Giáo trình Phương pháp cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học (Phần 1) - Phan Xuân Phồn

pdf 118 trang Hùng Dũng 02/01/2024 5261
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Phương pháp cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học (Phần 1) - Phan Xuân Phồn", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_phuong_phap_cho_tre_lam_quen_voi_tac_pham_van_hoc.pdf

Nội dung text: Giáo trình Phương pháp cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học (Phần 1) - Phan Xuân Phồn

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH - - - - - - - - ThS Phan Xuân Phồn GIÁO TRÌNH PHƯƠNG PHÁP CHO TRẺ LÀM QUEN VỚI TÁC PHẨM VĂN HỌC (Dùng cho sinh viên ngành GD Mầm non – hệ từ xa) Vinh 2011 1
  2. CHƯƠNG I NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG I. KHOA HỌC VỀ PHƯƠNG PHÁP TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG LÀM QUEN VỚI TÁC PHẨM VĂN HỌC 1. Sự quan tâm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước đối với ngành giáo dục Mầm non Ngay từ những ngày đâu khi Cách mạng tháng 8 thành công và trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Nhà nước dân chủ nhân dân đã coi trọng việc chống giặc dốt bên cạnh giặc đói, giặc ngoại xâm, đã quan tâm đến sự nghiệp giáo dục thiếu niên nhi đồng, giành cho tuổi thơ một sự quan tâm đúng mực. Chỉ 8 ngày sau khi ra Tuyên ngôn độc lập, Nhà nước đã ban hành chủ trương mở các lớp ấu trĩ viên, Nhà Bảo anh, Dục anh Liên tiếp vào những ngày 10- 13/12/1946; 25/7/1946, Hội đồng cố vấn học chính của Bộ Quốc gia Giáo dục mở những cuộc họp nghiên cứu các nguyên tắc tổ chức, mở lớp huấn luyện giáo viên mẫu giáo, cử cán bộ phụ trách. Ngày 02/01/1949, Bộ Quốc gia giáo dục đã tổ chức Hội nghị mẫu giáo toàn quốc nhằm định ra đường lối phát triển ngành học. Ngày 9/11/1949, Hội nghị đã xác định rõ mục đích, phương châm, phương pháp giáo dục mẫu giáo. Mục đích ấy là “luyện tập cho các em mai sau trở nên người công dân của nước dân chủ mới”. Các nhà quản lý cũng đã quan tâm đến phương pháp giáo dục khoa học “cách dạy ở ở mẫu giáo hết sức linh hoạt, hoạt bát, chơi mà học, hợp với lứa tuổi 3 - 4” (Sơ thảo 40 năm xây dựng và phát triển sự nghiệp giáo dục mầm non, 1991, nhiều tác giả, viện Nghiên cứu trẻ em). Hai trích dẫn ngắn trên đủ cho ta hình dung được bước đi chập chững ban đầu của ngành mẫu giáo, tuy chưa có cơ sở khoa học cụ thể nhưng đã thể hiện được chủ trương tốt đẹp của Nhà nước muốn các cháu trở thành người công dân tương lai của chế độ mới. Về phương pháp giáo dục, ngành học này còn gặp nhiều lúng túng, đó là việc đề xuất phương pháp trong khi chưa xác định được nội dung giáo dục thì chỉ có thể dừng lại ở quan niệm chung chung là “cách dạy 2
  3. ở mẫu giáo hết sức linh hoạt, hoạt bát”. Ngày 4/7/1950, Ban mẫu giáo trung ương được thành lập với nhiệm vụ “Nghiên cứu phương pháp, đặt chương trình, kế hoạch dạy trẻ từ 3 - 7 tuổi ”. Từ quan niệm trẻ em lứa tuổi mẫu giáo hoàn toàn như một tờ giấy trắng, người lớn có thể vẽ gì lên ấy là tùy, mọi chủ trương về mục đích, phương châm, phương pháp đều xuất phát từ quan điểm giáo dục chủ quan, chưa thấy rõ những tiềm năng của trẻ. Người ta xem lứa tuổi này chỉ là giai đoạn chuẩn bị làm người hoặc “sửa soạn chúng biết đọc biết viết, để cho chúng được lên học lớp trên được linh lợi”. Suốt những năm tháng đó, Bộ giáo dục đã tiến hành mở các khóa đào tạo, lớp bồi dưỡng những người làm công tác mẫu giáo, mở trường, lớp mẫu giáo ở khắp các tỉnh thành phong trào mẫu giáo phát triển nhanh chóng. Giai đoạn ấu trĩ của ngành Mẫu giáo nhanh chóng đi qua. Bộ Giáo dục đã sớm phát hiện ra sự bất hợp lý khi ngành Mẫu giáo vẫn đứng ngoài hệ thống giáo dục nhà trường, ngày 19/1/1966. Vụ Mẫu giáo đã được thành lập và tập trung sức triển khai, tổ chức biên soạn tài liệu bồi dưỡng giáo viên mẫu giáo, hướng dẫn thực hiện các môn học và tổ chức hoạt động phù hợp với giai đoạn mới. Sau năm 1966, Vụ Mẫu giáo ra đời, chịu trách nhiệm trước Bộ giáo dục vạch kế hoạch và chương trình biên soạn tài liệu môn học và tổ chức đào tạo giáo viên theo hệ thống nhà trường dân chủ nhân dân, ngành Mẫu giáo mới có những bước tiến đồng bộ và cơ cơ sở khoa học. Tuy nhiên, tính chất chủ quan áp đặt vẫn còn biểu hiện nặng nề.Người ta mới lo cho cô giáo và công việc của cô giáo chứ chưa lo việc học, chưa thực sự coi trọng trẻ em. Lo dạy mà chưa lo việc học của các cháu. Còn phương pháp dạy thì tùy theo cô giáo mà “linh động”. Từ sau 1975, ngành học mẫu giáo đã có sự chỉ đạo thống nhất trong cả nước, phong trào thi đua được đẩy mạnh. Công cuộc cải cách giáo dục đòi hỏi ngành giáo dục mẫu giáo phải có những cải tiến trong nội dung, phương pháp giáo dục. Một bộ phận cán bộ Vụ Mẫu giáo được giao nhiệm vụ “Nghiên cứu những vấn đề về giáo dục mẫu giáo trong cải cách giáo dục”. Và ngày 21/01/1978, chương trình cải tiến ra đời đánh dấu một bước quyết định trong 3
  4. việc nâng cao chất lượng giáo dục mẫu giáo không tách rời với công tác nghiên cứu khoa học. Ngày 10/02/1978, Ban Nghiên cứu cải cách mẫu giáo được thành lập đã tiến hành nghiên cứu về trẻ em và xây dựng mục tiêu kế hoạch chương trình mẫu giáo cải cách. Chương trình đã quán triệt nghị quyết về cải cách giáo dục của Bộ Chính trị ngày 11/1/1979: “Giáo dục mầm non là một bộ phận rất quan trọng trong sự nghiệp đào tạo thế hệ trẻ ngày từ thời kì thơ ấu, nhằm tạo ra cơ sở ban đầu rất quan trọng của con người mới, người lao động làm chủ tập thể, phát triển toàn diện”. Gần đây, các nhà giáo dục mẫu giáo cũng đang có rất nhiều những nghiên cứu, đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp tổ chức giáo dục trẻ ở trường mầm non. Một trong những đổi mới có tính chất thời sự cấp thiết, đó là vấn đề giáo dục trẻ em theo hướng tích hợp theo chủ điểm, chủ đề với những hình thức tổ chức và phương pháp thích hợp, quán triệt quan điểm giáo dục hiện đại lấy trẻ em làm trung tâm. Đôi nét nêu trên để thấy đuợc những bước đi, lịch sử phát triển của ngành giáo dục mầm non dưới sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với sự nghiệp giáo dục nước nhà, sự nghiệp trồng người nói chung và giáo dục mầm non nói riêng. 2. Xây dựng chương trinh, quan niệm của các nhà giáo dục về văn học dành cho trẻ em. Chương trình một ngành học phải được xây dựng trên lý thuyết về chương trình để đảm bảo sự cân đối giữa giáo dục và đào tạo. Một chương trình thuộc lĩnh vực sư phạm bao giờ cũng có một hệ thống cac khái niệm, xác định mối quan hệ giữa dạy và học, giữa giáo dưỡng và giáo dục. Những khái niệm khoa học của ngành Mẫu giáo cần được làm rõ đó là khái niệm “học” và khái niệm “chơi”, đó cũng là tiêu chuẩn và mục đích, nội dung phương pháp và nguyên tắc thực hiện chương trình. Nhìn vào chương trình, người ta có thể biết được sự tiến bộ và chất lượng của ngành học ấy. Từ năm 1963, ngành học Mẫu giáo đã có chương trình thử nghiệm. Năm học 1966, Bộ giáo dục ban hành chương trình tinh giản có nội dung môn học 4
  5. như: Trò chơi, thể dục, hát múa, thơ ca, chuyện kể, Để đáp ứng những yêu cầu bức thiết của tình hình mới, ngày 21/01/1978, Bộ giáo dục chính thức ban hành “chương trình giáo dục mẫu giáo”, còn gọi là chương trình cải tiến, áp dụng trên phạm vi cả nước. Lần này, Bộ Giáo dục, Vụ Mẫu giáo chủ trương đi sâu cải tiến chương trình và phương pháp các môn học. Bước tiến rõ rệt trong nhận thức của ngành là phải có nội dụng đào tạo, giáo dục trẻ dựa trên những tri thức của các môn học tự nhiên, xã hội, nghệ thuật. Môn “Chuyện và Thơ”, được đưa vào chương trình với mục đích “nhằm phát triển ngôn ngữ, bao gồm việc làm giàu vốn từ, tập cho trẻ phát âm chính xác, diễn đạt rõ ràng có ngữ điệu, đúng ngữ pháp, tạo điều kiện cho trẻ có khả năng sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp và học tập với chức năng giáo dục bằng phương tiện văn học. Chuyện và thời giờ cho trẻ làm quen dần với ý hay lời đẹp, hình tượng trong sáng, tập cho trẻ tiếp xúc với tác phẩm văn học, từng bước xây dựng cho trẻ lòng yêu thích văn học, phát triển mạnh mẽ những tình cảm đạo đức và tình cảm thẩm mĩ góp phần làm phong phú hiểu biết của trẻ và phát triển các năng lực trí tuệ” (Chương trình giáo dục Mẫu giáo, Nhà xuất bản Giáo dục - 1978). Từ chỗ những nhà sư phạm mẫu giáo chỉ xem “chuyện và Thơ” như phương tiện để phát triển ngôn ngữ là chính, đến nhận ra chức năng toàn diện cuả văn học trong việc phát triển thẩm mĩ, trí tuệ và tình cảm, đã là cơ sở thuận lợi để đưa “Làm quen với văn học” vào chương trình cải cách được ban hành năm 1990 như một môn học có nội dung giáo dục toàn diện trẻ mẫu giáo. Nội dung chương trình chăm sóc giáo dục mẫu giáo cải cách được xây dựng dựa trên cơ sở mục tiêu kế hoạch đào tạo nhà trẻ mẫu giáo. Báo cáo tổng kết công tác nghiên cứu của Viện nghiên cứu trẻ em trước tuổi học đường đã đánh giá về bộ chương trình mẫu giáo cải cách: “Đây là bộ chương trình đồ sộ nhất trong lịch sử phát triển mẫu giáo nước ta, góp phần chuyển hướng về nội dung, phương pháp giáo dục mẫu giáo, nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục ở các trường mẫu giáo theo phương hướng cải cách Giáo dục Mầm non” (60 năm giáo dục Mầm non Việt Nam, Phạm Thị Sửu (chủ biên), Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 2006, trang 264). Chương trình chăm sóc giáo dục trẻ đã phong phú hơn lên rất 5
