Giáo trình Phẫu sinh lý da
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Phẫu sinh lý da", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
giao_trinh_phau_sinh_ly_da.pdf
Nội dung text: Giáo trình Phẫu sinh lý da
- PHẪU SINH LÝ DA MỤC TIÊU HỌC TẬP: 1. Kể được tên 3 lớp của da và liệt kê đủ tầng lớp của thượng bì, trung bì. 2. Nêu được các chức năng sinh lý của da. NỘI DUNG 1. Giải phẫu học của da: Da bao phủ toàn bộ thân người, chuyển thành niêm mạc ở các hố tự nhiên (miệng, mũi, sinh dục - tiết niệu, hậu môn). Da có diện tích từ 1,5 - 2 m2 , là cơ quan đặc biệt nằm giữa môi trường bên ngoài và môi trường bên trong cơ thể và có nhiều chức năng quan trọng. Da gồm 3 lớp: thượng bì, trung bì, hạ bì. 1.1. Thượng bì: Là một tổ chức biểu mô gồm 5 lớp kể từ dưới tên trên. 1.1.1. Lớp cơ bản: Là lớp sâu nhất của thượng bì gồm một lớp tế bào hình trụ đứng sát nhau thành hàng rào. Nhân tế bào to nằm chính giữa. Nguyên sinh chất ưa kiềm, chứa những hạt Melanin. Xen kẽ giữa những tế bào cơ bản, có những tế bào (Melanocytes) làm nhiệm vụ sản xuất ra sắc tố. Lớp cơ bản có nhiệm vụ sản sinh những tế bào mới thay thế những tế bào cũ đã bị phá huỷ. 1.1.2. Lớp nhày - lớp gai: (còn gọi là lớp Malpighi) gồm những tế bào to hơn, hình đa giác, già dặn hơn, càng lên phía trên càng dẹt dần. Lớp nhày là lớp dày nhất của thượng bì, có từ 6- 12 hàng tế bào làm thành một lớp mềm như màng nhầy nên gọi là lớp nhày. Nối đến các tế bào ở lớp này có những cầu nối nguyên sinh chất (cầu nối liên gai) đi thẳng góc từ tế bào này đến tế bào kia làm cho lớp nhày liên kết chặt chẽ với nhau. 1.1.3. Lớp hạt: gồm 3- 4 lớp tế bào dẹt hình thoi. Nhân tế bào của lớp này sáng hơn và có hiện tượng đang hư biến. Nguyên sinh chất chứa nhiều hạt Keratohyalin. 1.1.4. Lớp sáng : nằm giữa lớp hạt và lớp sừng gồm có từ 2 - 3 lớp tế bào rất dẹt và sáng lấp lánh, không có nhân, nguyên sinh chất cũng ít. 1.1.5. Lớp sừng: là lớp ngoài cùng của thượng bì, chỗ dày, chỗ mỏng, tuỳ theo từng vùng da của cơ thể, gồm những tế bào dẹt không nhân và nhiễm toàn bộ chất sừng (keratin). Càng gần bề mặt của da các tế bào không còn dính chặt vào nhau nữa, dần dần tróc da (bong vảy) quện với mồ hôi, chất bã tạo thành ghét.
