Giáo trình nội bộ môn học Lý thuyết âm nhạc 2 - Trường Cao đẳng Lào Cai

pdf 56 trang Gia Huy 21/05/2022 1090
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình nội bộ môn học Lý thuyết âm nhạc 2 - Trường Cao đẳng Lào Cai", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_noi_bo_mon_hoc_ly_thuyet_am_nhac_2_truong_cao_dan.pdf

Nội dung text: Giáo trình nội bộ môn học Lý thuyết âm nhạc 2 - Trường Cao đẳng Lào Cai

  1. UBND TỈNH LÀO CAI TRƯỜNG CAO ĐẲNG LÀO CAI GIÁO TRÌNH NỘI BỘ MÔN HỌC: LÝ THUYẾT ÂM NHẠC 2 NGÀNH: THANH NHẠC; BIỂU DIỄN NHẠC CỤ TRUYỀN THỐNG; ORGAN Lào Cai, năm 2019 1
  2. TUYÊN BỐ BẢN QUYỀN Tài liệu này thuộc sách giáo trình nên các nguồn thông tin có thể được phép dùng nguyên bản hoặc trích dùng cho các đào tạo và tham khảo. Mọi mục đích khác mang tính lệch lạc hoặc sử dụng với mục đích kinh doanh thiếu lành mạnh sẽ bị nghiêm cấm. 2
  3. LỜI NÓI ĐẦU Lí thuyết âm nhạc chỉ là một phần trong rất nhiều phần khác của âm nhạc như hoà âm, phức điệu, tính năng Lí thuyết âm nhạc chỉ là môn đầu tiên giúp cho người học hiểu biết có hệ thống một số nhân tố quan trọng và mối tương quan của chúng trong hoạt động âm nhạc. Nó vừa là những nhân tố riêng biệt vừa là những nhân tố liên quan. Giáo trình này được biên soạn từng chương tách rời, từ đơn giản đến phức tạp. Chúng tôi đã sử dụng tài liệu tham khảo chính là cuốn Nhạc lí cơ bản của V. A. Vakhrameep ngoài ra, chúng tôi có đưa vào một số trích đoạn từ các tác phẩm của các nhạc sĩ Việt Nam để làm ví dụ minh hoạ. Giáo trình âm nhạc 2 gồm 7 chương: Chương I. Điệu thức và giọng Chương II. Quxng ở các giọng trưởng và thứ Chương III. Các điệu thức trong âm nhạc dân gian Chương IV. Tính chất họ hàng của các giọng Chương V. Dịch giọng Chương VI. Giai điệu Chương VII. Âm tô điểm; ký hiệu một số thủ pháp biểu diễn Mong rằng Giáo trình này là tài liệu học tập, giảnh dạy sẽ giúp cho các học sinh những kiến thức cơ bản về lí thuyết âm nhạc để học các môn cơ sở ngành, chuyên ngành, sau này có thể nghiên cứu sâu hơn trong các lĩnh vực khác của âm nhạc. NGƯỜI BIÊN SOẠN Lê Quang Chiến 3
  4. MỤC LỤC CHƯƠNG I. ĐIỆU THỨC VÀ GIỌNG 7 1. Âm ổn định, âm chủ, âm không ổn định - sự giải quyết âm không ổn định - điệu thức 7 2. Điệu thức trưởng - gam trưởng tự nhiên - các bậc của điệu thức trưởng - tên gọi, kí hiệu và đặc tính của các bậc trong điệu trưởng 8 3. Giọng điệu, các giọng trưởng có dấu thăng và dấu giáng, vòng quãng năm - sự trùng âm của các giọng trưởng 11 4. Giọng trưởng hoà thanh và giọng trưởng giai điệu 14 5. Điệu thức thứ, gam thứ tự nhiên – các bậc của điệu thức thứ và các thuộc tính của chúng .15 6. Điệu thứ hoà thanh và điệu thứ giai điệu - các giọng thứ, các giọng song song, vòng quãngnăm của các giọng thứ 16 7. Các giọng cùng tên - một vài nét giống và khác nhau của điệu trưởng và thứ - ý nghĩa của điệu thức trưởng và thứ trong âm nhạc 21 CHƯƠNG II: QUÃNG Ở CÁC GIỌNG TRƯỞNG VÀ THỨ 23 1. Các quãng của điệu trưởng tự nhiên và điệu thứ tự nhiên 23 2. Quãng của điệu trưởng hoà thanh và điệu thứ hoà thanh – các quãng đặc biệt 25 4. Các quãng ổn định và không ổn định - sự khác nhau giữa tính ổn định và tính thuận - giữa tính không ổn định của quãngthuận với tính nghịch - sự giải quyết các quãng nghịch, sự giải quyết các quãng không ổn định theo sức hút 26 CHƯƠNG III. CÁC ĐIỆU THỨC TRONG ÂM NHẠC DÂN GIAN 31 1. Khái quát chung 31 2. Các điệu thức âm nhạc dân gian phương Tây 31 3. Các điệu thức năm âm 32 CHƯƠNG IV. TÍNH CHẤT HỌ HÀNG CỦA CÁC GIỌNG 35 1. Tính chất họ hàng của các giọng 35 2. Crô-ma-tích - sự hoá 36 3. Gam crô-ma-tích - Quy tắc viết gam crô-ma-tích 37 CHƯƠNG V. XÁC ĐỊNH GIỌNG, DỊCH GIỌNG 39 1. Xác định giọng 39 2. Dịch giọng 40 1. Chuyển giọng và chuyển tạm 43 2. Chuyển giọng sang các giọng họ hàng 43 4
  5. CHƯƠNG VI. GIAI ĐIỆU 45 2. Ý nghĩa của giai điệu trong tác phẩm âm nhạc – giai điệu của âm nhạc dân gian (ca khúc)45 3. Hướng chuyển động của giai điệu và tầm cữ của nó – các âm lướt và âm thêu 47 4. Sự phân chia giai điệu thành từng phần (khái niệm chung về cú pháp trong âm nhạc) - kết cấu, sự ngắt - đoạn nhạc, câu nhạc, sự kết, tiết nhạc - mô típ 48 4. Các sắc thái cường độ và mối quan hệ của chúng với sự phát triển giai điệu - phương pháp kí hiệu sắc thái cường độ 50 5. Phân tích tác động qua lại của một số nhân tố của giai điệu 51 CHƯƠNG VII. ÂM TÔ ĐIỂM; KÝ HIỆU VỀ MỘT SỐ THỦ PHÁP BIỂU DIỄN 52 1. Âm tô điểm: nốt dựa, âm vỗ, láy chùm, láy rền 52 2. Kí hiệu về một số thủ pháp biểu diễn 55 5
  6. GIÁO TRÌNH MÔN HỌC Tên môn học: Lý thuyết âm nhạc 2 Mã môn học: MHO8 Vị trí, tính chất, ý nghĩa và vai trò của môn học - Vị trí: Lý thuyết âm nhạc là môn học bắt buộc và có vị trí đầu tiên trong chương trình dạy nghề trình độ trung cấp âm nhạc - Tính chất: Lý thuyết âm nhạc thuộc khối kiến thức cơ sở ngành, trang bị kiến thức về lý thuyết âm nhạc căn bản cho tất cả các môn âm nhạc. Mục tiêu môn học - Về kiến thức: + Học sinh trình bày được các khái niệm về âm nhạc như giọng, điệu thức. + Học sinh nêu được giá trị trường độ các nốt nhạc. + Học sinh nhắc lại được các ý nghĩa các ký hiệu trong âm nhạc. + Học sinh trình bày được đặc điểm của các điệu thức thường dùng. - Về kỹ năng: + Học sinh chép được bản nhạc. + Học sinh sơ sánh được sự khác nhau giữa điệu thức trưởng và thứ. + Học sinh thực hành được một số nhóm tiết tấu cơ bản. + Học sinh xác định được giọng các bản nhạc. + Học sinh xác định được số phách mạnh, phách nhẹ trong các loại nhịp. - Năng lực tự chủ và trách nhiệm: Nghiêm túc, chủ động trong học tập, tính ứng dụng sáng tạo vào thực hành nghề nghiệp cao, hiệu quả chất lượng. NỘI DUNG CHI TIẾT CỦA GIÁO TRÌNH: 6
  7. CHƯƠNG I. ĐIỆU THỨC VÀ GIỌNG MỤC TIÊU Sau khi học xong chương này, người học có khả năng: - Kiến thức: Trình bày được khái niệm điệu thức, giọng, đặc điểm các giọng, điệu thức - Kỹ năng: + Xác định được giọng thông qua hoá biểu và ngược lại. + Phân biệt được cấu tạo giữa điệu thức trưởng và thứ. + Xác định cấu tạo của điệu thức trưởng thứ tự nhiên, hoà thanh, giai điệu. - Năng lực tự chủ và trách nhiệm: Nghiêm túc, chủ động trong học tập NỘI DUNG CHI TIẾT: 1. Âm ổn định, âm chủ, âm không ổn định - sự giải quyết âm không ổn định - điệu thức Khi nghe hoặc biểu diễn một tác phẩm âm nhạc, chúng ta nhận thấy giữa các âm thanh hợp thành tác phẩm đó có những mối quan hệ tương quan nhất định. Điều này thể hiện trước hết ở chỗ, trong quá trình phát triển của âm nhạc nói chung và của giai điệu nói riêng, từ khối âm thanh chung nổi lên một số âm thanh có tính chất như các âm tựa. Giai điệu thường kết thúc ở một trong các âm tựa đó. Ví dụ: Thật là hay của nhạc sỹ Hoàng Lân Trong Ví dụ này, phần đầu có các âm tựa là Son và Đô, phần thứ hai là Mi và Đô. Các âm tựa thường được gọi là những âm ổn định. Định nghĩa âm tựa như vậy phù hợp với tính chất của chúng vì sự kết thúc giai điệu bằng âm tựa tạo ra cảm giác ổn định, yên tĩnh. Có một trong các âm ổn định thường nổi lên rõ hơn các âm khác. Dường như nó là điểm tựa chủ yếu. Âm ổn định đó gọi là âm chủ. Trong Ví dụ dẫn ra ở trên thì âm chủ là âm Đô. Trái ngược với âm ổn định, những âm thanh khác trong giai điệu gọi là những âm không ổn định. Các âm không ổn định có đặc tính bị hút về các âm ổn định. Trạng thái này đối với các âm không ổn định ở cách những âm ổn định một quãng hai. Dân ca Nga - “Chúng ta đã hát hết mọi bài“ Allegro (Nhanh) 7