  6. nhiều. Chương trình cũng đã xác định nguyên tắc hoạt động vui chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ, lấy trẻ làm trung tâm, lấy tình cảm mẹ con làm tình cảm cô cháu, lấy hoạt động tiếp xúc với hiện tượng xung quanh và đồ chơi làm con đường cơ bản để hình thành và phát triển nhân cách trẻ. Những kết luận chỉ đạo thực hiện như thế là kết quả của một quá trình nghiên cứu, tham khảo và đúc rút kinh nghiệm từ thực tiễn giáo dục vào nhà trường Việt Nam. Cho đến nay nó vẫn khẳng định tính đúng đắn và hiệu quả. Xác định văn học có nội dung giáo dục đào tạo trẻ mẫu giáo rất toàn diện, hữu hiệu, nên những nhà sư phạm mẫu giáo chủ trương đưa dần văn học đến với trẻ một cách khoa học, thận trọng và có mức độ. Tính khoa học ấy biểu hiện trong việc lựa chọn các thể loại văn học, hình thức truyền đạt gần gũi, phù hợp với sự phát triển của trẻ là: Đọc thơ và kể chuyện Nguồn xúc cảm trong thơ, tính trực quan của hình ảnh và trí tưởng tượng kì thú trong thơ, trong truyện cũng tạo ra sự hấp dẫn và đồng cảm với trẻ. Mỗi thể loại tác phẩm được chọn để đưa vào chương trình cũng được cân nhắc kĩ lưỡng. Tác phẩm thuộc các thể loại phải có giá trị nội dung giáo dục và hình thức nghệ thuật lôi cuốn, dễ hiểu, đồng thời đã được thử thách và khẳng định qua thời gian. Nếu trước kia tác phẩm văn học chỉ được xem là phương tiện giáo dục thì bây giờ sự giáo dục đào tạo trẻ mẫu giáo không những chỉ thông qua tác phẩm văn học mà còn để trẻ hiểu biết về tác phẩm văn học, tất nhiên chỉ là mức độ “làm quen” với nó. Những cố gắng của những người làm chương trình được bộc lộ rõ trong việc đề xuất một số hình thức tổ chức và những cách thức, biện pháp thực hiện môn học trong phần hướng dẫn gợi ý thực hiện. Tuy chưa xây dựng được một hệ thống phương pháp cụ thể nhưng những đề xuất ấy là có ý nghĩa phương pháp, là những suy nghĩ gián tiếp về phương pháp. Nội dung chương trình giáo dục mẫu giáo đã chú trọng đến các môn văn hóa, tuy nội dung đó còn sơ lược và việc học con hòa vào chơi, nên việc đề ra nhưng phương pháp môn học thật chính xác, cụ thể và phản ánh được tính đặc thù của nó cũng là một khó khăn đối với các nhà sư phạm. 6
  7. 3. Phương pháp tổ chức hoạt động làm quen với tác phẩm văn học là một khoa học. Một khoa học chỉ được thừa nhận khi nó xác định được đối tượng, nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu riêng của mình. Phương pháp tổ chức hoạt động làm quen với tác phẩm văn học là một khoa học. Vậy đối tượng, nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu của khoa học này là gì? 3.1. Đối tượng Vấn đề xác định đối tượng, nhiệm vụ nghiên cứu khoa học của Phương pháp tổ chức hoạt động làm quen với tác phẩm văn học là một quá trình tìm tòi của các nhà khoa học và cũng là kết quả của một quá trình trưởng thành từng bước của khoa học giáo dục nói chung, khoa học giáo dục Mầm non nói riêng và các chuyên ngành phương pháp dạy các bộ môn. Có thể quan niệm, Phương pháp tổ chức hoạt động làm quen với tác phẩm văn học là một bộ phận của khoa học giáo dục nói chung và khoa học Giáo dục Mầm non nói riêng, có đối tượng nghiên cứu riêng, có nội dung và cách giải quyết riêng. Nó căn cứ vào nội dung, kết cấu môn học (tổ chức hoạt động) , hệ thống các dạng thức tiết học ở trường Mầm non mà khoa học sư phạm mới chỉ nêu ra lý thuyết chung về các phương pháp dạy học. Đối tượng của khoa học phương pháp tổ chức hoạt động làm quyen với tác phẩm văn học là nghiên cứu đặc điểm quy luật của quá trình dẫn dắt trẻ vào thế giới của các giá trị phong phú chứa đựng trong tác phẩm văn học, một trong những lĩnh vực cơ bản của nghệ thuật ngôn từ dưới góc độ sư phạm và quá trình tổ chức cho trẻ tự hoạt động văn học nghệ thuật. Quá trình này bao gồm quá trình dạy của cô và học của trẻ, thông qua tác phẩm văn học và về tác phẩm văn học. Nghĩa là một quá trình bao gồm những mỗi liên hệ giữa dạy và học, giữa mục đích - nội dung - phương pháp - hình thức tổ chức để trẻ tiếp xúc với tác phẩm văn học và tái tạo lại tác phẩm một cách sáng tạo, góp phần hình thành phát triển toàn diện nhân cách trẻ. Đây là một quá trình phức tạp bao gồm ngôn ngữ và văn học, tâm lí và sư phạm 7
  8. Nói theo cách khác, Phương pháp tổ chức hoạt động làm quen với văn học giải đáp ba câu hỏi cơ bản: Thế nào là tổ chức hoạt động làm quen với tác phẩm văn học? Tổ chức hoạt động làm quen với tác phẩm văn học? Tổ chức hoạt động làm quen với tác phẩm văn học để làm gì (ý nghĩa, nhiệm vụ)? Làm thế nào để tổ chức tốt hoạt động làm quyen với tác phẩm văn học (nguyên tắc, phương pháp)? Xác định rõ đối tượng của phương pháp tổ chức hoạt động làm quen tác phẩm văn học, chúng ta mới có biện pháp tác động thích hợp nhằm ngày càng hoàn thiện mục tiêu, nội dung, phương pháp đào tạo tay nghề cho sinh viên khoa giáo dục Mầm non ở các trường Đại học Sư phạm, đồng thời nâng cao chất lượng tổ chức hoạt động làm quen với văn học ở trường mầm non. 3.2. Nhiệm vụ Từ thực tiễn, thực hiện nhiệm vụ Làm quen với tác phẩm văn học ở trường Mầm non và đặc điểm môn học này, từ những quan điểm lí thuyết về tâm lí học hiện đại, tâm lí học dạy học và lí luận dạy học đại cương, lí luận giáo dục trẻ em trước tuổi học đường , tổ chức hoạt động làm quen với tác phẩm văn học có nhiệm vụ chung là. - Tìm ra những quy luật chung của quá trình tổ chức hoạt động làm quen với tác phẩm văn học ở trường mầm non. - Xây dựng cơ sở lí luận để nâng cao chất lượng hoạt động làm quen với tác phẩm văn học từng bước đưa phương pháp này thoát khỏi chủ nghĩa kinh nghiệm. Từ những nhiệm vụ chung trên, dựa vào yếu tố cấu thành của quá trình dạy học, phương pháp tổ chức hoạt động làm quen với tác phẩm văn học đề ra các nhiệm vụ cụ thể sau: - Đúc kết những tư tưởng và kinh nghiệm tốt, khái quát những quan điểm lý luận khoa học, đồng thời nghiên cứu, vận dụng sáng tạo những thành tựu mới của phương pháp giáo dục, dạy học thuộc khoa học giáo dục trẻ em trước tuổi học đường của các nước phù hợp với nền giáo dục Việt Nam. 8
  9. - Nghiên cứu cơ sở khoa học của việc xây dựng chương trình làm quen với tác phẩm văn học, góp ý cải tiến, xây dựng hoàn thiện nội dung hoạt động này ở trường Mầm non phù hợp với nền giáo dục hiện đại. Nội dung làm quen với tác phẩm văn học phải được biên soạn trong mỗi quan hệ với các môn học (lĩnh vực văn hóa khác) thể hiện tính tích cực cao. Nhà sư phạm cần am hiểu đầy đủ tư tưởng chiến lược, nguyên tắc xây dựng nội dung chương trình, từ đó thường xuyên tìm cách cải tiến, sáng tạo trong việc dạy học “môn học” mang tính nghệ thuật này. - Trên cơ sở tổng kết vận dụng những kinh nghiệm của các giáo viên ở các trường Mầm non, cải tiến hoàn thiện phương pháp dạy học theo hướng tăng cường tổ chức cho trẻ hoạt động phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của trẻ, tìm ra những cách thức dạy học tốt nhất để giúp trẻ làm quen với tác phẩm văn học nhằm đào tạo những chủ nhân tương lai của đất nước, năng động sáng tạo. - Nghiên cứu cải tiến những phương tiện dạy học phù hợp với nội dung và phương pháp dạy học trong từng giai đoạn phát triển của xã hội. - Nghiên cứu quy luật hình thành cho trẻ kĩ năng, kĩ xảo tiếp nhận tác phẩm văn học và thể hiện lại tác phẩm một cách sáng tạo. - Nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển khoa học phương pháp tổ chức hoạt động làm quen với tác phẩm văn học ở nước ta. Sự phát triển của khoa học này được nhìn nhận trong mỗi quan hệ với lịch sử xã hội, lịch sử giáo dục và kinh nghiệm của các nước. Tóm lại, nhiệm vụ của phương pháp tổ chức hoạt động làm quen với tác phẩm văn học là nghiên cứu về nội dung môn học, phương pháp dạy và học trong mỗi quan hệ giữa mục đích - nội dung - phương pháp. Đồng thời, xác lập quy luật hình thành kiến thức - kĩ năng - kĩ xảo trong quá trình tổ chức hoạt động làm quen với tác phẩm văn học. 3.3. Phương pháp nghiên cứu. Cũng như các khoa học khác, phương pháp tổ chức hoạt động làm quen với tác phẩm văn học cũng vận dụng hai hình thức nghiên cứu: nghiên cứu một số phương pháp chủ yếu thường áp dụng cho nghiên cứu lý luận dạy học môn học 9
  10. trong đó có phương pháp tổ chức hoạt động làm quen với tác phẩm văn học ở trường mầm non. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Thực chất của phương pháp nghiên cứu lý thuyết là thu nhập tất cả những loại tài liệu có liên quan đến chủ đề, nhờ đó định hướng được nội dung và phạm vi, mức độ nghiên cứu của đề tài. Cũng qua đó, ta hiểu có những vấn đề đã được nghiên cứu, được giải quyết, những vấn đề còn tồn tại, những quan điểm lý thuyết của những vấn đề nghiên cứu. Dựa vào các tài liệu thu nhập được, lý giải, so sánh phân tích để xác nhận số liệu khoa học, nhờ đó mà dữ liệu đưa ra có cơ sở, có độ tin cậy, có sức thuyết phục. Do vậy, phương pháp nghiên cứu lý thuyết được sử dụng ngay từ khi xác lập đề tài cho đến khi kết thúc đề tài. Nghiên cứu phương pháp tổ chức hoạt động làm quen với tác phẩm văn học luôn tìm tòi phân tích, đánh giá những cái mới, đưa ra những cái mới, đưa ra những cái cần thiết vào hệ thống của nó để ngày càng hoàn thiện việc xây dựng cơ sở lý luận của môn học . Vì vậy, để nghiên cứu lý luận phương pháp tổ chức hoạt động làm quen với tác phẩm văn học có kết quả, cần phải có vốn tri thức vững vàng về tâm lý sư phạm, giáo dục học, mĩ học, nghiên cứu phê bình văn học, ngôn ngữ học và các ngành khoa học xã hội khác Phương pháp tổ chức hoạt động làm quen tác phẩm văn học vốn là một khoa học ứng dụng lại càng phải chú ý phương pháp thực nghiệm. Hình thức nghiên cứu thực nghiệm có thể dùng nhiều phương pháp khác nhau: Phương pháp điều tra: Phương pháp điều tra cơ bản dựa vào số liệu thống kê. Thực chất của phương pháp này là người ta thu thập số liệu đặt câu hỏi cho đối tượng điều tra trả lời hay viết (thường là giáo viên). Kết quả điều tra là nội dung trả lời trung thực của người được điều tra. Đối tượng cần điều tra có thể là giáo viên, phụ huynh của trẻ, người quản lý giáo dục trẻ em, tùy mục đích đề tài nghiên cứu. Để thu được sự trả lời trung thực, đúng đắn, người điều tra cần đi vào công tác dạy học của giáo viên và có kỹ thuật đặt câu hỏi. Phương pháp này thường được dùng để tìm hiểu chất lượng dạy học một vấn đề nào đó trong chương trình, hoặc thăm dò ý kiến của giáo viên về một nội 10
