trên vai và ngực đắp vải màu và thêu. Ðể tóc dài, vấn tóc cùng tóc giả. Phụ nữ Mông Ðen mặc váy bằng vải chàm, in hoa văn bằng sáp ong, áo xẻ ngực. Phụ nữ Mông Xanh mặc váy ống. Phụ nữ Mông Xanh đã có chồng cuốn tóc lên đỉnh đầu, cài bằng lược móng ngựa, đội khăn ra ngoài tạo thành hình như hai cái sừng.Trang trí trên y phục chủ yếu bằng đắp ghép vải màu, hoa văn thêu chủ yếu hình con ốc, hình vuông, hình quả trám, hình chữ thập. 9
  10. Ở: Người Mông quần tụ trong từng bản vài chục nóc nhà. Nhà trệt, ba gian hai chái, có từ hai đến ba cửa. Gian giữa đặt bàn thờ. Nhà giàu thì tường trình, cột gỗ kê trên đá tảng hình đèn lồng hay quả bí, mái lợp ngói, sàn gác lát ván. Phổ biến nhà bưng ván hay vách nứa, mái tranh. Lương thực được cất trữ trên sàn gác. Một số nơi có nhà kho chứa lương thực ở ngay cạnh nhà. Chuồng gia súc được lát ván cao ráo, sạch sẽ. Thắng cố (chảo canh) là món ăn được ưa thích của người Hmông. Ðây là món canh gồm các loại thịt, xương, lòng, gan, tim, phổi bò (dê) cắt thành từng miếng nhỏ được nấu chung trong chảo to. Người Hmông thường nấu Thắng cố khi nhà có bữa đám hay trong các chợ phiên. Ở vùng cao núi đá, mỗi nhà có một khuôn viên riêng cách nhau bằng bức tường xếp đá cao khoảng gần 2 mét. tiện vận chuyển: Người Mông quen dùng ngựa thồ, gùi có hai quai đeo vai. Quan hệ xã hội: Bản thường có nhiều họ, trong đó một hoặc hai họ giữ vị trí chủ đạo, có ảnh hưởng chính tới các quan hệ trong bản. Người đứng đầu bản điều chỉnh các quan hệ trong bản, trước kia, cả bằng hình thức phạt vạ lẫn dư luận xã hội. Dân mỗi bản tự nguyện cam kết và tuân thủ quy ước chung của bản về sản xuất, chăn nuôi, bảo vệ rừng và việc giúp đỡ lẫn nhau. Quan hệ trong bản càng gắn bó chặt chẽ hơn thông qua việc thờ cúng chung thổ thần của bản. Người Mông rất coi trọng dòng họ bao gồm những người có chung tổ tiên. Các đặc trưng riêng với mỗi họ thể hiện ở những nghi lễ cúng tổ tiên, ma cửa, ma mụ như số lượng và cách bày bát cúng, bài cúng, nơi cúng, ở các nghi lễ ma chay như cách quàn người chết trong nhà, cách để xác ngoài trời trước khi chôn, cách bố trí mộ Người cùng họ dù không biết nhau, dù cách xa bao đời nhưng qua cách trao đổi các đặc trưng trên có thể nhận ra họ của mình. Phong tục cấm ngặt những người cùng họ lấy nhau. Tình cảm gắn bó giữa những người trong họ sâu sắc. Trưởng họ là người có uy tín, được dòng họ tôn trọng, tin nghe. Gia đình nhỏ, phụ hệ. Cô dâu đã qua lễ nhập môn, bước qua cửa nhà trai, coi như đã thuộc vào dòng họ của chồng. Vợ chồng rất gắn bó, luôn ở bên nhau khi đi chợ, đi nương, thăm hỏi họ hàng. Phổ biến tục cướp vợ. Thờ cúng: Trong nhà có nhiều nơi linh thiêng dành riêng cho việc thờ cúng như nơi thờ tổ tiên, ma nhà, ma cửa, ma bếp. Những người biết nghề thuốc, biết làm thầy còn lập bàn 10
  11. thờ cúng những vị tổ sư nghề của mình. Nhiều lễ cúng kiêng cấm người lạ vào nhà, vào bản. Sau khi cúng ma cầu xin ai thường đeo bùa để lấy khước. Học: Chữ Mông tuy được soạn thảo theo bộ vần chữ quốc ngữ từ những năm sáu mươi nhưng cho đến nay vẫn chưa thực sự phổ biến. Lễ tết: Trong khi người Việt đang hối hả kết thúc tháng cuối cùng trong năm thì người Mông đã bước vào Tết năm mới truyền thống từ đầu tháng 12 âm lịch, sớm hơn tết Nguyên đán một tháng theo cách tính lịch cổ truyền của người Mông, phù hợp với nông lịch truyền thống. Ngày Tết, dân làng thường chơi còn, đu, thổi khèn, ca hát ở những bãi rộng quanh làng. Tết lớn thứ hai là Tết 5 tháng năm (âm lịch). Ngoài hai tết chính, tuỳ từng nơi còn có các Tết vào các ngày 3 tháng 3, 13 tháng 6, 7 tháng 7 (âm lịch). Văn nghệ: Thanh niên thích chơi khèn, vừa thổi vừa múa. Khèn, trống còn được sử dụng trong đám ma, lúc viếng, trong các lễ cúng cơm. Kèn lá, đàn môi là phương tiện để thanh niên trao đổi tâm tình. Mỗi gia đình Mông đều có bàn thờ ở gian Ngày Tết, trai gái Mông vui chơi ca hát, giữa nhà. Biểu trưng cho nơi thờ là vài tờ múa khèn, tung còn, đánh cầu lông gà, giấy bản có tráng kim ở giữa đóng trên đánh quay. Chơi quay là một trò chơi phổ vách được thay vào dịp Tết hàng năm. Mỗi biến ở hầu hết các dân tộc ở miền Bắc, khi cúng người ta lấy lông gà chấm vào tiết nhưng mỗi dân tộc có cách đánh quay rồi dán lên tờ giấy bản đó. riêng Trong cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam, dân tộc Mông là một trong những dân tộc và giữ được những nét độc đáo riêng về bản sắc văn hóa truyền thống dân tộc trong cuộc sống hội nhập hiện nay. Người Mông được phân biệt thành nhiều nhóm: Mông Đơ (Mông Trắng), Mông Đu (Mông Đen), Mông Lềnh (Mông Hoa), Mông Si (Mông Đỏ), Mông Dua (Mông Xanh), Mông Xúa (Mông Mán) và nhóm Na Mẻo. Sở dĩ người Mông được phân biệt thành các nhóm như vậy là dựa trên sự khác nhau về trang phục và ngôn ngữ giữa các nhóm Mông. Ví dụ người Mông Trắng mặc váy màu trắng, người Mông Đen thì mặc váy thiên về màu đen nhiều hơn. Ngoài ra, các nhóm người Mông còn được phân biệt dựa 11
  12. trên ngôn ngữ. Mỗi nhóm Mông có những từ vựng cơ bản giống nhau nhưng cũng có rất nhiều từ địa phương khác nhau. Người Mông sống ở rất nhiều tỉnh ở Việt Nam nhưng ở mỗi tỉnh, họ sống tập trung ở một vài huyện trong tỉnh đó. Họ rất ít khi sống xen kẽ với các dân tộc khác mà thường cư trú tập trung trong dân tộc mình. Nhà của người Mông bao giờ cũng dựng trên các triền núi, nơi mà phía trước có suối, có nguồn nước, phía sau có núi che chở. Hầu hết người Mông ở các vùng dùng gỗ pơ mu để làm nhà, riêng nhà người Mông ở Hà Giang làm bằng đất trình tường. Do sinh sống ở vùng khí hậu lạnh nên nhà của người Mông thường thấp và không có cửa sổ. Người Mông cho rằng mọi vật đều có linh hồn và ngôi nhà cũng như vậy. Trong ngôi nhà có thần cửa, thần cột, thần bếp, ma nhà để bảo vệ người Mông trước mọi thế lực. Khi đã ra khỏi nhà thì không có các thần trong ngôi nhà bảo vệ nữa thì thường dễ gặp phải rủi ro, bất trắc hoặc có thể bị ma quỷ hãm hại. Vì vậy, khi ra khỏi nhà, người ta phải có một vật gì đó đem theo mình như thứ bùa để bảo vệ họ khỏi ma quỷ. Người Mông là dân tộc theo chế độ phụ hệ. Tính phụ quyền trong gia đình người Mông rất mạnh, người đàn ông đóng vai trò quyết định mọi việc trong gia đình và là người thừa kế tài sản trong gia đình. Người phụ nữ không được thừa kế tài sản trong gia đình, khi lấy chồng thì thứ tài sản duy nhất người con gái được mang về nhà chồng là những đồ trang sức bằng bạc và váy áo. Người Mông thường có quan hệ hôn nhân trong nội tộc, còn hôn nhân với các dân tộc bên ngoài thì cũng có nhưng rất ít. Việc dựng vợ gả chồng là để có con cái nối dõi tông đường đồng thời nâng cao uy tín của dòng họ cũng như tăng lực lượng lao động cho gia đình nên người Mông sinh rất nhiều con. Bố mẹ bao giờ cũng ở với người con trai út. Người con trai út đảm nhiệm vai trò thờ cúng ông bà tổ tiên trong gia đình. Đối với người Mông thì thiết chế dòng họ đóng vai trò rất quan trọng. Trong một họ bao giờ cũng có một người trưởng họ, mỗi khi có vấn đề gì xảy ra trong làng thì người ta có thể tìm đến người trưởng họ là người am hiểu luật lệ, lí lẽ nhất trong họ đó. Mỗi họ lại có quy định, luật lệ khác nhau, mọi người trong họ phải tuân theo quy định, luật lệ đó. Chị Trần Thu Thủy cho biết thêm: “Dòng họ rất quan trọng với người Mông còn thể hiện ở chố nếu như cùng một họ có thể sống và chết trong nhà nhau. Cách bố trí việc thờ cúng cũng như cách cúng trong nhà là cách để nhận biết người cùng họ. Con gái khi đi lấy chồng thì người ta quan niệm đã thuộc về dòng họ nhà chồng khi đến kỳ sinh nở về nhà bố mẹ mình thì cũng không được sinh trong nhà bố mẹ mình, khi chết cũng không được chết trong nhà bố mẹ mình". 1.2. Một vài đặc điểm về bài dân ca - Tính chất: bài có tính chất buồn man mác, thương nhớ, hoài mong. - Tốc độ: chậm vừa - Thang âm, điệu thức: + Hàng âm của chỉ có 5 âm có cấu tạo cụ thể: 12
  13. + Xét về cấu tạo hàng âm, thì điệu thức của bài giống điệu thức Thương (cụ thể Son thương) trong hệ thống điệu thức ngũ cung. Do vậy khi đọc gam của bài, thì nên đọc theo hàng âm trên. - Cách hát + Nhẹ nhàng, mộc mạc, chú ý các âm luyến các âm có nốt hoa mỹ. + Đối với nốt ở âm khu cao không cần cố nén hơi, gồng sức mà chỉ đấy nhẹ hơi tới đúng cao độ. 2. Thực hành Bước 1: Chuẩn bị - Bản nhạc, tư liệu nghe bài dân ca - Xác định âm vực phù hợp cho giọng hát. Bước 2: Đọc Gam rải. - Đọc gam rải đi lên, đi xuống - Chú ý đọc chậm và nhớ âm các bậc của gam Bước 3: Xướng âm. - Xướng âm từng phần, đoạn của bài. - Chú ý: phải xướng âm cả các nốt hoa mỹ, đọc chậm. Khi xướng âm bị sai hoặc lạc giọng cần đọc lại gam rải của bài. Bước 4: Ghép lời, hát theo giai điệu. Trên cơ sở giai điệu xướng âm, ghép lời theo đúng vị trí trên bản nhạc. - Chú ý: hát từng phần với tốc độ chậm vừa. Cần hát đúng đủ các âm luyến, láy và sắc thái của bài. Bước 5: Hát hoàn thiện cả bài - Hát đầy đủ bài đúng tốc độ, sắc thái - Chú ý phần sắc thái như các rung, láy, luyến vì sắc thái là đặc trưng, cái hồn của bài. Nội dung thực hành: bài dân ca Dừng chân- Dân ca Mông 13
  14. 3. Hướng dẫn tự học - Tìm và nghe bài dân ca Dừng chân để cảm nhận sâu hơn về bài. - Tìm hiểu và nghe thêm bài dân ca Tiếng Sáo Xa lá – Dân ca Mông 14
  15. Bài 2. Mưa rơi (dân ca Xá) MỤC TIÊU: Sau khi học xong bài này, người học có khả năng: - Kiến thức: trình bày được một số đặc điểm về văn hoá dân tộc Xá (La Chí); trình bày được đặc điểm bài dân ca Mưa rơi - Kỹ năng: Hát được giai điệu của bài hát - Năng lực tự chủ và trách nhiệm: tự học, tự tiểm hiểu các bài dân ca NỘI DUNG CHI TIẾT: 1. Lý thuyết 1.1. Khái quát về dân tộc La Chí Tên tự gọi: Cù tê. Tên gọi khác: Thổ Ðen, Mán, Xá. Dân số: 13.158 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009). Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Ka Ðai (ngữ hệ Thái – Ka Ðai), cùng nhóm với tiếng La Ha, Cơ Lao, Pu Péo. Lịch sử: Người La Chí có lịch sử cư trú lâu đời ở Hà Giang, Lào Cai. Người La Chí đan những đôi hòm bằng tre vuông vức, cái hoa văn rất đẹp dành riêng cho cô dâu đựng tư trang khi về nhà chồng. Những chiếc hòm tre đó trở thành biểu tượng của hạnh phúc lứa đôi. Chỉ trong những trường hợp vợ chồng ly dị, đôi hòm tre mới có thể bị bỏ rơi, còn không họ dùng đến lúc chết thì chôn theo. Hoạt động sản xuất: Người La Chí giỏi nghề khai khẩn và làm ruộng bậc thang, trồng lúa nước. Họ gặt lúa nếp bằng hái nhắt còn gặt lúa tẻ bằng liềm, đập lúa vào máng gỗ lấy thóc ngay ở ngoài ruộng. Họ sử dụng cả ba loại nương với các công cụ sản xuất khác nhau: gậy chọc lỗ, cuốc, cày. Người ta dành nương tốt nhất để trồng chàm, bông. Ăn: Người La Chí có cách nấu và ghế cơm bằng hơi nước rất độc đáo. Cơm nấu trong chảo to, cơm sôi thì vớt lên cho vào chõ đồ như đồ xôi. Cơm dỡ ra không bị nát mà khô dẻo nhờ được đồ chín bằng hơi nước nóng. Có nhiều cách giữ thực phẩm để ăn dần như sấy khô, làm thịt chua là phổ biến nhất. Da trâu sấy khô là món ăn rất được ưa chuộng. 15