  8. Trong Ví dụ này, các âm ổn định (âm tựa) là : Son, Mi và Đô (chúng được đánh dấu >). Các âm không ổn định bị hút về chúng : La về Son, Pha về Mi và Rê về Đô. Trong giai điệu này âm Đô là âm chủ. Việc chuyển âm không ổn định về âm ổn định gọi là sự giải quyết. Trong Ví dụ 122, ta đặc biệt cảm thấy rõ sự giải quyết của âm không ổn định về một âm ổn định khi âm Rê chuyển về âm Đô (âm chủ). Qua những nhận xét trên, ta có thể rút ra kết luận là trong âm nhạc, mối tương quan về độ cao của các âm thanh chịu sự chi phối của một hệ thống nhất định. Hệ thống các mối tương quan giữa âm ổn định và không ổn định gọi là điệu thức. Cơ sở của mỗi giai điệu nói riêng, và của cả tác phẩm âm nhạc nói chung bao giờ cũng là một điệu thức nhất định. Điệu thức là cơ sở tổ chức mối tương quan về độ cao của âm thanh trong âm nhạc. Điệu thức cùng với những phương tiện diễn cảm khác tạo cho âm nhạc một tính chất nhất định, phù hợp với nội dung của nó. 2. Điệu thức trưởng - gam trưởng tự nhiên - các bậc của điệu thức trưởng - tên gọi, kí hiệu và đặc tính của các bậc trong điệu trưởng Âm nhạc dân gian có nhiều dạng điệu thức. Sáng tác dân gian được phản ánh ở một mức độ nhất định trong âm nhạc cổ điển (Nga và nước ngoài), cho nên tính đa dạng về điệu thức vốn có của nó, cũng được phản ánh trong đó. Nhưng các điệu thức trưởng và thứ vẫn được sử dụng rộng rãi hơn cả. Điệu trưởng là điệu thức trong đó những âm ổn định (ngân vang nối tiếp nhau hoặc cùng một lúc) tạo thành hợp ba âm trưởng gồm ba âm thanh. Các âm nằm cách nhau những quãng ba: âm dưới và âm giữa cách nhau quãng ba trưởng, âm giữa và âm trên cách nhau quãng ba thứ. Các âm ngoài cùng của hợp âm ba tạo thành quãng năm đúng. Hợp âm ba xây dựng trên âm chủ là hợp âm ba chủ. Những âm không ổn định nằm xen kẽ giữa các âm ổn định. Điệu trưởng gồm bảy âm thanh. Sự sắp xếp các âm thanh của điệu thức theo thứ độ cao (bắt đầu từ âm chủ đến âm chủ ở quãng tám tiếp theo) gọi là hàng âm của điệu thức hay gam 1 8
  9. Các âm thanh họp thành gam gọi là các bậc. Trong gam của điệu trưởng có bảy bậc. Các bậc của gam được kí hiệu bằng các số La- mã: Đừng lẫn lộn các bậc của điệu thức với các bậc của hệ thống âm nhạc (xem chương I, mục 4). Các bậc của hàng âm trong hệ thống âm nhạc không có kí hiệu bằng chữ số và là một hàng âm sắp xếp theo thứ tự độ cao trong phạm vi toàn bộ tầm cữ âm nhạc. Các bậc của điệu trưởng tạo ra một nối tiếp các quãng hai. Thứ tự các bậc và các quãng hai như sau : Gam có trình tự sắp xếp các bậc như trên gọi là gam trưởng tự nhiên và điệu thức thể hiện ra qua trình tự này là điệu thức trưởng tự nhiên. Ngoài kí hiệu bằng chữ số, mỗi bậc của điệu thức còn có tên riêng nữa : Bậc I - âm chủ (T) ; Bậc II - âm dẫn đi xuống ; Bậc III - âm trung (mê-đi-ăng) ; Bậc IV - âm hạ sát (S) ; Bậc V - âm át (D) ; Bậc VI - âm hạ trung; Bậc VII - âm dẫn đi lên (âm cảm) ; Các âm chủ, hạ át và át gọi là những bậc chính, còn lại là những bậc phụ. Âm át nằm cao hơn âm chủ một quãng năm đúng. Bậc ba nằm ở giữa chúng, do đó gọi là âm trung. Âm hạ át ở dưới âm chủ một quãng năm đúng, do đó mà có tên gọi là hạ át, còn âm hạ trung ở vào giữa âm hạ át với âm chủ. Dưới đây là sơ đồ vị trí của các bậc ấy : 9
  10. Các âm dẫn có tên như vậy vì chúng bị hút về âm chủ. Âm dẫn nằm dưới bị hút lên, âm dẫn nằm trên bị hút xuống : VII I II Ở trên đã nói, trong điệu trưởng có ba âm ổn định đó là các bậc I, III, và V. Mức độ ổn định của chúng không giống nhau. Bậc I - âm chủ - là âm tựa chủ yếu và do đó ổn định hơn cả. Các bậc III và V kém ổn định hơn. Các bậc II, IV, VI, VII của điệu trưởng không ổn định. Mức độ không ổn định của chúng khác nhau. Nó tuỳ thuộc : 1) ở khoảng cách giữa các âm không ổn định và ổn định ; 2) ở mức độ ổn định của âm có sức hút. Bị hút mạnh hơn cả là các bậc : VII về I, IV về III (cách các âm ổn định một nửa cung) và II về I (do mức độ ổn định của bậc I). Bị hút ít hơn là các bậc : IV về V, II về III và IV về V. Dưới đây là sơ đồ hướng bị hút của các âm không ổn định : Các Ví dụ về sự giải quyết các âm không ổn định : Dân ca Nga - “Bên kia biển xanh” 10
  11. 3. Giọng điệu, các giọng trưởng có dấu thăng và dấu giáng, vòng quãng năm - sự trùng âm của các giọng trưởng Điệu trưởng tự nhiên có thể được xây dựng từ bất cứ bậc nào (cả cơ bản lẫn chuyển hoá) của hàng âm (với điều kiện giữ nguyên hệ thống sắp xếp các bậc như đã nêu ở mục trước). Giọng là độ cao dựa vào để sắp xếp điệu thức. Tên gọi của giọng là tên gọi của âm được coi là âm chủ. Tên gọi của giọng bao gồm kí hiệu của âm chủ và của điệu thức, tức là từ “trưởng”. Ví dụ Đô trưởng hay C-dur2 (theo hệ thống chữ cái). Son trưởnghay G-dur,v.v Giọng trưởng được xây dựng từ âm Đô gọi là giọng Đô trưởng. Thành phần của nó gồm tất cả các bậc cơ bản của hàng âm. Cấu trúc của giọng này đã dẫn ở trên làm ví dụ cho điệu trưởng (xem mục 34). Trong thành phần các giọng của điệu trưởng xây dựng từ các bậc khác của hàng âm có cả các bậc chuyển hoá. Số lượng của chúng trong các giọng không giống nhau. Trong một số giọng trưởng, chỉ dùng các bậc thăng ; để kí hiệu chúng, cần có số lượng dấu thăng tương ứng. Cho nên các điệu trưởng có dấu hoá chia thành hai loại giọng có dấu thăng và giọng có dấu giáng. Dấu hoá ở các giọng ấy viết cạnh khoá và được gọi là dấu hoá theo khoá. Các giọng khác nhau một dấu hoá theo khoá gọi là các giọng họ hàng, vì trong thành phần của chúng có sáu âm chung. Giọng họ hàng có dấu thăng của Đô trưởng là Son trưởng. Bậc I của nó cao hơn âm chủ của giọng Đô trưởng một quãng năm đúng : Đô trưởng (C-dur) Quãng 5 đúng Ở bậc VII của gam Son trưởng có dấu thăng đầu tiên-Pha thăng: 11
  12. Trong Ví dụ này, âm Son là âm chủ. Pha thăng xuất hiện do sự cần thiết tạo âm dẫn lên: pha thăng-Son, vì lẽ giữa các bậc VII và I phải là một quãng hai thứ (1/2 cung). Cao hơn giọng Son trưởngmột quãng năm đúng là giọng Rê trưởng : Ở bậc VII của Rê trưởng có dấu thăng thứ hai - Đô thăng : Tiếp đó, nếu ta cứ lấy bậc V của giọng trước làm cơ sở của mỗi gam mới thì dần dần ta sẽ có tất cả các giọng trưởng có dấu thăng. ở mỗi giọng sẽ xuất hiện một dấu hoá theo khoá mới, ở bậc VII của gam, và cứ như thế tuần tự cho đến bảy dấu hoá. Giọng có bảy dấu hoá là giọng tận cùng vì tất cả các âm của nó đều là những bậc chuyển hoá. Tất cả các dấu thăng đều viết cạnh khoá theo thứ tự được bổ sung dần trong các giọng, với điều kiện bố trí chúng theo những quãng năm đúng đi lên. Sự sắp xếp tất cả các giọng có dấu thăng theo thứ tự họ hàng cho ta một chuỗi các giọng trưởng có dấu thăng sau đây: Son trưởng G-dur Rê trưởng D-dur La trưởng A-dur Mi trưởng E-dur Si trưởng H-dur Pha thăng trưởng Fis-dur 12
  13. Đô thăng trưởng Cis-dur Thứ tự sắp xếp các giọng trưởng: giọng có dấu thăng cách nhau những quãng năm đúng đi lên, còn giọng có dấu giáng theo quãng năm đúng đi xuống, gọi là vòng quãng năm: Trong âm nhạc trên thực tế (do sự trùng âm) vòng quãng năm khép kín lại, tạo thành một vòng chung của các giọng có dấu thăng và dấu giáng, nhưng về lí thuyết, các vòng quãng năm (thăng cũng như giáng) tồn tại độc lập, như những đường xoắn ốc. Đó là vì nếu tiếp tục đi lên theo những quãng năm đúng sẽ xuất hiện các giọng mới với số lượng dấu thăng (thăng kép) ngày càng tăng, còn tiếp tục đi xuống theo những quãng năm đúng sẽ xuất hiện những giọng mới với số lượng dấu giáng (giáng kép) ngày càng tăng. Thứ tự các giọng trưởng có dấu giáng trên cơ sở họ hàng cũng xuất hiện như vậy, nhưng là theo các quãng năm đi xuống. Giọng có dấu giáng có họ hàng với giọng Đô trưởng là Pha trưởng. Bậc I của Pha trưởng thấp hơn âm chủ của Đô trưởng một quãng năm đúng và ở vào bậc IV (hạ át) của Đô trưởng. 13