  11. dung hay phương pháp dạy học nào đó hoặc để thăm dò hiệu quả dạy học nội dung, phương pháp mới được thí điểm. Câu hỏi nêu ra có thể dưới dạng trắc nghiệm (test) hay dạng câu hỏi truyền thống, tuy nhiên mỗi dạng đều có ưu, nhược điểm. Chẳng hạn câu hỏi truyền thống trong thời gian ngắn chỉ kiểm tra được ít vấn đề, mất nhiều thời gian của người kiểm tra nhưng lại đánh giá được dòng suy nghĩ và cách lập luận của người trả lời. Câu hỏi trắc nghiệm sẽ kiểm tra được nhiều vấn đề trong cùng một thời gian, thời gian kiểm tra và đánh giá kết quả nhanh, nhưng câu trả lời có thể mang tinh ngẫu nhiên. Do vậy, ngày nay người ta thườn sử dụng phối hợp cả hai dạng câu hỏi, đăc biệt dạng câu hỏi test cần được soạn công phu, trong một phiếu đặt nhiều câu hỏi. Có thể nói ý nghĩa chính của phương pháp điều tra là đưa ra những chỉ số để phát hiện tình hình và định hướng nghiên cứu những vấn đề cụ thể và sâu hơn trong quá trình cho trẻ làm quen với các tác phẩm văn học. Phương pháp quan sát sư phạm: Quan sát sư phạm là quá trình tri giác một hiện tượng, một quá trình sư phạm trong hay ngoài lớp học theo một kế hoạch cụ thể, nhằm rút ra những kết luận cần thiết. Quan sát tự nhiện phát hiện ra những biến đổi tinh tế, khách quan trong thái độ của trẻ đối với môn học, với tiết học, với cô giáo, với tác phẩm văn chương. Phương pháp này có ưu thế đảm bảo tính tự nhiên khách quan. Nhờ có quan sát sư phạm mà người nghiên cứu thu thập được nhiều sự kiện quá trình dạy học và giáo dục. Từ những sự kiện riêng lẻ, đơn nhất nhưng được lặp lại nhiều lần, người nghiên cứu có thể phát hiện ra cái chung, cái bản chất, nhờ đó mà tích lũy được nhiều kinh nghiệm trong việc cho trẻ làm quen các tác phẩm văn học, tránh được những sai lầm, nâng cao được hiệu quả dạy học. Để ghi lại được thực trạng các sự kiện, các hiện tượng quan sát, người ta dùng camera để ghi lại hình ảnh, âm thanh cùng toàn bộ hoạt động diễn ra ở nơi quan sát. Nếu không có phương tiện kỹ thuật trên thì ghi lại biên bản của cuộc quan sát, nghĩa là ghi lại toàn bộ khung cảnh, trình tự diễn biến của các hiện tượng, sự kiện xảy ra ở nơi quan sát đúng trình tự thời gian. Những sự kiện, hiện 11
  12. tượng càng được ghi đầy đủ, chính xác bao nhiều thì việc phân tích kết luận rút ra càng phong phú, chính xác, có giá trị bấy nhiêu. Quan sát sư phạm đòi hỏi tỉ mỉ, khách quan. Do đó, người nghiên cứu phải có kinh nghiệm và phải có hiểu biết sâu sắc về phương pháp nghiên cứu. Gắn với phương pháp này là phương pháp trưng cầu ý kiến (thường được thực hiện trên giấy). Tùy từng vấn đề mà việc trả lời cần công khai hoặc kín đáo. Phương pháp trưng cầu ý kiến được bổ sung bằng phương pháp phỏng vấn. Đó là dạng trưng cầu ý kiến trực tiếp bằng lời. Do tính bất ngờ, nhanh chóng trong phỏng vấn, phương pháp này đã cho ta nhận ra những ấn tượng mạnh mẽ nổi bật, cảm tính, ít suy luận ở người được phỏng vấn nên nó vẫn thiên về những vấn đề thuộc cá nhân. Có thể dùng phương pháp này để kiểm tra hứng thú văn học, trình độ tri thức, thói quen và kĩ năng của trẻ và thái độ của giáo viên đối với trẻ. Muốn đạt được kết quả khách quan, việc soạn thảo những câu hỏi hoặc nêu vấn đề trong khi phỏng vấn phải kĩ lưỡng, tập trung và gợi mở bằng nghệ thuật phỏng vấn hoặc trưng cầu ý kiến. Phương pháp khảo sát tiết dạy: Phương pháp khảo sát tiết dạy (tổ chức hoạt động) Làm quen với tác phẩm văn học là phương pháp đảm bảo điều kiện sư phạm tự nhiên và tương đối thống nhất từ quy mô, tiêu chuẩn, trình độ, lứa tuổi, không gian, thời gian, nội dung, phương pháp Đây là phương pháp thực nghiệm tổng hợp nhằm khảo sát diễn biến của nhiều mối quan hệ trong quá trình cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học. Phương pháp khảo sát tiết dạy trọn vẹn tuân thủ một hệ thống chặt chẽ các vấn đề nghiên cứu. Người nghiên cứu phải xác định mục đích đạt được một vài vấn đề nghiên cứu cụ thể, lựa chọn phương pháp khảo sát thích hợp. Khi vận dụng phương pháp khảo sát tiết dạy, cần phải tính toán kĩ đến những điều kiện sư phạm để đảm cho kết quả được chính xác. Từ đó phân tích kết quả, đánh giá kết qủa một lần nữa. Tóm lại, dùng phương pháp khảo sát tiết dạy có thể nghiên cứu chi tiết, tổng hợp các quá trình xẩy ra trong tổ chức hoạt động làm quen tác phẩm văn học, nhìn nhận các mỗi quan hệ tất yếu trong một vùng, khâu hoàn chỉnh, nhờ 12
  13. đó phát hiện ra được những đổi thay đáng kể về mặt nội dung và các phương pháp đạt tới mục đích nghiên cứu. Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Phương pháp này đảm bảo sự thống nhất từ chỉ đạo đến thực hiện, từ “thiết kế” đến “ thi công” và có giá trị nghiên cứu khoa học sâu sắc. Nó được phép vạch hướng, dự kiến, điều chỉnh, bổ sung, sửa đối trong những điều kiện sự phạm ổn định và chủ động. Những kết quả rút ra lại có ý nghĩa hình thành và bổ sung cho lí thuyết nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu lí thuyết. Phương pháp thực nghiệm trong các trung tâm sư phạm phải tiến hành trong một thời gian dài, có quy mô to lớn, tốn kém, nhưng kết quả thu được có giá rị chỉ đạo thực tiễn sư phạm phổ biến, có giá trị kinh tế và tạo nên những thay đổi cơ bản trong việc cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học. Chính phương pháp thực nghiệm tập trung này lại gợi ra nhiều hướng cho nghiên cứu lí thuyết. Phương pháp thực nghiệm sư phạm có nhiều hình thức và nhiều mức độ. Thực ngiệm để rút kinh nghiệm cho một đề xuất cải tiến nội dung và phương pháp tổ chức hoạt động làm quen với tác phẩm văn học. Thực nghiệm để kiểm chứng một giả thiết khoa học hoặc vận dụng một hệ phương pháp mới, thậm chí thực nghiệm cả cách thức thực nghiệm. Công thức thực nghiệm: Thường chọn từng cặp lớn tương đương (một lớp chọn làm thực nghiệm, một lớp chọn làm đối chứng) về mọi phương diện: số lượng, địa dư, giới tính, lực học, chỉ có yếu tố thực nghiệm là thay đổi . Ví dụ muốn khảo sát về hiệu quả của phương pháp trao đổi gợi mở (trò chuyện với trẻ về tác phẩm) thì lớp thực nghiệm có hệ thống câu hỏi kết hợp với đọc, kể tác phẩm diễn cảm, còn lớp đối chứng thì chỉ sử dụng phương pháp đọc, kể tác phẩm diễn cảm. Như vậy, cả hai lớp chỉ khác nhau về phương pháp dạy học, còn các yếu tố khác hoàn toàn tương đương nhau. Để nâng cao độ chính xác, giảm bớt yếu tố ngẫu nhiên thì công thức thực nghiệm được lặp lại nhiều lần(thường là 3 lần) ở trường thực nghiệm hoặc ở một số trường tiêu biểu. 13
  14. Phân tích kết quả nghiên cứu bằng thống kê toán học: Thống kê toán học có đối tượng nghiên cứu là sự thu thập, phân tích số liệu và rút ra kết luận từ những số liệu thống kê. Các số liệu thu được trong nghiên cứu như: Mức độ trẻ đạt(có thể dùng loại: Tốt - Khá - Trung bình - Kém hoặc điểm số của trẻ), kết quả trả lời trong các cuộc điều tra trao đổi Những kết quả trong thực nghiệm sư phạm là những đại lượng ngẫu nhiên và giá trị của chúng dao động do chúng phụ thuộc vào nhiều yếu tố tác động trong quá trình dạy học. Do vậy dùng thống kê toán học, phân tích trên vô số những giá trị ngẫu nhiên đó tìm ra một số ít những đại lượng đặc trưng giúp mô tả toàn bộ hiện tượng. Mỗi phương pháp đều có mặt mạnh và mặt yếu riêng. Người sử dụng phương pháp phải làm chủ được phương pháp và biết phối hợp các phương pháp khác nhau để đạt hiệu quả tối ưu. 3.4. Mỗi liên hệ của môn phương pháp tổ chức hoạt động làm quen với tác phẩm văn học với các khoa học khác. Bộ môn Phương pháp tổ chức hoạt động làm quen tác phẩm văn học có liên hệ rộng rãi và nhiều mặt với các khoa học khác. Trong đó, khoa học ngữ văn có liên quan chặt chẽ và trực tiếp nhất cụ thể là tác phẩm văn học được chọn lọc dùng trong trường mầm non, giáo dục học mầm non, tâm lí học trẻ em (từ 0 đến 6 tuổi), sinh lí học, lôgíc học, Bọ môn Phương pháp tổ chức hoạt động làm quen với văn học liên hệ với khoa học ngữ văn - trực tiếp là tác phẩm văn học được chọn lọc dùng trong trường mầm non. Bất kì một phương pháp dạy học môn học nào đều phải phù hợp với nội dung của nó. Phương pháp tổ chức hoạt động làm quen với văn học lấy tác phẩm văn học xây dựng thành nội dung môn Làm quen với văn học nhằm thực hiện nhiệm vụ giáo dục trọng tâm là giáo dục thẩm mĩ, giáo dục nghệ thuật và hoạt động ngôn ngữ, ngôn ngữ nghệ thuật cho trẻ. Vì vậy nội dung và nghệ thuật tác phẩm văn học quy định nội dung và phương pháp cho trẻ làm quen với văn học ở trường mầm non. Bộ môn phương pháp tổ chức hoạt động làm quen với văn học liên hệ với Giáo dục mầm non. Các quy luật chung của lí luận đại học đại cương được vận 14
  15. dung cho dạy học ở ngành học này. Bộ môn Phương pháp tổ chức hoạt động làm quen với văn học sử dụng các nguyên tắc dạy học, các phương pháp, biện pháp dạy học và giáo dục sao cho phù hợp với đặc điểm tiếp nhận và hoạt động văn học nghệ thuật của trẻ em. Bộ môn Phương pháp tổ chức hoạt động làm quen với văn học liên hệ Tâm lí học trẻ em. Lí luận dạy học môn học phải dựa trên những thành tựu nghiên cứu của Tâm lí học lứa tuổi, Tâm lí học sư phạm Sự lĩnh hội tri thức, kĩ năng, kĩ xảo chỉ được vững chắc nếu được tiến hành phù hợp với đặc điểm tâm lí lứa tuổi trẻ em. Về vấn đề này C.D.Usinxki, nhà sư phạm Nga lỗi lạc, đã coi đó là khoa học tri thức về trẻ em mà nhà sư phạm cần phải rút ra được. Bộ môn Phương pháp tổ chức hoạt động làm quen với văn học liên hệ với Sinh lí học trẻ em. Hoạt động văn học nghệ thuật đòi hỏi được đảm bảo bằng những cơ quan sinh lí phức tạp khác nhau như thị giác, thính giác, bộ máy phát âm, hệ hô hấp, bộ não của trẻ Bộ môn phương pháp tổ chức hoạt động làm quen với văn học sử dụng các tài liệu của khoa học sinh lí trẻ. Bộ môn Phương pháp tổ chức hoạt động làm quen với văn học liên hệ đến ngôn ngữ học, sử dụng các phần sau đây của khoa học ngôn ngữ: văn bản, ngữ pháp, từ vững, ngữ âm, phong cách, tu từ nhằm hình thành khả năng cảm thụ văn học và phát triển tiếng mẹ đẻ cho trẻ em. Bộ môn Phương pháp tổ chức hoạt động làm quen với văn học liên hệ với Lôgíc học thì mới có thể trình bày một cách hệ thống chặt chẽ nội dung cấu trúc của toàn bộ giáo trình phương pháp tổ chức hoạt động làm quen với tác phẩm văn học, cũng như trình bày một cách mạch lạc nội dung từng chương mục. Phương pháp tổ chức hoạt động làm quen với văn học với tư cách là một môn học vừa mang tính khoa học vừa mang tính nghệ thuật. Khi hình thành và phát triển, củng cố vững chắc hệ thống các khái niệm cho trẻ thông qua môn học (lĩnh vực văn hóa) này, cần dựa trên Lôgíc học để tổ chức đúng đắn hoạt động nhận thức, tập cho trẻ biết so sánh, nhận xét, tổng hợp, suy luận, từ đó tư duy của trẻ được phát triển. 15