- Hình 3. Giải phẫu da thường Như vậy thượng bì luôn luôn ở tình trạng sản sinh những tế bào mới ở lớp cơ bản, già cỗi ở lớp hạt, hư biến rồi bong ra ở lớp sừng. 1.2. Trung bì: Nằm dưới lớp thượng bì và được ngăn cách với thượng bì bởi màng đáy (màng cơ bản). Màng này rất mỏng chừng 0,5 mm. Các chất dinh dưỡng từ trung bì sẽ ngấm qua màng này dễ dàng để nuôi dưỡng thượng bì. 1.2.1. Lớp nhú: còn gọi là lớp nuôi dưỡng. Lớp này rất mỏng chỉ bằng 1/10 mm, trên bề mặt có những gai hình nón nổi lên ẩn sâu vào trong lòng thượng bì nên gọi là gai bì (hay nhú bì). Tại đây có rất nhiều mạch máu nhỏ và đầu mút của các sợi thần kinh làm nhiệm vụ nuôi dưỡng cho thượng bì. 1.2.2. Lớp trung bì chính thức: hay còn gọi là lớp chống đỡ. Lớp này dày hơn (khoảng 0,4mm) có nhiệm vụ chống đỡ với các sự va chạm bên ngoài. Về cấu trúc, trung bì gồm 3 thành phần: - Những sợi chống đỡ: sợi keo, sợi chun, sợi lưới. - Chất cơ bản. - Tế bào: tế bào sợi, tổ chức bào, dưỡng bào (Mastocytes). 1.2.3. Mạch máu: Những mạch máu lớn nằm ở hạ bì, bắt nguồn từ những động mạch của cơ. Trung bì chỉ có các mạch máu nhỏ tập trung ở gai bì và quanh các tuyến. 1.2.4. Thần kinh: da có hai loại thần kinh:
- Thần kinh não tuỷ có vỏ myelin bao bọc, có nhánh đi riêng biệt. Ở hạ bì nó tạo thành đám rối nằm ngang, sau đó phân nhánh chạy thẳng góc tới các đầu gai bì rơi tận cùng ở lớp hạt. Ngoài những nhánh thẳng đó, thần kinh còn có những nhánh cuộn tròn lại thành những tiểu thể. Thần kinh giao cảm ở da không có vỏ myelin, chạy nhờ trong các bamàch máu. 1.2.5. Tuyến mồ hôi: các tuyến này có hình ống và bao gồm Thân ống có hình tròn (cầu bài tiết), khư trú ở trung bì sâu hoặc hạ bì, có hai lớp tế bào, giữa là tế bào bài tiết, xung quanh có lớp tế bào dẹt bao bọc. Ống thải dẫn là đoạn qua trung bì có cấu trúc như phần cầu nhưng ít bài tiết. 1.2.6. Tuyến bã: nằm cạnh bao lông và thông với nang lông bằng ống tiết Mỗi tuyến bã có nhiều thuỳ, mỗi thuỳ gồm nhiều lớp tế bào. Ống tiết được cấu tạo bởi tế bào thượng bì. 1.2.7. Nang lông: là phần lõm sâu xuống của thượng bì chứa sợi lông và tiếp cận với tuyến bã. Nang lông ở rải rác khắp người trừ lòng bàn tay bàn chân. Mỗi nang lông có 3 phần: - Miệng nang lông thông ra mặt da. - Cổ nang, phần này hẹp bé, tại đây có miệng tuyến thông ra ngoài. - Bao lông là phần dài nhất ăn sâu xuống hạ bì. 1.3. Hạ bì: nằm ở giữa trung bì và cân hoặc màng xương. Hạ bì là tổ chức đệm biệt hoá thành tổ chức mỡ có nhiều ô ngăn cách bởi những vách, nối liền với trung bì, trong có mạch máu và thần kinh phân nhánh lên phía trên. Cấu trúc của mỗi ô cũng giống như trung bì gồm những sợi keo, sợi chun. Trong các ô có chứa nhiều tế bào mỡ. 2. Sinh lý da Da và phần phụ của da có chức năng quan trọng. Mối liên hệ của da với cơ thể được thực hiện qua hệ thần kinh, hệ tuần hoàn, các tuyến nội tiết. 2.1. Chức năng bảo vệ của da: Da bảo vệ cơ thể tránh những tác động không thuận lợi từ môi trường bên ngoài (cơ học, lý học, hoá học và sinh vật học). 2.2. Chuyển hoá và dự trữ (đặc biệt là dữ trữ muối, nước): 2.3. Bài tiết: Bài tiết các chất độc ra ngoài cơ thể và điều hoà thân nhiệt: Tuyến bã và tuyến mồ hôi của da đào thải những chất hữu cơ và vô cơ, những sản phẩm của quá trình chuyển hoá vô cơ, hydrat cacbon, vitamin, hocmôn và một số lượng nước lớn. 2.4. Chức năng hô hấp và hấp thụ các chất nuôi dưỡng: Qua da một lượng oxy có thể thâm nhập, axit cacbonic được đào thải. Điều này bổ sung
- một phần vào chức năng hô hấp của phổi (da hấp thu 1/180 oxy và đào thải 1/90 axit cacbonic so với trao đổi khí ở phổi). Nước và các chất rắn hầu như không được hấp thu qua da bình thường, nhưng một số chất hoá học và thuốc có thể hấp thu tết hơn. 2.5. Thu nhận cảm giác: Nhờ có vô số tận cùng của các sợi thần kinh ở da mà da có thể tiếp nhận và chuyển vào hệ thần kinh trung ương những kích thích do tác động bên ngoài khác nhau. Ở trong vỏ não những kích thích này biến thành cảm giác đau, nóng - lạnh, và xúc giác... Các giác quan của con người (thị giác, thính giác, khứu giác) cùng với xúc giác của da giúp cho con người có thể tồn tại và thăng bằng với ngoại giới. Ngoài những chức năng trên da còn liên quan mật thiết với các bộ phận khác trong cơ thể, là nơi phản ánh tình trạng các cơ quan nội tạng, tình hình các tuyến nội tiết, biểu hiện nhiễm độc, nhiễm khuẩn, dị ứng ...