  14. Tiếp đó, nếu tuần tự lập một quãng năm đi xuống từ âm chủ của giọng trước và lấy bậc đó làm cơ sở của một giọng mới thì dần dần ta sẽ có tất cả những giọng trưởng có dấu giáng. Trong mỗi giọng có dấu giáng, dấu hoá theo khoá mới (kế tiếp) - dấu giáng (b) ở vào bậc IV của gam. Đem sắp xếp tất cả các giọng có dấu giáng theo thứ tự họ hàng, ta có hệ thống các giọng trưởng có dấu giáng sau đây: Pha trưởng F-dur Si giáng trưởng Bes-dur Mi giáng trưởng Es-dur La giáng trưởng As-dur Rê giáng trưởng Des-dur Son giáng trưởng Ges-dur Đô giáng trưởng Ces-dur Mỗi một giọng trưởng có năm, sáu và bảy dấu thăng đều trùng âm với một giọng có dấu giáng trong số các giọng có từ năm đến bảy dấu giáng và ngược lại. Các giọng trùng âm là những giọng có độ cao giống nhau nhưng cókí hiệu (tên gọi) khác nhau. 4. Giọng trưởng hoà thanh và giọng trưởng giai điệu Trong âm nhạc thường hay gặp điệu trưởng có bậc VI hạ thấp. Dạng điệu thức trưởng này gọi là điệu trưởng hoà thanh. Điệu trưởng hoà thanh được sử dụng khá rộng rãi trong âm nhạc cổ điển của các nhạc sĩ nước ngoài. 14
  15. Do hạ thấp bậc VI xuống một nửa cung nên nó càng bị hút mạnh hơn về bậc V. Sự có mặt của những âm hình giai điệu với bậc VI hạ thấp tạo cho điệu trưởng tính chất độc đáo của màu sắc điệu thứ ( xem Ví dụ về điệu trưởng hoà thanh ở dưới). Ngoài ra, bậc VI hạ thấp còn làm thay đổi cấu trúc của các hợp âm mà trong đó nó có thể được sử dụng (vấn đề này sẽ được đề cập chi tiết hơn trong chương bảy) điều này cũng ảnh hưởng đến tính chất phần đệm hoà thanh của giai điệu. Và cũng từ đó có tên gọi của điệu thức - điệu trưởng hoà thanh. Dấu hoá hạ thấp bậc VI được viết trước nốt nhạc khi cần đến và được gọi là dấu hoá bất thường. Ví dụ: Đô trưởng hoà thanh: I II III IV V VI VII (I) Thứ tự các quãng hai trong gam của điệu trưởng hoà thanh như sau: hai trưởng, hai trưởng, hai thứ, hai trưởng, hai thứ, hai tăng, hai thứ. Đặc điểm của gam trưởng hoà thanh là quãng hai tăng giữa các bậc VI và VII : Trong âm nhạc, điệu trưởng giai điệu ít gặp hơn nhiều. Trong dạng điệu trưởng này các bậc VI và VII bị hạ thấp. Điệu thức này chủ yếu được dùng khi giai điệu chuyển động đi xuống và tính chất âm thanh của nó giống như điệu thức tự nhiên. 5. Điệu thức thứ, gam thứ tự nhiên – các bậc của điệu thức thứ và các thuộc tính của chúng Điệu thức thứ là điệu thức mà trong đó các âm ổn định (khi ngân vang nối tiếp hoặc đồng thời) tạo thành hợp âm ba thứ. Các âm ổn định của hợp âm ba thứ được sắp xếp theo quãng ba: quãng ba thứ giữa các bậc I và III, và quãng ba trưởng các bậc II và V. Các âm ngoài cùng của hợp âm ba thứ tạo nên quãng năm đúng: So với hợp âm ba trưởng thì các quãng ba trong hợp âm ba thứ sắp xếp theo thứ tự ngược lại. Điệu thứ, cũng như điệu trưởng, gồm bảy bậc. Gam của điệu thứ khác gam trưởng ở sự nối tiếp của các quãng hai. 15
  16. Thứ tự các quãng hai trong gam thứ tự nhiên như sau : hai trưởng, hai thứ, hai trưởng, hai trưởng, hai thứ, hai trưởng, hai trưởng. Các bậc của gam thứ tự nhiên cũng có những kí hiệu chữ số và tên gọi giống như gam trưởng. Vị trí các âm không ổn định trong điệu thứ tự nhiên khác vị trí của chúng trong điệu trưởng. ở điệu thứ, sự hút nửa cung nằm ở các bậc : II và III, VI về V. Các âm dẫn bị hút về âm chủ qua một nguyên cung. Dưới đây là sơ đồ hướng bị hút của các âm không ổn định trong điệu thứ tự nhiên : Ví dụ âm nhạc ở điệu thứ tự nhiên : Huy Du - “Anh vẫn hành quân“ 6. Điệu thứ hoà thanh và điệu thứ giai điệu - các giọng thứ, các giọng song song, vòng quãngnăm của các giọng thứ Trong quá trình phát triển âm nhạc, điệu thứ đã thay hình đổi dạng. Sự thay hình đổi dạng này thể hiện ở sự hoá của một số bậc cơ bản của nó. Điều này ảnh hưởng đến mức độ chịu sức hút của các âm không ổn định. Ngoài dạng tự nhiên, các dạng thứ hoà thanh và thứ giai điệu được sử dụng rộng rãi.Điệu thứ hoà thanh khác điệu thứ tự nhiên ở chỗ có bậc VII nâng cao. Bậc VII được nâng cao do sự cần thiết tăng mức bị hút của âm dẫn lên. 16
  17. Thứ tự các quãng hai trong gam thứ hoà thanh như sau : hai trưởng, hai thứ, hai trưởng, hai thứ, hai tăng, hai thứ : La thứ (a moll) hoà thanh 1 cung ½ cung 1 cung 1 cung ½ cung 1 cung 1 cung Bậc : I II III IV V VI VII (I) Đặc điểm tiêu biểu của điệu thứ hoà thanh là quãng hai tăng giữa các bậc VI và VII. Những Ví dụ âm nhạc ở điệu thứ hoà thanh. Dân ca U-cren - “Trăng ơi, đừng chiếu sáng“ Điệu thứ giai điệu khác điệu thứ tự nhiên ở chỗ bậc VI và bậc VII được nâng cao. Bậc VI nâng cao (ở hướng chuyển động đi lên của gam thứ giai điệu) làm cho các bậc thuộc phần trên của gam được sắp xếp đều đặn, mà vẫn giữ được âm dẫn đi lên bị hút về bậc I cách một nửa cung. Các bậc nâng cao không được duy trì trong chuyển động đi xuống của gam thứ tự nhiên. Nguyên nhân là vì trong chuyển động đi xuống cần phục hồi lại đặc tính của bậc VI của điệu thứ tự nhiên-sự hút của nó về bậc V. Ngoài ra, trong chuyển động đi xuống, không cần nâng cao bậc VII nữa. Nhưng đồng thời cũng cần biết là trong âm nhạc cũng có những trường hợp chuyển động đi xuống theo các bậc của điệu thứ giai điệu (với các bậc VI và VII nâng cao). Thứ tự của các quãng hai ở gam thứ giai điệu trong chuyển động đi lên, như sau: Hai trưởng, hai thứ, hai trưởng, hai trưởng, hai trưởng, hai trưởng,hai thứ. La thứ (a moll) giai điệu 17
  18. Cung : 1 1/2 1 1 1 1 1/2 Bậc : I II III IV V VI VII (I) Ví dụ âm nhạc ở điệu thứ giai điệu : Đ. Ka-ba-lép-xki – “Những biến tấu dễ” op.40 số 2 Moderat Bảng so sánh gam thứ tự nhiên, hoà thanh và giai điệu. Tự nhiên -1, 1/2, 1, 1, 1/2, 1, 1. Hoà thanh -1, 1/2, 1, 1, 1/2, 1, 1, 1/2. Giai điệu -1, 1/2, 1, 1, 1, 1,1, 1/2. Các loại giọng thứ cũng vẫn bao gồm những bậc cơ bản và chuyển hoá của hàng âm như trong các giọng trưởng. Các loại giọng thứ cũng có quan hệ họ hàng với nhau như các giọng trưởng. Và cũng do đó, chúng được sắp xếp theo trình tự tăng dần dấu hoá giống như các điệu trưởng, có nghĩa là theo các quãng năm đi lên đối với các giọng có dấu thăng và theo các quãng năm đi xuống với các giọng có dấu giáng. Các giọng trưởng và thứ có thành phần âm thanh giống nhau, hay nói khác, các giọng trưởng và thứ có số dấu hoá theo khoá giống nhau, gọi là các giọng song song. Đô trưởng-La thứ; Mi giáng trưởng-Đô thứ 18
  19. Từ Ví dụ nêu trên ta thấy âm chủ của giọng thứ song song thấp hơn âm chủ của giọng trưởng một quãng ba thứ. Nói một cách khác, âm chủ của giọng thứ song song là bậc VI của giọng trưởng song song với nó. Như vậy, khi nắm chắc các giọng trưởng, có thể dễ dàng tìm thấy giọng thứ bất cứ số lượng dấu hoá nào. Các dấu thăng tuần tự xuất hiện ở bậc II của mỗi gam trong các gam thứ, các dấu giáng - ở bậc VI. Dấu hoá của các giọng thứ viết cạnh khoá. Các dấu hoá bất thường chỉ rõ sự thay đổi crô-ma-tích các bậc VI và VII thì viết trước các nốt. Số lượng các giọng thứ tương đương với số lượng các giọng trưởng, nghĩa là có 15 giọng. Tên gọi của chúng cũng hình thành như tên gọi của các giọng trưởng. Theo hệ thống chữ cái, điệu thức thứ kí hiệu bằng chữ moll1. Sắp xếp các giọng thứ theo trình tự họ hàng, ta có hệ thống giọng sau đây : Các giọng thứ có dấu thăng. Mi thứ e-moll Si thứ b-moll Pha thăng thứ Fis-moll Đô thăng thứ Cis-moll Rê thăng thứ Dis-moll La thăng thứ Ais-moll Các giọng thứ có dấu giáng . Rê thứ d- moll 19
  20. Son thứ g-moll Đô thứ c-moll Pha thứ f-moll Si giáng thứ Bes-moll Mi giáng thứ Es-moll La giáng thứ as-moll Vì lẽ các giọng có họ hàng của điệu thứ được sắp xếp cách nhau một quãng năm đúng, tất cả các giọng của điệu thứ hợp thành một vòng quãng năm độc lập: Trong tổng số các giọng thứ cũng như trong tổng số các giọng trưởng, có sáu giọng trùng âm : ba giọng thăng trùng âm với ba giọng giáng và ngược lại. Đó là : 20