  16. Họ thích để răng đen. Răng càng đen càng đẹp. Thanh niên thích bịt răng vàng coi đó là hình thức làm duyên làm dáng, dấu hiệu của sự trưởng thành. Mặc: Ðàn ông mặc áo dài năm thân, cài khuy bên nách phải, tóc dài quá vai, đội khăn cuốn hay khăn xếp, thích đeo túi vải chàm có viền đỏ xung quanh để đựng diêm thuốc và các thứ lặt vặt. Phụ nữ mặc quần, một số ít còn mặc váy. Bộ y phục truyền thống là chiếc áo dài tứ thân xẻ giữa, yếm thêu, thắt lưng bằng vải. Vào dịp tết, lễ người ta còn diện ba chiếc áo dài lồng vào nhau. Nữ giới ưa dùng khăn đội đầu dài gần 3 mét. Màu chàm đen rất được ưa thích. Nữ đeo vòng tai, vòng tay. Ruộng bậc thang của người La Chí. Nam chỉ đeo vòng tay. Thầy cúng mỗi khi hành lễ có y phục riêng. Ðó là bộ quần áo thụng, dài quá mắt cá chân, xẻ giữa, có thắt lưng bằng vải, đầu đội mũ vải rộng, có quai. Trong một số nghi lễ, người hành lễ đeo một miếng da trâu khô hoặc đội nón. Ở: Họ thường sống từng làng ở vùng núi đất các huyện Hoàng Su Phì, Xín Mần (Hà Giang). Nhà của mỗi gia đình là một quần thể kiến trúc gồm nhà sàn - nhà trệt - kho thóc trong một phạm vi không gian hẹp. Kiểu kiến trúc kết hợp chặt chẽ giữa sàn và nhà trệt là một sáng tạo văn hoá độc đáo. Mỗi nhà gồm hai phần bằng nhau, mái lồng vào nhau, phần nhà sàn để ở, phần nhà trệt là nơi làm bếp. Lên nhà mới phải mời thầy cúng về cúng xua đuổi ma bằng cách dùng ba cây cỏ lá khua bốn góc nhà, bắt đầu từ góc của bố mẹ trước. Nếu người con trai đã có bàn thờ ở nhà cũ thì tháo bàn thờ đó về lắp ở nhà mới trong vị trí của người chủ gia đình. Trong suốt 13 ngày kể từ hôm lên nhà mới, bếp lửa luôn luôn sáng thì mới may mắn. Dùng đũa là thói quen của người La Chí, ngay cả khi ăn nhanh ở trên đường. 16
  17. Phương tiện vận chuyển: Có sự kết hợp giữa cách vận chuyển của cư dân vùng cao và cư dân vùng thung lũng. Phụ nữ phổ biến dùng địu đan bằng giang hoặc địu vải. Cái địu đều có quai đeo trên trán để chuyên trở. Ðàn ông dùng địu có hai quai đeo vai kiểu địu của người Hmông hoặc dùng đòn gánh đôi dậu. Người La Chí địu trẻ em trên lưng khi đi xa hoặc lúc làm việc. Chiếc máng lần là phương tiện dẫn nước phổ biến về đến tận nhà hay gần nhà. Từ bến nước người ta chứa nước vào những ống bương dài tới 1,5m và vác lên nhà sàn để gần chạn bát dùng dần. Dùng ngựa để thồ hàng cũng là một phương tiện phổ biến. Các quan hệ xã hội: Gia đình ba thế hệ hay các cặp vợ chồng cùng thế hệ chung sống với nhau là phổ biến. Mỗi họ có người đứng chăm lo việc cúng. Ðó không phải là trưởng họ mà chỉ là người biết cúng. Người ta chọn người giữ vị trí này bằng cách bói xem xương đùi gà. Ði xa người La Chí thường đeo túi vải nhuộm chàm vắt chéo qua vai. Người La Chí có cách gọi tên theo nguyên tắc phụ tử liên doanh với công thức là: họ - pô (bố) - tên con - tên riêng của người được gọi. Người phụ nữ có con được gọi theo công thức sau: Mìa (mẹ) - tên con cả - tên chồng. Tục nhận bố mẹ nuôi cho trẻ sơ sinh khá phổ biến. Trẻ chào đời sau ba buổi sáng, gia chủ đặt một sợi chỉ đỏ trên một trên một bát nước đầy ở trên bàn thờ, chờ ai đó vào nhà trước sẽ được làm bố mẹ nuôi, đặt tên cho cháu bé. Trẻ khóc nhiều được quan niệm là tên chưa hợp, phải bói tìm dòng họ thích hợp làm bố mẹ nuôi đặt tên cho con. Thờ cúng: Người ta cúng tổ tiên vào các dịp lễ tết. Tổ tiên được cúng ba đời đối với nam, hai đời đối với nữ. Theo phong tục, bố mẹ chôn ngày nào con cái nhớ suốt đời không được gieo giống hay cho vay, mượn vào ngày đó. Ðó không phải là ngày sinh sôi, phát triển. Trong một nhà có nhiều bàn thờ cho mỗi người đàn ông. 17
  18. Trong lễ cưới của người dân tộc La Chí, khi đón dâu về tới chân cầu thang nhà sàn, nhà trai chuẩn bị sẵn một thùng nước ấm để người phù dâu rửa chân cho cô dâu và rửa chân mình trước lúc bước lên cầu thang vào nhà. Bàn thờ dựng theo thứ tự của bố, con trai út, các con trai thứ, trong cùng của con trai cả. Mỗi bàn thờ được coi là hoàn thành phải qua ba lần cúng dỡ đi lập lại bàn thờ mới. Học: Các kiến thức và kinh nghiệm dân gian được trao truyền giữa các thế hệ bằng miệng. Thần thoại, cổ tích đặc biệt phong phú giải thích cho thế hệ trẻ nhiều hiện tượng thiên nhiên và xã hội theo quan niệm dân gian. nghệ: Ngày tết, lễ trai gái thường hát đối đáp, chơi đàn tính 3 dây, đàn môi. Trống, chiêng được dùng phổ biến. Chơi: Tết Nguyên đán nam nữ thường tập trung ở bãi rộng chơi ném còn, đánh quay, chơi đu thăng bằng. Tết tháng tám họ chơi đu dây. Trẻ em thích chơi ống phốc. 1.2. Một vài đặc điểm về bài dân ca - Tính chất: có tính vui tươi nhẹ nhàng - Hàng âm, điệu thức + Hàng âm bài này khá đặc biệt chỉ có 4 âm cụ thể: + Ba âm đầu của hàng âm tạo thành hợp âm 3 trưởng, hay nói cách khác ba âm đầu là 3 âm chính của điệu thức trưởng. Khi xướng âm bài này không nhất thiết phải đọc hàng âm, hay gam rải mà chỉ cần đọc đúng 3 âm chính của giọng trưởng (cụ thể là các bậc I, III, V của giọng Pha trưởng) là được - Cách hát + Hát nhẹ nhàng, không cần dùng nhiều kỹ thuật Thanh nhạc. + Chú ý các âm luyến và những đoạn giai điệu có nhảy quãng xa. 18
  19. 2. Thực hành Bước 1: Chuẩn bị - Bản nhạc, tư liệu nghe bài dân ca . - Xác định âm vực phù hợp cho giọng hát. Bước 2: Đọc Gam rải. - Đọc gam rải đi lên, đi xuống - Chú ý đọc chậm và nhớ âm các bậc của gam Bước 3: Xướng âm. - Xướng âm từng phần, đoạn của bài. - Chú ý: phải xướng âm cả các nốt hoa mỹ, đọc chậm. Khi xướng âm bị sai hoặc lạc giọng cần đọc lại gam rải của bài Bước 4: Ghép lời, hát theo giai điệu. - Trên cơ sở giai điệu xướng âm, ghép lời theo đúng vị trí trên bản nhạc. - Chú ý: hát từng phần với tốc độ chậm vừa. Cần hát đúng đủ các âm luyến, láy và sắc thái của bài Bước 5: Hát hoàn thiện cả bài - Hát đầy đủ bài đúng tốc độ, sắc thái - Chú ý phần sắc thái như các rung, láy, luyến vì sắc thái là đặc trưng, cái hồn của bài. Nội dung bài dân ca: Mưa rơi (Dân ca Xá) 19
  20. 3. Hướng dẫn tự học Tìm và nghe bài dân ca Mưa rơi Tìm hiểu và nghe thêm các bài dân ca khác 20
  21. Bài 3. Soi bóng bên hồ (Dân ca Giáy) MỤC TIÊU: Sau khi học xong bài này, người học có khả năng: - Kiến thức: trình bày được một số đặc điểm về văn hoá dân tộc Giáy; trình bày được đặc điểm bài dân ca Soi bóng bên hồ - Kỹ năng: Hát được giai điệu của bài hát - Năng lực tự chủ và trách nhiệm: tự học, tự tiểm hiểu các bài dân ca NỘI DUNG CHÍNH 1. Lý thuyết 1.1. Khái quát về dân tộc Giáy Tên tự gọi: Giáy Tên gọi khác: Nhắng, Giẳng Dân số: 58.617 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009). Ngôn ngữ: Tiếng Giáy thuộc ngữ hệ Thái - Ka Ðai. Lịch sử: Người Giáy từ Trung quốc di cư sang Việt Nam cách đây khoảng 200 năm. Làm ngói là một trong những nghề thủ công của người Giáy ở Hà Giang. Ngói Âm dương (ngói máng) được tạo dáng bằng bàn xoay tạo hình ống, phơi khô rồi cắt lát trước khi đưa vào lò nung. Hoạt động sản xuất: Người Giáy có nhiều kinh nghiệm canh tác lúa nước trên những triền ruộng bậc thang. Bên cạnh đó họ còn làm thêm nương rẫy trồng ngô, lúa, các loại cây có củ và rau xanh. Chăn nuôi theo lối thả rông. Có một số nghề thủ công nhưng chưa phát triển. Ăn: Ăn cơm tẻ. Gạo được luộc cho chín dở rồi mới cho vào chõ đồ lên như đồ xôi. Nước luộc gạo dùng làm đồ uống. Cách chế biến món ăn, nhất là ăn trong ngày lễ, ngày tết chịu ảnh hưởng sâu sắc của người Hán. Mặc: Trước kia phụ nữ mặc váy xoè giống như váy của người Hmông. Ngày nay họ mặc quần màu chàm đen có dải vải đỏ đắp trên phần cạp, áo cánh 5 thân xẻ tà, dài quá mông, cài khuy bên nách phải, hò áo và cổ tay áo viền những dải vải khác màu. Tóc vấn quanh đầu với những sợi chỉ hồng thả theo đuôi tóc. Vai khoác túi thêu chỉ màu với hoa văn là những đường gấp khúc. Nam giới mặc quần lá toạ, áo cánh xẻ tà, mở khuy ngực. 21
  22. Ở: Người Giáy cư trú ở các huyện Bát Xát, Bảo Thắng, Mường Khương (Lào Cai), Yên Minh, Ðồng Văn (Hà Giang), Phong Thổ, Mường Tè (Lai Châu). Nhà sàn là nhà ở truyền thống. Hiện nay, kiểu nhà sàn vẫn phổ biến trong bộ phận người Giáy ở Hà Giang, còn bộ phận ở Lao Cai và Lai Châu ở nhà đất nhưng phía trước nhà vẫn là sàn phơi. Nhà thường có 3 gian, bàn thờ đặt ở gian giữa. Phương tiện vận chuyển: Họ gánh bằng dậu, dùng ngựa thồ, trâu kéo. Nữ phục Giáy mang phong cách từng địa phương khá đậm. Chẳng hạn, phụ nữ ở Hà Giang thì mặc váy và áo dài, gần với chiếc áo của người Nùng. Ngược lại, như trong ảnh, nữ giới ở Lào Cai lại mặc quần và áo ngắn. Quan hệ xã hội: Trước Cách mạng tháng Tám, xã hội người Giáy có sự phân hoá giai cấp rõ rệt. Tầng lớp trên là những chức dịch trong bộ máy chính quyền ở xã, thôn bản, nhiều người được hưởng ruộng công do dân cày cấy, có rừng thảo quả do dân trồng, có lính phục dịch, có người lo việc tang, việc cưới, đôi khi có cả đội xoè. Nông dân, ngoài đóng thuế còn phải làm lao dịch và cống nạp cho các chức dịch. Cưới xin: Gồm nhiều nghi lễ: dạm hỏi, thả mối, ăn hỏi, cưới và lại mặt. Trong lễ ăn hỏi nhà trai đưa cho nhà gái một vòng cổ và một vòng tay để "đánh dấu". Trong lễ cưới ngoài chi phí cho ăn uống, nhà trai còn phải mang cho nhà gái một số thực phẩm và tiền để làm quà tặng họ hàng gần; mỗi người một con gà, một con vịt và một đồng bạc trắng. ở người Giáy cũng có tục kéo vợ như người Hmông. Sinh đẻ: Khi có thai phụ nữ phải kiêng nhiều thứ: không đun củi từ ngọn lên gốc (sợ đẻ ngược), không đến đám tang hay nơi thờ cúng (sợ mất vía). Gần đến ngày đẻ, họ phải cúng mụ. Trẻ đầy tháng cúng báo tổ tiên, đặt tên và lập lá số cho trẻ để sau này đem so tuổi khi lấy vợ, lấy chồng và chọn giờ nhập quan, hạ huyệt khi chết đi. Ma chay: Người Giáy cho rằng khi người ta chết, nếu ma chay chu đáo thì sẽ được lên trời sống sung sướng cùng với tổ tiên, nếu không sẽ bị đưa xuống âm ti hoặc biến thành con vật. Vì thế, ở những gia đình khá giả đám tang có thể kéo dài tới 5-7 ngày và có thêm một số nghi lễ như thả đèn trôi sông, rước hồn đi dạo Con cái để tang bố mẹ một năm. Lễ đoạn tang thường được tổ chức vào dịp cuối năm. 22
  23. Cũng giống như các dân tộc khác thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái, người Giáy thường cư trú ở các thung lũng, nơi có nhiều điều kiện làm ruộng nước. Cảnh quan quê hương thường trù phú được vẻ đẹp trữ tình. Thờ cúng: Bàn thờ đặt ở gian giữa, thường có ba bát hương theo thứ tự từ trái sang phải thờ táo quân, trời đất và tổ tiên. Trong trường hợp chủ nhà là con nuôi hay con rể thừa tự muốn thờ họ bố mẹ đẻ thì đặt thêm một bát hương ở bên trái. Những gia đình không thờ bà mụ trong buồng thì đặt thêm một bát hương ở bên phải. Ở một số gia đình ngoài bàn thờ lớn còn đặt một bàn thờ nhỏ để thờ bố mẹ vợ. Phía dưới bàn thờ lớn ngay trên mặt đất đặt một bát hương cúng thổ địa, ở hai bên cửa chính có hai bát hương thờ thần giữ cửa. Lễ tết: Người Giáy ăn Tết như các dân tộc ở vùng Ðông Bắc: Tết Nguyên đán, Thanh minh, Ðoan ngọ Lịch: Người Giáy theo âm lịch. Học: Người Giáy chưa có văn tự, chỉ có một số rất ít người biết chữ Hán. Văn nghệ: trong kho tàng văn nghệ của người Giáy có truyện cổ, thơ ca, tục ngữ, đồng dao, phong dao Ở người Giáy có ba kiểu hát mà họ gọi là "vươn" hay "phướn" hát bên mâm rượu, hát đêm và hát tiễn dặn 1.2. Một vài đặc điểm về bài dân ca - Tính chất: Giai điệu có tính vui tươi nhẹ nhàng, đôi lúc mang chút mong chờ - Hàng âm điệu thức + Hàng âm của bài có năm âm cụ thể: + Xét về cấu tạo hàng âm thì hàng âm trên giống với điệu thức Cung (cụ thể Pha cung) trong điệu thức ngũ cung. Màu sắc của điệu thức này gần với điệu thức trưởng. - Nhịp: bài có nhịp biến đổi giữa nhịp 2/4 và nhịp ¾. Khi hát cần chú ý các âm hoa mỹ, tiết nhịp đối với những lần ch 23
  24. 2. Thực hành Bước 1: Chuẩn bị - Bản nhạc, tư liệu nghe bài dân ca . - Xác định âm vực phù hợp cho giọng hát. Bước 2: Đọc Gam rải. - Đọc gam rải đi lên, đi xuống - Chú ý đọc chậm và nhớ âm các bậc của gam Bước 3: Xướng âm. - Xướng âm từng phần, đoạn của bài. - Chú ý: phải xướng âm cả các nốt hoa mỹ, đọc chậm. Khi xướng âm bị sai hoặc lạc giọng cần đọc lại gam rải của bài Bước 4: Ghép lời, hát theo giai điệu. - Trên cơ sở giai điệu xướng âm, ghép lời theo đúng vị trí trên bản nhạc. - Chú ý: hát từng phần với tốc độ chậm vừa. Cần hát đúng đủ các âm luyến, láy và sắc thái của bài Bước 5: Hát hoàn thiện cả bài - Hát đầy đủ bài đúng tốc độ, sắc thái - Chú ý phần sắc thái như các rung, láy, luyến vì sắc thái là đặc trưng, cái hồn của bài. Nội dung bài: Soi bóng bên hồ (Dân ca Giáy) 24
  25. 3. Hướng dẫn tự học Tìm và nghe bài dân ca Tìm hiểu và nghe thêm các bài dân ca 25