- Bài 2. BỆNH GHẺ MỤC TIÊU HỌC TẬP: 1. Nên được căn nguyên, đặc điểm dịch tễ của bệnh ghẻ. 2. Diễn giải được cách chẩn đoán, điều trị và dự phòng bệnh ghẻ tại cộng đồng. NỘI DUNG 1. Đại cương Bệnh ghẻ là một bệnh ngoài da lây và cũng gặp khá phổ biến. Tác nhân gây bệnh là do ký sinh trùng ghẻ (Sarcoptes scabiei hominis). Con đực chết ngay khi giao phối; con cái trưởng thành dài khoảng 400m, sống bằng cách đào hầm dưới da (giữa lớp sừng và lớp hạt). Vài giờ sau khi đào hầm, con cái bắt đầu đẻ trứng. Trứng phát triển thành ấu trùng và trưởng thành trong vòng 10 ngày. Cái ghẻ hoạt động nhiều về đêm, chết khi ra khỏi vật chủ khoảng 3 - 4 ngày. Bệnh hay gặp ở phụ nữ và trẻ em (lây trực tiếp qua ẵm, bế...), hoặc ở những cá nhân hay tập thể có vệ sinh kém. Đường lây truyền của bệnh chủ yếu từ người sang người; một số trường hợp lây từ người bệnh sang người lành qua đồ vật, vật dụng cá nhân. Bệnh ghẻ cũng còn có thể lây qua đường giao hợp, vì vậy bệnh ghẻ còn được xem như là một trong số những bệnh lây truyền qua đường tình dục. Bệnh ghẻ nếu không được phất hiện và điều trị sớm có thể gây thành dịch địa phương, nhất là ở những khu dân cư lao động đông đúc và chật chội, ở trường học, ký túc xá... 2. Triệu chứng lâm sàng Thời kỳ ủ bệnh trung bình 1 - 2 tuần. 2.1. Triệu chứng cơ năng: Bệnh nhân thường ngứa về ban đêm (có tính chất chu kỳ), ngứa khắp người, nhất là vùng da non (kẽ ngón tay, da bụng...). 2.2. Triệu chứng thực thể. Tổn thương cơ bản là mụn nước trong, bóng đứng rải rác. Vị trí tổn thương khu trú đặc biệt ở các kẽ ngón tay, mặt trước cổ tay, nách, quanh vú, rốn, mặt trong đùi, nếp lằn mông, lòng bàn chân hài nhi..., có thể thấy luống ghẻ do ghẻ cái đào hầm dưới da để đẻ trứng. Một số trường hợp có tổn thương ở bộ phận sinh dục, cá biệt có sẵn tròn trợt da ở giữa gọi là sáng ghẻ (dễ nhầm với sóng giang mai). 2.3. Triệu chứng toàn thân: không có gì đặc biệt. 3. Một số biến chứng thường gặp - Chàm hóa: do cái ghẻ hoặc thuốc bôi gây kích thích da gây chàm hoá - Viêm da mủ: thường thấy ở những trẻ có vệ sinh da kém, có thể gây chốc hoá, viêm nang lông, nhọt ... - Hãn hữu có viêm cầu thận cấp do cảm ứng với độc tố của ghẻ, hoặc bội nhiễm. 4. Chẩn đoán 4.1. Chẩn đoán xác đinh: Tại tuyến xã, tuyến huyện và tuyến tỉnh, chẩn đoán xác định chủ yếu vẫn dựa vào đặc điểm lâm sàng với 4 yếu tố:
- - Có mụn nước trong, bóng nằm rải rác, thường khu trú ở vùng da mỏng. - Chủ yếu ngứa nhiều về đêm. - Có tính chất lây lan trong gia đình và tập thể. - Có thể lìm được luống ghẻ và khêu được cái ghẻ. 4.2. Chẩn đoán phân biệt: - Sẩn ngứa: tổn thương là sản huyết thanh rải rác toàn thân, ngứa không có chu kỳ. - Tổ đỉa: mụn nước tập trung ở lòng và rìa bàn tay, bàn chân, không lây. - Sàng giang mai: sàng cứng, không ngứa, không hóa mủ. 5. Điều trị và phòng bệnh 5.1. Nguyên tắc điều trị: - Phải chẩn đoán