  21. Son thăng thứ trùng âm với La giáng thứ. Rê thăng thứ trùng âm với Mi giáng thứ. La thăng thứ trùng âm với Si giáng thứ. 7. Các giọng cùng tên - một vài nét giống và khác nhau của điệu trưởng và thứ - ý nghĩa của điệu thức trưởng và thứ trong âm nhạc Các giọng trưởng và thứ có âm chủ giống nhau gọi là các giọng cùng tên. Các gam tự nhiên của những giọng trưởng và thứ cùng tên khác nhau ở ba bậc : III, VI và VII. ở gam thứ, mỗi bậc đó thấp hơn cũng những bậc ấy ở gam trưởng một nửa cung crô- ma-tích : Đô trưởng (C-dur) Đô thứ (c-moll) Các gam trưởng hoà thanh và thứ hoà thanh cùng tên về âm thanh chỉ khác nhau ở bậc III. Nét giống nhau của chúng là quãng hai tăng giữa các bậc VI và VII. Ví dụ: La trưởng (A-dur) La thứ (a-moll) Về âm thanh, gam thứ giai điệu khác gam trưởng tự nhiên cùng tên ở bậc III. Ví dụ : La trưởng (A-dur) La thứ (a-moll) Như đã nói, khả năng diễn cảm của âm nhạc có được là do sự tác động qua lại của các phương tiện của nó. Trong số các phương tiện này, điệu thức có ý nghĩa lớn lao trong việc truyền đạt bằng âm nhạc một nội dung và một tính cách nhất định. Cùng một điệu thức nhưng khi kết hợp với các nhân tố khác, nó có thể tạo cho âm nhạc những sắc thái biểu hiện khác nhau. Chẳng hạn, nếu chúng ta xem xét âm nhạc thời đại chúng ta ngày nay, nhất là các ca khúc của các nhạc sĩ Xô-viết, có thể khẳng định chắc chắn rằng điệu thứ là đặc tính của loại âm nhạc miêu tả nội dung u buồn, khắc nghiệt, giàu kịch tính. Ví dụ: V.Xa-xa-vi-ốp Xê-đôi - “Chiều hải cảng” 21
  22. Điệu trưởng là đặc tính của loại âm nhạc miêu tả những nội dung trang trọng, vui tươi. Ví dụ: Lưu Hữu Phước - “Ca ngợi Hồ Chủ tịch“ Maestoso - Trang nghiêm Câu hỏi hướng dẫn học tập Chương này các học viên cần nắm vững kiến thức : - Âm ổn định, âm chủ điệu thức. - Điệu thức trưởng có dấu thăng và giáng, vòng quãng 5. - Trưởng hoà thanh, trưởng giai điệu. - Điệu thứ tự nhiên, hoà thanh, giai điệu, giọng song song. Câu1. Từ nốt Đô quãng 8 thứ nhất hãy viết điệu thức trưởng, hoà thanh, giai điệu. Câu 2. Từ nốt La quãng 8 thứ nhất hãy viết điệu thức thứ hoà thanh, giai điệu. Câu 3. Vẽ sơ đồ vòng quãng 5 các giọng trưởng và thứ. 22
  23. CHƯƠNG II: QUÃNG Ở CÁC GIỌNG TRƯỞNG VÀ THỨ MỤC TIÊU Sau khi học xong chương này, người học có khả năng: - Kiến thức: Trình bày được đặc điểm quãng trong các điệu thức trưởng và thứ. - Kỹ năng: + Phân biệt được ký hiệu các nốt nhạc, khoá nhạc. + Xác định được các nhóm nốt có giá trị trường độ tương đương. + Xác định và vận dụng các dấu viết tắt trong âm nhạc, các dấu bổ sung giá trị trường độ. - Năng lực tự chủ và trách nhiệm: Nghiêm túc, chủ động trong học tập NỘI DUNG CHI TIẾT: 1. Các quãng của điệu trưởng tự nhiên và điệu thứ tự nhiên Ở chương bốn đã giới thiệu chi tiết các loại quãng. Nay cần xem những loại quãng nào hình thành trong các điệu trưởng và thứ tự nhiên và những loại nào trong các điệu trưởng và thứ hoà thanh. Các bậc của điệu trưởng và thứ tự nhiên tạo ra những quãng đi-a-tô-ních. Từ mỗi bậc, có thể lập quãng I, quãng II, quãng III, v.v Nhiệm vụ của chúng ta là phải tìm hiểu độ lớn chất lượng của mỗi quãng, nghĩa là xét xem những quãng nào trong số đó là quãng đúng, quãng thứ, quãng trưởng, v.v Tổng số quãng các loại tương đương với số lượng các bậc của điệu thức, nghĩa là bảy quãng. Ví dụ: Bảng các quãng của điệu trưởng. Một đúng Hái thứ Hai trưởng Ba thứ Ba trưởng 23
  24. Bốn đúng Bốn tăng Năm giảm Năm đúng Sáu thứ Sáu trưởng Bảy thứ Bảy trưởng Muốn cho bảng trên có tác dụng khi nghiên cứu các quãng, cần lưu ý những điều sau đây: - Trong điệu trưởng và thứ tự nhiên hình thành những quãng giống nhau và số lượng cũng bằng nhau. - Ở điệu thứ, tất cả các quãng giống với điệu trưởng đều nằm cao hơn các quãng điệu trưởng hai bậc. Chẳng hạn, quãng ba trưởng trong điệu trưởng là những quãng lập từ các bậc I, IV, và V, ở điệu thứ chúng lập từ các bậc III, VI và VII : C dur a moll I IV V III VI VII 24
  25. - Để nắm vững được các quãng của điệu trưởng, cần bắt đầu từ những quãng dễ nhớ nhất: quãng một và tám đúng, quãng hai thứ và hai trưởng (theo gam), quãng ba trưởng (những bậc chủ yếu), quãng ba cung1, quãng bốn và năm đúng, v.v - Sau khi đã nắm được các quãng trong điệu trưởng thì đối chiếu với vị trí các quãng trong điệu thứ không khó nếu ta lưu ý những điều đã nhắc ở điểm 2. 2. Quãng của điệu trưởng hoà thanh và điệu thứ hoà thanh – các quãng đặc biệt Ở điệu trưởng hoà thanh, do hạ thấp bậc VI, và điệu thứ hoà thanh do nâng cao bậc VII nên hình thành các quãng trong những điệu thức này khác với quãng trong điệu trưởng và thứ tự nhiên. Một là trong các điệu thức này xuất hiện những quãng không có trong các điệu trưởng và thứ tự nhiên. Đó là những quãng crô-ma-tích, hoặc như người ta thường gọi, những quãng đặc biệt. Gọi như vậy vì chúng có chỉ ở các giọng hoà thanh của điệu trưởng và điệu thứ. Có tất cả bốn quãng đặc biệt: quãng hai tăng, bảy giảm, năm tăng và bốn giảm. Như đã nêu, những quãng này hình thành ở điệu trưởng do hạ thấp bậc VI : C dur hoà thanh 2 tăng từ bậc VI 7 giảm từ bậc VII 5 tăng từ bậc VI 4 giảm từ bậc III Ở bậc thứ do nâng cao từ bậc VII : a-moll hoà thanh 2 tăng từ bậc VI 7 giảm từ bậc VII 5 tăng từ bậc III 4 giảm từ bậc VII Hai là có sự thay đổi dạng của một số quãng đi-a-tô-ních. Chẳng hạn như hình thành thêm hai quãng ba cung dưới dạng bốn tăng và năm giảm thay cho các quãng bốn và năm đúng : C-dur hoà thanh a-moll hoà thanh 4 tăng từ bậc VI 5 giảm từ bậc II 4 tăng từ bậc IV 5 giảm từ bậc VII Ghi chú : Nếu như việc nắm vững các quãng cấu tạo từ các bậc của điệu thứ tự nhiên và đặc biệt là của điệu trưởng tự nhiên là điều có lợi trong thực hành thì ở điệu trưởng và thứ hoà thanh có thể chỉ cần nắm vững từ các bậc nào hình thành : a) Các quãng đặc biệt. b) Các quãng hai thứ. 25
  26. c) Các quãng ba thứ và trưởng (cần thiết để lập các hợp âm ba). d) Các quãng bốn tăng và giảm. 4. Các quãng ổn định và không ổn định - sự khác nhau giữa tính ổn định và tính thuận - giữa tính không ổn định của quãngthuận với tính nghịch - sự giải quyết các quãng nghịch, sự giải quyết các quãng không ổn định theo sức hút Mỗi quãng hình thành từ các bậc của điệu thức ngoài tính âm học của nó nghĩa là thuận hay nghịch, còn có một màu sắc khác (đặc tính) tuỳ thuộc ở chỗ nó được cấu tạo từ những bậc ổn định và không ổn định. Nói cách khác, vị trí điệu thức của nó được bộc lộ ra. Khi xem xét các quãng từ quan điểm này, người ta chia chúng thành các loại ổn định và không ổn định. ở đây trước hết cần xác định là không phải bất cứ quãng nào cũng ổn định, nếu xét từ quan điểm điệu thức. Ví dụ : V.Ka-li-nhi-cốp - Những cây thông Moderato (Vừa phải) Ở đoạn nhạc trên, quãng ba trưởng La giáng-Đô là quãng ổn định, các quãng còn lại không ổn định dù chúng là những quãng thuận. Như vậy tức là những quãng thuận nào do toàn những âm ổn định hợp thành mới là những quãng ổn định. Các quãng thuận cấu tạo từ những âm không ổn định hoặc từ một âm không ổn định và một âm ổn định đều là quãng không ổn định. Bất cứ quãng nghịch nào, dù ở vị trí nào của điệu thức, bao giờ cũng là quãng không ổn định. Ví dụ: P. Trai-cốp-xki - “Rạng đông“ Allegro moderato (Nhanh vừa) Trong Ví dụ này, các quãng nghịch được thay thế bằng những quãng thuận, nhưng cả thuận và nghịch đều là những quãng không ổn định. Trong đoạn nhạc này những quãng ổn định là: quãng ba Mi-Son thăng và quãng ba Son thăng-Si, những quãng kết thúc các phần trong Ví dụ này. Sin chuyển sang vấn đề cách giải quyết những quãng nghịch và những quãng không ổn định. 26