  26. Bài 4. Inh lả (Dân ca Thái) MỤC TIÊU: Sau khi học xong bài này, người học có khả năng: - Kiến thức: trình bày được một số đặc điểm về văn hoá dân tộc Thái; trình bày được đặc điểm bài dân ca Inh lả. - Kỹ năng: Hát được giai điệu của bài hát - Năng lực tự chủ và trách nhiệm: tự học, tự tiểm hiểu các bài dân ca NỘI DUNG CHI TIẾT: 1. Lý thuyết 1.1. Khái quát về dân tộc Thái Tên tự gọi: Tay hoặc Thay Tên gọi khác: Tay Thanh, Man Thanh, Tay Mười, Tày Mường, Hàng Tổng, Tay Dọ, Thổ. Nhóm địa phương: Ngành Ðen (Tay Ðăm), Ngành trắng (Tay Ðón hoặc Khao). Dân số: 1.550.423 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009). Ngôn ngữ: Thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái (ngữ hệ Thái - Ka Ðai). Lịch sử: Người Thái có cội nguồn ở vùng Đông Nam Á lục địa, tổ tiên xa xưa của người Thái có mặt ở Việt Nam từ rất sớm. Hoạt động sản xuất: Người Thái sớm đi vào nghề trồng lúa nước trong hệ thống thuỷ lợi thích hợp được đúc kế như một thành ngữ - "mương, phai, lái, lịn" (khơi mương, đắp đập, dẫn nước qua vật chướng ngại, đặt máng) trên các cánh đồng thung lũng. Họ làm ruộng cấy một vụ lúa nếp, nay chuyển sang 2 vụ lúa tẻ. Họ còn làm nương để trồng thêm lúa, ngô, hoa màu, cây thực phẩm và đặc biệt bông, cây thuốc nhuộm, dâu tằm để dệt vải. Cót xát rất phổ biến ở vùng người Thái, dùng để trải trên sàn trước khi xếp chiếu phục tay và các tấm đệm ngủ lên trên. Cót được đan bằng cây mạy loi, một loại cây thuộc loài tre, nứa mọc trên núi đá vôi cao Ăn: Ngày nay gạo tẻ đã trở thành lương thực chính, gạo nếp vẫn được coi là lương ăn truyền thống. Gạo nếp ngâm, bỏ vào chõ, đặt lên bếp, đồ thành xôi. Trên mâm ăn 26
  27. không thể thiếu được món ớt giã hoà muối, tỏi, có rau thơm, mùi, lá hành có thể thêm gan gà luộc chín, ruột cá, cá nướng gọi chung là chéo. Hễ có thịt các con vật ăn cỏ thuộc loài nhai lại thì buộc phải có nước nhúng lấy từ lòng non (nặm pịa). Thịt cá ăn tươi thì làm món nộm, nhúng (lạp, cỏi), ướp muối, thính làm mắm; ăn chín, thích hợp nhất phải kể đến các món chế biến từ cách nướng, lùi, đồ, sấy, sau đó mới đến canh, xào, rang, luộc Họ ưa thức ăn có các vị: cay, chua, đắng, chát, bùi, ít dùng các món ngọt, lợ, đậm, nồng hay uống rượu cần, cất rượu. Người Thái hút thuốc lào bằng điếu ống tre, nứa và chạm bằng mảnh đóm tre ngâm, khô nỏ. Người Thái Trắng trước khi hút còn có lệ mời người xung quanh như trước khi ăn. Mặc: Cô gái Thái đẹp nhờ mặc áo cánh ngắn, đủ màu sắc, đính khuy bạc hình bướm, nhện, ve sầu chạy trên đường nẹp xẻ ngực, bó sát thân, ăn nhịp với chiếc váy vải màu thâm, hình ống; thắt eo bằng dải lụa màu xanh lá cây; đeo dây xà tích bạc ở bên hông. Ngày lễ có thể vận thêm áo dài đen, xẻ nách, hoặc kiểu chui đầu, hở ngực có hàng khuy bướm của áo cánh, chiết eo, vai phồng, đính vải trang trí ở nách, và đối vai ở phía trước như của Thái Trắng. Nữ Thái Ðen đội khăn piêu nổi tiếng trong các hình hoa văn thêu nhiều màu sắc rực rỡ. Nam người Thái mặc quần cắt để thắt lưng; áo cánh xẻ ngực có túi ở hai bên gấu vạt, áo người Thái Trắng có thêm một túi ở ngực trái; cài khuy tết bằng dây vải. Màu quần áo phổ biến là đen, có thể màu gạch non, hoa kẻ sọc hoặc trắng. Ngày lễ mặc áo đen dài, xẻ nách, bên trong có một lần áo trắng, tương tự để mặc lót. Bình thường cuốn khăn đen theo kiểu mỏ rìu. Khi vào lễ cuốn dải khăn dài một sải tay. Ở: Ở nhà sàn, dáng vẻ khác nhau: nhà mái tròn khum hình mai rùa, hai đầu mai rùa, hai đầu mái hồi có khau cút; nhà 4 mái mặt bằng sàn hình chữ nhật gần vuông, hiên có lan can; nhà sàn dài, cao, mỗi gian hồi làm tiền sảnh; nhà mái thấp, hẹp lòng, gần giống nhà người Mường. Phương tiện vận chuyển: Gánh là phổ biến, ngoài ra gùi theo kiểu chằng dây đeo vắt qua trán, dùng ngựa cưỡi, thồ nay. ở dọc các con sông lớn họ rất nổi tiếng trong việc xuôi ngược bằng thuyền đuôi én. Quan hệ xã hội: Cơ cấu xã hội cổ truyền được gọi là bản mường hay theo chế độ phìa tạo Tông tộc Thái gọi là Ðằm. Mỗi người có 3 quan hệ dòng họ trọng YẾU: ẢI Noong (tất cả các thành viên nam sinh ra từ một ông tổ bốn đời). Lung Ta (tất cả các thành viên nam thuộc họ vợ của các thế hệ). Nhinh Xao (tất cả các thành viên nam thuộc họ người đến làm rể). (tất cả các thành viên nam sinh ra từ một ông tổ bốn đời). Lung Ta (tất cả các thành viên nam thuộc họ vợ của các thế hệ). Nhinh Xao (tất cả các thành viên nam thuộc họ người đến làm rể). 27
  28. Ðưa tiến bộ kỹ thuật vào cuộc sống đảm bảo sự phát triển bền vững của các dân tộc. Nuôi cá lồng trên sông, suối là mọt nghề mới mang lại thu nhập cao. Cưới xin: Trước kia người Thái theo chế độ hôn nhân mua bán và ở rể nên việc lấy vợ và lấy chồng phải qua nhiều bước, trong đó có 2 bước cơ bản: Cưới lên (đong khửn) - đưa rể đến cư trú nhà vợ - là bước thử thách phẩm giá, lao động của chàng rể. Người Thái Ðen có tục búi tóc ngược lên đỉnh đầu cho người vợ ngay sau lễ cưới này. Tục ở rể từ 8 đến 12 năm. Cưới xuống (đong lông) đưa gia đình trở về với họ cha. Sinh đẻ: Phụ nữ đẻ theo tư thế ngồi, nhau bỏ vào ống tre đem treo trên cành cây ở rừng. Sản phụ được sưởi lửa, ăn cơm lam và kiêng khem một tháng; ống lam bó đem treo trên cành cây. Có nghi thức dạy trẻ lao động theo giới và mời Lung Ta đến đặt tên chi cháu. Ma chay: Lễ tang có 2 bước cơ bản: Pông: Phúng viếng tiễn đưa hồn người chết lên cõi hư vô, đưa thi thể ra rừng chôn (Thái Trắng), thiếu (Thái Ðen). Xống: gọi ma trở về ngụ ở gian thờ cúng tổ tiên ở trong nhà. Nhà mới: Dẫn chủ nhân lên nhận nhà Lung Ta châm lửa đốt củi ở bếp mới. Người ta thực hiện tại nghi lễ, cúng đọc bài mo xua đuổi điều ác thu điều lành, cúng tổ tiên, vui chơi. Lễ tết: Cúng tổ tiên ở người Thái Ðen vào tháng 7, 8 âm lịch. Người Thái Trắng ăn tết theo âm lịch. Bản Mường có cúng thần đất, núi, nước và linh hồn người làm trụ cột. Lịch: Theo hệ can chi như âm lịch. Lịch của người Thái Ðen chênh với âm lịch 6 tháng. Học: Người Thái có mẫu tự theo hệ Sanscrit. Họ học theo lệ truyền khẩu. Người Thái có nhiều tác phẩm cổ viết về lịch sử, phong tục, luật tục và văn học. Văn nghệ: Người Thái có các điệu xoè, các loại sáo lam và tiêu, có hát thơ, đối đáp giao duyên phong phú. Chơi: Trò chơi của người Thái phổ biến là ném còn, kéo co, đua ngựa, dạo thuyền, bắn nỏ, múa xoè, chơi quay và quả mák lẹ. Nhiều trò chơi cho trẻ em. Mỗi nhà người Thái thường có hai bếp, một bếp để tiếp khách, sưởi ấm, một bếp khác để nấu cơm. Chõ xôi (ninh đồng, chõ gỗ) được đặt trên 3 ông đầu rau bằng đá. Phía trên bếp có giàn để các thức cần sấy khô. Người Thái thường dùng ghế mây tròn để ngồi quanh bếp. 28
  29. 1.2. Một vài đặc điểm về bài dân ca - Tính chất Hàng âm, điệu thức + Bài này chỉ có 4 âm, cụ thể: + Bốn âm của bài có vai trò như nhau, không có âm nào mang tính âm tựa. Do vậy khi đọc hàng âm thì có có linh hoạt nhiều cách khác nhau. Có thể đọc theo hàng âm trên hoặc các thể khác miễn sao vang lên 4 âm. 2. Thực hành Bước 1: Chuẩn bị - Bản nhạc, tư liệu nghe bài dân ca . - Xác định âm vực phù hợp cho giọng hát. Bước 2: Đọc Gam rải. - Đọc gam rải đi lên, đi xuống - Chú ý đọc chậm và nhớ âm các bậc của gam Bước 3: Xướng âm. - Xướng âm từng phần, đoạn của bài. - Chú ý: phải xướng âm cả các nốt hoa mỹ, đọc chậm. Khi xướng âm bị sai hoặc lạc giọng cần đọc lại gam rải của bài Bước 4: Ghép lời, hát theo giai điệu. - Trên cơ sở giai điệu xướng âm, ghép lời theo đúng vị trí trên bản nhạc. - Chú ý: hát từng phần với tốc độ chậm vừa. Cần hát đúng đủ các âm luyến, láy và sắc thái của bài Bước 5: Hát hoàn thiện cả bài - Hát đầy đủ bài đúng tốc độ, sắc thái - Chú ý phần sắc thái như các rung, láy, luyến vì sắc thái là đặc trưng, cái hồn của bài. Nội dung bài Inh lả (Dân ca Thái) 29
  30. 3. Hướng dẫn tự học Tìm và nghe bài dân ca Tìm hiểu và nghe thêm các bài dân ca 30
  31. Bài 5. Bà rằng bà rí (Dân ca Phú Thọ) MỤC TIÊU: Sau khi học xong bài này, người học có khả năng: - Kiến thức: kể tên được các lề lối hát Quan họ, những đặc điểm về bài dân Bèo dạt mây trôi. - Kỹ năng: Hát được giai điệu cơ bản bài Bèo dạt mây trôi - Năng lực tự chủ và trách nhiệm: tự học và tìm hiểu các bài dân ca. NỘI DUNG CHÍNH NỘI DUNG CHI TIẾT: 1. Lý thuyết 1.1. Khái quát về dân tộc Phú Thọ là mảnh đất cội nguồn, đất phát tích của dân tộc với chiều dài mấy ngàn năm lịch sử. Phú Thọ hiện còn bảo tồn được những di sản độc đáo, đặc sắc vô giá đồng thời được ghi nhận, tôn vinh. Quá trình khảo cổ quanh Khu Di tích lịch sử Đền Hùng với các di vật tìm được đã minh chứng nơi đây là trung tâm chính trị của Nhà nước Văn Lang xưa đồng thời còn là Cung điện, nơi các Vua Hùng xưa lập điện thờ trời và bàn việc nước. Tại nơi này, qua khảo cổ cũng như trong quá trình lao động, người dân còn tìm được nhiều hiện vật quý giá có niên đại trên 4000 năm như: gốm sứ, rìu đá, mũi tên đồng, trống đồng, đặc biệt, ngay bên núi Nghĩa Lĩnh còn tìm được chiếc trống đồng có niên đại 3.500 năm, là trống đồng lớn nhất Việt Nam và Đông Nam Á hiện nay. Di chỉ khảo cổ Sơn Vi thuộc nền Văn hóa Đông Sơn, Gò Mun, Đồng Đậu. Di chỉ được phát hiện từ những năm 1965, hiện vật tìm được đã chứng minh về sự sinh sống và phát triển rực rỡ của con người trên mảnh đất này có niên đại cách ngày nay 3.500- 4.000 năm. Đặc biệt, Khu Di tích lịch sử Quốc gia Di tích Làng Cả được khai quật lần đầu tiên vào năm 1976, qua nhiều lần khảo cứu cho thấy, Làng Cả là một di chỉ cư trú thuộc Văn hóa Đông Sơn. Các nhà sử học đã khẳng định Khu Di tích di chỉ này có niên đại từ cuối thế kỷ IV đến nửa cuối thế kỷ II trước Công nguyên. Đối chiếu với lịch sử, thư tịch và truyền thuyết thì Di tích Làng Cả được xác định vào thời đại Hùng Vương thời khởi đầu dựng nước và có trước cuộc xâm lược của nhà Hán. Gần đây nhất, năm 2005, tỉnh Phú Thọ phối hợp với Viện Khảo cổ học Việt Nam tiến hành khai quật thứ 3, trong đợt khảo cổ này đã phát hiện nhiều hiện vật quí, trong đó có 10 mộ táng đều là loại mộ đất thuộc thời đại kim khí, đồ tùy táng đều là đồ gốm sứ thuộc Văn hóa Đông Sơn Kết quả khai quật đã khẳng định rằng, nơi đây chính là trung tâm kinh tế, văn hóa chính trị thời Hùng Vương, thời Bắc thuộc và thời phong kiến tự trị. 31
  32. Khu Di tích lịch sử Đền Hùng(Ảnh: TL) Cùng với Khu Di tích lịch sử Làng Cả, Khu Di chỉ Xóm Rền thuộc xã Gia Thanh – huyện Phù Ninh và khu Gò De (Thanh Đình - Lâm Thao) cũng đã được công nhận là di tích khảo cổ Quốc gia. Tại các khu khảo cổ này đã thu được nhiều hiện vật quí như: đồ kim khí, nha chương, gốm sứ, đặc biệt là ngôi mộ cổ có niên đại cách đây 4.000 năm. Qua đồ tùy táng, các nhà khảo cổ học khẳng định, người nằm dưới mộ phải là người có quyền uy tối thượng. Tại khu khảo cổ xã Gia Thanh còn phát hiện nhiều hiện vật quí có niên đại trên 3.500 năm trên địa bàn rộng lớn, chứng tỏ xưa kia nơi đây có nền văn minh phát triển rực rỡ. Song song với khảo cổ học, Phú Thọ còn bảo lưu được nhiều loại hình nghệ thuật dân gian dân vũ, nhiều loại hình có nguồn gốc từ xa xưa thật độc đáo và đặc sắc như: diễn xướng dân gian, diễn xướng bách nghệ khôi hài, đâm đuống, đánh trống đồng, múa chuông, múa rùa, múa khèn, múa lập tĩnh, diễn xướng cồng chiêng, trống đu, ca trù, múa chim gâu xúc tép Phú Thọ cũng là một trong tỉnh phát triển ca trù từ rất sớm và là 1 trong 15 tỉnh, thành phố trong cả nước hiện còn gìn giữ bảo lưu và phát triển được loại hình nghệ thuật này. Cùng nhiều ca nương tài sắc đặc biệt còn có nghệ nhân Phạm Thị Bang, ca nương tiếng tăm một thuở từng hát trong những cung to, phủ lớn dưới thời phong kiến. Nay đã bước sang tuổi 87 nhưng cụ Bang vẫn nhớ được 8 giọng hát chính và 38 giọng hát lẻ của hát bát thanh; trong đó cụ hát được nhiều giọng như: giọng chầu văn, giọng hát tuồng, giọng xướng tế, giọng xẩm, giọng khóc và nhiều điệu hát như: xẩm chèo, kể chuyện Đặc biệt, cụ còn nhớ được gần 40 bài hát Mưỡu và hát Nói, hơn chục bài hát thờ. Được biết, Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam đã tặng thưởng Kỷ 32