sớm và điều trị thích hợp để tránh biến chứng và lây lan cho người xung quanh. - Phải điều trị cho những người tiếp xúc mắc bệnh, đồng thời vệ sinh quần áo và đồ dùng sinh hoạt cá nhân. 5.2. Thuốc điều trị: chủ yếu là dùng thuốc bôi cho nên điều trị ghẻ tại tuyến y tế cơ sở có thể lựa chọn một trong các loại sau: - DEP (Diethylphtalate - dạng dầu, mỡ, kem) là thuốc thông dụng hiện nay. - Mỡ hay dung dịch lưu huỳnh 10% có thể dùng tốt cho trẻ em. - Nếu có biến chứng chàm hoá, hoặc bội nhiễm: chuyển tuyến trên. Tại tuyến chuyên khoa: điều trị thuốc bôi như trên: chỗ chảy mủ bôi dung dịch màu như Metylen 2%..., tuỳ tình hình bệnh nhân mà diều trị thuốc kháng sinh chống bội nhiễm, hoặc điều trị chăm hoá (theo phác đồ điều trị bệnh chậm). - Crotamiton 10% (Eurax) dạng kem cũng có tác dụng điều trị ghẻ tốt. - Ngoài ra một số thuốc cây lá nam cũng có lác dụng chữa ghẻ như lá cây ba chạc đun nước để lắm, dầu hạt cây máu chó, ... - Điều trì triệu chứng ngứa để hạn chế gãi và chà xát dễ gây biến chứng chàm hoá: kháng Histamine (Chlopheniramine, Dimedrol...) - Không nên dùng Cocticoide. 5.3. Phòng bệnh: - Cần điều trị đồng thời cho tất cả những người trong gia đình hoặc tập thể bị ghẻ, kết hợp luộc giặt, phơi, là nóng quần áo và các đồ dùng vật dụng cá nhân. - Quản lý các bệnh da nhiễm trùng nói chung và bệnh ghẻ nói riêng tại các tuyến như chăm sóc sức khoẻ ban đầu: thông qua việc lập hồ sơ sức khoẻ qua các kỳ khám sức khoẻ định kỳ tại cộng đồng.
- Bài 3. BỆNH HẮC LÀO, CHÀM Mục tiêu: 1. Trình bày được nguyên nhân, triệu chứng, điều trị bệnh hắc lào. 2. Trình bày được nguyên nhân, triệu chứng, điều trị bệnh chàm. Nội dung: I. Bệnh hắc lào 1. Đại cương - Tác nhân gây bệnh: do các chủng của 3 giống nấm: Tricllopllyton, Epidermophyton và Microporum - Đây là một bệnh da phổ biến. Bệnh có thể gặp ở mọi lứa tuổi, tuy nhiên thường gặp ở tuổi thanh thiếu niên và trung niên, nam nhiều hơn nữ, ở những người làm việc trong môi trường ẩm ướt, ra mồ hôi nhiều, bơi lội, hay vệ sinh kém. Đường lây truyền chính thường từ người; ngoài ra có thể gặp từ gia súc (chó, mèo ), đất 2. Lâm sàng - Nếu tác nhân gây bệnh là do các chủng của giống Tricllophyton thì hình ảnh tổn thương lâm sàng là đám da sẫm màu, có ranh giới rõ rệt, hình tròn hoặc hình bầu dục hay hình nhiều vòng cung hơi cao hơn mặt da lành, xung quanh có viền bờ rõ rệt, tên viền có mụn nước nhỏ. Có thể có nhiều đám tổn thương liên kết với nhau lạo thành đám lớn hình vằn vèo, nhiều cung như địa đồ, ở vùng trung tâm có xu hướng lành. Vị trí tổn thương có thể khư trú ở bất kỳ vị trí nào trên da, nhưng thường bắt đầu ở phần hở: mặt, cổ, cánh tay. Ngứa nhiều khi đi nắng, ra nhiều mồ hôi hoặc khí hậu nóng ẩm. Bệnh tiến triển mang tính chất cấp diễn, có nền da viêm đỏ. - Tác nhân do Epidermophyton, thường gây bệnh bắt đầu ở vùng bẹn với những vết đỏ, có những