  16. CÂU HỎI 1. Hãy nêu đối tượng - nhiệm vụ và những phương pháp nghiên cứu của khoa học Phương pháp tổ chức hoạt động làm quen với tác phẩm văn học ở trường mầm non. 2. Phương pháp thực nghiệm sư phạm được tực hiện như thế nào mới đảm bảo độ tin cậy? BÀI TẬP 1. Hãy sưu tầm hai khóa luận tốt nghiệp về bộ môn Phương pháp tổ chức hoạt động làm quen với tác phẩm văn học, nhận xét ưu, nhược điểm về phương pháp nghiên cứu của từng khóa luận đó? Bổ sung những thiếu sót về phương diện dạy học và nghiên cứu của mỗi khóa luận đó. 2. Thử xác định một đề tài nghiên cứu về phương pháp tổ chức hoạt động làm quen tác phẩm văn học trong đó có dùng thực nghiệm sư phạm, trình bày rõ phương pháp tiến hành thực nghiệm đề tài. II. KHÁI NIỆM LÀM QUEN VỚI TÁC PHẨM VĂN HỌC Làm quen với tác phẩm văn học chỉ ra mức độ, giới hạn, yêu cầu của việc cho trẻ tiếp xúc với tác phẩm văn học qua nghệ thuật đọc và kể chuyện của cô giáo. Hoạt động này nhằm dẫn dắt, hướng dẫn trẻ cảm nhận những giá trị nội dung, nghệ thuật phong phú trong tác phẩm, khơi gợi ở trẻ sự rung động, hứng thú đối với văn học, có ấn tượng về những hình tượng nghệ thuật, cái hay cái đẹp của tác phẩm và thể hiện sự cảm nhận đó qua các hoạt động mang tính chất văn học nghệ thuật như đọc thơ, kể chuyện, chơi trò chơi đóng kịch; cao hơn là tiến tới sáng tạo ra những vần thơ, câu chuyện theo tưởng tượng của mình, góp phần hình thành và phát triển toàn diện nhân cách trẻ. Tác phẩm văn học là khâu quan trọng nhất của khoa nghiên cứu văn học. Với đối tượng là trẻm em mầm non (0-6 tuổi), cho trẻ làm quen với văn học là giúp trẻ cảm nhận sự độc đáo của phong cách nghệ thuật và vè đẹp riêng của nội dung hình thức văn chương. Chỉ văn chương thôi chứ chưa phải là văn học với tư cách một môn văn hóa đầy đủ. Cái hay, cái đẹp của tác phẩm văn chương được thể hiện trước hết là ở sự miêu tả hiện thực cuộc sống xung quanh với 16
  17. những màu sắc đa dạng, phong phú. Bằng cảm quan, tài năng của mình, người nghệ sỹ đã làm đẹp thêm cảm quan, tài năng của mình, người nghệ sĩ đã làm đẹp thêm bức tranh cuộc sống bằng những hình tượng nghệ thuật. Trong mỗi tác phẩm văn học, thế giới mới của cuộc sống thực tại bao gồm thiên nhiên, xã hội, con người được diễn tả, biểu đạt, truyền đạt trong những hình thức đa dạng độc đáo. Văn học nói về thế giới loài vật, cỏ cây, hoa lá, mọi hiện tượng thiên nhiên, vũ trụ mà trẻ nhìn thấy được, cũng nói về những gì cần gũi trong môi trường sống của trẻ như làng quê, cánh đồng, dòng sông, phiên chợ, lớp học, khu phố, Qua tác phẩm văn học, trẻ bắt đầu nhận ra trong xã hội những mối quan hệ, những tình cảm gia đình, tình bạn, tình cô cháu, Trẻ cũng dần nhận ra có một xã hội ràng buộc con người với nhau trong lịch sử đấu tranh cách mạng, trong tình làng nghĩa xóm. Văn học có thể đề cập đến những lực lượng siêu nhiên như thần linh, ông bụt, cô tiên, phù thủy, quỷ sứ và cả những phép màu còn đọng trong tâm thức dân tộc. Đây cũng là đối tượng miêu tả của văn học làm nên sự phong phú, hấp dẫn của đời sống tinh thần. Nhờ được nghe, tiếp xúc với một số lượng văn học đáng kể, trẻ sẽ nhận dạng được văn học, có những biểu hiện sơ đẳng về văn học - đó là khả năng mô tả cuộc sống xung quanh phong phú, hấp dẫn những dạng thức khác nhau. Bước đầu trẻ sẽ nhận biết được sự khác nhau về nội dung và hình thức giữa các thể loại thơ, truyện. Không những giúp trẻ cảm nhận được cái đặc sắc của cách diễn đạt hình tượng, nhà sư phạm còn cần giúp trẻ phân biệt được hình tượng nghệ thuật với hiện thực, hình thành một số khái niệm văn học như: thơ, truyện, nhân vật, hình ảnh , giúp trẻ trao đổi những điều đã được nghe và bộc lộ những suy nghĩ của mình về tác phẩm, nhằm phát triển đời sống tinh thần của trẻ. Tác phẩm văn học là một chỉnh thể nghệ thuật, cần giúp trẻ nhận biết các mối quan hệ biểu hiện giữa hoàn cảnh, trạng thái tình huống và nhân vật, giữa không khí, âm sắc, giọng điệu chung của tác phẩm văn học. Chưa yêu cầu trẻ phải nhớ hết mối quan hệ phức tạp và chưa đòi hỏi trẻ phân biệt quan hệ chính phụ trong truyện mà chỉ nhằm giúp trẻ nhận ra tính liên tục của cốt truyện trong các mối quan hệ liên quan đến nhân vật trung tâm của tác phẩm. 17
  18. Với truyện kể, ta hãy giúp trẻ nhận ra, nhớ được sắc thái cơ bản trong giọng kể, lời thuật, phân biệt ngữ điệu lời nói các loại nhân vật, giúp trẻ nhận ra ngôn ngữ đời thường (khẩu ngữ) và ngôn ngữ thơ giàu nhạc tính. Qua tác phẩm văn học, trẻ quen dần tính chất nhiều nghĩa và tinh luyện của ngôn ngữ văn học, dần dần tiến tới hiểu được nghĩa thực đến nghĩa bóng, từ nghĩa văn cảnh đến ý tưởng nhà văn muốn truyền đạt. Trẻ nhỏ tiếp nhận tác phẩm văn học chỉ bằng con đường gián tiếp (vì trẻ chưa tự đọc được mà chỉ nghe người lớn đọc, kể) nên phải tằng cường rèn luyện sức nghe cho trẻ. Đó là sức nghe tối đã về nhạc cảm và sự đã thanh; nghe được hết những cung bậc âm thanh mới lạ truyền diệu của thiên nhiên như tiếng chim hót: “mỗi khi Sơn ca hót, cỏ cây hoa lá rì rào theo” (Giọng hát chim Sơn ca), tiếng suối róc rách, tiếng “gió từ biển khơi phía đông, từ núi cao phía tây rì rào nhè nhẹ” (Nai Ngọc); nghe ra những âm sắc biểu cảm, những rung cảm của trái tim cùng nhịp điệu hài hòa giữa vũ trụ và con người. Ngay từ khi còn trong bào thai, ở tháng thứ sáu con người đã sống trong nhịp điệu, lời ru, tiếng hát, vũ điệu âm nhạc, những mối dây liên hệ tưởng như vô hình giữa con người với trời đất. Cần phải dạy trẻ biết lắng mình với tác phẩm văn học, hài hòa vào cõi mộng mơ, trau dồi thói quen đón nhận được các hòa âm tinh tế thoáng qua, bất chợt đến từ các nguồn sống khác, nghĩa là dạy trẻ tập trung rung động, cái rung động của mình chữ không phải của người khác. Lắng mình an tĩnh đến mức quên tất cả xung quanh và thậm chí quên tất cả bản thân mình thì khả năng sáng tạo trong sức nghe sẽ biểu lộ. Đó là sự đồng hóa của cá nhân trẻ vào đối tượng nghệ thuật và cũng là sự bột phát của tâm linh, là nhu cầu bộc lộ những khát khao sống, những khát vọng mơ ước của tuổi thơ. Trẻ mẫu giáo là một sinh thể toàn khối có cái nhìn nguyên hợp đó với hiện thực, đó cái nhìn “vật ngã đồng nhất” với cuộc đời và nghệ thuật nên việc tiếp thu, cảm nhận thế giới cái đẹp được xây dựng trong văn học nghệ thuật nên việc tiếp thu, cảm nhận thế giới cái đẹp được xây dựng trong văn học nghệ thuật thì không ai lợi thế bằng trẻ em, những con người sống nặng nề về cảm xúc hồn nhiên, trực giác, dễ cảm thông hòa đồng vào ngoại vật. 18
  19. Dù chỉ giới hạn trong việc cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học, cô giáo vẫn phải chỉ ra cho trẻ những nội dung bản chất và vẻ đẹp văn chương trong hình tượng nghệ thuật. Hình tượng văn học là nguồn thông tin thẩm mĩ về con người trong mối quan hệ với cái đẹp thiên nhiên, cái đẹp của xã hội con người, cái đẹp của nghệ thuật. Trong nguồn thông tin thẩm mĩ đó, chúng ta cần chỉ ra cho trẻ cái có thể và cái cần phải học có ý nghĩa giáo dục tâm hồn, tình cảm đạo đức cho trẻ. Cái cần và có thể dạy trẻ, theo chúng tôi, là cái cụ thể gần gũi với trẻ, xuất phát từ những vẻ đẹp “bản chất người của văn học”. Đã nói đến bản chất văn học là phải nhấn mạnh “tính người” trong thế giới tinh thần của nó. Con người, số phận con người luôn là điều quan tâm muôn thuở của văn học. Tác phẩm có thể không có nhân vật con người như trong ngụ ngôn, cổ tích loài vật, truyện đồng thoại, trong thơ trữ tình phong cảnh nhưng vẫn phải khám phá ra vấn đề cuộc sống trần gian với cả những ràng buộc xã hội, tự nhiên phức tạp, bí ẩn của tình người. Một trong những nội dung bí ẩn ấy là vẻ đẹp đơn chất cá thể cả con người. Vẻ đẹp riêng của mỗi người thể hiện tính người bên cạnh tính cộng đồng xã hội, tính dân tộc và tính quốc tế Cũng vì thế mà Chủ tịch nước - nhà thơ Hồ Chí Minh là con người quốc tế nhất, Người chịu ảnh hưởng sâu sắc hai luồng tư tưởng Đông Tây - vừa Khổng Mạnh vừa Mác Lênin mà vẫn là một cá thể độc đáo có tính có tính cách và tác phong ưu mĩ, một bản lĩnh giản dị đến phi thường. Một Bác Hồ không thể trộn lẫn.Cũng vì lẽ đó, người ta nhận thấy trong tình yêu thương của Bác đối với thiếu nhi, không có sự cách biệt giữa vị Nguyên thủ quốc gia với những công nhân nhỏ tuổi mà như người ông với bầy cháu nhỏ. Bởi vậy mà khi nghe tin Bác Hồ mất, Trần Đăng Khoa, em thiếu niên 11 tuổi, đã bật lên tiếng khóc đau xót: “Cháu buốt ở trong tim này Chỗ deo tang suốt đêm ngày Bác ơi.” Tiếng thơ chân thật giản dị mà sâu sắc của Khoa là tiếng lòng của triệu triệu người dân và thiếu nhi Việt Nam đối với Bác. 19
  20. Vẻ đẹp của tính người trong cá nhân đơn nhất ở văn học trẻ em có thể nhận ra từ cách cư xử tế nhị, nhân hậu giữa đồng loại (Bác Gấu đen và hai chú Thỏ), đôi khi lại bộc lộ trong sự thành thực đối với bản thân và người khác. Vẻ đẹp ấy còn thấp thoáng thực đối với bản thân và người khác. Vẻ đẹp ấy còn thấp thoáng trong cử chỉ biết ơn (Hạt gạo làng ta - Trần Đăng Khoa). Cần dạy trẻ nghệ thuật tự đặt mình vào chỗ đứng và tình thế của người khác như hiểu cực nhọc của mẹ, nỗi ưu tư của cha, hiểu sự cô đơn nghèo khó của bạn bè, nỗi bất hạnh của con người, rồi tận tình làm nhẹ, với gánh nặng đó. Đó là bước đi đầu tiên để trẻ biết chia sẻ trải nghiệm và đồng cảm với văn học như trên đã nói. Từ những vẻ đẹp nhỏ nhặt thường ngày trong cư xử mang “tính người” ấy sẽ nảy sinh ra những hành động cao thượng nhân ái vì con người. Sức mạnh của tác phẩm văn học thật vô cùng to lớn. Trong quá trình cho trẻ tiếp xúc với tác phẩm, bằng tài năng sư phạm cùng với nghệ thuật đọc và kể chuyện văn học, cô giáo ở trường Mầm non sẽ hướng trẻ vào những vẻ đẹp nội dung và nghệ thuật tác phẩm, gây ấn tượng đầu tiên cho trẻ về hình tượng nghệ thuật được xây dựng bằng ngôn ngữ dân tộc. Cô giáo khơi gợi ở trẻ hứng thú bước vào hoạt động văn học nghệ thuật một cách tự nhiên, như đọc diễn cảm thơ, kể lại truyện một cách sáng tạo, hóa thân vào các vai diễn trong trò chơi đóng kịch. Nhà sư phạm cần ý thức rõ ràng vấn đề này, để tổ chức cho trẻ trở thành chủ thể hoạt động văn học nghệ thuật một cách tích cực, sáng tạo. Việc cho trẻ làm quen với văn học tuy mới chỉ là nhu vậy nhưng đó là việc làm cao cả, có ý nghĩa lớn trong việc hình thành ở trẻ em những phẩm chất cao quý, đẹp đẽ của con người, đặc biệt tình yêu đối với ngôn ngữ nghệ thuật. Các em sẽ mang tình yêu đó bước đến trường phổ thông và mai sau sẽ yêu văn học nước nhà. III. Ý NGHĨA, NHIỆM VỤ CỦA TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG LÀM QUEN VỚI TÁC PHẨM, VĂN HỌC Ở TRƯỜNG MẦM NON. Từ lâu, người ta đã nhận thấy văn học là nguồn suối không cạn của tri thức, là kinh nghiệm sống mà con người cần tiếp thu và phát triển. Người ta cũng thấy rõ vị trí sức mạnh riêng của tác phẩm văn học trong sự nghiệp giáo dục nói 20