  33. niệm chương vì sự nghiệp dân gian Việt Nam và bằng công nhận danh hiệu Nghệ nhân dân gian cho Nghệ nhân Phạm Thị Bang. Với Phú Thọ, dân ca xoan, ghẹo là 2 loại hình nghệ thuật tiêu biểu, có chiều dài lịch sử mấy ngàn năm, từ thời các Vua Hùng dựng nước.(Ảnh: TL) Với Phú Thọ, dân ca xoan, ghẹo là 2 loại hình nghệ thuật tiêu biểu, có chiều dài lịch sử mấy ngàn năm, từ thời các Vua Hùng dựng nước. Hát Xoan tồn tại lâu đời ở hai xã Kim Đức và Phượng Lâu, thuộc huyện Phong Châu, sau đó là huyện Phù Ninh (cũ), nay thuộc thành phố Việt Trì. Trước Cách mạng tháng Tám 1945, hát Xoan thường được trình diễn vào mùa xuân trong những ngày hội đám ở một số đình làng trong tỉnh nên còn được gọi là Hát cửa đình. Các phường Xoan cổ đều được bắt nguồn từ những làng cổ nằm ở địa bàn trung tâm Bộ Văn Lang thời các Vua Hùng dựng nước. Những người đi hát Xoan thường sống cùng chòm xóm và tổ chức thành phường. Người đứng đầu một phường Xoan gọi là ông Trùm. Các thành viên thì gọi trai là Kép, gái là Ðào. Y phục dân tộc giống quan họ Bắc Ninh, nam mặc áo the, khăn xếp, quần trắng; nữ mặc áo năm thân, khăn mỏ quạ, áo cánh trắng, yếm điều, thắt lưng bao, dải yếm các mầu, quần lụa, đeo xà tích. Các tiết mục múa hát thường theo thứ tự nhất định. Mở đầu là bốn tiết mục có tính nghi thức, mang nội dung khấn nguyện, chúc tụng, xen mô tả sản xuất. Ðây là những bài ca cổ, chủ yếu hát nói hoặc ngâm ngợi theo thứ tự: giáo trống, giáo pháo, thơ nhang, đóng đám. Tiếp theo là phần hát cách gài huê, hát đúm, đánh cá Trước đây, Phú Thọ có 18 làng hát Xoan, trong đó bốn phường Xoan được gọi theo tên làng là: An Thái, Phù Ðức, Kim Ðơi và Thét. Năm 2005, hát xoan Phú Thọ là đại diện cho đoàn Việt Nam, là một trong 8 đoàn khu vực và quốc tế tham gia biểu diễn tại Hội thảo Quốc tế về văn hoá dân gian các dân tộc tại Thái Lan. Năm 2008, hát Xoan Phú Thọ cũng là một trong những 33
  34. tiết mục của Việt Nam tham gia Liên hoan nghệ thuật dân tộc Quốc tế tại Hàn Quốc và đã để lại nhiều ấn tượng. Trước nỗi lo thất truyền và mai một về loại hình nghệ thuật đặc sắc này, tỉnh Phú Thọ và các cơ quan chức năng đã vào cuộc nhằm bảo tồn, gìn giữ và phát triển, cùng với việc triển khai lập hồ sơ. Sau quá trình triển khai thực hiện, Hồ sơ "Hát Xoan Phú Thọ", ứng cử vào danh sách Di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp của nhân loại đã chính thức trình UNESCO theo đúng thời hạn. Lễ hội Đền Hùng (Ảnh: TL) Là loại hình nghệ thuật ra đời và phát triển tồn tại song hành cùng dân ca Xoan nhưng hát Ghẹo là hình thức hát nước nghĩa: dao duyên, kết chạ giữa các làng với nhau. Về mặt hình thức có nhiều nghi thức, ngôn ngữ, giai điệu giống với hát Quan họ, nhưng trong lời ca của hát Ghẹo chứa đựng nhiều ngôn ngữ cổ và ra đời sớm hơn so với dân ca Quan họ. Bên cạnh việc phát triển các loại hình dân ca, dân vũ đặc biệt này, Phú Thọ còn gìn giữ và bảo tồn trên 150 lễ hội trong đó có nhiều lễ hội đặc sắc và nhiều lễ hội gắn với thờ tự các Vua Hùng, tướng lĩnh, lạc hầu, lạc tướng , cũng như các lễ hội dân gian tiêu biểu như: lễ hội trò trám, lễ hội cướp phết, lễ hội ông Khưu - bà Khưu, lễ hội chọi trâu ở Phù Ninh thuộc đất Phong châu thời các Vua Hùng, lễ hội bơi chải, lễ hội cầu trâu, lễ hội cầu mùa, lễ hội đền mẫu Âu Cơ Các lễ hội tại Phú Thọ còn lại hiện nay đều mang sắc thái riêng với tín ngưỡng tâm linh, linh thiêng, huyền bí và đa màu sắc. Các lễ hội ở đây gợi nhớ cho chúng ta về một thời lập quốc với những bậc tiền nhân cũng như các nhân vật lịch sử có công với dân tộc trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước. Với những giá trị quan trọng về tín ngưỡng thờ tự các Vua Hùng, vừa qua Chính phủ đã có văn bản chỉ đạo Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch và UBND tỉnh Phú Thọ khẩn trương xây dựng hồ sơ về: tín ngưỡng thờ tự Hùng Vương trình UNESCO công nhận là di sản phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp. Với nhận thức đúng đắn về bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa vùng đất Tổ, chúng ta tin tưởng rằng, Phú Thọ sẽ sớm trở thành trung tâm lễ hội về với cội nguồn dân tộc Việt Nam. 34
  35. 1.2. Một vài đặc điểm về bài dân ca - Tính chất: bài hát có tính vui tươi, mang tính châm biếm nhẹ nhàng - Tốc độ nhanh - Hàng âm, điệu thức + Hàng âm của bài có 5 âm, cụ thể: + Xét cấu tạo trên, hàng âm gần với điệu thức vũ (cụ thể Mi vũ) trong hệ thống điệu thức ngũ cung - Cách hát: + Chú ý đến các tiết tấu móc giật, các lời, + Chú ý đến phần giai điệu có bước nhảy 2. Thực hành Bước 1: Chuẩn bị - Bản nhạc, tư liệu nghe bài dân ca . - Xác định âm vực phù hợp cho giọng hát. Bước 2: Đọc Gam rải. - Đọc gam rải đi lên, đi xuống - Chú ý đọc chậm và nhớ âm các bậc của gam Bước 3: Xướng âm. - Xướng âm từng phần, đoạn của bài. - Chú ý: phải xướng âm cả các nốt hoa mỹ, đọc chậm. Khi xướng âm bị sai hoặc lạc giọng cần đọc lại gam rải của bài Bước 4: Ghép lời, hát theo giai điệu. - Trên cơ sở giai điệu xướng âm, ghép lời theo đúng vị trí trên bản nhạc. - Chú ý: hát từng phần với tốc độ chậm vừa. Cần hát đúng đủ các âm luyến, láy và sắc thái của bài Bước 5: Hát hoàn thiện cả bài - Hát đầy đủ bài đúng tốc độ, sắc thái - Chú ý phần sắc thái như các rung, láy, luyến vì sắc thái là đặc trưng, cái hồn của bài. Nội dung bài Bà rằng bà rí (Dân ca Phú Thọ) 35
  36. 3. Hướng dẫn tự học Tìm và nghe bài dân ca Tìm hiểu và nghe thêm các bài dân ca 36
  37. Bài 6. Bèo dạt mây trôi (Dân ca Quan họ) MỤC TIÊU: Sau khi học xong bài này, người học có khả năng: - Kiến thức: kể tên được các lề lối hát Quan họ, những đặc điểm về bài dân Bèo dạt mây trôi. - Kỹ năng: Hát được giai điệu cơ bản bài Bèo dạt mây trôi - Năng lực tự chủ và trách nhiệm: tự học và tìm hiểu các bài dân ca. NỘI DUNG CHÍNH 1. Lý thuyết 1.1. Khái quát về dân ca Quan họ Quê hương Quan họ có nhiều tên gọi khác nhau và địa bàn rộng, hẹp khác nhau, qua các triều đại. Từ xa xưa đã nổi tiếng một vùng Kinh Bắc, xứ sở của Quan họ. Dưới thời Pháp thuộc, cuối thế kỷ XIX, từ ngày 10/10/1895 bắt đầu tồn tại hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang. Từ năm 1963 hai tỉnh đó được sát nhập lại thành một tỉnh Hà Bắc rộng lớn với ngót hai triệu rưởi dân và hơn bốn ngàn rưởi cây số vuông,và tỉnh Hà Bắc đó được xem như quê hương của dân ca Quan họ. Gần đây hai tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang lại được tách ra. Do phần lớn các làng quan họ quần tụ trên mảnh đất Bắc Ninh, chỉ có vài làng nằm trên đất Bắc Giang; nên người ta vẫn thường nói Kinh Bắc ; hay có khi nói Bắc Ninh là quê hương, là chiếc nôi sinh ra và nuôi dưỡng các làng Quan họ. Nhưng về đại quát, quê hương ấy vậy là một vùng đất rộng lớn, phía Bắc sông Hồng, nằm trong vùng văn hoá, văn minh châu thổ sông Hồng, sông Thái Bình, giáp ranh với các tỉnh Lạng Sơn, Bắc Thái, Vĩnh Phú, Hải Hưng, Quảng Ninh ngày nay.Tính từ điểm cực Bắc đến điểm cực Nam đường thẳng chừng 70 km; từ điểm cực Ðông sang điểm cực Tây đường thẳng chừng 120 km, chia làm 3 vùng rõ rệt: miền núi, trung du và đồng bằng. Nhưng các làng Quan họ chủ yếu nằm ở vùng đồng bằng. Trên đất Bắc ninh, Bắc giang có 8 dân tộc chính sinh sống, đó là Việt, Nùng, Tày, Cao Lan, Sán chỉ, Sán Dìu, Dao, Hoa, trong đó, người Việt chiếm hơn 90%, và Quan họ chỉ tồn Các làng quan họ: Nếu lấy tiêu chuẩn để định làng Quan họ là : có các bọn Quan họ đi kết bạn với bọn Quan họ khác giới, khác làng liên tục từ 2,3 thế hệ trở lên; được Quan họ các làng thừa nhận; thì theo nghệ nhân còn sống vào mấy năm đầu những năm 70 cho biết cho tới đầu thế kỷ XX có 49 làng Quan họ. Vào ngày 30/09/2009, quan họ Bắc Ninh đã được tổ chức UNESCO công nhận là di sản không gian văn hóa thế giới phi vật thể. Đó như là một sự khẳng định về giá trị vô giá mà quan họ dân gian đã làm trong suốt nhiều thập kỷ qua, những ảnh hưởng đậm nét mà khó dòng nhạc nào có thể phá bỏ. a) Lề lối hát quan họ 37
  38. Lề lối ca hát Quan họ cũng có nhiều điểm tương đồng với các dân ca khác của người Việt và các dân tộc khác. Nhưng, nhìn chung, lề lối ca hát Quan họ mang tính chất quy củ, khuôn phép chặt chẽ và tác động đến sự giữ gìn, phát triển Quan họ - Hát đối đáp: Khi hát vui ở hội, ở một canh hát gặp gỡ bạn bầu, bao giờ Quan họ cũng tuân theo lề luật: đối đáp nam nữ, đối giọng, đối lời và hát đôi nam đối với nữ. - Hát canh: Nhiều nơi kiêng chữ hát, nên canh hát còn được gọi là canh ca; chẳng hạn: ca một canh. Một canh hát Quan họ đúng lề lối xưa thường diễn ra vào mùa xuân hoặc mùa thu, mùa của hội chùa, hội đình làng vào đám, giữa những nhóm Quan họ nam và nữ mới nhau đến nhà "ca một canh cho vui bàu vui bạn, vui xóm, vui làng, cầu may, cầu phúc” Canh hát có thể diễn ra nhiều ngày với 3 chặng Chặng 1 (chặng đầu tiên): sau những nghi thức giao tiếp giữa Quan họ khách và Quan họ chủ, thường là bên nam, bên nữ, Quan họ đi vào chặng hát đầu tiên. ở chặng hát này, người ta hát những giọng cổ cũng gọi là Giọng lề lối. Truyền rằng xưa Quan họ có đến 36 giọng cổ đã được ghi nhận trong một bài văn vần theo thể lục bát về tên các giọng. Chặng 2 (chặng giữa): Lúc này, Quan họ hát sang những bài thuộc hệ thống mà người Quan họ gọi là Giọng vặt. Tuyệt đại bộ phận trong hệ thống bài ca quan họ còn sưu tập được đến hôm nay là Giọng vặt, trong đó bao gồm nhiều những bài mà hôm nay coi là những ca khúc dân gian mẫu mực ở trình độ nghệ thuật hoà hợp thơ ca và âm nhạc. Hiện nay hệ thống các bài ở chặng này được nhiều người biết đến hơn cả Chặng 3 (chặng cuối): Chặng cuối thường diễn ra vào khoảng 12 giờ đêm, 1 giờ sáng, có thể cuối hoặc gần cuối chặng hát giữa, su lúc người Quan họ mời nhau xơi tiệc mặn và tiệc ngọt có nơi uống rượu, có nơi không. Nếu nơi có uống rượu thì Quan họ chủ thường nâng chén rượu hát bài ca chuốc rượu để mời bạn. Xong bữa tiệc và tuần trầu, nước, Quan họ cũng có thể hát đối đáp thêm một số câu giọng vặt nữa rồi chuyển sang ca những bài ca giã từ bạn - Hát hội: có 2 hình thức hát hội Hát vui : Hội nào cũng có nhiều nhóm Quan họ kéo đến . Hội Lim, có những năm đông vui, hàng trăm nhóm Quan họ của cả vùng kéo về dự hội và ca hát cùng nhau. Trong đó, có những nhóm đã từng đi ca ở hội nhiều năm, nhưng cũng có nhiều nhóm Quan họ trai, gái, lần đầu tiên được các anh nhớn, chị nhớn Quan họ dẫn đi ca ở hội vừa để thành thạo, mạnh dạn hơn về ca hát, vừa để đi tìm nhóm bạn khác giới, khác làng để kết bạn Hát thi : Không phải hội làng nào trong vùng Quan họ cũng có hát thi hoặc hát giải. Cũng không phải ở một làng nào đấy cứ giữ lệ hàng năm đến hội là đều có hát giải. Tuỳ từng năm, ví dụ được mùa, làng mở hội to, dài ngày, Quan họ trong làng náo nức xin dân mời Quan họ các nơi về hát giải , thì năm ấy, có thể có hát giải trong hội. Muốn mở hội hát giải ở một làng thì làng ấy phải chọn được nhóm quan họ ra giữ giải, để Quan họ các nơi về phá giải hay cũng gọi là giật giải. 38