  27. Giải quyết quãng nghịch là chuyển nó thành quãng thuận, còn giải quyết một quãng không ổn định là chuyển nó thành quãng ổn định. Không nên lẫn lộn hai trường hợp này vì giải quyết một quãng nghịch tức là chuyển nó thành quãng thuận, dù quãng thuận đó ổn định hay không ổn định, còn giải quyết một quãng không ổn định thì phải chuyển nó thành quãng ổn định. Phải trên cơ sở điệu thức mà nghiên cứu sự giải quyết các quãng nghịch và quãng không ổn định, vì cách sử dụng chúng trong âm nhạc và cách giải quyết đều dựa trên nguyên tắc sức hút của các âm ổn định. Cho nên khi giải quyết một quãng nào đó, cần xác định giọng điệu để biết cần phải xem xét quãng đó từ quan điểm nào. Dưới đây là những Ví dụ về cách giải quyết các quãng nghịch trong điệu trưởng và thứ. a) Giải quyết quãng hai trưởng và bảy thứ : 27
  28. b) Giải quyết quãng bốn đúng khi nó ở vào vị trí nghịch c) Giải quyết các quãng hai thứ và bảy trưởng: d) Khi giải quyết các quãng ba cung, cả hai âm đều chuyển dịch một bậc theo hướng bị hút: trong quãng bốn tăng-về hai phía, trong quãng năm giảm- theo hướng gặp nhau. Ví dụ: Ghi chú: Quãng ba cung có thể được tạo ra do bất thường nâng cao hoặc hạ thấp crô- ma-tích một trong các bậc. Trong trường hợp này, nếu trong thành phần của nó có một âm ổn định thì khi giải quyết âm đó nằm nguyên, còn âm không ổn định di chuyển theo hướng bị hút. Ví dụ : 28
  29. Nguyên tắc giải quyết các quãng đặc biệt cũng giống như giải quyết các âm không ổn định, tức là : nếu có hai âm không ổn định, cả hai cùng chuyển về các âm ổn định theo hướng bị hút (quãng hai tăng và bảy giảm); nếu có một âm ổn định, nó đứng tại chỗ, còn âm không ổn định giải quyết theo hướng bị hút (quãng bốn giảm và năm tăng). Ví dụ : c-dur hoà thanh Ghi chú: Nếu các quãng hai tăng hoặc bảy giảm được tạo ra do bất thường nâng cao hoặc hạ thấp crô-ma-tích một bậc nào đó trong điệu thức, nếu có một âm ổn định, thì khi giải quyết âm đó đứng tại chỗ. Ví dụ: Tất cả các quãng thuận không ổn định đều giải quyết trên cơ sở sức hút của các âm không ổn định. Nếu cả hai âm trong quãng không ổn định thì chúng chuyển về những âm ổn định kề bên. Nếu trong quãng có một âm ổn định, nó đứng tại chỗ còn âm kia chuyển về âm ổn định. Ví dụ : a) C-dur 29
  30. Câu hỏi hướng dẫn học tập Chương này các học viên cần nắm vững kiến thức: - Quãng của điệu trưởng và thứ tự nhiên. - Các quãng ổn định và không ổn định. - Sự giải quyết các quãng nghịch. Câu 1. Vẽ sơ đồ tất cả các quãng từ các bậc của gam đô trưởng và la thứ. Câu 2. Trình bày các cách giải quyết các quãng 2 trưởng và 7 thứ, 4 đúng, 2 thứ và 7 trưởng. 30
  31. CHƯƠNG III. CÁC ĐIỆU THỨC TRONG ÂM NHẠC DÂN GIAN MỤC TIÊU Sau khi học xong chương này, người học có khả năng: Kiến thức: Kể tên được một số điệu thức âm nhạc dân gian, phương Đông, Phương Tây Kỹ năng: + Phân biệt được đặc điểm cấu tạo giữa các điệu thức dân gian phương Tây với tính chất giọng cùng loại. + Xác định được điệu thức một số bài dân ca viết ở điệu thức năm âm. NỘI DUNG CHI TIẾT: 1. Khái quát chung Hiện nay, trong âm nhạc dân gian, cổ điển, đương đại có thể gặp nhiều điệu thức khác nhau ngoài điệu thức trưởng và thứ. Âm nhạc cũng như các lĩnh vực nghệ thuật khác đã hình thành không giống nhau ở các dân tộc, quốc gia, vùng lãnh thổ. Những điệu thức trong sáng tác âm nhạc dân gian cũng như những điệu thức đã bắt rễ sâu xa, đã được công nhận trong hoạt động am nhạc thế giới, đều hình thành dần dần. Có những bài dân ca, hay ca khúc xây dựng chỉ bằng hai hoặc ba âm thanh Ví dụ bài dân ca Inh lả ơi- Dân ca Thái (chỉ có 4 âm: Son, La, Đô, Rê) Hay bài hát cùng nhau đi hồng binh của Đinh Nhu cũng chỉ có bốn âm (Son, La, Si Rê) 2. Các điệu thức âm nhạc dân gian phương Tây Trong điệu thức âm nhạc dân gian phương Tây có điệu thức bảy bậc với thứ tự các bậc đi-a-tô- nic khác nhau. Sự khác nhau về trình tự nối tiếp nhau các bậc trong điệu thức phụ thuộc vào thứ tự các quãng hai trưởng, hai thứ trong thang âm/ 31
  32. Trong số các điệu thức bảy bậc cảu âm nhạc dân gian có hai điệu điệu thức có xu hướng trưởng đó là và hai điệu thức có xu hướng thứ. Dạng 1: giống điệu thức trưởng nhưng có bậc VII hạ thấp Dạng 2: giống điệu thức trưởng có bậc bậc IV nâng cao Dạng 3: giống điệu thức thứ nhưng có bậc VI nâng cao Dạng 3: giống điệu thức thứ nhưng có bậc II hạ thấp Do trùng hợp bề ngoài giữa các hàng âm cuả điệu thức đi-a-tô-nic 7 bậc của âm nhạc dân gian với các hàng âm đã có trong thời ký trung cổ, người ta đã đặt cho chúng những tên gọi của các điệu thức thời kỳ trung cổ Điệu thức Mit-xô-li-đi: giống điệu thức trưởng nhưng có bậc VII hạ thấp Điệu thức Li-đi: giống điệu thức trưởng có bậc bậc IV nâng cao Điệu thức Đô-ri: giống điệu thức thứ nhưng có bậc VI nâng cao Điệu thức Phi-ri: giống điệu thức thứ nhưng có bậc VI nâng cao 3. Các điệu thức năm âm Trong dân ca, âm nhạc dân gian các nước Phương Đông, trong đó có Việt Nam có sử dụng điệu thức năm âm bậc. Các bậc được sắp xếp theo các quãng hai trưởng, 3 thứ. Các điệu thức nêu trên được gọi là điệu thức năm âm, có nới gọi là điệu thức ngũ cung. Đặc điểm của điệu thức này là thánh phần âm thanh của nó không có quãng 2 thứ. Do đó điệu thức năm âm không có những âm không ổn định hay chịu sức hút mạnh như điệu thức trưởng thứ. 32
  33. Các dạng điệu thức năm âm - Dạng 1: Điệu thức năm âm có tính chất giống điệu thức trưởng (có nơi gọi là điệu thức Cung) Đây là dạng thường gặp khá phổ biến trong dân ca Việt Nam Ví dụ bài Lý cây đa (Dân ca Quan họ) Trog bài này hàng âm là: Son-La-Si-Rê-Mí Dạng 2: Điệu thức năm âm có tính chất giống điệu thức thứ (có nơi gọi là điệu thức Vũ) 33
  34. Đây là dạng thường gặp khá phổ biến trong dân ca Việt Nam Ví dụ bài qua cầu gió bay – Dân ca Quan họ Dang 3: (có nơi gọi là điệu thức Thương) Dạng 4: (có nơi gọi là điệu thức Chuỷ) Dạng 5: (có nơi gọi là điệu thức Giốc) 34
  35. CHƯƠNG IV. TÍNH CHẤT HỌ HÀNG CỦA CÁC GIỌNG MỤC TIÊU Sau khi học xong chương này, người học có khả năng: - Kiến thức: Kể tên số lượng các giọng họ hàng của 1 giọng bất kỳ. - Kỹ năng: + Xác định được tên giọng họ hàng của 1 giọng cụ thể. + Viết được gam Cro-ma-tic theo đúng quy tắc. - Năng lực tự chủ và trách nhiệm: Nghiêm túc, chủ động trong học tập NỘI DUNG CHI TIẾT 1. Tính chất họ hàng của các giọng Tất cả các giọng trưởng và thứ hợp thành những giọng có quan hệ họ hàng với nhau về hoà thanh. Các giọng có họ hàng là những giọng có các hợp âm ba chủ nằm ở các bậc của một giọng cụ thể nào đó (giọng xuất phát) thuộc dạng tự nhiên và hoà thanh. Trong một tác phẩm âm nhạc, giọng khởi đầu được gọi là giọng chính, các giọng thay thế nó trong quá trình diễn biến của âm nhạc là các giọng phụ. Mỗi giọng có sáu giọng họ hàng: Ví dụ : Giọng Đô trưởng có họ với các giọng sau: Pha trưởng bậc IV: Các giọng của những bậc chính Son trưởngbậc V: Các giọng của những bậc chính La thứ bậc VI: Giọng song song của giọng chính Rê thứ bậc II: Các giọng song song với những bậc chính Mi thứ bậc III: Các giọng song song với những bậc chính Giọng La thứ có họ với các giọng sau : Rê thứ bậc IV: Các giọng của những bậc chính Mi thứ bậc V: Các giọng của những bậc chính Đô trưởng bậc III: Giọng song song của giọng chính Pha trưởng bậc VI: Các giọng song song của những bậc chủ yếu Son trưởng bậc VII: Các giọng song song của những bậc chủ yếu Mi trưởng bậc V: Giọng át trưởng (xem Ví dụ 206b) 35