  21. chung và giáo dục trẻ em mầm non nói riêng. Nó trở thành nội dung và phương tiện hữu hiệu để giáo dục trẻ. Nhà nghiên cứu và phê bình văn học Nga lỗi lạc V.G.Bielinxki đã từng nói: “Một tác phẩm viết cho thiếu nhi là để giáo dục mà giáo dục là một sự nghiệp vĩ đại vì nó quyết định số phận con người”. (V.G.Bielinxki toàn tập, Tập IV, Mátxcơva, NXB Viện hàn lâm khoa học Liên Xô, 1954, trang 79). Văn học xây dựng hình tượng bằng chất liệu ngôn từ. Ngôn từ với tư cách là chất liệu của văn học có những khả năng ưu thế đặc biệt đối với mỗi người. Trong đời sống, ngôn từ cũng là phát ngôn của một chủ thể lời nói mà ai cũng có thể hiểu và tiếp thu. Trong thơ ca và truyện kể chứa đầy những nội dung lí thú, những hình tượng nghệ thuật trong sáng, vốn ngôn từ giàu chất mĩ cảm, nguồn tưởng tượng giàu có. Trí tưởng tượng là nhiên liệu của sự sáng tạo, đổi mới. Nếu chỉ xét riêng tác dụng kích thích trí tưởng tượng thôi cũng đã thấy văn học cần thiết biết chừng nào đối với lứa tuổi mẫu giáo, “Lứa tuổi cần hoạt động thật nhiều để cho trí tưởng tượng trần ngập tâm hồn.” (Karen Eden Haumare, những phương pháp và điều kiện cho trẻ vui chơi, tổ chức radda Barnen). Chính những yếu tố đó đã lôi cuốn trẻ em, đem lại cho các em niềm vui sướng và cũng vì thế nó có ý nghĩa lớn trong giáo dục trẻ em trước tuổi đến trường phổ thông. Nói đến chức năng của văn học là nói đến mục đích, ý nghĩa xã hội của văn học. Mĩ học và lí luận nghệ thuật Mácxít hiện nay cho rằng văn học có nhiều chức năng, song có các chức năng chủ yếu sau: Chức năng nhận thức, chức năng giáo dục và chức năng thẩm mĩ. Với các chức năng ấy, văn học có ưu thế đặc biệt trong việc thực hiện các nhiệm vụ giáo dục trẻ em trước tuổi học đường. Như vậy, có thể nói cho trẻ làm quen với văn học góp phần mở rộng nhận thức phát triển trí tuệ, giáo dục đạo đức giáo dục thẩm mĩ, phát triển ngôn ngữ, hứng thú “đọc” sách, kĩ năng đọc và kể tác phẩm cho trẻ. Cũng cần lưu ý thêm rằng: Một nhận thức đúng đắn về nhiệm vụ tổ chức hoạt động làm quen với tác phẩm văn học trong trường mầm non chỉ thực sự có được trên cơ sở những hiểu biết thấu đáo về bản chất tác phẩm văn học, về đặc 21
  22. điểm đối tượng giáo dục, về nhiệm vụ chính trị xã hội đặt ra trong những giai đoạn lịch sử cụ thể, về đặc điểm xã hội vùng miền (địa phương) nơi trường mầm non được xây dựng. Quan điểm hệ thống, quan điểm tiếp cận tích hợp của giáo dục mẫu giáo cũng đã chỉ ra phải xác lập mỗi liên hệ gắn bó chặt chẽ giữa môn “Làm quen với văn học” với các môn học khác, có như vậy mới tạo nên sức mạnh đồng bộ, tổng hợp, tác động đến sự phát triển nhân cách trẻ một cách toàn diện. 1. Tổ chức hoạt động làm quen với tác phảm văn học góp phần mở rộng nhận thức, phát triển trí tuậ cho trẻ. Ý nghĩa nhận thức của văn học nghệ thuật là ở chỗ giúp con người biết cái gì, có thêm cái gì, những tri thức gì? Trẻ em luôn khao khát nhận thức, khám phá thế giới hiện thực xung quanh. Các em muốn biết tất cả, muốn thâu tóm tất cả lí do tồn tại của cuộc sống vào khối óc bé nhỏ của mình. Thế giới xuất hiện trước mắt trẻ với toàn bộ sự phong phú, phức tạp của nó. Trong điều kiện đó, những câu ca dao, bài thơ, truyện kể của nó. Trong điều kiện đó, những câu ca dao, bài thơ, truyện kể là những bài học đầu tiên giúp các em nhận thức thế giới, định hướng cơ bản trong môi trường xung quanh, giúp các em chính xác hóa những biểu tượng đã có về thực tế xã hội, dần dần từng bước cung cấp cho các em những khái niệm mới và mở rộng kinh nghiệm sống. Theo H.Read, một đại diện lớn của nền giáo dục Anh nhận định rằng: Mục đích của giáo dục thông qua tác phẩm nghệ thuật chính là khả năng nhận thức các mỗi liên hệ trong thế giới. Đọc “Chú đỗ con” của Viết Linh, trẻ sẽ nhận thấy được quá trình nảy mầm của hạt thành cây dưới mưa xuân và ánh nắng mặt trời: “Một chú Đỗ con ngủ khì trong cái chum khô ráo và tối om suốt một năm. Một hôm tỉnh dậy, chú thấy mình nằm giữa những hạt đất li ti, xôm xốp. Chợt có tiếng lộp độp bên ngoài Thì ra cô Mưa xuân đem nước đến cho Đỗ con được tắm mát chú lại ngủ khì. Có tiếng sáo vi vu trên mặt đất làm chú tỉnh giấc. Chú khẽ cựa mình hỏi: Ai đó?” 22
  23. Tiếng thì thầm dịu dàng trả lời chú: “Chị đây mà, chị là Gió xuân đây. Dậy đi em, mùa xuân đẹp lắm”. Đỗ con lại cựa mình. Chú thấy mình lớn phổng lên làm nứt cả chiếc áo ngoài. Chị Gió xuân bay đi. Có những tia nắng ấm áp khẽ lay chú Đỗ con. Đỗ con hỏi: “Ai đó?” Một giọng nói ồm ồm, âm ấm vang lên: “Bác đây! Bác là Mặt trời đây, cháu dậy đi thôi, sáng lắm rồi. Các cậu học trò cắp sách tới trường rồi đấy”. Đỗ con rụt rè nói: “Nhưng mà trên ấy lạnh lắm.” Bác Mặt trời khuyên: “Cháu cứ vùng dậy đi nào. Bác sẽ suởi ấm cho cháu, cựa mạnh vào.” Đỗ con vươn vai một cái thật mạnh. Chú trồi lên khỏi mặt đất. Mặt đất sáng bừng ánh nắng xuân. Đỗ con xòe hai cánh tay nhỏ xíu hướng về phía mặt trời ấm áp.” Rất nhiều tác phẩm văn học thiếu nhi khác nữa viết về đề tài thiên nhiên và con người với quan hệ xã hội. Sự tiếp xúc với tác phẩm sẽ mở ra trước mặt trẻ thiên nhiên quê hương, đất nước, vũ trụ bao la, những con người với mỗi quan hệ xã hội và lịch sử dân tộc trong quá khứ và hiện tại. Thiên nhiên phong phú từ bao đời đã là đối tượng miêu tả của văn học. Trong văn học dành cho thiếu nhi, chúng ta gặp không ít những tác phẩm miêu tả, phản ánh thế giới thiên nhiên tươi đẹp. Qua đó các tác phẩm ấy, trẻ em nhận ra được phong cảnh thiên nhiên quen thuộc như mùa xuân, Tết: “Cây đào trước ngõ Cười vui sáng hồng Hoa mai trong vườn Rung rinh cánh trắng” (Tết đang vào nhà- Nhược Thủy) Mùa hè sang: “Hoa sen đã nở Rực rỡ đầy hồ Thoang thoảng gió đưa 23
  24. Mùi hương thơm ngát Lá sen xanh mát Đọng hạt sương đêm Sương long lanh chạy.” (Hồ sen - Nhược Thủy) Thiên nhiên là mảnh đất chứa đựng bao nhiêu điều cần được phát hiện, là nơi quan sát không bao giờ chắn cuộc sống của các loại động vật, thực vật. Trẻ em hứng thú nghe đọc, nghe kể về đặc điểm đời sống, sự sinh sôi nảy nở, bản tính của các con vật trong tác phẩm. “Mười quả trứng tròn Mẹ gà ấp ủ Mười chú gà con Hôm nay ra đủ Lòng trắng lòng đỏ Thành mỏ thành chân Cái mỏ tí hon Cái chân bé xíu Lông vàng mát dịu Mắt đen sáng ngời.” (Đàn gà con - Phạm Hổ) Cuộc sống xã hội con người với nhiều mối quan hệ, hoạt động phong phú được miêu tả khá sinh động trong các tác phẩm. Những mối quan hệ đầu tiên thân mật gần gũi, gắn bó như tình mẹ con, bà cháu, anh em, Cả những mâu thuẫn tồn tại trong cuộc sống cùng với sự lựa chọn trước các tình huống. Càng ngày trẻ càng bị lôi cuốn bởi nội dung phản ánh trong tác phẩm và bị lôi kéo vào một loạt các mỗi quan hệ mang tính người phức tạp, đặc biệt là sự thâm nhập vào thế giới bên trong, vào đời sống tinh thần, vào quá trình tư duy, tình cảm, số phận riêng của con người. Tất cả những yếu tố đó sẽ mở rộng khả năng nhận thức cho các em. 24
  25. Mỗi bài thơ, câu chuyện đều giới thiệu với các em về một góc, một mặt của đời sống: có khi là quá khứ lịch sử hào hùng của các dân tộc; có khi là sinh hoạt trong gia đình, hoạt động của bác nông dân, chú bộ đội, chú công nhân, sinh hoạt ở trường mẫu giáo; có khi là cuộc sống ở một đất nước xa xôi với những phong tục tập quán, không gian của những châu lục, quốc gia Tiếp xúc với tác phẩm, trẻ không chỉ được thỏa mãn nhu cầu nhận thức mà còn được mở rộng tầm nhìn, làm giàu có lượng thông tin tri thức, làm sâu sắc hơn quá trình quan sát xã hội, môi trường xung quanh. Từ sự quan sát, thúc đẩy quá trình phân tích, so sánh tìm hiểu nguyên nhân kết quả, rút ra những kết luận, những tri thức, khái niệm cơ bản, góp phần rèn luyện trí nhớ, phát triển khả năng tư duy và các năng lực tâm lí khác như: tưởng tượng, ngôn ngữ, Quá trình tiếp xúc với tác phẩm văn học dần dần đã giúp trẻ nắm được rất nhiều điều thú vị, bổ ích, có được lượng tri thức và kinh nghiệm sống đáng kể, cùng với nó là năng lực trí tuệ nhất định để trẻ có thể bước vào trường phổ thông. Cũng vì thế, nhiều tác phẩm văn học được coi là sách giáo kể về cuộc sống. Nhà văn M.Goócki trong bút kí “Tôi đã học như thế nào” đã hồi tưởng lại “Chắc chắn tôi không truyền đạt lại cho được thật đầy đủ và rõ ràng nỗi kinh ngạc của tôi lớn lao như thế nào, khi tôi cảm thấy rằng hầu như mỗi quyển sách mở ra trước mắt tôi cánh cửa nhìn vào một thế giới kì lạ chưa từng biết, kể cho tôi nghe những con người, những tình cảm, những suy nghĩ những mối quan hệ mà xưa nay tôi chưa từng hay”. 2. Tổ chức hoạt động làm quen với tác phẩm văn học góp phần giáo dục đạo đức. Giáo dục đạo đức cho trẻ là một trong những nhiệm vụ quan trọng ở trường mần non. Giáo dục đạo đức cho trẻ em lứa tuổi Mẫu giáo phải được coi là một quá trình rèn luyện có múc đích nhân cách trẻ. Trong khoa học sư phạm, giáo dục được coi trọng là một quá trình rèn luyện sự phát triển đạo đức của mỗi cá nhân. Ma - ca - ren - cô gọi thời kì mẫu giáo là thời kì hình thành cá nhân ở giai đoạn đầu tiên. Vì vậy, giáo dục đạo đức cho trẻ trở thành một nhiệm vụ quan trọng ở trường mầm non, nó hình thành phẩm chất đạo đức, tạo nền móng nhân cách của mỗi con người. 25
  26. Phẩm chất đạo đức mang ba yếu tố cơ bản: Những tình cảm đạo đức, những thói quen hành vi đạo đức và những ý niệm đạo đức. Ý niệm đạo đức là những ý niệm về tốt xấu, về sự trung thực, sự khiêm tốn, tính cần cù, tình bạn, lòng dũng cảm, tinh thần trách nhiệm Để hình thành những phẩm chất đạo đức này, văn học nghệ thuật là một phương tiện hữu hiệu. Từ xa xưa cha ông ta đã từng tâm niệm: “Văn dĩ tải đạo”, với chức năng này, trong các phương pháp tạo ra ý niệm, tình cảm, đạo đức văn học có một vị thế đặc biệt. Bác Hồ của chúng ta khi sinh thời đã rất quan tâm đên việc giáo dục đạo đức cho tuổi thơ, Bác đã dạy thiếu niên nhi đồng: “Yêu tổ quốc, yêu đồng bào, khiêm tốn, thật thà, dũng cảm”. Đây chính là nội dung, nền tảng đạo đức chân chính của con người ở mỗi thời đại, nó đòi hỏi sự nghiệp “trồng người” của chúng ta phải hướng tới. Khi bàn về giáo dục đạo đức cho lứa tuổi mẫu giáo trong cuốn “Sự ra đời của một công dân”, nhà giáo dục V.A.Xu - khô - lum - xki cũng đã xác định: “Điều cơ bản trong giáo dục đạo đức là làm sao để đứa trẻ trở thành những người yêu Tổ quốc, yêu tha thiết mảnh đất quê hương và nhân dân mình, sống trong sạch, ngay thẳng, vị tha, can đảm, khiêm nhường không khoan nhượng với điều ác và sự lừa dối”. Ông nhấn mạnh “Lòng yêu nước bắt đầu từ tuổi ấu thơ. Không thể trở thành người con chân chính của Tổ quốc nếu trước hết không thật sự là đứa con của cha mẹ mình”. (V.A.Xu - khô - lum - xki -Bàn về giáo dục đạo đức ở lứa tuổi mẫu giáo - Tập sau mẫu giáo 3/1986, trang 20-23). Những quan điểm giáo dục đạo đức truyền thống ấy đã được đưa vào những tác phẩm văn học và được trẻ em yêu thích. Vì vậy, chúng ta cần đọc và kể cho trẻ nghe những tác phẩm văn chương có giá trị đích thực, chứa đựng những nội dung giáo dục đạo đức cao cả, phù hợp với lứa tuổi và tâm hồn tình cảm đang trong như suối tận nguồn. Ở trường mẫu giáo, khi tiếp xúc với tác phẩm văn học qua nghe đọc, kể diễn cảm và sự dẫn dắt của cô giáo, những ấn tượng nghệ thuật mà trẻ thu nhận được sẽ hình thành ở các em những phẩm chất đạo đức bền vững. Không ai có thể phủ nhận vai trò của cái đẹp trong giáo dục đạo đức bởi “Thông qua cái đẹp vươn tới nhân tính” - (V.G Bielinxki, nhà 26