  39. - Hát lễ thờ; Khi các Quan họ rủ nhau đến hội làng để hát vui hoặc hát giải, thì mỗi nhóm Quan họ thường sắm sửa trầu, cau, hương, nến, hoa quả để vào đình làm lễ thánh và cũng là lễ trình dân. Các nhóm Quan họ thường rủ nhau có nam, có nữ cùng vào làm lễ. Khi các Quan họ xin vào đặt lễ thờ thì thường được các vị "nóc dân đầu xã, bô lão, bàn bạc " Trong làng có hội tiếp đón một cách trang trọng, nồng hậu, dù dưới thời phong kiến rất ngặt nghèo với việc có đàn bà, con gái trước bàn thờ Thành hoàng làng vào những dịp lễ trọng - Hát cầu đào: Hát cầu đảo thường chỉ có Quan họ nữ. Dân làng gọi hết Quan họ nữ trong làng, giữ gìn chay tịnh, đến ăn ngủ tại cửa đền hát liền 2, 3 ngày đêm. Không hát những bài tình tứ trao duyên như Quan họ thường hát mà chỉ hát những bài có nội dung cầu nguyện mưa thuận gió hoà và chỉ hát một giọng La rằng. Ngoài ra còn các lối hát khác như: Hát mừng, hát kết chạ, hát giải hạn Tục kết bạn trong quan họ: thường gắn với việc quan họ nam làng A kết bạn với quan họ nữ làng B và có thể có tục kết bạn của nhiều nhóm quan họ với nhau. Đôi khi các làng quan họ sau khi kết bạn thì trai, gái hai làng sẽ không kết hôn với nhau. b) Các dạng hát Quan họ Ngoài dạng hát là dạng phổ biến, dân ca Quan họ còn có những giọng thiên về dạng ngâm, như giọng Phú hoặc thiên về dạng nói, như Ðào nương Cấu trúc của bài quan họ dạng hát học có thể có đủ ba phần: Bỉ - Thân – Đổ nó tương ứng với mở bài - thân bài- kết bài 1.2. Một vài đặc điểm về bài dân ca - Tính chất - Hàng âm, điệu thức + Hàng âm của bài chủ yếu là năm âm F-G-A-C-D, tuy nhiên trong bài có xuất hiện nốt si giáng nhưng nó mang tính âm mượn. + Điệu thức của bài mang bản chất của điệu thức cung (Pha cung). Trong quá trình đọc gam rải có thể đọc gam dải theo hàng âm trên hoặc theo gam của điệu Pha cung. 2. Thực hành Bước 1: Chuẩn bị - Bản nhạc, tư liệu nghe bài dân ca . - Xác định âm vực phù hợp cho giọng hát. Bước 2: Đọc Gam rải. - Đọc gam rải đi lên, đi xuống 39
  40. - Chú ý đọc chậm và nhớ âm các bậc của gam Bước 3: Xướng âm. - Xướng âm từng phần, đoạn của bài. - Chú ý: phải xướng âm cả các nốt hoa mỹ, đọc chậm. Khi xướng âm bị sai hoặc lạc giọng cần đọc lại gam rải của bài Bước 4: Ghép lời, hát theo giai điệu. - Trên cơ sở giai điệu xướng âm, ghép lời theo đúng vị trí trên bản nhạc. - Chú ý: hát từng phần với tốc độ chậm vừa. Cần hát đúng đủ các âm luyến, láy và sắc thái của bài Bước 5: Hát hoàn thiện cả bài - Hát đầy đủ bài đúng tốc độ, sắc thái - Chú ý phần sắc thái như các rung, láy, luyến vì sắc thái là đặc trưng, cái hồn của bài. Nội dung bài Bèo dạt mây trôi (Dân ca quan họ) 3. Hướng dẫn tự học Tìm và nghe bài dân ca Tìm hiểu và nghe thêm các bài dân ca 40
  41. Bài 7. Đi cấy (Dân ca Thanh Hóa) MỤC TIÊU: Sau khi học xong bài này, người học có khả năng: - Kiến thức: trình bày được một số đặc điểm về văn hoá của tỉnh Thanh Hoá;s đặc điểm về bài dân ca Đi cấy. - Kỹ năng: Hát được giai điệu cơ bản bài Đi cấy - Năng lực tự chủ và trách nhiệm: tự học và tìm hiểu các bài dân ca. NỘI DUNG CHÍNH NỘI DUNG CHI TIẾT: 1. Lý thuyết 1.1. Khái quát về văn hoá tỉnh Thanh Hoá Thanh Hóa là vùng đất địa đầu của vùng Bắc Trung Bộ Việt Nam, tựa lưng vào lục địa và nhìn ra biển khơi, là cầu nối đất liền với hải đảo. Xét trong lịch sử thì Thanh Hóa không phải là nơi phồn hoa đô hội, cũng không phải là trung tâm kinh tế trọng yếu của đất nước, nhưng là cái nôi hội nhập giữa nền văn hóa ngàn năm đến từ phương Bắc với văn hóa bản địa và văn hóa phương Nam truyền ra, để tạo nên nét đặc thù gọi là Văn hóa xứ Thanh. Và trong tiến trình lịch sử lâu dài, người dân Thanh Hóa đã đưa nền văn hóa của mình đạt đến đỉnh cao với nhiều mảng màu đặc sắc, đa dạng có, đặc trưng riêng. Trong cái nhìn toàn diện, xuyên suốt tiến trình lịch sử, bắt đầu từ buổi bình minh của vùng đất này cho đến khi trở thành Bộ Cửu Chân trong đất nước của các vua Hùng, có cương vực và lãnh thổ được xác định tương đương tỉnh Thanh Hóa hiện nay, có thể nói Thanh Hóa là vùng đất có một hệ thống di sản văn hóa và di sản thiên nhiên hết sức phong phú và đa dạng. Khoanh vùng ở di sản văn hóa, kết hợp cả hai cái nhìn lịch sử và đồng đại, chúng tôi có thể trình bày hệ thống di sản văn hóa và di sản thiên nhiên Thanh Hóa theo các nhóm sau đây: a) Di sản văn hóa vật thể Loại hình di sản này chủ yếu được tồn tại dưới dạng di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh; di vật; cổ vật; bảo vật quốc gia thuộc địa bàn tỉnh Thanh Hóa. Về loại hình di tích, chúng tôi tạm phân chia như sau: - Nhóm di tích thời tiền sử - sơ sử Thời đại đồ đá cũ cách ngày nay chừng 25.000 đến 30.000 năm, bao gồm một số di tích tiêu biểu như Núi Đọ (Thiệu Hoá), núi Nuông, núi Quan Yên (Yên Định) và các di tích hang Làng Tráng, Mái Đá Điều (Bá Thước), hang Con Moong (Thạch Thành) là những di tích quan trọng về hậu kỳ thời đại đá cũ; đặc biệt trong đó có di chỉ hang Con Moong ngoài tầng Văn hoá Sơn Vi (hậu kỳ đá cũ), còn có các tầng văn hoá chứa đựng các di vật của nền Văn hoá Hoà Bình và Văn hoá Bắc Sơn (thuộc sơ kỳ Thời đại đá mới). 41
  42. Thuộc sơ kỳ Thời đại đá mới, chúng ta có đến 17 địa điểm thuộc Văn hoá Hoà Bình được phát hiện, khai quật ở miền núi Thanh Hoá từ những năm đầu của thế kỷ XX và 14 địa điểm khác có niên đại cùng thời được phát hiện khai quật từ sau năm 1954. Niên đại của các địa điểm này cách ngày nay chừng 1 vạn năm. Văn hoá nổi tiếng - Văn hoá Đa Bút với 4 di chỉ tiêu biểu được phát hiện, khai quật là Di chỉ Đa Bút (Vĩnh Tân), làng Còng (Vĩnh Hưng) thuộc huyện Vĩnh Lộc; Di tích Cồn Cổ Ngựa (Hà Lĩnh) thuộc huyện Hà Trung và Di tích Gò Trũng (Phú Lộc) thuộc huyện Hậu Lộc. Cho đến nay, di sản khảo cổ học Thời đại đồ đá có 54 địa điểm, trong đó có 19 di tích thuộc Thời đại đá cũ và 35 địa điểm thuộc Thời đại đồ đá mới. Đến thời đại kim khí, các nhà khảo cổ học đã chia giai đoạn phát triển này thành 2 thời kỳ: giai đoạn Tiền Đông Sơn (từ buổi đồ đồng xuất hiện) đến giai đoạn thuộc Văn hoá Đông Sơn (sơ kỳ đồ sắt). Cùng với các bước của thời kỳ phát triển này của Quốc gia Văn Lang đó là các văn hoá Phùng Nguyên - Đồng Đậu - Gò Mun thì Thanh Hoá có 4 giai đoạn phát triển tương ứng đó là Cồn Chân Tiên - Đông Khối, Quỳ Chữ và Đông Sơn. Với 26 địa điểm khảo cổ học thuộc giai đoạn Tiền Đông Sơn và 85 di tích thuộc Văn hoá Đông Sơn cho biết cư dân Thanh Hoá đã đóng góp một phần quan trọng không thể thiếu trong bức tranh chung về quá trình hình thành dân tộc ở buổi đầu trong lịch sử Tổ quốc. Trống đồng Đông Sơn. - Nhóm di tích khảo cổ học lịch sử Hệ thống di sản khảo cổ học lịch sử chúng ta chỉ mới phát hiện được một số di tích thuộc loại hình này như Quần thể Mộ cổ người Hán ở phường Quang Trung (Bỉm Sơn), Di tích núi Trịnh (xã Thiệu Hợp - Thiệu Hoá), Văn hoá Lạch Trường (Hoằng Hoá - Hậu Lộc), Thành Tư Phố (Thiệu Dương - thành phố Thanh Hóa), Thành Đông Phố (Đông Hoà - Đông Sơn), Trấn Thành Thanh Hoá thời Lê (Thiệu Dương - thành phố Thanh Hoá), Hành cung Vạn Lại - Yên Trường (Thọ Lập, Xuân Châu - Thọ Xuân). Một số di tích khảo cổ học phong kiến như Khu Di tích Lam Kinh (Thọ Xuân), Đàn Tế Nam Giao và một số điểm trong Thành Nhà Hồ (Vĩnh Lộc), Chùa Linh Xứng (Hà Ngọc - Hà Trung), Lăng miếu Triệu Tường (Hà Long - Hà Trung). Một số lăng mộ như Lăng mộ 42
  43. Vua Lê Dụ Tông (Xuân Quang - Thọ Xuân), Mộ Quận công Nguyễn Đình Hoán (Vạn Hà - Thiệu Hoá). Các dấu vết thành luỹ như Thành luỹ Khu căn cứ chống Pháp Ba Đình (Nga Sơn), Thành Bãi Bò (Hà Tiến - Hà Trung), Căn cứ núi Văn Trinh của Trần Nhật Duật (thời Trần), Khu căn cứ Trịnh Vạn của Cầm Bá Thước - Nhóm di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Theo thống kê sơ bộ, hiện nay trên địa bàn Thanh Hoá có các loại hình thờ cúng mà chúng ta thường gặp trên thực địa bao gồm: đình, chùa, đền, am, điện, văn miếu, võ miếu, văn chỉ, võ chỉ, đàn, nghè, miếu, tỉnh, quán, cây ban (cây hương), sinh từ, cung, lăng, tẩm, phủ, nhà thờ họ, nhà thờ (công giáo), đài liệt sĩ, v.v Các loại hình di tích này vừa có giá trị về lịch sử văn hóa, vừa có giá trị về kiến trúc nghệ thuật chiếm một số lượng đáng kể với hàng nghìn di tích. Ngoài ra, còn có gần 100 nhà thờ thuộc đạo Kitô và một phức hệ di tích liên quan đến một nhóm cư dân Chăm Pa (đã Việt hóa). Nhóm di tích danh lam thắng cảnh Đó là hệ thống các làng, bản cổ của người Việt, người Mường, người Thái nằm dọc đôi bờ của sông Mã, sông Chu. Có thể kể những ngôi làng nổi tiếng như thế như Kẻ Nưa (Triệu Sơn), Kẻ Sập, Làng Cham (Thọ Xuân), làng Gia Miêu (Hà Trung), Kẻ Rủn (Đông Sơn), làng Sóc Sơn (Vĩnh Lộc), làng Đông Sơn (thành phố Thanh Hoá) ở vùng đồng bằng; Làng Du Xuyên (Tĩnh Gia); Ngọc Liên (Nga Sơn), Kẻ Nham (Quảng Xương), Làng Núi (thị xã Sầm Sơn), làng Trương Xá (Hậu Lộc) ở vùng ven biển; Làng Năng Cát (Lang Chánh), làng Muốt (Cẩm Thủy) ở miền núi, v.v Các khu bảo tồn thiên nhiên đặc sắc như Vườn Quốc gia Phù Luông (Bá Thước), Bến En (Như Thanh), Rừng Sến Tâm Quy (Hà Trung), Son Bá Mười (Bá Thước) cùng những khu rừng ngập mặn ở Hải Lộc (Hậu Lộc), Lạch Bạng (Tĩnh Gia) Về hệ thống danh sơn được ghi trong sử cũ như: núi Thiết Giáp, núi Vạn Sơn, núi Song Ngưu, núi Chích Trợ, núi Vân Nham, núi Triệu Tường, núi Ngưỡng Sơn, núi Kim Âu, núi Thần Đầu, núi Kim Sơn, núi Xuân Đài, núi Tiến sĩ, núi Nưa, núi Lam Sơn, Chủ Sơn, Linh Sơn, núi Đồng Cổ, núi Quan Yên, núi Linh Trường, núi Kỳ Lân, núi Hàm Rồng, núi Long Cương, Bàn A sơn thập cảnh, Thanh Hóa cũng là nơi có những dòng sông như Mã Giang, Lương Giang (sông Chu), Tống Giang, Nga Giang, Ngu Giang, Trường Giang, Châu Giang, Thọ Giang, Mã Bà Giang, Đạt Giang được phân bố chi chít trên địa bàn cùng với hệ thống đầm Lạch như Thác Kim Sơn (Vĩnh Lộc), Cửa Hới, Trà Khê, Cửa Trường (Hoằng Hoá), Nga Cảng (Nga Sơn), Xước Cảng (Tĩnh Gia) là những địa danh tạo nên những vùng văn hoá đặc trưng, góp phần làm nên diện mạo của hệ thống di tích – danh thắng thêm phần phong phú. Hoá cũng có những bãi cát trắng trải dài dọc bờ biển, bên cạnh những vụng, vịnh nông ven bờ nổi tiếng như Sầm Sơn (thị xã Sầm Sơn), Hải Tiến (Hoằng Hóa), Hải Hoà (Tĩnh Gia) là yếu tố để hình thành nên những cộng đồng cư dân ven biển, với những cụm làng xã làm nghề cá nổi tiếng như Diêm Phố (Hậu Lộc), Du Xuyên (Tĩnh Gia) - Nhóm di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia 43
  44. Thuộc loại hình di sản này, chúng ta đã có một số lượng hàng trăm văn bia được phát hiện nghiên cứu có niên đại ở thời kỳ Lý - Trần, thời Lê sơ, thời Hậu Lê và thời Nguyễn; trong đó có những tấm bia được Thủ tướng Chính phủ công nhận Bảo vật quốc gia như Bia Vĩnh Lăng, Bia Ngô Thị Ngọc Giao (Khu Di tích lịch sử Lam Kinh); đặc biệt hơn, Thanh Hóa cũng có một tấm bia được xem là cổ nhất Việt Nam có niên đại Đại Nghiệp thứ 14 năm 618 (thời nhà Đường) dựng ở làng Trường Xuân (nay thuộc xã Đông Ninh, huyện Đông Sơn). Các di vật khác như trống đồng, chuông đồng, khánh đồng, khánh đá; hoành phi, đại tự, biển gỗ, câu đối, thư tịch Hán Nôm của người Kinh, thư tịch Hán Nôm của các dân tộc ít người (Dao, Mường, Thổ ), sắc phong, lệnh chỉ; các loại di vật gốm sứ thời Lý, thời Trần, thời Lê, thời Nguyễn là một nguồn di sản vật thể vô cùng phong phú, đa dạng và đồ sộ, đã phán ánh bức tranh nhiều sắc màu và giàu sức sống của văn hóa Việt Nam. Vườn Quốc gia Pù Luông. b) Di sản văn hóa phi vật thể Căn cứ Nghị định số 98/2010/ND-CP của Chính phủ và Công ước 2003 của UNESCO, chúng tôi phân chia hệ thống di sản phi vật thể dưới các hình thức như sau: - Tiếng nói, chữ viết: Thanh Hóa là vùng đất có 7 tộc người sinh sống gồm người Kinh (Việt), Mường, Thái, Dao, H’Mông, Khơ Mú, Thổ. Mỗi tộc người có một tiếng nói riêng (phương ngữ); hàng trăm làng xã có hàng trăm thổ âm khác nhau, thậm chí trong một xã có 3 làng thì cả ba làng đều có giọng nói khác nhau. Việc tìm hiểu nguyên nhân tạo ra các vùng thổ âm khác nhau là một vấn đề khó khăn và phức tạp. Tuy vậy, trên địa bàn Thanh Hóa cũng hình thành những vùng phương ngữ khác nhau của các tộc người; đặc biệt ở người Kinh có những vùng phương ngữ rất đặc biệt, nó vẫn được tôn trọng và tự bản thân nó có sức sống lâu bền, trường tồn. Phương ngữ không chỉ là tiếng mẹ đẻ để giao tiếp với nhau trong gia đình, trong cộng đồng, mà nó còn là phương tiện để bảo lưu truyền bá văn học dân gian. Nó còn là “một công cụ vô cùng đắc lực cho mọi khoa học khảo cứu đến lịch 44