mụn nước tạo thành viền bờ, ranh giới rõ, vùng trung tâm có xu hướng lành. Vị trí khu trú còn có thể có ở đùi, nếp lằn mông, nếp gấp dưới vú, nách, quanh thắt lưng... Bệnh gây ngứa dữ dội, nhất là khi ra mồ hôi nhiều và về đêm. - Các chủng của giống Microporum gây bệnh thì ít gặp hơn. Tổn thương lâm sàng gần tương tự như tổn thương do các chủng của Trichophyton gây nên. 3. Xét nghiệm: - Soi tươi: có sợi nấm mẫu sáng xanh hơi đồng đều hoặc có vách ngăn, hoặc đứt quãng như chuỗi hạt cườm. - Nuôi cấy: Có thể lấy bệnh phẩm là vẩy da, đem nuôi cấy trên môi trường Sabouraud để xác định nấm. 4. Chẩn đoán: 4.1. Chẩn đoán xác định: * Tuyến y tế cơ sở: Nếu bệnh nhân đến khám có triệu chứng lâm sàng như trên cho bệnh nhân điều trị bằng thuốc bạt da bong vẩy (dung dịch ASA, BSI 2 - 3%, mỡ Benzosali....), nếu bệnh dỡ tiếp tục cho điều trị đến khi khỏi bệnh * Tuyến chuyên khoa: Dựa vào triệu chứng lâm sàng như trên và kết hợp lấy bệnh phẩm soi tươi tìm sợi nấm (+), ( Nếu soi tươi không tìm thấy sợi nấm chẩn đoán phân biệt với một số bệnh da khác và tiến hành cho điều trị ) 4.2. Chẩn đoán phân biệt: - Chàm: thương tổn căn bản là mụn nước tập trung thành đám trên nền da đỏ, kèm theo bệnh nhân thấy ngứa nhiều, bệnh tiến triển dai dẳng và hay tái phát. - Phong củ (mảng củ): các củ phong sắp xếp thành hình tròn hay hình vòng cung, ranh giới
- thương tổn rõ ràng, ở giữa thương tổn lành, kích thước có thể to hay nhỏ, vùng da tại nơi tổn thương bị mất cảm giác đau, nóng, lạnh. 5. Điều trị * Tại tuyến y tế cơ sở: Chủ yếu điều trị tại chỗ bằng các thuốc bôi có tác dụng bạt da bong vẩy như : dung dịch ASA, dung dịch BSI 3%, mỡ Salicylic 5%, mỡ Whitfield, hoặc các loại thuốc bôi có tác dụng chống nấm như mỡ Gricin 3%, mỡ Clotrimazol, kem Nisozal. * Tại tuyến chuyên khoa: Nếu bệnh nhân điều trị ở tuyến cộng đồng không đỡ, điều trị bằng các thuốc sau: Tại chỗ: - Dùng các thuốc bôi cố tác dụng bạt da bong vẩy như : dung dịch ASA, dung dịch BSI 3%, mỡ Salicylic 5%, mỡ Whitfield, ... - Hoặc các loại thuốc bôi có tác dụng chống nấm: mỡ Gricin 3%, mỡ Clotrimazol, kem Nisozal,... Toàn thân: Nếu bệnh tiến triển dai dẳng, diện tổn thương rộng phải kết hợp dùng kháng sinh chống nấm toàn thân như: - Gricin 0,125g x 4 viên/24h x 2 - 3 tuần, hoặc - Nizoral 200mg x 1 - 2 viên/24h x 1 - 2 tuần. Nhìn chung các kháng sinh chống nấm đều có thể gây độc với gan và một số tác dụng phụ khác, vì vậy cần thận trọng khi ra chỉ định điều trị và không dùng thuốc uống cho phụ nữ có thai, người già và trẻ em dưới 2 tuổi. (Chú ý: tuyệt đối không được dùng dao hoặc vật cứng để cạo, chà sát vào tổn thương). 