  27. nghiên cứu văn học Nga thế kỷ XIX). Vì vậy,cái đẹp phải được coi là phương pháp cơ bản nhằm khơi gợi những tình cảm đạo đức cho trẻ, nó có mối liên hệ chặt chẽ với giáo dục thẩm mĩ, nó trở thành một quy luật giáo dục. Ngôn ngữ thể hiện cái tinh hoa của dân tộc, của Tổ quốc. Từ ngôn ngữ toàn dân, bằng sức sáng tạo của người nghệ sĩ, vẻ đẹp lóng lánh của ngôn ngữ nghệ thuật đã truyền đến cho các em tình yêu tổ quốc, yêu tiếng mẹ đẻ. Qua vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước, những hành động tình cảm cao quý của con người thể hiện trong tác phẩm sẽ giáo dục trẻ tình yêu tổ quốc, yêu nhân dân, ý thức giữ gìn bảo vệ cây xanh, có cách đối xử hiền từ đối với mọi sinh vật trên trái đất, xác lập hành vi, thái độ của con người đối với các hiện tượng của đời sống. Bảo vệ thiên nhiên, chinh phục tự nhiên là một trong những vấn đề sống còn của thời đại chúng ta và mai sau, nó trở thành đạo đức của ngày hôm nay. Về những vấn đề này, chúng ta có thể tìm thấy rất nhiều trong những áng ca dao, những bài thơ, những đoạn văn, những câu chuyện dành cho trẻ. Tình yêu thiên nhiên vốn là khởi điểm của tình yêu đất nước. Trong ký ức của người bình dân, tình yêu tổ quốc gắn với quê hương, gắn với một làng quê và cảnh vật gần gũi, thân thương. Đất nước - Tổ quốc - Quê hương là những cánh cò bay trên đồng lúa mênh mông, đơn sơ mà mĩ lệ. “Con cò bay lả bay la Bay từ ruộng lúa bay ra cánh đồng” Và có khi là những con đường dài: “Đường vô xứ Nghệ quanh quanh Non xanh nước biếc như tranh họa đồ” Trong những bài thơ, Tổ quốc hiện lên thật hùng vĩ với núi cao, biển rộng, sông dài những công trình mới (Em ra thăm bến cảng - Hồng Kiên). Dạy trẻ yêu quê hương, đất nước là yêu mái nhà dân tộc giản dị, đậm hồn quê, có ấn tượng về nhà truyền thống dân tộc, có ý thức về truyền thống thơ ca dân gian. “Chẳng đâu bằng chính nhà em Có đàn chim sẻ bên thềm líu lo 27
  28. Có nàng gà mái hoa mơ Cục ta cục tác khi vừa đẻ xong Có bà chuối mật lưng ong Có ông ngô bắp râu hồng như tơ Có ao muống với cá cờ Em là chị Tấm đợi chờ bống lên ” (Em yêu nhà em - Đoàn Thị Lam Luyến). Những vần thơ như thế gợi cho em trẻ những xúc cảm, rung động mạnh liệt. Những cảm xúc hình thành tình cảm đó là con đường có tính quy luật. Giáo dục tình cảm cho con người là một trong những vấn đề quan trọng trong việc hình thành phát triển nhân cách toàn diện với sự phong phú về mặt tinh thần. Vẻ đẹp trong tính cách con người được biểu hiện dưới nhiều khía cạnh trong tác phẩm. Những tác phẩm viết về đề tài gia đình đã dạy trẻ biết yêu thương ông bà, cha mẹ, anh em. Bài thơ “Mẹ ốm” - Trần Đăng Khoa, “Làm Anh” - Phan Thị Thanh Nhàn, Truyện “Tích Chu” hình thành ở các em tình cảm thắm thiết mẹ con, anh em, bà cháu. Yêu con người, yêu nhân dân là yêu những người sống quanh ta. Câu chuyện “Bác Gấu đen và hai chú Thỏ”, “Đôi bạn tốt” đã giáo dục trẻ lòng nhân hậu với đồng loại, tình thân ái, đoàn kết. Văn học hình thành ở trẻ lòng biết ơn và kính yêu lãnh tụ (Ảnh Bác Hồ - Trần Đăng Khoa) những người anh hùng có công với đất nước cả trong quá khứ (Ông Gióng, Sự tích Hồ Gươm) và hiện tại (“Chú Giải phóng quân” - Cẩm Thơ). Việc đọc và kể tác phẩm có nghệ thuật của cô giáo về những chiến công anh hùng của những chú bộ đội làm cho trẻ suy nghĩ, tưởng tượng và ước mơ. Bài thơ “Hạt gạo làng ta” - Trần Đăng Khoa đã dạy trẻ lòng biết ơn, kính trọng những con người lao động, yêu quý, trân trọng những thành quả lao động được chắt chiu từ những giọt mồ hôi. Tuổi thơ các em chưa có ý thức rõ rệt về tình yêu Tổ quốc, lý tưởng, nhưng những tình cảm giản dị tưởng như nhỏ bé này lại là những tình cảm có tính nhân loại, nó sẽ hứa hẹn cho một tấm lòng hi sinh lớn lao cho đất nước. Tất cả những điều đó sẽ tạo ra tiền đề cho xu hướng tư tưởng của nhân cách. 28
  29. Có rất nhiều những bài học đạo đức khác nữa trong những trang văn học giành cho lứa tuổi nhỏ mà chúng ta không thể kể hết được. Ở đây, chúng tôi xin dành để nói về một thể loại văn học được trẻ em khắp nơi trên trái đất yêu thích và được nhân đân lao động từ ngàn xưa coi là một công cụ rất hữu hiệu để giáo dục đạo đức cho trẻ, đó là một thể loại tự sự dân gian - truyện cổ tích, được mệnh danh là “truyện kể trong nhà và cho trẻ nhỏ”. Ngay từ khi ra đời, truyện cổ tích đã mang trong mình nó sứ mạng vẻ vang, là một phương tiện để giáo dục, đặc biệt giáo dục đạo đức cho trẻ. Để thực hiện chức năng giáo huấn, truyện cổ tích luôn thiên về những vấn đề đạo đức. Nó mang nội dung luân lí, đạo đức, triết học rất rõ ràng. Vì vậy, những bài học đạo đức ở đây trở nên sâu sắc. Mọi sự vật hiện tượng đều có mỗi quan hệ nhân quả: “Gieo gió thì gặp bão” “ở hiền gặp lành” Qua những hình tượng trong truyện cổ tích, trẻ em nhận thực được những khái niệm đầu tiên về sự công bằng và bất công, về nền văn hóa của dân tộc mình. Các tác giả dân gian nhìn hiện thực từ góc độ đạo đức, vì vậy xung đột của truyện là xung đột thuộc phạm trù đạo đức đối lập thiện ác, tốt xấu, trung thực, xảo quyệt, ích kỷ, vị tha Truyện cổ tích giới thiệu cái thiện và các ác theo cách đơn giản và dễ hiểu đối với trẻ. Cô bé mồ côi tốt bụng và chăm làm, mụ gì ghẻ độc ác, gian tham. Cái tốt được đền đáp, cái ác bị trả giá. Trong quá trình nghe truyện, trẻ em đã tự vận động chính bản hân minh trong mọi bình diện, đem cái tốt để chống chọi với cái ác. Đây chính là điểm đặc biệt làm ý nghĩa giáo dục của truyện cổ tích thêm một chất lượng mới cao hơn. Thế giới của truyện cổ tích chan hòa ánh sáng của lòng nhân ái, của tình thương, ước mơ, hi vọng, của niệm tin vào chân lí “chính nghĩa thắng gian tà” Điều này làm nên sức sống trường tồn mãnh liệt của truyện cổ tích và nó thật sự hấp dẫn trẻ. Vì vậy, truyện cổ tích có ý nghĩa lớn đối với giáo dục tình cảm đạo đức, có ý nghĩa cao cả trong giáo dục ý thức xã hội cho trẻ. Trong công trình nghiên cứu về sự phát triển đạo đức và ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo, các nhà khoa học Bngari như S.A.Vramôva, S.Makedonskaia (Sự phạm học) S.Dimitsôva (Tâm lí học), I.Kotova, A.Vlađimisôva (Nghiên cứu 29
  30. văn học) cùng với kết quả nghiên cứu của nhóm Ngữ văn khoa giáo dục Mầm non, trường Đại học sư phạm Hà Nội trong quá trình nghiên cứu khoa học và giảng dạy đã nhận thấy những khả năng to lớn của trẻ mẫu giáo, đặc biệt là mẫu giáo lớn trong việc hiểu nội dung thẩm mĩ, đạo đức của tác phẩm, diễn đạt khi kể lại và bộc lộ sự hiểu biết của mình về tư tưởng đạo đức chủ yếu của tác phẩm qua việc thể hiện thành các hình tượng nghệ thuật. Sự thể hiện mình trước tác phẩm văn học, những hình tượng nghệ thuật son trẻ tạo ra đã mang đặc điểm cá tính. Đó là biểu hiện của việc hình thành những cá nhân đầu tiên khi làm quen với tác phẩm. Như vậy, văn học nghệ thuật và việc cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học có ý nghĩa to lớn đối với việc giáo dục đạo đức, bồi dưỡng phẩm chất tâm hồn, phát triển nhân cách trẻ mẫu giáo. Có thể nói, trẻ rất nhạy cảm đối với nội dung đạo đức trong tác phẩm văn học. Giáo dục đạo đức là một trong những mặt quan trọng nhất của sự phát triển nhân cách. Nó cần được kết hợp với các nhiệm vụ giáo dục và các mặt phát triển khác. 3. Tổ chức hoạt động làm quen với tác phẩm văn học góp phần giáo dục thẩm mĩ Giáo dục thẩm mĩ là một bộ phận không thể tách rời với giáo dục trí tuệ, đạo đức, được xác định trong hệ thống giáo dục quốc dân và cần phải bắt đầu ngay từ lứa tuổi mẫu giáo. Đối với con người, nhu cầu về cái đẹp là nhu cầu có tính bản chất, nó gắn với quá trình phát triển thể chất và tinh thần. Đốtxtôiépxki đã nói một câu bất hủ “Cái đẹp cứu thế giới”. Và giáo dục thẩm mĩ trở thành nhiệm vụ trọng tâm của quá trình cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học ở trường mầm non. Qua tiếp xúc với tác phẩm văn học, dưới sự hướng dẫn của cô giáo, trẻ em sẽ hình thành và phát triển những phẩm chất thẩm mĩ, tỉnh cảm thẩm mĩ, thị hiếu nghệ thuật, năng lực cảm thụ văn học, khả năng hoạt động nghệ thuật và sáng tạo nghệ thuật. Giáo dục thẩm mĩ trong trường mầm non không chỉ cung cấp cho trẻ những nhận thức thẩm mĩ mà còn hướng tới hoạt động sáng tạo thẩm mĩ. Trẻ em không chỉ cảm thụ mà phải hành động, sáng tạo. Có thể nói văn học với sự 30
  31. phong phú, lấp lánh của ngôn ngữ nghệ thuật trong việc biểu đạt hình tượng đã trở thành phương tiện giáo dục nghệ thuật cho trẻ. Nhờ sự sáng tạo độc đáo của người nghệ sĩ trong việc biểu đạt thực hiện bằng hình tượng nghệ thuật, cái đẹp vốn có trong thiên nhiên, trong đời sống đi vào văn học nghệ thuật đã làm nên những giá trị thẩm mĩ thể hiện một quan niệm về cái đẹp. Nhiều tác phẩm mang lại một vẻ đẹp mới của âm thanh, màu sắc, ngôn ngữ làm giàu thêm vẻ đẹp của thế giới, làm giàu thêm đời sống tinh thân con người. Nhờ vậy, phong cảnh, sự vật, con người trong tác phẩm trở nên rất đẹp và có sức hấp dẫn riêng, nó làm thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ của trẻ em. Hơn ai hết, trẻ em luôn bị cuốn hút bởi cái đẹp và hướng tới cái đẹp. Những hình tượng tươi sáng trong tác phẩm, những bức tranh thiên nhiên giàu chất thơ được vẽ nên bằng ngôn ngữ, nhạc điệu của những vần thơ, tính biểu cảm của ngôn ngữ sẽ tạo cho trẻ sự nhạy cảm thẩm mĩ, tâm hồn, tình cảm cao đẹp, sự phong phú của đời sống tinh thần. Bài thơ “Hoa phượng” của Lê Huy Hòa đã làm nên cái điều kì diệu ấy: Hôm qua còn lấm tấm Chen lẫn màu lá xanh Sáng nay bừng lửa thắm Rừng rực cháy trên cánh “Bà ơi sao mà nhanh Phượng nở nghìn mắt lửa Cả dãy phố nhà mình Một trời hoa phượng đỏ Hay đêm qua không ngủ Chỉ gió quạt cho mây Hay mặt trời ủ lửa Cho hoa bừng hôm nay”. Tiếp xúc với tác phẩm văn học, trẻ không chỉ cảm nhận được cái đẹp của nghệ thuật mà còn muốn khám phá cái đẹp trong đời sống. Văn học khơi dậy và tiếp sức cho những rung động về cái đẹp; nơi nuôi dưỡng cho tâm hồn trẻ, sự 31