  45. sử, trong đó có dân tộc học, lịch sử văn hóa cũng như lịch sử dân tộc”. Thanh Hóa có những vùng phương ngữ đặc biệt như tiếng nói của người làng Thanh Đớn (Hà Thanh - Hà Trung), tiếng làng Kênh Thủy (Vĩnh Thịnh - Vĩnh Lộc) và các vùng phương ngữ khác. Về chữ viết: Thanh Hóa có một di sản chữ Thái cổ của cộng đồng cư dân Thái ở vùng phía Tây Thanh Hóa được tồn tại dưới dạng các bản trường ca (Trường ca Ú Thêm, Trường Ca Khăm Panh), các loại sách ghi chép về y học dân gian, v.v - Ngữ văn dân gian: Là một loại hình di sản truyền khẩu tồn tại ở tất cả 7 tộc người, nó bao gồm rất nhiều thể loại như ca dao, tục ngữ, câu đố, truyện cổ tích, hát ru, truyền thuyết, sử thi, thơ, bùa ngải, cầu cúng, bài tụng, hát, kịch, Ở loại hình di sản này, Thanh Hóa đã có những thành tựu nhất định trong việc nghiên cứu sưu tầm vốn tục ngữ của người Dao, Thái, Mường, Việt, câu đố người Việt; Ca dao - Đồng dao (Ca dao sưu tầm ở Thanh Hóa do nhóm Lam Sơn, Nxb Văn học 1963). Dân ca dân tộc Dao (Xa vắng em, Những khúc tình ca, Canh khuya tìm bạn); Dân ca người Thái (Hát xin mưa, Lời thương ý tứ gửi trao, Khặp Táy Mươi Thường Xuân, Lời nhắn lời chằng dứt, Khặp thả ); Dân ca Mường (Xường Thiết Ống, Xường Nài, Qua cầu cây si xoắn vặn, Dậy xường (Dần cung xường), Bộ Mẹng, Dân ca tiết lễ, Mo cúng ); Dân ca người Việt (Hò sông Mã, hát ghẹo, hát ru, hát nghi lễ). Truyện thơ - vè [Khăm Panh (Thái), Nàng Nga Hai Mối (Mường), Đẻ đất, đẻ nước (Mường); Nhật trình đường bộ, Nhật trình đường biển, vè Đánh bạc, vè Nước khô rồi nước lại hồi (Việt)] Truyện kể các dân tộc ít người (Tại sao người đàn bà Khơ mú mặc áo trắng, Bốn anh tài, Người trong cung trăng, Nàng tóc thơm ); Truyện kể người Việt (Ông Công đá, sự tích thần Độc Cước, truyền thuyết Bà Triệu, Bà nữ tướng trang An Nội, truyền thuyết Lê Lợi, truyện Trạng Quỳnh, truyện Xiển Bột ), v.v Các truyền thống và loại hình truyền khẩu này nhằm truyền dạy kiến thức, các giá trị văn hóa xã hội và các ký ức của cộng đồng, nó đóng một vai trò quan trọng của sức sống văn hóa. - Nghệ thuật trình diễn dân gian Nghệ thuật trình diễn dân gian (hay là nghệ thuật diễn xướng) bao gồm nhạc không lời, hát, múa, kịch, kịch câm, ngâm thơ và các loại hình khác. Ở loại hình nghệ thuật trình diễn này, Thanh Hóa còn bảo tồn được một số trò diễn đặc sắc đến ngày nay như Trò Chiềng (Yên Ninh, Yên Định), Sến vật làng Bọc (làng Vực Phác - xã Định Liên, Yên Định); Trò Xuân Phả (Xuân Trường - Thọ Xuân), Trò Chụt (làng Thiết Đanh - xã Định Tường, Yên Định), Trống hội làng Phú Khê (Hoằng Phú - Hoằng Hóa), v.v Âm nhạc truyền thống, trò diễn dân gian là những loại hình then chốt thúc đẩy văn hóa để thu hút du lịch. Các tập quán xã hội, tín ngưỡng và các lễ hội Các tập quán xã hội, tín ngưỡng và lễ hội là các hoạt động thường xuyên được một cộng đồng hay một nhóm người thực hiện tạo nên cơ cấu cuộc sống hàng ngày của họ. Nó thường diễn ra hoặc có thể đánh dấu thời điểm chuyển mùa, sự kiện trong nông lịch hay các giai đoạn trong cuộc đời một con người. Các tập quán này gắn bó mật thiết với cách nhìn nhận về thế giới hay về lịch sử và ký ức của một cộng đồng. Tục thờ cúng tổ tiên và việc thực hành các nghi lễ ở người Mường; nghi lễ nông nghiệp truyền thống (thờ 45
  46. cây lúa) ở người Mường; Lễ cấp sắc ở người Dao; Lễ mừng năm mới, lễ hội vào mùa xuân và kết thúc một vụ thu hoạch là những lễ hội phổ biến ở tất cả 7 tộc người trên địa bàn Tỉnh. Riêng về lễ hội dân gian truyền thống, Thanh Hóa có đến hàng mấy trăm lễ hội, lễ tục khác nhau, nó được diễn ra với nhiều hình thức muôn màu muôn vẻ, nó là dịp để thu hút mọi người quay lại quê hương để tham gia cùng với gia đình và cộng đồng của họ và để tái khẳng định bản sắc và mối quan hệ gắn bó với các truyền thống của cộng đồng mình. Một số lễ tục, lễ hội truyền thống tiêu biểu như: Lễ tục Pồn Poông (dân tộc Mường), Lễ tục làng Thiết Đanh (dân tộc Kinh), Lễ tục Kin Chiêng boóc mạy (dân tộc Thái), Lễ tục Đền Ối, Lễ hội Đền Độc Cước, Lễ hội làng Duy Tinh, Lễ hội làng Cự Nham, Lễ hội làng Vạc, Lễ hội làng Xuân Phả, Lễ hội đền Bà Triệu, Lễ hội Lam Kinh, Lễ hội Đền Bưng, Lễ hội Cầu Ngư làng Diêm Phố, Lễ hội đền Đồng Cổ, Lễ hội làng Hoàng Bột (dân tộc Kinh), v.v - Tri thức và các tập tục liên quan đến tự nhiên và vũ trụ Hình thức này bao gồm nhiều tiểu hình thức như tri thức truyền thống về hệ sinh thái, tri thức bản địa (tri thức địa phương), tri thức về hệ động thực vật, các hệ thống chữa bệnh truyền thống, nghi lễ, tín ngưỡng, lễ trưởng thành, cấp sắc, tri thức về vũ trụ, các lễ nhập hồn, các tổ chức xã hội, lễ hội, ngôn ngữ và các hình thức nghệ thuật hình ảnh. Ở người Mường người Thái họ có tri thức bản địa vô cùng phong phú trong việc bảo vệ tài nguyên đất, tài nguyên nước, tài nguyên rừng; người Kinh có tri thức trong nhật trình đi biển; kinh nghiệm bảo vệ môi trường sinh thái, v.v - Nghề thủ công truyền thống Hình thức của thủ công truyền thống như dụng cụ; quần áo trang sức; trang phục và các phục trang sử dụng trong lễ hội và nghệ thuật diễn xướng; các vật đựng đồ đạc hàng hóa; các đồ vật sử dụng để giữ đồ, vận chuyển hay che chắn; nghệ thuật trang trí và các hiện vật thiêng; dụng cụ âm nhạc và các vật dụng gia đình; đồ chơi phục vụ giáo dục và giải trí; tranh dân gian, chạm khắc đá, đồng dân gian Những hình thức này của thủ công truyền thống tồn tại sâu đậm trong đời sống sinh hoạt của 7 tộc người trên địa bàn tỉnh. Gần 40 nghề thủ công truyền thống bước đầu đã được nghiên cứu, sưu tầm, trong đó có một số nghề tiêu biểu đặc sắc của các tộc người như nghề làm giấy của người Dao, nghề dệt vải lanh của người H’Mông; nghề dệt truyền thống của người Thái, nghề đan lát của các dân tộc ở miền núi, nghề đục đá làng Nhồi (thành phố Thanh Hóa), nghề đúc đồng ở Kẻ Chè (Thiệu Trung) Với một tiềm năng to lớn về hệ thống di sản văn hóa và di sản thiên nhiên như vậy, chắc chắn, đấy sẽ là một nguồn lực quan trọng không thể thiếu đối với sự phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh Thanh Hóa trên đường hội nhập và phát triển đất nước. 1.2. Một vài đặc điểm về bài dân ca - Tính chất - Hàng âm, điệu thức 46
  47. 2. Thực hành Bước 1: Chuẩn bị - Bản nhạc, tư liệu nghe bài dân ca . - Xác định âm vực phù hợp cho giọng hát. Bước 2: Đọc Gam rải. - Đọc gam rải đi lên, đi xuống - Chú ý đọc chậm và nhớ âm các bậc của gam Bước 3: Xướng âm. - Xướng âm từng phần, đoạn của bài. - Chú ý: phải xướng âm cả các nốt hoa mỹ, đọc chậm. Khi xướng âm bị sai hoặc lạc giọng cần đọc lại gam rải của bài Bước 4: Ghép lời, hát theo giai điệu. - Trên cơ sở giai điệu xướng âm, ghép lời theo đúng vị trí trên bản nhạc. - Chú ý: hát từng phần với tốc độ chậm vừa. Cần hát đúng đủ các âm luyến, láy và sắc thái của bài Bước 5: Hát hoàn thiện cả bài - Hát đầy đủ bài đúng tốc độ, sắc thái - Chú ý phần sắc thái như các rung, láy, luyến vì sắc thái là đặc trưng, cái hồn của bài. Nội dung bài Đi cấy (Dân ca Thanh Hoá) 47
  48. 3. Hướng dẫn tự học Tìm và nghe bài dân ca Tìm hiểu và nghe thêm các bài dân ca 48
  49. Bài 8. Tát nước đêm trăng (Dân ca Chăm) MỤC TIÊU: Sau khi học xong bài này, người học có khả năng: - Kiến thức: trình bày được một số đặc điểm về văn hoá dân tộc Chăm; trình bày được đặc điểm bài dân ca Tát nước đêm trăng. - Kỹ năng: Hát được giai điệu của bài hát - Năng lực tự chủ và trách nhiệm: tự học, tự tiểm hiểu các bài dân ca NỘI DUNG CHI TIẾT: 1. Lý thuyết 1.1. Khái quát về dân tộc Tên gọi khác: Chàm, Chiêm, Chiêm Thành, Chăm Pa, Hời Nhóm địa phương: Chăm Hroi, Chăm Poổng, Chà Và Ku, Chăm Châu Ðốc. Dân số: 161.729 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009). Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Malayô - Polynéxia (ngữ hệ Nam Ðảo). Lịch sử: Dân tộc Chăm vốn sinh tụ ở duyên hải miền Trung Việt Nam từ rất lâu đời, đã từng kiến tạo nên một nền văn hoá rực rỡ với ảnh hưởng sâu sắc của văn hoá ấn Ðộ. Ngay từ những thế kỉ thứ XVII, người Chăm đã từng xây dựng nên vương quốc Chăm pa. Hiện tại cư dân gồm có hai bộ phận chính: Bộ phận cư trú ở Ninh Thuận và Bình Thuận chủ yếu theo đạo Bà la môn (một bộ phận nhỏ người Chăm ở đây theo đạo Islam truyền thống gọi là người Chăm Bà ni). Bộ phận cư trú ở một số địa phương thuộc các tỉnh Châu Ðốc,Tây Ninh, An Giang, Ðồng Nai và thành phố Hồ Chí Minh theo đạo Islam (Hồi giáo) mới. Các sản phẩm gốm bàn xoay của người Chăm rất nổi tiếng và phổ biến ở miền Trung. Phụ nữ giữ vai trò quan trọng trong việc tạo ra các sản phẩm đó. Hoạt động sản xuất: Người Chăm có truyền thống nông nghiệp ruộng nước, giỏi làm thuỷ lợi và làm vườn trồng cây ăn trái. Bên cạnh việc làm ruộng nước vẫn tồn tại loại hình ruộng khô một vụ trên sườn núi. Bộ phận người Chăm ở Nam Bộ lại sinh sống chủ yếu bằng nghề chài lưới, dệt thủ công và buôn bán nhỏ, nghề nông chỉ là thứ yếu. 49
  50. Nghề thủ công phát triển ở vùng Chăm nổi tiếng là dệt lụa tơ tằm và nghề gốm nặn tay, nung trên các lò lộ thiên. Việc buôn bán với các dân tộc láng giềng đã xuất hiện từ xưa. Vùng duyên hải miền Trung đã từng là nơi hoạt động của những đội hải thuyền nổi tiếng trong lịch sử. Ăn: Người Chăm ăn cơm, gạo được nấu trong những nồi đất nung lớn, nhỏ. Thức ăn gồm cá, thịt, rau củ, do săn bắt, hái lượm và chăn nuôi, trồng trọt đem lại. Thức uống có rượu cần và rượu gạo. Tục ăn trầu cau rất phổ biến trong sinh hoạt và trong các lễ nghi phong tục cổ truyền. Mặc: Nam nữ đều quấn váy tấm. Ðàn ông mặc áo cánh ngắn xẻ ngực cài khuy. Ðàn bà mặc áo dài chui đầu. Màu chủ đạo trên y phục là màu trắng của vải sợi bông. Ngày nay, trong sinh hoạt hằng ngày, người Chăm ăn mặc như người Việt ở miền Trung, chỉ có chiếc áo dài chui đầu là còn thấy xuất hiện trong giới nữ cao niên. Nghề dệt thổ cẩm của người Chăm đang phát triển và thích ứng với kinh tế hàng hoá, phục vụ đáng kể cho nhu cầu du khách khắp cả nước. Ở: Người Chăm cư trú tại Ninh Thuận, Bình Thuận, ở nhà đất (nhà trệt). Mỗi gia đình có những ngôi nhà được xây cất gần nhau theo một trật tự gồm: nhà khách, nhà của cha mẹ và các con nhỏ tuổi, nhà của các cô gái đã lập gia đình, nhà bếp và nhà tục trong đó có kho thóc, buồng tân hôn và là chỗ ở của vợ chồng cô gái út. tiện vận chuyển: Chủ yếu và thường xuyên vẫn là cái gùi cõng trên lưng. Cư dân Chăm cũng là những người thợ đóng thuyền có kỹ thuật cao để hoạt động trên sông và biển. Họ làm ra những chiếc xe bò kéo, trâu kéo có trọng tải khá lớn để vận chuyển trên bộ. Quan hệ xã hội: Gia đình người Chăm mang truyền thống mẫu hệ, mặc dù xã hội Chăm trước đây là xã hội đẳng cấp, phong kiến. ở những vùng theo Hồi giáo Islam, tuy gia đình đã chuyển sang phụ hệ, vai trò nam giới được đề cao, nhưng những tập quán mẫu hệ vẫn tồn tại khá đậm nét trong quan hệ gia đình, dòng họ với việc thờ cúng tổ tiên. Cư dân Chăm vốn được phân thành hai thị tộc: Cau và Dừa như hai hệ dòng Niee và Mlô ở dân tộc £ đê. Về sau thị tộc Cau biến thành tầng lớp của những người bình dân, trong khi thị tộc Dừa trở thành tầng lớp của quý tộc và tăng lữ. Dưới thị tộc là các dòng họ theo huyết hệ mẹ, đứng đầu là một người đàn bà thuộc dòng con út. Mỗi dòng họ lại có nhiều chi họ. Xã hội cổ truyền Chăm được phân thành các đẳng cấp như xã hội ấn Ðộ cổ đại. Họ có những vùng cư trú riêng và có những ngăn cách rõ rệt: không được thiết lập quan hệ hôn nhân, không sống cùng một xóm, không ăn cùng một mâm 50