  36. Qua những Ví dụ đã nêu, có thể thấy các hợp âm ba trưởng và thứ cấu tạo trên các bậc của các giọng Đô trưởng và La thứ tự nhiên và hoà thanh cũng là những trường hợp âm chủ của các giọng có họ hàng với chúng đã kể ở trên. 2. Crô-ma-tích - sự hoá Crô-ma-tích là thay đổi các bậc cơ bản của những điệu thức đi-a-tô-ních bằng cách nâng cao hoặc hạ thấp chúng xuống. Bậc crô-ma-tích mới được tạo ra bằng cách đó là bậc chuyển hoá, do đó được kí hiệu như bậc cơ bản, nhưng có dấu hoá. Bậc nào của điệu thức cũng có thể thay đổi crô-ma-tích. Ta đã đề cập đến yếu tố crô- ma-tích khi nghiên cứu các dạng khác nhau của điệu trưởng và điệu thứ. Bậc VI hạ thấp ở điệu trưởng và các bậc VI và VII nâng cao ở điệu thứ là những bậc thay đổi crô-ma-tích, cho nên những dấu kí hiệu sự thay đổi ấy của chúng như ta biết, viết cạnh nốt nhạc chứ không viết cạnh khoá. Trong những trường hợp đã nêu, crô-ma-tích dường như là một sự thay đổi thường xuyên của bậc cơ bản, nhờ đó xuất hiện những dạng độc lập của điệu thức. Ngoài ra crô-ma-tích có thể có tính chất bất thường, lướt qua như sự thay đổi nhất thời của một bậc nào đó, làm cho sức hút tăng thêm. Sự thay đổi crô-ma-tích của các âm không ổn định làm tăng sức bị hút của chúng về những âm ổn định, trong lí thuyết được gọi là sự hoá. Chỉ có thể hoá (thay đổi) những bậc cách bậc ổn định một quãng hai trưởng. Như vậy, ở điệu trưởng, thứ có thể : Sự hoá Bậc của điệu trưởng Bậc của Điệu thứ Nâng cao hoặc hạ thấp II IV Nâng Cao IV VII Hạ thấp VI II Bậc VI nâng cao trong điệu thứ giai điệu lại có tính chất khác. Nó làm cho chuyển động đi lên từng bậc theo hàng âm trở nên đều đặn (xem chương V). Các sơ đồ và sự hoá ở điệu trưởng và điệu thứ: Do sự hóa mà xuất hiện ở các điệu thức trưởng và thứ hàng loạt những quãng crô-ma- tích mới. Trong số này thường hay gặp nhất là: các quãng ba giảm và sáu tăng. 36
  37. Quãng ba giảm giải quyết về quãng một đúng, còn quãng sáu tăng giải quyết về quãng tám đúng. Ví dụ: 3. Gam crô-ma-tích - Quy tắc viết gam crô-ma-tích Gam crô-ma-tích là một nối tiếp âm thanh cách nhau từng nửa cung một. Gam crô-ma- tích không tạo ra một điệu thức độc lập. Cơ sở của nó là gam trưởng hoặc gam thứ. Nó là dạng phức tạp hoá của các gam trưởng và thứ. Nó hình thành trong các gam trưởng và thứ tự nhiên bằng cách bổ sung các âm crô-ma-tích giữa các quãng hai trưởng. Quy tắc viết gam crô-ma-tích dựa trên cơ sở họ hàng của các giọng. Ở điệu trưởng quy tắc đó như sau : tất cả các bậc cơ bản của gam không thay đổi, trong chuyển động đi lên các quãng hai được bổ sung bằng cách nâng cao các bậc I, II, IV, V và hạ thấp bậc VII, thay cho việc nâng cao bậc VI: trong chuyển động đi xuống, các quãng hai được bổ sung bằng cách hạ thấp các bậc VII, VI, III, II và nâng cao bậc IV thay cho việc hạ thấp bậc V. Việc hạ thấp bậc VII khi đi lên và nâng cao bậc IV khi đi xuống là điều cần thiết để cho tất cả các bậc thay đổi đều là những âm tương ứng với các bậc của những giọng họ hàng thuộc các dạng tự nhiên hoặc hoà thanh. 37
  38. Ví dụ như trong các giọng họ hàng của giọng Đô trưởng, không có những âm La thăng và Son giáng. Cho nên không thể nâng cao bậc VI khi chuyển động đi lên và hạ thấp bậc V khi chuyển động đi xuống theo gam crô-ma-tích: Quy tắc viết gam crô-ma-tích ở điệu thứ trên hướng đi lên cũng giống như điệu trưởng song song. Cần chú ý là bậc I của điệu thứ lại là bậc VI ở điệu trưởng song song và do đó không nâng cao được mà thay thế bằng cách hạ thấp bậc II. Khi đi xuống gam crô-ma-tích của điệu thứ viết như gam trưởng cùng tên. Ví dụ: Trong âm nhạc đôi khi cũng gặp những trường hợp không đúng quy tắc viết gam crô-ma-tích đã trình bày ở trên. Chẳng hạn, để cho tiện việc đọc nốt trong chuyển động crô-ma-tích của các quãng ba, để tránh trong một số trường hợp việc thay thế trùng âm các quãng ba bằng những quãng khác. Câu hỏi hướng dẫn học tập Chương này các học viên cần nắm vững kiến thức : - Tính chất họ hàng của các giọng. - Crômatic, sự hoá. - Gam Crômatic, quy tắc viết Crômatic. Câu 1. Hãy cho biết các giọng họ hàng của Son trưởng và La thứ. Câu 2. Trình bày sơ đồ sự hoá ở điệu trưởng và điệu thứ. Câu 3. Trình bày quy tắc viết Crômatic của giọng Đô trưởng và La thứ. 38
  39. CHƯƠNG V. XÁC ĐỊNH GIỌNG, DỊCH GIỌNG MỤC TIÊU Sau khi học xong chương này, người học có khả năng: - Kiến thức: Trình bày được cách xác định giọng, cách dịch giọng - Kỹ năng: + Xác định được giọng của bản nhạc, tác phẩm. + Dịch được giọng sang giọng khác. - Năng lực tự chủ và trách nhiệm: Nghiêm túc, chủ động trong học tập NỘI DUNG CHI TIẾT: 1. Xác định giọng Những dấu hiệu cơ bản để xác định điệu thức và giọng của một giai điệu là : những dấu hoá theo khoá và bất thường ; cấu trúc của bản thân giai điệu, âm chủ của nó và các âm tựa tạo thành hợp âm ba chủ. Có thể phán đoán về âm chủ căn cứ vào âm kết thúc giai điệu, nhưng không phải bao giờ cũng như vậy. Không ít trường hợp âm kết thúc lại không phải là bậc I, như thường thấy trong các ca khúc dân gian. Âm mở đầu giai điệu cũng vậy, không phải bao giờ cũng là âm bậc I. Ví dụ : Dân ca Nga - “Hãy múa đi” Ví dụ trên đây-một bài dân ca Nga phổ cập - bắt đầu bằng bậc V. Âm La là âm tựa của đoạn một, phối hợp với một âm tựa khác - âm Pha (bậc III), cả hai âm này đều chưa bộc lộ đầy đủ tính chất chủ âm. Chỉ ở đoạn hai của bài hát mới xuất hiện hình hài của hợp âm ba chủ (quãng năm đúng Rê - La). Bài hát kết thúc ở bậc III. Tiếp theo là một Ví dụ khác ở điệu thứ. Căn cứ vào những dấu hoá theo khoá và bất thường cũng như cấu trúc của bản thân giai điệu, có thể xác định đây là giọng Mi thứ, tuy giai điệu bắt đầu bằng bậc V và kết ở bậc II : Dân ca U-cren - “Bồ câu đã bay” 39
  40. Khi giai điệu có phần đệm, việc xác định điệu thức và giọng đơn giản hơn nhiều. Các hợp âm của phần đệm giúp ta xác định điều nói trên. Hợp âm kết thúc bao giờ cũng là hợp âm ba chủ, trừ rất ít trường hợp ngoại lệ. Điều nhận xét trên đây liên quan tới mọi loại hình âm nhạc. Ví dụ: R. Shu-man - “Khúc rô-măng nhỏ” op. 68, số 19 2. Dịch giọng Nhạc sĩ sáng tác lựa chọn cho tác phẩm của mình giọng phù hợp nhất về âm điệu và tầm cữ với nội dung đã dự kiến. Tuy nhiên, mọi tác phẩm âm nhạc đều có thể dịch sang một giọng khác, cao hơn hoặc thấp hơn giọng nguyên bản. Việc chuyển giai điệu hay toàn bộ tác phẩm âm nhạc từ giọng này sang giọng khác gọi là dịch giọng. Dịch giọng được sử dụng rộng rãi trong hoạt động âm nhạc quốc tế. Tùy theo tầm cữ giọng hát các ca sĩ biểu diễn tác phẩm ở loại giọng thuận tiện cho mình. Như ta biết, cùng một 40
  41. bài hát hay một bản rô-măng-xơ, người ta in để phát hành ở các giọng khác nhau cho phù hợp với âm cữ của các loại giọng hát. Dịch giọng được sử dụng khi chuyển biên một tác phẩm từ nguyên bản sang cho nhạc cụ khác biểu diễn, Ví dụ một tiểu phẩm vi-ô-lông chuyển biên cho an-to hay viôlôngxen. Tiến hành dịch giọng bằng ba phương thức: 1. Dịch theo quãng đã ấn định. 2. Thay đổi các dấu hoá theo khoá. 3. Thay khoá. Khi dịch giọng theo quãng đã định, cần xác định xem giọng cần dịch sang là giọng gì. Chẳng hạn từ giọng Rê trưởng, dịch lên một quãng ba thứ. Giọng mới sẽ là Pha trưởng. Bên cạnh khoá sẽ đặt dấu Si giáng. Tất cả các nốt nhạc dịch sang giọng Pha trưởng sau khi đã xác định xem chúng tương ứng với những bậc và hợp âm nào của giọng nguyên bản. Ví dụ về dịch giọng lên một quãng ba thứ Phương pháp thứ hai là dịch giọng một nửa cung crô-ma-tích đi lên hoặc đi xuống. Trong trường hợp này ta thay đổi các dấu hoá theo khoá : các nốt giữ nguyên còn các dấu hoá bất thường được thay đổi nâng cao hay hạ thấp cho phù hợp với hoá biểu mới. Ví dụ, chuyển dịch La giáng trưởng về La trưởng: a) Thay bốn dấu giáng trong hoá biểu thành ba dấu thăng. b) Các dấu hoá bất thường thì : các dấu hoàn thay bằng dấu thăng; còn các dấu giáng thay bằng dấu hoàn. Ví dụ dịch giọng lên nửa cung crô-ma-tích: Dân ca Nga - “Dọc theo dòng sông” 41
  42. Phương pháp thứ ba là chọn một loại khoá mà trong đó âm chủ của giọng mới viết cùng dòng với âm chủ của nguyên bản. Phương pháp này ít dùng hơn hai phương pháp kia và đòi hỏi phải biết cách đọc thông thạo mọi thứ khoá. Câu hỏi hướng dẫn học tập Chương này các học viên cần nắm vững kiến thức : - Giọng và âm chủ. - Dịch giọng. Câu 1. Từ bài Làng Tôi của Văn Cao giọng Đô trưởng hãy dịch lên giọng Mi trưởng. Câu 2. Từ bài Em bé ngoan của Phan Huỳnh Điểu giọng Son trưởng hãy dịch lên giọng Đô trưởng. 42