  32. trong sáng, nhạy cảm với vẻ đẹp của “Giọt sương long lanh chạy”, của ánh trăng, tia nắng mỗi bình minh .Có thể nói, về phương diện này, văn học chính là nơi nuôi dưỡng cảm xúc thẩm mĩ, nơi giữ gìn phát triển chất nghệ sĩ vốn có trong tâm hồn Và nhờ đó làm nên những tấm lòng hồn hậu, không nguôi lạnh, thờ ơ với số phận con người, biết ghét những cái xấu, cái ác, biết yêu thương, đứng về cái tốt đẹp. Về phương diện này, nhà lí luận Mỹ nổi tiếng Eliot W.Eisner đã từng nói: “Giáo dục thẩm mĩ chính là giáo dục đạo đức cho con người trong và thông qua nghệ thuật”. (Nghệ thuật và trẻ em, V.Sestakov chủ biên, NXB Nghệ thuật Mát - Xcơ - va, 1969). Như vậy, một tác phẩm văn học đích thực trong khi bồi đắp những cảm xúc thẩm mĩ cũng đồng thời làm nên sự cao đẹp trong tâm hồn và hình thành cho trẻ quan niệm về cái đẹp. Tác phẩm văn học trực tiếp giáo dục thẩm mĩ cho trẻ. Như chúng ta đã biết, giáo dục thẩm mĩ luôn gắn với giáo dục nghệ thuật. Trong các tài liệu về giáo dục ở Mỹ, người ta nhận thấy vai trò đặc biệt của kinh nghiệm nghệ thuật đối với toàn bộ cuộc sống của các đại diện cho mỗi dân tộc trong tương lai và người ta cho phổ cập các giờ học nghệ thuật bắt buộc đối với mỗi đứa trẻ. Theo Reid Hastrie, giờ học nghệ thuật không nên hạn chế ở sự nghiên cứu chi tiết sự sáng tạo các hình thức nghệ thuật mà một vấn đề không kém phần quan trọng là hướng vào tri giác và phân tích có phê phán các tác phẩm nghệ thuật. kinh nghiệm đã cho phép trẻ tìm kiếm sự tác động hài hòa giữa các yếu tố của nghệ thuật như tư liệu nội dung, hình thức tác phẩm Mục đích của giáo dục thông qua nghệ thuật chính là nhằm phát triển ở trẻ khả năng nhận thức các mối liên hệ trong thế giới. Nghệ thuật chính là con đường giáo dục, nó không chỉ như môn học cần dạy mà còn như phương pháp dạy học đối với tất cả mọi môn học. Giáo dục Việt Nam cũng đã rất chú trọng việc giáo dục nghệ thuật cho trẻ mà trước hết ở trường mầm non là hình thức ở trẻ sự cảm thụ văn học và tổ chức hướng dẫn trẻ tự hoạt động văn học nghệ thuật. Cảm thụ văn học- cảm thụ những hình tượng nghệ thuật, ở góc độ này cũng thể hiện toàn bộ thế giới tình cảm đạo đức của con người. Khả năng cảm thụ được phát triển sẽ tạo điều kiện 32
  33. hình thành và phát triển mầm mống đạo đức của nhân cách, củng cố tinh thần trách nhiệm và ý thức về bản thân(phẩm chất) cũng như tính kỷ luật, giúp trẻ chuẩn bị bước vào cuộc sống. Cảm thụ văn học cũng chính là quá trình tiếp nhận, nhận thức cái đẹp được chứa đựng trong thế giới ngôn từ, nên cần dạy cho trẻ những kĩ năng nhận thức tác phẩm văn học để sau này cho trẻ có thể giữ lại trong mình những ấn tượng từ tác phẩm nghệ thuật. Vậy cần tổ chức cho trẻ tri giác trực tiếp tác phẩm văn học, trải nghiệm những gì chúng được nghe, cần kích thích ở trẻ hứng thú đối với nghệ thuật văn học, khả năng hoạt động văn học nghệ thuật một cách sáng tạo, năng lực sáng tạo nghệ thuật. Trong phương hướng giáo dục nghệ thuật ở Pháp kế hoạch hàng đầu đưa ra là phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ, khích lệ nhu cầu hoạt động sáng tạo theo quy luật của cái đẹp. Như vậy, cần phải làm thế nào để cho trẻ không những chỉ cảm thụ văn học mà còn phải hành động, không phải chỉ biết bắt chước mà còn phải sáng tạo. Hình thành phát triển khả năng hoạt động nghệ thuật là hình thành phát triển những khả năng cở bản của trẻ em, việc làm này sẽ góp phần làm giàu nhân cách trẻ. Trẻ em tiếp xúc với tác phẩm văn học nghệ thuật bộc lộ những cảm xúc về tác phẩm đó trong quá trình nghe và tái tạo lại tác phẩm. Có nghĩa là trẻ có thể đọc thơ, kể chuyện, chơi trò chơi đóng kịch một cách sáng tạo. Đó là biểu hiện của khả năng tự hoạt động văn học nghệ thuật của trẻ. Hoạt động văn học nghệ thuật liên quan mật thiết đến sáng tạo nghệ thuật. Tiếp xúc với tác phẩm nghệ thuật làm theo sáng kiến chủ động, chủ quan của mình, trẻ đã tìm ra những phương thức để thỏa mãn những nhu cầu tự thể hiện mình trước tác phẩm. Trong khi chứng minh năng lực tự hoạt động nghệ thuật nói chung và hoạt động văn học nghệ thuật nói riêng, người ta thấy cho trẻ tiếp xúc nhiều với tác phẩm nghệ thuật sẽ nảy sinh năng lực tự hoạt động nghệ thuật và trẻ rất có khả năng trong lĩnh vực này. Điều cần chú ý đối với nhà sư phạm là khi tổ chức hoạt động văn học nghệ thuật cho trẻ không được kìm hãm sự phát triển tự nhiên của đứa trẻ trong việc biểu hiện bản thân mình thông qua việc thể hiện lại tác phẩm. Tức là nhà sư 33
  34. phạm giúp cho trẻ thể hiện sự cảm thụ của mình, những cảm xúc của mình một cách tự nhiên qua giọng đọc, lời kể, giáng vẻ, điệu bộ, nét mặt, ánh mắt, không gò trẻ theo một khuôn mẫu cố định khi chúng đọc và kể lại tác phẩm và nhập vai chơi trong trò chơi đóng kịch. Để hình thành khả năng hoạt động nghệ thuật một cách sáng tạo và sáng tạo nghệ thuật của trẻ, một nhóm các nhà nghiên cứu khoa học Nga đứng đầu là N.A.Vétlughina đã đưa ra một quan điểm: khả năng hoạt động nghệ thuật của trẻ là kết quả của sự tổ chức hoạt động sáng tạo cho trẻ. Vấn đề này nhà bác học Nga Vưgôtxki đã từng nhận mạnh: “người ta không dạy được hành vi sáng tạo nghệ thuật nhưng người ta có thể góp phần hỗ trợ sự hình thành và xuất hiện hành vi ấy”. (Tâm lí học nghệ thuật, NXB Khoa học xã hội, 1981). Làm thế nào để thúc đẩy năng lực hoạt động nghệ thuật một cách sáng tạo và phát triển hoạt động sáng tạo nghệ thuật của trẻ? Chúng ta thấy rằng cần có những tác động sự phạm phù hợp với quá trình hoạt động của trẻ. Việc tổ chức dạy và học thích hợp với mỗi quan hệ giữa đối tượng và chủ thể là phương tiện để làm giàu năng lực tự hoạt động nghệ thuật của trẻ; tăng cường cho trẻ tham gia vào vui chơi, lễ hội, xem các hoạt động nghệ thuật để gây ấn tượng nghệ thuật, tích lũy vốn văn học nghệ thuật bằng việc cho trẻ nghe nhiểu tác phẩm văn học chọn lọc, cùng với xây dựng thư viện ở trường mầm non và nền nếp, thói quen đọc sách, tạo môi trường sư phạm giàu thẩm mĩ, trong đó có việc trang trí lớp học, cách trang phục của cô giáo, của trẻ gây cảm xúc, ấn tượng thị hiếu thẩm mĩ. Thế giới vật thể được bày đặt, sắp xếp hợp lí, đẹp mắt, có thẩm mĩ sẽ này sinh óc thẩm mĩ, nhu cầu hoạt động nghệ thuật. Một điều hết sức quan trọng là cô giáo phải có trình độ văn học, nắm được các phương pháp và biết tổ chức tốt quá trình dạy học, quá trình cho trẻ làm quen với văn học. Tóm lại, ngày từ tuổi ấu thơ, đặc biệt ngay trong thời kì mẫu giáo, trẻ em cần học được và năm vững giá trị thẩm mĩ qua làm quen với tác phẩm văn học. Cô giáo cần cho trẻ cảm nhận được giá trị nội dung và hình thức tác phẩm, hình thành được ở trả khả năng cảm thụ văn học, để trẻ yêu thích văn học, thích tham gia vào các hoạt động mang tính chất văn học nghệ thuật như đọc thơ, kể 34
  35. chuyện, nhập vai trong các trò chơi đóng kịch dựa theo tác phẩm văn học, tiến tới sáng tạo ra những tác phẩm nghệ thuật của mình. Giáo dục thẩm mĩ trong quá trình cho trẻ làm quen với văn học một cách cơ bản và hệ thống là một nhiệm vụ trọng tâm của giáo dục mẫu giáo, góp phần hình thành phát triển nhân cách trẻ. 4. Tổ chức hoạt động làm quen với tác phẩm văn học góp phần phát triển ngôn ngữ. Trường mầm non phát triển tất cả các khả năng, thiên hướng của trẻ nhỏ và trong tất cả các khả năng thiên hướng non trẻ ấy, không có cái nào quan trọng hơn và cần thiết bằng khả năng ngôn ngữ. Vì vậy, việc phát triển ngôn ngữ có hệ thống, có phương pháp là cơ sở của công tác giáo dục ở trường mầm non, nó được tiến hành trong tất cả các hoạt động, các môn học, đặc biệt qua việc cho trẻ tiếp xúc với các tác phẩm văn học. Văn học là một phương tiện hiệu quả mãnh mẽ không chỉ đối với việc giáo dục trí tuê, đạo đức, thẩm mĩ mà còn có ảnh hưởng vô cùng to lớn đến sự phát triển ngôn ngữ của trẻ. Nhà văn M.Goócki định nghĩa “Văn học là nghệ thuật ngôn từ” chính là đã chỉ rõ ngôn từ là chất liệu xây dựng lên hình tượng văn học. Chất liệu ngôn từ là “kho vô tận về âm thanh, bức tranh khái niệm” (nhà nghiên cứu phê bình văn học Nga Biêlinxki). Các hình tượng văn học làm phong phú những xúc cảm, tình cảm, đưa đến cho trẻ những hình tượng tuyệt diệu của ngôn ngữ dân tộc. Từ những hình tượng trong truyện kể, trẻ nhận thức được tính rõ ràng chính xác của từ, sự hoàn hảo của các câu với những cấu trúc ngữ pháp phong phú. Những câu chuyện cổ dân gian là những mẫu mực của lời nói giản dị, có nhịp điệu, mở ra trước mắt trẻ sự biểu cảm của ngôn ngũ; chỉ ra những tiếng mẹ đẻ, sự giàu có tính chất hài hước, lối so sánh diễn đạt sinh động và giàu hình tượng. Thơ ca là sự nhịp nhàng cân đối các giai điệu, tiết tấu của ngôn ngữ. Thơ ca góp phần làm giàu có vốn ngôn ngữ, đặc biệt ngôn ngữ thi ca của trẻ. Và kết quả của những lần học thơ ca ở trường, lớp, mẫu giáo còn làm trẻ có hứng thú với ngôn ngữ của tác phẩm nghệ thuật, yêu thích ngôn ngữ thơ ca và yêu thích đọc 35
  36. thơ. Từ đó, ngôn ngữ nghệ thuật trở thành sở hữu của chính đứa trẻ. Ví dụ, trẻ giải thích:” Biển là dòng sông chỉ có một bờ” hay bộc lộ những cảm xúc thành thơ: Ông mặt trời óng ánh Tỏa nắng hai mẹ con (Ông mặt trời - Ngô thị Bích Hiền) Mặt trời lạnh xuống bờ ao Ngọn khói xanh lên, lúng liếng. (Khi mùa thu sang - Trần Đăng Khoa) Những câu hát đồng dao không chỉ giúp trẻ cảm nhận nhịp điệu nói mà còn giúp trẻ phát âm chuẩn, thỏa mãn nhu cầu được nói có vần, có nhịp của trẻ. Tục ngữ, ca dao được ví như tòa lâu đài ngôn ngữ dân tộc, thứ ngôn ngữ giản dị mộc mạc đầy hình ảnh và giàu chất tượng trưng trong sáng. Mỗi câu tục ngữ, thành ngữ là một ngữ đoạn chính xác, giàu hình tượng giúp cho sự diễn đạt tư tưởng một cách có hình ảnh, làm giàu có kho tàng ngôn ngữ của trẻ. Tiếp xúc với ca dao, trẻ học được bao từ ngữ mới biểu đạt những khái niệm, đặc biệt là ngôn ngữ nghệ thuật. Đó là những từ tượng thanh, tượng hình, những từ láy, lỗi ví von, so sánh “Cày đồng đang buổi ban trưa Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày Ai ơi bứng bát cơm đầy Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần” Ở đây âm thanh vang lên trong cái từ “thánh thót” vẫn có một nỗi gì trầm buồn. Nói đến công cha nghĩa mẹ thì không có sự so sánh nào, vĩ đại bằng “núi Thái Sơn”, “nước trong nguồn chảy ra”. Từ lâu, người ta đã nhận thấy các nhà văn, nhà thơ lớn đều chịu ảnh hưởng của ca dao, dân ca. Trần Đăng Khoa - Thần đồng thơ lớn lên từ những câu ca dao của Bà, của mẹ, lời ăn tiếng nói của nhân dân, những cánh cò trong câu ca dao đã đi vào thơ của Khoa từ những năm còn thơ ấu: 36