  51. Cưới xin: Phụ nữ chủ động trong quan hệ luyến ái. Hôn nhân cư trú phía nhà vợ, con sinh ra đều theo họ mẹ. Sính lễ do nhà gái lo liệu. Gia đình một vợ một chồng là nguyên tắc trong hôn nhân. Ma chay: Người Chăm có hai hình thức đưa người chết về thế giới bên kia là thổ táng và hoả táng. Nhóm cư dân theo đạo Bà la môn thường hoả táng theo giáo luật, còn các nhóm cư dân khác thì thổ táng. Những người trong cùng một dòng họ thì được chôn cất cùng một nơi theo huyết hệ mẹ. Ðền tháp là di sản văn hoá độc đáo của người Chăm tồn tại hàng bao thế kỷ vẫn luôn gắn bó với đời sống tinh thần, tình cảm của người dân. Nhà mới: Người Chăm ở Ninh Thuận, Bình Thuận khi dựng nhà mới phải thực hiện một số nghi lễ cúng thần như: cúng Thổ thần để đốn gỗ tại rừng. Khi gỗ vận chuyển về làng phải làm lễ đón cây. Lễ phạt mộc được tổ chức để khởi công cho việc xây cất ngôi nhà. Lễ tết: Người ta thực hiện nhiều nghi lễ nông nghiệp trong một chu kỳ năm như: lễ khai mương đắp đập, lễ hạ điền, lễ mừng lúa con, lễ mừng lúa ra đòng. Nhưng lễ lớn nhất vẫn là lễ Bon katê được tổ chức linh đình tại các đền tháp vào giữa tháng mười âm lịch. Lịch: Người Chăm có nông lịch cổ truyền tính theo lịch âm. Học: Dân tộc Chăm có chữ từ rất sớm. Hiện tồn tại nhiều bia kí, kinh bằng chữ Chăm. Chữ Chăm được sáng tạo dựa vào hệ thống văn tự Sascrit, nhưng việc sử dụng chữ này còn rất hạn hẹp trong tầng lớp tăng lữ và quý tộc xưa. Việc học hành, truyền nghề, vẫn chủ yếu là truyền khẩu và bắt chước, làm theo. Văn nghệ: Nhạc cụ Chăm nổi bật có trống mặt da Paranưng, trống vỗ, kèn xaranai. Nền dân ca - nhạc cổ Chăm đã để lại nhiều ảnh hưởng đến dân ca - nhạc cổ của người Việt ở miền Trung như trống cơm, nhạc nam ai, ca hò Huế Dân vũ Chăm được thấy trong các ngày hội Bon katê diễn ra tại các đền tháp. Chơi: Trẻ em thích đánh cù và thả diều, đánh trận giả, thi cướp cờ, chơi trò bịt mắt bắt dê. 51
  52. 1.2. Một vài đặc điểm về bài dân ca Tính chất - Hàng âm 2. Thực hành Bước 1: Chuẩn bị - Bản nhạc, tư liệu nghe bài dân ca . - Xác định âm vực phù hợp cho giọng hát. Bước 2: Đọc Gam rải. - Đọc gam rải đi lên, đi xuống - Chú ý đọc chậm và nhớ âm các bậc của gam Bước 3: Xướng âm. - Xướng âm từng phần, đoạn của bài. - Chú ý: phải xướng âm cả các nốt hoa mỹ, đọc chậm. Khi xướng âm bị sai hoặc lạc giọng cần đọc lại gam rải của bài Bước 4: Ghép lời, hát theo giai điệu. - Trên cơ sở giai điệu xướng âm, ghép lời theo đúng vị trí trên bản nhạc. - Chú ý: hát từng phần với tốc độ chậm vừa. Cần hát đúng đủ các âm luyến, láy và sắc thái của bài Bước 5: Hát hoàn thiện cả bài - Hát đầy đủ bài đúng tốc độ, sắc thái - Chú ý phần sắc thái như các rung, láy, luyến vì sắc thái là đặc trưng, cái hồn của bài. Nội dung bài Tát nước đêm trăng (dân ca Chăm) 52
  53. 3. Hướng dẫn tự học Tìm và nghe bài dân ca Tìm hiểu và nghe thêm các bài dân ca 53
  54. Bài 9. Ru em (Dân ca Xơ Đăng) MỤC TIÊU: khi học xong bài này, người học có khả năng: - Kiến thức: trình bày được một số đặc điểm về văn hoá dân tộc Xơ Đăng; trình bày được đặc điểm bài dân ca Ru em - Kỹ năng: Hát được giai điệu của bài hát - Năng lực tự chủ và trách nhiệm: tự học, tự tiểm hiểu các bài dân ca NỘI DUNG CHI TIẾT: 1. Lý thuyết 1.1. Khái quát về dân tộc Tên tự gọi: Xơ Teng (Hđang, Xđang, Xđeng), Tơ Ðrá (Xđrá, Hđrá), Mnâm, Ca Dong, Ha Lăng (Xlang), Tà Trĩ (Tà Trê), Châu. Tên gọi khác: Hđang, Kmrâng, Con lan, Brila. Nhóm địa phương: Xơ Teng, Tơ Ðrá, Mnâm, Ca Dong, Ha Lăng, Tà Trĩ, Châu. Dân số: 169.501 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009). Ngôn ngữ: Tiếng Xơ Ðăng thuộc ngôn ngữ Môn - Khơ Me (ngữ hệ Nam Á), gần với tiếng Hrê, Ba Na, Gié Triêng. Giữa các nhóm có một số từ vựng khác nhau. Chữ viết dùng hệ chữ cái La-tinh, mới hình thành cách đây mấy chục năm. Lịch sử: Người Xơ Ðăng thuộc số cư dân sinh tụ lâu đời ở Trường Sơn - Tây Nguyên và vùng lân cận thuộc miền núi của Quảng Nam, Quảng Ngãi. Hoạt động kinh tế: Một bộ phận trồng lúa nước, điển hình là nhóm Mnâm làm ruộng theo lối sơ khai: làm đất bằng cách lùa đàn trâu dẫm quần và dùng cuốc đẽo từ gỗ (nay đã có cuốc lưỡi sắt) Còn lại, kinh tế rẫy đóng vai trò chủ đạo, với công cụ và cách thức canh tác tương tự như những tộc người khác trong khu vực. Chặt cây bằng rìu và dao quắm hay xà gạc, đốt bằng lửa; chọc lỗ để tra hạt giống thì dùng gậy đẽo nhọn hay gậy có lưỡi sắt; làm cỏ bằng loại cuốc con có cán lấy từ chạc cây và cái nạo có lưỡi bẻ cong về một bên; thu hoạch thì dùng tay tuốt lúa. Ngoài lúa, người Xơ Ðăng còn trồng kê, ngô, sắn, bầu, bí, thuốc lá, dưa, dứa, chuối, mía Vùng người Ca Dong có trồng quế. Vật nuôi truyền thống là trâu, dê, lợn, chó, gà. Việc hái lượm, săn bắn, kiếm cá có ý nghĩa kinh tế không nhỏ. Nghề dệt vải có ở nhiều vùng. Nghề rèn phát triển ở nhóm Tơ Ðrá, họ biết chế sắt từ quặng để rèn. Một số nơi người Xơ Ðăng đã biết đãi vàng sa khoáng. Ðan lát phát triển, cung cấp nhiều vật dụng. Họ ưa thích trao đổi vật trực tiếp, nay đã dùng tiền. : Người Xơ Ðăng ăn cơm tẻ, cơm nếp với muối ớt và các thức kiếm được từ rừng; khi cúng bái mới có thịt gia súc, gia cầm. Phổ biến là món canh nấu rau hoặc măng lẫn thịt hay cá, ốc và các món nướng. Họ uống nước lã (nay nhiều người đã đun chín), rượu cần. Ðặc biệt rượu được chế từ loại kê chân vịt ngon hơn rượu làm từ gạo, sắn. 54
  55. Một số nơi người Xơ Ðăng có tập quán ăn trầu cau. Nam nữ đều hút thuốc lá; có nơi, đồng bào đưa thuốc lá nghiền thành bột vào miệng thay vì hút trong tẩu. Mặc: Nam đóng khố, ở trần. Nữ mặc váy, áo. Trời lạnh dùng tấm vải choàng người. Trước kia, nhiều nơi người Xơ Ðăng phải dùng y phục bằng vỏ cây. Nay đàn ông thường mặc quần áo như người Việt, áo nữ cũng là áo cánh, sơ mi, váy bằng vải dệt công nghiệp. Vải cổ truyền Xơ Ðăng có nền màu trắng mộc của sợi hoặc màu đen, hoa văn ít và chủ yếu thường dùng các màu đen, trắng, đỏ. Ở: Người Xơ Ðăng cư trú ở tỉnh Kon Tum và hai huyện Trà My, Phước Sơn tỉnh Quảng Nam, huyện Tây Sơn, tỉnh Quảng Ngãi; sống tập trung nhất ở vùng quần sơn Ngọc Linh. Họ ở nhà sàn, trước kia nhà dài, thường cả đại gia đình ở chung (nay phổ biến hình thức tách hộ riêng). Nhà ở trong làng được bố trí theo tập quán từng vùng: có nơi quây quần vây quanh nhà rông ở giữa, có nơi dựng lớp lớp ngang triền đất và không có nhà rông. Kỹ thuật làm nhà chủ yếu là sử dụng ngoàm và buộc dây, mỗi hàng cột chạy dọc nhà được liên kết thành một vì cột, mỗi ngôi nhà có một vì cột, mỗi ngôi nhà có hai vì cột. Phương tiện vận chuyển: Gùi được dùng hàng ngày chuyên chở hầu như mọi thứ trên lưng, mỗi quai khoác vào một vai. Có các loại gùi khác nhau: đan thưa, đan dày, có nắp, không nắp, có hoa văn, không có hoa văn Nam giới còn có riêng gùi 3 ngăn (gùi "cánh dơi") hoặc gùi gần giống hình con ốc sên. Gùi ở các nhóm Xơ Ðăng có sự khác biệt nhau nhất định về kiểu dáng, kỹ thuật đan. Quan hệ xã hội: Từng làng có đời sống tự quản, đứng đầu là ông "già làng". Lãnh thổ của làng là sở hữu chung, trên đó mỗi người có quyền sở hữu ruộng đất để làm ăn. Tuy đã hình thành giàu - nghèo nhưng chưa có bóc lột một cách rõ rệt, xưa kia nô lệ mua về và người ở đợ không bị đối xử hà khắc. Quan hệ cộng đồng trong làng được đề cao. Cưới xin: Phong tục ở các vùng không hoàn toàn giống nhau. Song, phổ biến là cư trú luân chuyển mỗi bên mấy năm, thường khi cha mẹ qua đời mới ở hẳn một chỗ. Ðám cưới có lễ thức cô dâu chú rể đưa đùi gà cho nhau ăn, đưa rượu cho nhau uống, cùng ăn một mâm cơm để tượng trưng sự kết gắn hai người. Không có tính chất mua bán trong hôn nhân. Ma chay: Cả làng chia buồn với tang chủ và giúp việc đám ma. Quan tài gỗ đẽo độc mộc. Những người chết bình thường được chôn trong bãi mộ chung của làng. Lệ tục cụ thể không hoàn toàn thống nhất giữa các nhóm. Không có lễ bỏ mả như người Ba Na, Gia Rai Tục "chia của" cho người chết (đồ mặc, tư trang, công cụ, đồ gia dụng ) phổ biến. Thờ cúng: Người Xơ Ðăng tin vào sức mạnh siêu nhiên, các "thần" hay "ma" được gọi là Kiak (Kia) hoặc "Ông", "Bà", chỉ một số nơi gọi là "Yàng". Các thần quan trọng như thần sấm sét, thần mặt trời, thần núi, thần lúa, thần nước Thần nước hiện thân là thuồng luồng, hoặc con "lươn" khổng lồ, hoặc con lợn mũi trắng. Thần lúa có dạng bà già xấu xí, tốt bụng, thường biến thành cóc. Trong đời sống và canh tác rẫy có rất nhiều lễ thức cúng bái đối với các lực lượng siêu nhiên, tập trung vào mục đích cầu mùa, cầu an, tránh sự rủi ro cho cộng đồng và cá nhân. 55
  56. Lễ tết: Quan trọng nhất là lễ cúng thần nước vào dịp sửa máng nước hàng năm, các lễ cúng vào dịp mở đầu năm làm ăn mới, mở đầu vụ trỉa lúa, khi lúa đến kỳ con gái, khi thu hoạch, các lễ cúng khi ốm đau, dựng nhà rông, làm nhà mới, khi con cái trưởng thành Nhiều dịp sinh hoạt tôn giáo đồng thời có tính chất hội hè của cộng đồng làng, tiêu biểu là lễ trước ngày trỉa, lễ cúng thần nước, lễ có đâm trâu của làng cũng như gia đình. Tết dân tộc tổ chức trước sau tuỳ làng, nhưng thường trong tháng Giêng (dương lịch), kéo dài 3-4 ngày. Lịch: Cách tính lịch một năm có 10 tháng, gắn với một chu kỳ làm rẫy, sau đó là thời gian nghỉ sản xuất kéo dài cho đến khi bước vào vụ rẫy mới. Mỗi tháng 30 ngày. Trong ngày được chia ra các thời điểm với tên gọi cụ thể. Phân biệt ngày tốt, ngày xấu, ví dụ: ngày cuối tháng nếu trồng ngô sẽ nhiều hạt, chặt tre nứa dùng sẽ không bị mọt Văn nghệ: Người Xơ Ðăng có nhiều loại nhạc cụ (đàn, nhị, sáo dọc, ống vỗ kloongbút, trống, chiêng, cồng, tù và, ống gõ, giàn ống hoạt động nhờ sức nước ). Có loại dùng giải trí thông thường, có loại dùng trong lễ hội. Các loại nhạc cụ cụ thể và điệu tấu nhạc có sự khác nhau ít nhiều giữa các nhóm. Những điệu hát phổ biến là: hát đối đáp của trai gái, hát của người lớn tuổi, hát ru. Trong một số dịp lễ hội, đồng bào trình diễn múa: có điệu múa riêng cho nam, riêng cho nữ, cũng có điệu múa cả nam, nữ cùng tham gia. Truyện cổ Xơ Ðăng phong phú và đặc sắc. 1.2. Một vài đặc điểm về bài dân ca - Tính chất - Hàng âm 2. Thực hành Bước 1: Chuẩn bị - Bản nhạc, tư liệu nghe bài dân ca . - Xác định âm vực phù hợp cho giọng hát. Bước 2: Đọc Gam rải. - Đọc gam rải đi lên, đi xuống - Chú ý đọc chậm và nhớ âm các bậc của gam Bước 3: Xướng âm. - Xướng âm từng phần, đoạn của bài. - Chú ý: phải xướng âm cả các nốt hoa mỹ, đọc chậm. Khi xướng âm bị sai hoặc lạc giọng cần đọc lại gam rải của bài Bước 4: Ghép lời, hát theo giai điệu. - Trên cơ sở giai điệu xướng âm, ghép lời theo đúng vị trí trên bản nhạc. 56
  57. - Chú ý: hát từng phần với tốc độ chậm vừa. Cần hát đúng đủ các âm luyến, láy và sắc thái của bài Bước 5: Hát hoàn thiện cả bài - Hát đầy đủ bài đúng tốc độ, sắc thái - Chú ý phần sắc thái như các rung, láy, luyến vì sắc thái là đặc trưng, cái hồn của bài. Nội dung bài Ru em (Dân ca Xơ đăng) 3. Hướng dẫn tự học Tìm và nghe bài dân ca Tìm hiểu và nghe thêm các bài dân ca 57