6. Phòng bệnh * Phòng bệnh cấp I: - Giữ vệ sinh da hàng ngày (không dùng chất tẩy rửa mạnh, xà phòng có độ xút cao...) - Không dùng thuốc bôi không đúng chỉ định (nhất là Cocticoide ) - Không mặc quần áo ẩm, ướt - Thường xuyên vệ sinh cá nhân, tắm rửa sạch sẽ sau buổi lao động * Phòng bệnh cấp II: - Nếu tổn thương bội nhiễm tại chỗ bôi dung dịch xanh Methylen, tím Gentian..., dùng kháng sinh đường uống toàn thân như: Erythromyxin 1g/ngày uống trong 7 ngày, hoặc một số loại kháng sinh khác - Khi thương tổn hết bội nhiễm: bôi mỡ kháng sinh chống nấm * Phòng bệnh cấp III: Trường hợp điều trị dai dẳng thì chuyển tuyến chuyên khoa để điều trị tiếp tục. II. Bệnh eczema ( Bệnh chàm ) 1. Đại cương - Eczema là bệnh ngoài da phổ biến, ngày nay và trong tương lai do yêu cầu công nghiệp hoá, sử dụng nhiều hoá chất eczema nghề nghiệp sẽ ngày càng tăng lên. - Có thể định nghĩa eczema là một trạng thái viêm lớp nông của da cấp tính hay mạn tính, tiến triển từng đợt hay tái phát, lâm sàng biểu hiện bằng đám mảng đỏ da, mụn nước và
- ngứa, nguyên nhân phức tạp nội giới, ngoại giới nhưng bao giờ cũng có vai trò " thể địa dị ứng", về mô học có hiện tượng xốp bào ( Spongiosis). - Là bệnh da ngứa điển hình, mạn tính hay tái phát, điều trị còn khó khăn. 2. Nguyên nhân . Nguyên nhân phức tạp nhiều khi khó hoặc không phát hiện được. Có thể do 2.1. Nguyên nhân ngoại giới Các yếu tố vật lý, hoá học, thực vật, sinh vật học đụng chạm vào da gây cảm ứng thành viêm da, eczema ( các chất này gọi là di nguyên ). Ví dụ : ánh sáng, thuốc bôi, tiêm uống, các hoá chất dùng trong công nghiệp, trong gia đình (cao su, kền, crôm, xi măng, sơn...) Một số bệnh ngoài da gây ngứa ( nấm, ghẻ...) do chà xát, bôi thuốc linh tinh... có thể trở thành eczema thứ phát. 2.2. Nguyên nhân nội giới - Rối loạn chức phận nội tạng, rối loạn thần kinh, rối loạn nội tiết có thể là nguyên nhân trực tiếp hoặc gián tiếp gây eczema. 2.3. Dù nguyên nhân nội giới hay ngoại giới cũng đều có liên quan đến phản ứng đặc biệt của cơ thể dẫn đến phản ứng dị ứng ,bệnh nhân có " thể địa dị ứng ". Theo Halpern, Coombs phản ứng eczema được xếp vào kiểu " mẫn cảm tế bào trì hoãn" trong đó có vai trò của các tế bào lymphô mang ký ức kháng nguyên. 3. Tiến triển chung 3.1. Giai đoạn tấy đỏ: Bệnh nhân có cảm giác ngứa dấm dứt trên da, sau đó nổi ban đỏ hoặc đám dát đỏ, hơi cộm, ranh giới không rõ kèm theo có phù nhẹ. 3.2. Giai đoạn mụn nước: Trên dát đỏ xuất hiện mụn nước như hạt kê, hạt tấm, kích thước từ 1 - 2mm. Mụn nước rất nông, chứa dịch trong, xắp xếp thành mảng dày chi chít, rát ngứa. 3.3. Giai đoạn chảy nước: Do bệnh nhân ngứa gãi hoặc do mụn nước tự vỡ, chảy dịch dính nhớp, có khi dàn dựa trên bề mặt tổn thương. Tại mụn nước vỡ để lại vết chủ nhỏ nông, dịch chảy ra liên tục (hiện tượng "giếng chàm"). 3.4. Giai đoạn đóng vảy tiết:C tiết dịch khô đọng lại đóng vảy tiết màu vàng nhạt, vảy mỏng có thể tự bong hoặc do gãi. 3.5. Giai đoạn lên da non: Vảy tiết bong đi để lại lớp da mỏng, dần dần trên lớp da non mới tái tạo bị rạn nứt gây bong vảy da như phấn, như cám, hết đợt này đến đợt khác. Dần dần da trở lại mền mại bình thường. 