  43. CHƯƠNG VI. CHUYỂN GIỌNG MỤC TIÊU Sau khi học xong chương này, người học có khả năng: - Kiến thức: Trình bày khái niệm chuyển giọng; liệt kê được các loại chuyển giọng. - Kỹ năng: Xác định được giọng chuyển đến của một số tác phẩm. - Năng lực tự chủ và trách nhiệm: Nghiêm túc, chủ động trong học tập NỘI DUNG CHI TIẾT: 1. Chuyển giọng và chuyển tạm Chuyển giọng là chuyển sang một giọng mới và kết thúc cấu trúc âm nhạc ở giọng đó. Chuyển tạm là thay đổi giọng trong cấu trúc không củng cố chủ âm mới. Chuyển tạm thường mang tính chất nhất thời, nó là phương tiện làm nổi lên (nhấn mạnh) trong một thời gian ngắn chức năng của một số hợp âm nằm trong kết cấu âm nhạc. Ví dụ về chuyển tạm: M. Glin-ka - “Yêu em, hoa hồng Sinh đẹp” Allegretto 2. Chuyển giọng sang các giọng họ hàng Chuyển giọng được sử dụng rộng rãi trong âm nhạc. Vốn là một phương tiện diễn cảm có Ý nghĩa nghệ thuật lớn lao, chuyển giọng làm cho âm nhạc đa dạng hơn và hỗ trợ sự phát triển của nó. Vì các giọng họ hàng liên kết lại với nhau bằng thành phần âm thanh chung, cho nên đối với tai người nghe, việc chuyển về các giọng họ hàng là sự chuyển giọng có tính kế tiếp và phù hợp với quy luật hơn cả. Thường hay gặp hơn cả là chuyển giọng về giọng át và giọng song song của nó. Chuyển về giọng hạ át và giọng song song của nó thường chỉ là chuyển tạm. 43
  44. Các Ví dụ chuyển giọng về các giọng họ hàng: - Từ Mi giáng trưởng chuyển về giọng át : V. Mô-da - An-dan-ti-nô - Từ Son trưởng về giọng song song: Dân ca Uren “Ơi cô gái đi bên bờ” Câu hỏi hướng dẫn học tập Chương này các học viên cần nắm vững kiến thức : - Chuyển giọng - chuyển tạm - Chuyển sang giọng họ hàng Câu 1. Tìm một số ca khúc, các bản nhạc không lời có chuyển giọng. 44
  45. CHƯƠNG VI. GIAI ĐIỆU MỤC TIÊU Sau khi học xong chương này, người học có khả năng: - Kiến thức: Trình bày được khái niệm giai điệu, kể tên được các dạng hướng chuyển động của giai điệu. - Kỹ năng: Xác định được tính chất yêu cầu về sắc thái qua các thuật ngữ. - Năng lực tự chủ và trách nhiệm: Nghiêm túc, chủ động trong học tập NỘI DUNG CHI TIẾT 2. Ý nghĩa của giai điệu trong tác phẩm âm nhạc – giai điệu của âm nhạc dân gian (ca khúc) Giai điệu là sự nối tiếp các âm thanh một bè, có tổ chức về phương diện điệu thức và tiết nhịp, tiết tấu. Nội dung âm nhạc có thể được thể hiện bằng một giai điệu không có phần đệm. Tác phẩm âm nhạc một bè (giọng) có thể có lời (bài hát) hoặc không có lời ca (của giai điệu khí nhạc). Khi có lời ca, nội dung giai điệu được thể hiện rõ hơn. Các bài dân ca, dân vũ là những dẫn chứng về loại giai điệu một bè đó. Nội dung của chúng hết sức đa dạng. Các giai điệu đó phản ánh những cảm xúc và suy tư của nhân dân về cuộc sống của họ. Sáng tác dân gian cũng có những loại hai hoặc nhiều bè. Nhưng đường nét giai điệu cơ bản vẫn nổi lên trên nền hoà hợp chung của các bè, không phụ thuộc vào số lượng bè (các giọng phụ họa). Dân ca của một đất nước nhiều dân tộc là một kho tàng giai điệu vô giá. Cơ cấu giai điệu của các bài hát phù hợp với nội dung rất đa dạng của chúng. Ngoài ra, các bài hát cũng như các giai điệu vũ khúc của các dân tộc còn khác nhau về các âm hình giai điệu tiêu biểu của từng dân tộc. Như người ta thường nói, giai điệu và vũ khúc dân gian đó mang màu sắc dân tộc. Ví dụ về các loại ca, vũ khúc dân gian : Lý kéo chài - “Dân ca Nam Bộ” Vừa phải, khoẻ, khoắn 45
  46. Dân ca được phản ánh rực rỡ trong sáng tác của các nhạc sĩ trong nước và nước ngoài. Dân ca được sử dụng làm cơ sở giai điệu cho âm nhạc cổ điển. Trong nền âm nhạc cổ điển ta thấy có sử dụng những giai điệu dân ca thực thụ và có cả những chủ đề giai điệu do nhạc sĩ sáng tác theo tinh thần các làn điệu dân gian. Ví dụ: Trông cây lại nhớ đến Người- Đỗ Nhuận (theo dân ca Nghệ Tĩnh) 46
  47. Các nhạc sĩ cũng sử dụng trong sáng tác của mình giai điệu của ca khúc dân gian. Trong quá trình phát triển các nền văn hoá dân tộc, việc nghiên cứu nền sáng tác dân gian được tiến hành ngày một sâu rộng hơn. Và rồi chính việc nghiên cứu dân ca, ngược lại, lại mở ra cho các nhạc sĩ những khả năng rộng lớn trong việc sử dụng kho tàng dân ca vô cùng phong phú của các dân tộc. Mặt khác những bài hát quần chúng xuất sắc nhất của các nhạc sĩ, những bài hát rất dễ nhớ nhờ có giai điệu trong sáng, giản dị và tính chất gần gũi dân ca, lại được phổ cập sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân và trở thành sở hữu chung của nhân dân. 3. Hướng chuyển động của giai điệu và tầm cữ của nó – các âm lướt và âm thêu Trong khi phát triển, chuyển động của giai điệu có những hình thái khác nhau. Đường nét của chuyển động giai điệu được hình thành từ những hướng chuyển động khác nhau. Các hướng cơ bản là: a) Chuyển động đi lên b) Chuyển động đi xuống c) Chuyển động hình làn sóng gồm những nét lên xuống luân phiên kế tiếp nhau. d) Chuyển động ngang, trên một âm nhắc đi nhắc lại Ở đây cần chỉ ra rằng hướng chuyển động đầu tiên có thể đi liền bậc, có thể nhảy quãng hoặc phối hợp cả hai kiểu. Chuyển động làn sóng có thể diễn ra trong phạm vi một tầm cữ không lớn, hoặc đi lên dần hoặc xuống dần. Trong trường hợp này tuyến giai điệu có hình thức của một mô-típ lặp lại nhiều lần ở các bậc khác nhau của gam - âm hình giai điệu như vậy gọi là mô tiến. Điểm cao nhất hay là ngọn của giai điệu gọi là điểm cao trào khi nó trùng hợp với sự căng thẳng năng động lớn nhất. Ví dụ về các hình thức chuyển động của giai điệu : a) Chuyển động ngang: 47
  48. b) Chuyển động đi lên - từng bậc, chuyển động đi xuống - hỗn hợp, hình làn sóng : c) Chuyển động nhảy quãng: Khoảng cách giữa âm thanh thấp nhất và cao nhất của giai điệu gọi là tầm cữ của chuyển động giai điệu. Trong chương bảy có nói rằng trong âm nhạc ta thường gặp hình thức chuyển động của giai điệu dựa vào các âm của hợp âm. Trong chuyển động từng bậc, những âm ngoài hợp âm bổ sung vào những khoảng cách giữa các âm thanh của hợp âm, các âm đó gọi là âm lướt. Âm lướt có thể là âm đi-a-tô-ních và crô-ma-tích. Âm thanh ngoài hợp âm xuất hiện sau âm trong hợp âm cao hơn hoặc thấp hơn nó một quãng hai, rồi lại trở lại âm trong hợp âm, được gọi là âm thêu. Các âm thêu có thể là đi-a-tô-ních và crô-ma-tích nghĩa là âm của bậc đi-a-tô-ních kề bên hoặc âm của bậc crô-ma-tíc kề bên. 4. Sự phân chia giai điệu thành từng phần (khái niệm chung về cú pháp trong âm nhạc) - kết cấu, sự ngắt - đoạn nhạc, câu nhạc, sự kết, tiết nhạc - mô típ Cũng như tiếng nói, giai điệu không diễn biến liên tục mà chia thành từng phần. Các phần của giai điệu hoặc của tác phẩm âm nhạc gọi là các kết cấu, chúng có độ dài khác nhau. Ranh giới giữa các kết cấu gọi là sự ngắt. Sự ngắt thường sử dụng trong giảng dạy âm nhạc. 48
  49. Các kết cấu khác nhau ở mức độ hoàn chỉnh của ý nhạc. Một kết cấu nhạc thể hiện một ý nhạc hoàn chỉnh gọi là đoạn nhạc. Đoạn nhạc đơn giản nhất gồm tám ô nhịp. Đoạn nhạc chia thành hai phần được gọi là câu Sự chấm dứt một kết cấu âm nhạc gọi là kết. Trong giai điệu sự kết thể hiện bằng hai loại hoặc nhiều âm có tính chất kết thúc đưa kết cấu âm nhạc đến một sự chấm dứt không ổn định hoặc ổn định (xem chương V). Do đó có thể có những loại kết sau đây: 1. Kết hoàn toàn - Giai điệu chấm dứt ở âm một của hợp âm ba chủ. 2. Kết trọn không hoàn toàn - Giai điệu dừng ở âm ba hay âm năm của hợp âm chủ. 3. Kết nửa - Giai điệu dừng ở âm không ổn định, hoặc ở âm bậc V nếu nó là âm một của hợp âm ba át hay hợp âm bảy át. Câu thứ nhất của đoạn nhạc thường dừng ở kết nửa hay kết trọn không hoàn toàn, tạo ra cảm giác dở dang. Câu thứ hai của đoạn nhạc hầu như bao giờ cũng dừng bằng kết trọn hoàn toàn. Nếu như đoạn nhạc kết thúc ở giọng ban đầu thì gọi là đoạn nhạc một giọng: Văn Cao - “Làng tôi” Vừa phải Đoạn nhạc có chuyển giọng vào lúc kết thúc gọi là đoạn nhạc chuyển giọng. Một câu nhạc cũng lại chia thành hai đoạn nhỏ hơn gọi là tiết nhạc. Trong âm nhạc có những câu trong đó các tiết nhạc tách rời nhau bởi dấu ngắt và cũng có những câu, trong đó các tiết nhạc hoà với nhau gần như thành một tuyến giai điệu liên tục. Ví dụ bài Đàn Chim Việt- Văn Cao 49