  58. Bài 10. Lý thương nhau (Dân ca Nam trung bộ) MỤC TIÊU: Sau khi học xong bài này, người học có khả năng: - Kiến thức: trình bày được đôi nét đặc trưng văn hoá nam trung bộ, tính chất của bài Lý thương nhau - Kỹ năng: Hát được đúng giai điệu và tính chất bài Lý thương nhau. - Năng lực tự chủ và trách nhiệm: tự học, tự tiểm hiểu các bài dân ca NỘI DUNG CHI TIẾT: 1. Lý thuyết 1.1. Khái quát về văn hoá Nam Trung bộ Vùng Duyên hải Nam Trung Bộ tiếp giáp Đông Nam Bộ ở phía nam thuận lợi trong giao lưu phát triển kinh tế chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của Đông Nam Bộ trong quá trình phát triển giáp với Tây Nguyên và là cửa ngõ ra biển của Tây Nguyên, Campuchia, Thái Lan, thuận lợi giao lưu phát triển kinh tế và hình thành nền kinh tế mở. Vùng Duyên hải Nam Trung Bộ có vị trí địa lý kinh tế rất thuận lợi, nằm trên các trục giao thông đường bộ, sắt, đường hàng không và đường biển, gần thành phồ Hồ Chí Minh và khu tam giác kinh tế trọng điểm miền Đông Nam Bộ; cửa ngõ của Tây Nguyên, của đường xuyên Á ra biển nối với đường hàng hải quốc tế. a) Kho tàng di sản văn hóa ở vùng Duyên hải Nam Trung Bộ Vùng Duyên hải Nam Trung bộ (DHNTB) có hệ thống di sản văn hóa đa dạng và phong phú, thể hiện qua các di tích lịch sử - văn hóa; các lễ hội văn hóa dân gian; làng nghề thủ công truyền thống; các bảo tàng và cơ sở văn hóa nghệ thuật; yếu tố con người và bản sắc văn hóa dân tộc. Các di sản này là kết quả của sự hội tụ, giao lưu và tiếp biến văn hóa giữa các nền văn hóa Sa Huỳnh, văn hóa Chăm Pa và văn hóa của cộng đồng dân cư ven biển trong suốt quá trình cộng cư của các dân tộc trên địa bàn. Đây là cơ sở để phát triển các loại hình và sản phẩm du lịch văn hóa đặc thù mang thương hiệu vùng và có sức hấp dẫn mạnh mẽ khách du lịch. b) Các di tích lịch sử - văn hóa, kiến trúc nghệ thuật, khảo cổ: Toàn vùng hiện có 221 di tích cấp quốc gia, trong đó hệ thống di tích gắn với văn hóa Chăm Pa là đặc trưng nổi bật của vùng, tiêu biểu là: Khu đền tháp Mỹ Sơn, Kinh đô cổ Trà Kiệu (Quảng Nam), các cụm tháp Đôi, Bánh Ít, Cánh Tiên, Dương Long, (Bình Định), Tháp Nhạn (Phú Yên), Tháp Bà Ponagar (Nha Trang), quần thể tháp Poklongarai (Ninh Thuận), nhóm đền tháp Poshanu (Bình Thuận). Đặc biệt, đô thị cổ Hội An (Quảng Nam) là một quần thể kiến trúc cổ gồm nhiều công trình nhà ở, hội quán, đình, chùa, miếu, giếng, cầu, bến cảng, chợ, được xem như một bảo tàng sống về kiến trúc và lối sống đô thị cổ. c) Lễ hội văn hóa dân gian 58
  59. Vùng DHNTB sở hữu những nét văn hóa biển đa dạng, phong phú, thể hiện qua đời sống tâm linh của nhân dân. Tại đây hằng năm có nhiều lễ hội dân gian được tổ chức. Ngoài lễ hội Cầu ngư được tổ chức ở nhiều địa phương với sắc thái khác nhau thì nhiều lễ hội lớn khác ở các địa phương cũng được tổ chức bài bản, đã thu hút được sự quan tâm rất lớn của khách du lịch trong và ngoài nước như: Lễ hội Cầu Bông, lễ hội Bà Thu Bồn, lễ hội rước Cộ Bà Chợ Được, lễ Nguyên Tiêu ở Quảng Nam; Lễ hội Điện Trường Bà, lễ Khao lề Thế lính Hoàng Sa ở đảo Lý Sơn của Quảng Ngãi; Lễ hội Đống Đa - Tây Sơn ở Bình Định; Lễ hội sông nước Tam Giang, lễ hội đầm Ô Loan ở Phú Yên; Lễ hội Yến Sào ở Khánh Hòa; các lễ hội của người Chăm (lễ hội Katê, Ranuwan ) ở Ninh Thuận; Ở nhiều làng chài còn duy trì được những lễ thức cúng thuyền rất đặc trưng vào nhiều dịp khác nhau. - Các giá trị văn hóa nghệ thuật: Các lưu dân từ phương Bắc đến lập nghiệp trên vùng đất mới được gọi là Đàng Trong (dưới sự cai quản của chúa Nguyễn), trên con đường đầy gian khổ. Họ đã mang theo hành trang của mình những câu hát, điệu hò để xoa dịu nỗi buồn nhớ xa quê và để quên đi nỗi nhọc nhằn đầy mồ hôi, nước mắt; đồng thời làm tăng thêm niềm hưng phấn trong quá trình lao động khai khẩn đất hoang, đấu tranh với thiên nhiên khắc nghiệt, dần dần những câu hát dân gian biến đổi theo hoàn cảnh mới để trở thành vốn văn nghệ dân gian riêng biệt, đặc trưng của người dân Trung Bộ. Bắt nguồn từ đó, những khúc dân ca ngày càng phong phú thêm với nhiều thể loại dân ca, dân nhạc của người Việt như hò, lý, hát ru, đồng dao, hát bả trạo, hò khoan đối đáp, tuồng (hát bội), bài chòi kết hợp khá hài hòa với nền âm nhạc dân gian đặc sắc của các tộc người thiểu số sống dọc theo dãi Trường Sơn hùng vĩ, gắn liền với biên giới phía tây Tổ quốc. Phần lớn các nghi lễ, lễ hội của các tộc người thiểu số khu vực này vẫn lưu giữ được và qua đó các sinh hoạt âm nhạc truyền thống vẫn tồn tại song hành, trong đó các bộ cồng chiêng vẫn còn đóng vai trò quan trọng trong hệ thống nhạc cụ truyền thống của các tộc người này. Ca múa nhạc dân tộc cũng là một loại tài nguyên du lịch có giá trị của vùng DHNTB. Ca múa nhạc dân tộc thường gắn với lễ hội truyền thống và các di tích lịch sử văn hóa, tạo nên sắc thái văn hóa đặc trưng của vùng này. Một số loại hình nghệ thuật dân gian tiêu biểu của vùng này là: hát Bả trạo, hát Bội (tuồng), chơi Bài chòi mùa Xuân của người Việt, múa Katê của dân tộc Chăm, rất hấp dẫn khách du lịch tham quan, nghiên cứu. - Làng nghề thủ công truyền thống: Với lịch sử khai thác lãnh thổ lâu đời, cư dân vùng DHNTB đã sáng tạo ra nhiều nghề thủ công truyền thống mà từ lâu, sản phẩm đã nổi tiếng cả trong và ngoài nước. Một số làng nghề đã và đang thu hút nhiều khách du lịch là: đá Non Nước (Đà Nẵng); gốm Thanh Hà, đồng Phước Kiều, mộc Kim Bồng (Quảng Nam); đường phổi (Quảng Ngãi); rượu Bàu Đá (Bình Định); bánh tráng Hòa Đa, nước mắm gành Đỏ (Phú Yên); nghề làm nem, dệt chiếu (thị xã Ninh Hòa), yến sào hòn Nội (Khánh Hòa); gốm Bàu Trúc, dệt thổ cẩm Mỹ Nghiệp (Ninh Thuận), nước mắm Phan Thiết (Bình Thuận), 59
  60. Ngoài các di sản văn hóa tiêu biểu trên đây, ở vùng DHNTB còn có một số bảo tàng độc đáo, mang đặc trưng vùng miền và lưu trữ những cổ vật là tinh hoa văn hóa nghệ thuật, lịch sử của khu vực, rất có giá trị đối với phát triển du lịch văn hóa của vùng này. Đó là các Bảo tàng nghệ thuật điêu khắc Chăm (ở Đà Nẵng), Bảo tàng văn hóa Sa Huỳnh (ở Hội An), Viện Hải dương học Nha Trang 1.2. Một vài đặc điểm về bài dân ca - TÍnh chất: Bài có tính chất buồn man mác, ngóng đợi - Bài có tốc độ chậm - Hàng âm cả bài Tuy nhiên giai điệu của bài không hình thành nên quãng 2 thứ. Giai đoạn đầu của bài gồm 5 âm là Đồ- Rê- Mi- Son- La (tương ứng 5 âm của điệu thức cung), Giai đoạn 2 chuyển giọng gồm cac âm Đồ- Rê- Pha- Son- La). Do vậy trong quá trình xướng âm, người học cần chú ý đến hàng âm từng giai đoạn để xác định được tính chất và đọc nhạc nhanh hơn, chính xác hơn. 2. Thực hành Bước 1: Chuẩn bị - Bản nhạc, tư liệu nghe bài dân ca . - Xác định âm vực phù hợp cho giọng hát. Bước 2: Đọc Gam rải. - Đọc gam rải đi lên, đi xuống - Chú ý đọc chậm và nhớ âm các bậc của gam Bước 3: Xướng âm. - Xướng âm từng phần, đoạn của bài. - Chú ý: phải xướng âm cả các nốt hoa mỹ, đọc chậm. Khi xướng âm bị sai hoặc lạc giọng cần đọc lại gam rải của bài Bước 4: Ghép lời, hát theo giai điệu. - Trên cơ sở giai điệu xướng âm, ghép lời theo đúng vị trí trên bản nhạc. - Chú ý: hát từng phần với tốc độ chậm vừa. Cần hát đúng đủ các âm luyến, láy và sắc thái của bài Bước 5: Hát hoàn thiện cả bài - Hát đầy đủ bài đúng tốc độ, sắc thái - Chú ý phần sắc thái như các rung, láy, luyến vì sắc thái là đặc trưng, cái hồn của bài. Nội dung bài Lý thương nhau (Dân ca Nam trung bộ) 60
  61. 3. Hướng dẫn tự học Tìm và nghe bài dân ca Lý thương nhau Tìm hiểu và nghe thêm các bài dân ca vùng Nam trung bộ. 61
  62. Bài 11. Lý dĩa bánh bò (Dân ca Nam bộ) MỤC TIÊU: Sau khi học xong bài này, người học có khả năng: - Kiến thức: trình bày được một số đặc điểm văn hoá Nam Bộ, trình bày được tính chất bài Lý dĩa bánh bò - Kỹ năng: Hát được đúng giai điệu tính chất bài lý dĩa bánh bò - Năng lực tự chủ và trách nhiệm: Tự học và tìm nghe các bài dân ca Nam bộ NỘI DUNG CHI TIẾT: 1. Lý thuyết 1.1. Khái quát về văn hoá vùng Nam bộ a) Khái lược chung Địa hình trên toàn vùng Nam Bộ khá bằng phẳng, phía tây giáp Vịnh Thái Lan, phía đông và Đông Nam giáp biển Đông, phía bắc và Tây Bắc giáp Campuchia và phía đông bắc giáp với duyên hải Nam trung bộ và Tây Nguyên. Đông Nam bộ có độ cao từ 0 - 986m, có cấu tạo địa chất chủ yếu là đất đỏ bazan và đất phù sa cổ. Khu vực đồng bằng sông nước ở đây chiếm diện tích khoảng 6.130.000 ha cùng trên 4.000 kênh rạch với tổng chiều dai lên đến 5.700 km. Tây Nam bộ có độ cao trung bình gần 2m, chủ yếu là miền đất của phù sa mới. Có một số núi thấp ở khu vực miền tây tỉnh An Giang, miền Tây tỉnh Kiên Giang và Campuchia. Văn hóa Nam Bộ được tính mốc là năm 1623 khi vua Chân Lạp cho chúa Nguyễn di dân Việt đến định cư ở Prey Kôr (thành phố Hồ Chí Minh hiện nay). Vùng đất Nam Bộ bấy giờ chỉ là một vùng hoang dại với hệ thống đất đai trũng, úng, sình lầy và sông rạch chằng chịt. Bắt đầu từ các cửa biển Cần Giờ, Soài Rạp, Cửa Tiểu, Cửa Đại trở vào. Cuối thế kỷ XVII, chúa Nguyễn tiếp nhận một đoàn người Hoa đến quy thuận và cho họ đến khai phá và định cư ở Biên Hoà- Đồng Nai. Tiếp đó mộ dân từ Quảng Bình vào và chia đặt doanh, huyện, lập hộ tịch. Như vậy, phải gần một thế kỷ sau Nam Bộ mới bước đầu được định hình một vùng văn hóa. Một nền văn hoá vùng miền hình thành qua thời gian một thế kỷ không phải là dài và khi người Việt đến vùng đất mới mang theo hành trang với vốn văn hóa đúc kết hàng ngàn năm của dân tộc Việt đã góp phần tạo nên nền tảng của hệ giá trị văn hóa Nam Bộ. Những giá trị trải qua quá trình tương tác với môi trường tự nhiên và xã hội trong lịch sử, dần tạo nên những giá trị của nền văn hoá Nam Bộ như hiện nay. Đất Nam Bộ còn là một vựa lúa chính, đồng thời là vựa trái cây nổi tiếng với đủ các chủng loại hoa quả miền nhiệt đới. Từ chôm chôm, vú sữa, măng cụt, sầu riêng cho đến mít, chuối, xoài, ổi, nhãn, cam, quýt Mỗi địa phương đều có bảo tồn loại sản vật riêng, đa dạng và phong phú. Với ưu thế sông ngòi, kênh rạch chằng chịt, bưng biền ngập 62
  63. nước mênh mông là nơi sanh sống lý tưởng của rắn rết, cá sấu, rùa, ba ba, tôm, cá, cua, còng và cả các loại chim chóc nữa. Nam Bộ tập trung nhiều món ăn ngon, nhiều sản vật lạ từ lâu đã đi vào kho tàng văn học dân gian[7]. Nam Bộ vừa có bề dày tiến trình lịch sử văn hóa lại vừa là vùng đất giàu sức trẻ do các tộc người ở đây đang dày công gây dựng nên. Từ vị thế địa lý, văn hóa của Nam Bộ, đang giúp trở thành trung tâm của quá trình tiếp biến văn hóa, phần nào tạo cho vùng có những nét đặc thù, diện mạo mới đối với các vùng văn hóa khác ở Việt Nam. Hệ giá trị văn hóa Nam Bộ là truyền thống văn hóa dân tộc và những giá trị cốt lõi hình thành phong cách văn hóa riêng vùng. Tính mở của một vùng đất mới làm nên tính năng động, nhạy bén, dám nghĩ, dám làm của người dân Nam Bộ. Tính mở là cơ sở cho việc tiếp nhận và tiếp biến thành công nhiều giá trị văn hóa cao và hiện nay có thêm nền văn minh hiện đại. b) Đời sống âm nhạc dân gian Nói đến nghệ thuật ca hát dân ca cổ truyền Nam Bộ chúng ta sẽ nghĩ ngay đến các loại hình nghệ thuật phổ biến như : đờn ca tài tử , cải lương , tuồng , lý Và một kho tàng dân ca nhạc cổ phong phú . Có được kho tàng âm nhạc độc đáo như vậy cũng nhờ Nam Bộ có sự đa dạng và hài hòa giữa con người và thiên nhiên . Dể tìm hiều thêm những nét đặc sắc trong các loại hình nghệ thuật ở Nam Bộ chúng ta sẽ đi sâu tìm hiểu: - Ca ra bộ Ra đời khoảng 1915 tại Vĩnh Long , do thầy Phó Mười Hai ( Tống Hữu Định) đề xướng. Lấy bài Nguyệt Nga , Bùi Kiệm thoe điệu Tứ Đại Oán từ ban tài tử của ông Nguyễn Tống Triều ở Mỹ Tho. Ca Ra Bộ là vừa ca vừa ra điệu bộ diễn tả theo nội dung bài hát. Lối diễn tả sinh động theo nộ dung bài hát nhiều người ưa thích được mời diễn trong các nhà hàng lớn tạo nên nhiều gánh hát nổi tiếng (đây là cơ sở để cải lương ra đời sau này và có thể nói Ca ra Bộ là khúc dạo đầu của Cải lương ) - Cải lương: Khoảng năm 1905 thực dân Pháp xâm lược nước ta và mở nhà hát Tây với kiến trúc mới lạ , có bố trí chỗ ngồi và sân khấu được trang trí rất sinh động đã thu hút được rất nhiều người , trước tình hình đó những lối thoát cho nhạc tài tử được mở ra là : từ chỗ ngồi nghiêm nghị đến hát , nghệ nhân tiến tới hát điệu bộ( diễn) là “ca-ra-bộ” Đó là cơ sở để cải lương ra đời sau này. Thường thì dưới các bảng hiệu của các đoàn hát cải lương thường có đôi liễn như sau: “Cải cách hát ca theo tiến bộ Lương truyền tuồng tích sánh văn minh” - Đờn ca tài tử Mục đích của các bạn đờn ca tài tử là phục vụ vô tư cho các lễ hội, đình ám, đám cưới, đám giỗ, buổi tiễn đưa tân binh, đơn vị bộ đội lên đường đánh giặc không vụ lợi, không cần thù lao, gọi là "giúp vui", mang tính cộng đồng sâu sắc, bình đẳng giữa mọi người. Ai biết đờn thì đờn, biết ca thì ca, một bài cũng được, thậm chí đờn ca có lỡ "rớt" nhịp cũng chẳng ai chê cười mà còn động viên cố gắng. Những người không biết đờn ca, 63