4. Lâm sàng 4.1. Viêm da cơ đứa ở trẻ hài nhi.và âu thơ. Bệnh thường gặp ở trẻ từ 2 tuổi trở xuống với tổn thương là dát đỏ, trên có nhiều mụn nước nhỏ li ti tập trung thành đám, trợt chảy dịch dính nhớp, có thể nhiễm trùng thứ phát có mủ, có vảy tiết. Vị trí ban đầu ở một bên má, sau lan sang má bên kia, đối xứng hình cánh bướm (trừ sống mũi và mồm), lan lên trán lạo thành hình móng ngựa, tổn thương có thẻ ở quanh miệng, cầm, cổ, đầu, xuống thân mình. Bệnh có thể tự khỏi khi trẻ cai sữa hoặc sau 2 tuổi. 4.2. Viêm da cơ địa ở trẻ em và thanh thiếu niên: Bệnh xuất hiện ở trẻ trên 2 tuổi đến tuổi dậy thì, tổn thương ở má hoặc ở trán hoặc xuất hiện ở khoeo chân, khuỷu tay, đầu gối, ngoài tổn thương là mụn nước, còn có sẵn huyết thanh, da khô, dày da lichen hoá (hằn cổ trâu) 4.3. Viêm da cơ địa ở người lớn: Bệnh xuất hiện từ bé, tái phát nhiều lần, tổn thương còn ít chủ yếu dày da, thâm da, li ken hoá, khu trú ở khoeo chân. khuỷu tay. Bệnh nhân thường có thể kèm theo các bệnh dị ứng khác như: hen phế quản, dị ứng thời tiết... Ở nữ giới có thể viêm núm vú, viêm môi. 5. Chẩn đoán
- 5.1. Tuyến y tế cơ sở: Chẩn đoán định hướng dựa vào các triệu chứng sau: + Tuổi hài nhi hoặc ấu thơ: xuất hiện đám da đỏ, trên có mụn nước nhỏ ly ti như rôm ở trẻ nhỏ, đối xứng 2 bên má. + Trẻ em hoặc thanh thiếu niên tổn thương mụn nước và sản huyết thanh, đối xứng 2 bên má, hai tay hoặc hai chân + Người lớn: Tổn thương dày da, thâm da, ngứa dai dẳng đối xứng. 5.2. Tuyến chuyên khoa: 5.2.1. Chẩn đoán xác định: - Mụn nước nhỏ li ti, tập trung thành đám trên nền da đỏ - Mụn nước xen lẫn với sản huyết thanh. - Da khô, dày da li ken hoá - Tổn thương đối xứng. 5.2.2. Chẩn đoán phân biệt: - Bệnh ghẻ: + Tổn thương là mụn nước trong bóng, rải rác ở vùng da mỏng, da non như ở kẽ ngón tay, chân. bụng, đùi. + Có luống ghẻ, lìm được cái ghẻ. + Có yếu tố dịch tễ. - Tổ đỉa: + Tổn thương là mụn nước ở sâu, cứng chắc khó vỡ và có thể tự tiêu. + Vị trí khu trú ở lòng bàn chân, bàn tay hoặc rìa các ngón tay, ngón chân, không bao giờ vượt đến cổ tay hoặc cổ chân. - Hắc lào: + Tổn thương là dát hình tròn hay bầu dục, mụn nước ở rìa tổn thương, ở giữa có xu hướng lành, hay gặp ở vùng da ẩm, ứ đọng mồ hôi. + Xét nghiệm nấm (+). 6. Điều trị 6.1. Nguyên tắc điều trị: - Tuỳ từng giai đoạn của bệnh mà dùng thuốc tại chỗ cho thích hợp. - Phối hợp điều trị tại chỗ và điều trị toàn thân. - Hạn chế kích thích da. - Nếu có điều kiện, áp dụng các liệu pháp làm thay đổi cơ địa. 6.2. Điều trị cụ thể 6.2.1. Tuyến cơ sở: * Tại chỗ: - Giai đoạn da đỏ rực, phù nề, chảy nước nhiều dùng nước chè, hoặc nước muối ấm ngâm hoặc đắp tổn thương (có thể dùng nước chè xanh để rửa) sau đó bôi dung dịch Methylen 2%. - Giai đoạn da hết phù nề, đỏ ít, chảy nước ít bôi kem Cidermex, kem Clorocide - H, kem Flucinar.