  50. Tiết nhạc hai ô nhịp là một kết cấu liền hoặc chia thành những mô-típ (một ô nhịp). Mô- típ là một kết cấu bao gồm một trọng âm chính của tiết nhịp. Thì nhẹ của mô-típ có thể thể hiện ra bằng một hay nhiều âm thanh. Mô-típ có thể bắt đầu và kết thúc không bó tròn trong phạm vi một ô nhịp mà bắt đầu từ nhịp lấy đà và kết thúc ở giữa ô nhịp sau. Cũng có những mô-típ nhỏ hơn ô nhịp. 4. Các sắc thái cường độ và mối quan hệ của chúng với sự phát triển giai điệu - phương pháp kí hiệu sắc thái cường độ Chuyển động của giai điệu gắn liền mật thiết với sự thay đổi mạnh nhẹ của âm thanh. Mức độ mạnh nhẹ khác nhau của cường độ âm thanh trong âm nhạc gọi là sắc thái cường độ. Chúng có ý nghĩa diễn cảm lớn lao. Chẳng hạn, chuyển động đi lên trong giai điệu tất nhiên kéo theo sự tăng thêm độ mạnh của âm thanh, còn sự giảm bớt độ vang là thuộc tính của chuyển động đi xuống. Nội dung các tác phẩm âm nhạc quyết định mức độ chung của cường độ trong tác phẩm. Chẳng hạn bài hát ru thường biểu diễn piano (nhỏ), nội dung loại âm nhạc này mâu thuẫn với âm nhạc vang lớn; một bản hành khúc trang trọng, với màu sắc chiến thắng huy hoàng nhất thiết có âm vang forte (mạnh), âm thanh nhỏ nhẹ không phù hợp với nội dung của loại âm nhạc này. Với những kí hiệu đã được sử dụng hiện nay thì không thể phản ánh được chính xác toàn bộ sự đa dạng về sắc thái cường độ và sự đối chiếu các cường độ đó. Các loại nhạc cụ (pi-a-nô, vi-ô-lông-xen và những nhạc cụ khác) cũng như giọng con người cho phép một cá nhân diễn viên thể hiện những sắc thái tinh tế nhất và do đó tạo nên những hình tượng âm thanh phong phú. Dàn nhạc và dàn hợp xướng cũng có những khả năng ấy. Thông thường, trong âm nhạc người ta dùng các kí hiệu sắc thái cường độ sau đây: a) Độ mạnh nhẹ cố định Fortissimo - ff, rất to Forte - f, to 50
  51. Mezzo forte - mf, to vừa pianissimo - pp, rất nhỏ Piano - p, nhỏ Mezzo piano - mp, nhỏ vừa b) Độ mạnh nhẹ thay đổi dần dần : Crescendo hoặc dấu – to lên Poco a poco crescendo – to dần lên Diminuendo hoặc dấu – nhỏ đi Poco a poco diminuendo – nhỏ dần đi Amorzando – lặng đi Morendo – lịm dần c) Thay đổi độ mạnh nhẹ piu forte – to hơn Mone forte – bớt to Sforzando sf – nhấn mạnh đột ngột 5. Phân tích tác động qua lại của một số nhân tố của giai điệu Các chương trên đã nghiên cứu riêng nhân tố tạo thành âm nhạc, ý nghĩa của chúng trong việc hình thành và phát triển giai điệu. Nhưng, như trong phần dẫn luận đã nói, mỗi nhân tố đó chỉ bộc lộ khả năng diễn cảm của mình trong mỗi tác động qua lại với các phương tiện diễn cảm khác của âm nhạc, cho nên khi kết thúc việc nghiên cứu các nhân tố của ngôn ngữ âm nhạc ta nên xem xét mối tương quan của chúng qua các Ví dụ âm nhạc cụ thể. Các tương quan về độ cao và thời gian là những nhân tố quan trọng nhất quyết định cấu trúc, tính chất và sự phát triển của giai điệu. Về tiết tấu, một yếu tố giữ chức năng tổ chức, cấu tạo hình thức của âm nhạc Câu hỏi hướng dẫn học tập Chương này các học viên cần nắm vững kiến thức : - Chuyển động của giai điệu âm lướt và thêu. - Sắc thái, cường độ của giai điệu. Câu 1. Tìm một số ca khúc có giai điệu âm nhạc mang tính dân gian. Câu 2. Ghi tên các kí hiệu sắc thái cường độ. 51
  52. CHƯƠNG VII. ÂM TÔ ĐIỂM; KÝ HIỆU VỀ MỘT SỐ THỦ PHÁP BIỂU DIỄN MỤC TIÊU Sau khi học xong chương này, người học có khả năng: - Trình bày được ý nghĩa các ký hiệu âm tô điểm, ý nghĩa của các ký hiệu trong thủ pháp biểu diễn. - Năng lực tự chủ và trách nhiệm: Nghiêm túc, chủ động trong học tập NỘI DUNG CH TIẾT: 1. Âm tô điểm: nốt dựa, âm vỗ, láy chùm, láy rền Âm tô điểm là những âm hình giai điệu tô điểm cho các âm cơ bản của giai điệu. Về thời gian, âm tô điểm tính vào trường độ đi trước nó hoặc vào trường độ của âm được tô điểm, do đó phần thời gian của chúng không tính vào tổng số các phách cơ bản của ô nhịp cụ thể ấy. Âm tô điểm được cấu tạo nên nhờ các âm thêu, chủ yếu là những âm thêu cách âm cơ bản một quãng hai. Trong phương pháp ghi âm bằng nốt nhạc, âm tô điểm kí hiệu bằng những nốt nhỏ. Trong âm nhạc thường dùng những dạng tô điểm sau đây: nốt dựa, âm vỗ, láy chùm, láy rền. Nốt dựa có hai dạng: nốt dựa ngắn và dài. Nốt dựa ngắn gồm một hoặc vài âm, biểu diễn rất ngắn, tính vào trường độ âm đi trước nó hoặc trường độ của âm đi sau nó. Nốt dựa ngắn một âm được kí hiệu bằng một nốt nhỏ dưới dạng móc đơn có vạch chéo. Nốt dựa ngắn có vài âm được kí hiệu bằng những móc kép nối liền với nhau bằng những vạch ngang. Nguyễn Đình Phúc -"Bông sen Bác Hồ" Vừa phải, trìu mến 52
  53. Âm vỗ được cấu tạo bằng âm thêu. Âm thêu là bậc kề bên cách âm cơ bản của giai điệu một nửa cung hay một cung đi lên hoặc đi xuống. Âm hình giai điệu của âm gồm ba âm : âm cơ bản, âm thêu và âm cơ bản. Trong đại đa số trường hợp, khi biểu diễn âm vỗ tính vào thời gian của âm được tô điểm. Âm vỗ kí hiệu bằng Trường hợp thứ nhất là âm vỗ đơn giản, nghĩa là âm thêu bắt đầu vào từ phía trên âm cơ bản. Ví dụ: Láy chùm là một âm hình giai điệu gồm bốn hoặc năm âm. Có trường hợp thứ tự các âm thanh như sau: âm thêu trên, âm cơ bản, âm thêu dưới và âm cơ bản. Lại có trường hợp láy chùm bắt đầu từ âm cơ bản còn sau đó thứ tự như ở trường hợp thứ nhất. Dấu hiệu láy chùm đặt trên nốt nhạc hoặc giữa các nốt nhạc: phương pháp biểu diễn cũng tùy thuộc vào chỗ đặt dấu. Dấu crô-ma-tích đặt trên hoặc dưới dấu láy chùm có nghĩa là âm thêu phải bị biến hoá tương ứng. Láy chùm ký hiệu bằng dấu Những Ví dụ về láy chùm : L. Bét-tô-ven “Sô-nát op.49 số 1 chương 1” 53
  54. Láy rền là một âm hình giai điệu gồm hai âm cơ bản và thêu luân phiên nhau nhanh và đều. Trường độ của âm thanh láy rền bằng trường độ của âm được láy. Láy rền có kí hiệu như sau: hay tr. Dấu dùng để kí hiệu láy rền được đặt trên nốt nhạc. Có các phương pháp biểu diễn láy rền khác nhau đó là: a) Bắt đầu từ âm thêu trên: V. Mô-da - Xô-na-tin B-dur chương 1 Andantegrazioso Những nốt nhỏ sau âm cơ bản có nghĩa là láy rền phải kết thúc bằng âm thêu dưới. b) Bắt đầu từ âm thêu dưới c) Bắt đầu từ âm cơ bản: thủ pháp biểu diễn láy rền này được sử dụng trong âm nhạc thời kì gần đây và hiện nay vẫn còn đang được dùng 54
  55. 2. Kí hiệu về một số thủ pháp biểu diễn Ngoài những kí hiệu nốt đã giới thiệu ở chương hai, trong phương pháp ghi âm bằng nốt, còn sử dụng kí hiệu về các thủ pháp biểu diễn. Những kí hiệu này gồm có: lê-ga-tô (legato) ; xtác-ca-tô (staccato) ; poóc-ta-men-tô (portamento) và ác-pê-gi-a-tô. Thủ pháp lê-ga-tô là cách biểu diễn sao cho các âm quyện với nhau và kí hiệu bằng một đường vòng cung. Dấu lê-ga-tô đặt trên hoặc dưới những nốt nhạc cần biểu diễn luyến âm. Ví dụ : “ M. Glin-ka -“Chim sơn ca” Lê-ga-tô khác với dấu nối để tăng trường độ của âm thanh (xem mục 12). Thủ pháp Xtác-ca-tô là cách biểu diễn ngắn gọn âm thanh của giai điệu hoặc của hợp âm. Thủ pháp xtác-ca-tô kí hiệu bằng dấu chấm, đặt trên đầu nốt nhạc hoặc dưới nốt nhạc. Ví dụ Câu hỏi hướng dẫn học tập Chương này các học viên cần nắm vững kiến thức : 55
  56. - Một số ý nghĩa ký hiệu trong thủ pháp biểu diễn. - Ý nghĩa của các ký hiệu, cách diễn tấu 56