  37. “Khi cơn mưa đen rầm đằng đông Khi cơn mưa đen rầm đằng tây, đằng nam, đằng bắc Em vẫn thấy con cò trắng muốt bay ra đón cơn mưa.” (Con cò trắng muốt) “ Và như thuở xa xưa Cô khẽ rúc đầu vào ngực mẹ Thoáng trong tâm hồn cô Tiếng ru thơ bé: Con cò, con vạc, con nông” (Trường ca Khúc hát người anh hùng) Truyện kiều của đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Du, mang hơi thở của ca dao Việt Nam với những câu thơ được chắt lọc từ lời ăn tiếng nói của nhân dân. Đối với nhà thơ Nga A.Puskin, bài học vỡ lòng đầu tiên là những bài dân ca Nga và người thầy đầu tiên bà nhũ mẫu. Bằng những câu hát, bà mang cả bầu trời Nga trong sáng dệp đẽ, tươi mát cho một tâm hồn thi sĩ vĩ đại từ khi còn bé thơ. Cái hay, cái đẹp của ca dao thể hiện ở nhiều yếu tố, nhiều phương diện khác nhau, nhưng tất cả mọi yếu tố phương diện ấy đều có quan hệ với từ ngữ. Từ ngữ trong ca dao giữ một vị trí quan trọng trong sự phát triển lời nói của trẻ. Trẻ em học tiếng mẹ đẻ qua ca dao, mà chủ yếu là học cách sử dụng ngôn ngữ của nhân dân. Đó chính là thứ ngôn ngữ văn chương giản dị, giàu hình ảnh, trong sáng, đầy chất thơ, rất phù hợp với trí tưởng tượng, tư duy của trẻ. Văn học có vai trò to lớn trong sự phát triển ngôn ngữ của trẻ, không chỉ là rèn luyện cho trẻ phát âm đúng, một khía cạnh rất quan trọng là tích lũy nội dung ngôn ngữ - phát triển vốn từ, nói đúng ngữ pháp, phát triển lời nói mạch lạc. Ngôn ngữ mạch lạc là phương tiện vạn năng đặc sắc trọn vẹn và có hiệu quả giao tiếp có văn hóa. Về phương diện này tác phẩm thuộc loại truyện kể vốn là một văn bản nghệ thuật, văn bản thẩm mĩ chứa đựng những nội dung tư tưởng, chủ đề nhất định được diễn đạt ngôn ngữ hàm xúc, giàu hình ảnh, giàu sức biểu cảm sinh động, nó có vai trò to lớn trong việc phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho 37
  38. trẻ. Tiếp xúc với ngôn ngữ nghệ thuật, ở trẻ nảy sinh thái độ sáng tạo ngôn ngữ, sáng tạo trong biểu cảm lời nói, ý thức nói lời hay ý đẹp, hứng thú sáng tạo bài thơ, câu chuyện theo tưởng tượng chủ quan của mình, hình thành ở trẻ phong cách sống. Có thể nói, qua tác phẩm văn học, trẻ học tiếng mẹ đẻ - thấy được sự phong phú của tiếng việt. 5. Tổ chức hoạt động làm quen với tác phẩm văn học phát triển ở trẻ hứng thú “đọc sách”, kỹ năng đọc và kể tác phẩm. Có thể nói, ở trẻ em mầm non, dù chưa biết chữ, song trẻ rất thích nghe truyện kể, đọc thơ, xem tranh. 3 - 4 tuổi, trẻ đã chăm chú xem một cuốn sách có tranh vẽ. Chúng tranh cãi, phát biểu ý kiến của mình về cái gì đó và có thể đọc lưu loát theo tranh một khá dài. Trẻ cũng có thể đọc diễn cảm một bài thơ nếu được người lớn hướng dẫn. Theo năm tháng, hứng thú “đọc” của trẻ tăng dần, càng ngày trẻ càng hứng thú với nội dung đọc. Nhu cầu hiểu biết tiềm ẩn trong con người ở lứa tuổi này cũng là động lực thúc đẩy khát vọng tìm hiểu thế giới xung quanh. Và sách, với cái thế giới được thu nhỏ trong đó, được thể hiện bằng những hình thức chất liệu nghệ thuật đa dạng, hấp dẫn, đã trở thành người bạn, niềm vui, niềm hạnh phúc của trẻ, khiến chúng có thể “đọc” đi “đọc” lại nhiều lần, theo kiểu xem và người lớn đọc, kể về một nội dung có trong cuốn sách mà trẻ thích. Sách thật là kì diệu, nó là cuội nguồn của tri thức của niềm vui, của sự hưởng thụ thẩm mĩ. A.M.Goócki đã viết: “Có thể sách là điều kì diệu và phức tạp vô cùng trong tất cả những cái kì diệu mà loại người đã sáng tạo được trên con đường tiến tới hạnh phúc và tương lai hùng vĩ.” (lời tựa tập mục lục sách của NXB “Văn học thế giới, Pê - téc - bua, 1919, trang 5”.) Hứng thú đọc là cơ sở để trẻ ham thích đọc sách, nó không tự nhiên mà có, nó được hình thành do ảnh hưởng của môi trường xung quanh, đặc biệt là trong quá trình dạy dỗ và giáo dục. Cô giáo cần khơi gợi hứng thú đọc sách của trẻ bằng việc hướng trẻ tiếp xúc với sách. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ cho trẻ tiếp xúc với tác phẩm ở trường mầm non, cô giáo đã khơi dậy ở trẻ hứng thú 38
  39. nhận thức, hứng thú khám phá những điều bí mật trong sách. Trong các giờ đọc thơ, đọc truyện, kể cho trẻ nghe truyện cô giáo đã truyền cho trẻ tình yêu với ngôn ngữ nghệ thuật, với văn học nước nhà. Trong mỗi lớp mẫu giáo có một góc sách. Đó là nơi đặt sách để các em có thể tự lấy sách để xem, “đọc”. Ở đây cô giáo cần lựa chọn sách cho phù hợp với tâm lí nhận thức của trẻ, hướng dẫn khơi gợi hứng thú đọc và truyền đạt những giá trị nội dung và phẩm chất văn học thường xuyên liên tục. Cô giáo cần duy trì nền nếp, thói quen đọc sách, giúp trẻ yêu quý sách, thái độ tôn trọng sách, thói quen xếp đặt sách gọn gàng. Việc thu thập nhiều loại sách, xây dựng thư viện ở lớp (góc đọc sách) sẽ cuốn hút trẻ đến với thế giới sách, từ đó ham tìm kiếm sách để đọc. Tình yêu trẻ cùng với tình yêu văn học, cô giáo cho trẻ thấy sự phong phú, vô tận của sách, thấy sự kì diệu của trí tuệ nhân loại, khơi dây trong tâm trí các em sự khao khát hiểu biết và ham muốn đọc ra được tất cả những trang sách; ước mơ trở thành một con người với một nghề nghiệp tương lai mà mọi sự bắt đầu là học hỏi từ trong việc đọc sách. Phát triển hứng thú đọc sách gắn liền với phát triển kĩ năng đọc. Kĩ năng đọc sách bắt đầu từ tư thế ngồi đọc, kĩ năng giở sách, kĩ năng đọc từ trên xuống dưới, từ trái qua phải. Những kĩ năng này trẻ sẽ học trong quá trình quán cô giáo đọc, nghe cô giáo hướng dẫn đọc trong các hoạt động chung có chủ định hoạt động làm quen với văn học và trong góc đọc sách. Những năm tháng ở trường mẫu giáo là thời kì rất quan trọng để trẻ đạt được mục tiêu này. Làm khơi dậy hứng thú đọc, chuẩn bị đầy đủ để trong tương lai trẻ trở thành những độc giả thực sự, có khả năng chọn lọc và đánh giá tác phẩm một cách có ý thức độc lập, có phân tích, sáng tạo - đó là mục đích cơ bản của những việc tiến hành đồng thời trong lĩnh vực giáo dục văn học cho trẻ lứa tuổi mẫu giáo. Việc chuẩn bị cho sự ra đời một bạn đọc có văn hóa trong tương lai bắt đầu từ những ngày hôm nay và như thế. Có thể nói đây chính là ý nghĩa, nhiệm vụ có tính chiến lược của việc cho trẻ mầm non làm quen với tác phẩm văn học. 39
  40. Ở mẫu giáo, cô giáo trước tiên cần dạy cho trẻ em biết tập trung lắng nghe đọc, kể tác phẩm, sau đó cô giáo hướng dẫn trẻ biết thể hiện những điều mình đã nghe thấy, nhìn thấy. Vì vậy, trong chương trình “Làm quen với văn học”, nhiệm vụ của cô giáo còn bao hàm cả việc tổ chức cho trẻ đọc thơ và kể chuyện diễn cảm, chơi trò chơi đóng kịch dựa theo tác phẩm văn học, để phát triển ở trẻ khả năng thể hiện cảm xúc của mình về tác phẩm văn học qua những hoạt động văn học nghệ thuật. Trong quá trình này, các kĩ năng đọc, kể diễn cảm, độc lập, sáng tạo trước tập thể sẽ được hình thành và phát triển ở trẻ. Đây là những kĩ năng cần thiết để trẻ tự tin bước vào lớp một. CÂU HỎI 1. Anh (Chị) hiểu thế nào là “Cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học”? 2. Anh (Chỉ) hãy chứng minh: Tổ chức hoạt động làm quen với tác phẩm văn học ở trường mầm non có ý nghĩa lớn đối với giáo dục trẻ mẫu giáo? 3. Đặc điểm “đọc” của trẻ mẫu giáo? Các phương pháp, biện pháp phát triển hứng thú, kĩ năng “đọc” cho trẻ em ở trường mầm non? IV. NỘI DUNG VÀ KẾT CẤU CỦA TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG LÀM QUEN VỚI TÁC PHẨM VĂN HỌC Ở TRƯỜNG MẦM NON. Với tư cách là một lĩnh vực văn hóa, “Làm quen với tác phẩm văn học” được đưa vào chương trình chăm sóc giáo dục trẻ như một môn học chứa đựng một ý nghĩ sư phạm sâu sắc. Mục đích và nhiệm vụ của việc đem văn học đến với trẻ em đã xác định nội dung và kết cấu của tổ chức hoạt động làm quen, văn học ở trường mầm non. 1. Nội dung chương trình làm quen với văn học ở trường mầm non Trong chương trình hiện hành (cải cách) khi lựa chọn tác phẩm văn học dành cho trẻ, người ta đã ý thức và lựa chọn một số lượng văn học dành đáng kể với đầy đủ các thể loại để tổ chức thực hiện hoạt động đọc và kể tác phẩm. Ví dụ: Thơ (Ảnh Bác - Trần Đăng Khoa, Em yêu nhà em - Đoàn Thị Lam Luyến); truyện thơ(Gấu qua cầu, Nàng tiên ốc); ca dao, câu đố, đồng dao là một mảng của nội dung chương trình; truyện, bao gồm các thể loại: truyện thần thoại (Cóc kiện trời), truyền thuyết (Ông Gióng, Sự tích Hồ Gươm), cổ tích (Cây khế, Tấm 40
  41. Cám), ngụ ngôn (Mèo lại hoàn Mèo), truyện đồng thoại (Chú de mèn) , một số kịch bản văn học: Mèo đi câu cá, Ai đáng khen nhiều hơn Bên cạnh những tác phẩm văn học nghệ thuật dân tộc, chương trình văn học giành cho trẻ còn có tác phẩm văn học nước ngoài (Cô bé quàng khăn đỏ, Nàng Bạch Tuyết và bảy chú Lùn )nhằm cho trẻ được làm quen với văn học thiếu nhi thế giới, mở rộng không gian nghệ thuật cho các em. Như vậy, nhìn một cách tổng quát, nội dung chương trình đã hướng trẻ đến kho tàng văn học nghệ thuật nước nhà, văn học thiếu nhi thế giới, văn học thời cổ đại, văn học hiện đại. Trong đó tác phẩm văn học dân tộc Việt Nam chiếm số lượng lớn với đầy đủ các thể loại phù hợp với tâm lí nhận thức, tâm lí tiếp nhận văn học, năng lực thể chất, trí tuệ của trẻ. Nó có ý nghĩa lớn trong việc phát triển đời sống tinh thần, bồi dưỡng phẩm chất tâm hồn dân tộc cho trẻ. Căn cứ vào từng độ tuổi, chương trình chú ý phân định văn hóa, tri thức và các kĩ năng giáo dục. Tuổi nhà trẻ chủ yếu là những bài thơ ngắn: Con tàu, Cây bắp cải; đồng dao: Nu na nu nống, Dung dăng dung dẻ; một số câu chuyện ngắn: Đôi bạn nhỏ, Thỏ ngoan chủ yếu là rèn luyện cho trẻ cách phát âm, nhận biết, tập nói, cảm nhận âm thanh nhịp điệu lời nói. Đến 3 tuổi thơ vẫn chiếm ưu thế; 4, 5, 6 tuổi, bên cạnh thơ là văn xuôi, truyện tăng dần cả về số lượng, dung lượng tác phẩm. Ý thức về thể loại văn học phù hợp với độ tuổi với mục đích trọng tâm là giáo dục văn học nghệ thuật và ngôn ngữ là điểm nổi rõ trong chương trình, bên cạnh thực hiện nhiệm vụ giáo dục, phát triển trí tuệ, đạo đức Điều này thể hiện rõ quan điểm, tư tưởng xây dựng chương trình của các nhà sư phạm nhất quán với mục tiêu nhiệm vụ giáo dục đã xác định. Đây chính là sự thể hiện kết quả nghiên cứu lĩnh vực giáo dục mầm non những năm 90 của thế kỉ XX của các nhà khoa học giáo dục Việt Nam khi xây dựng chương trình môn “Làm quen với văn học”. Gần đây, trong khi đang xây dựng trường trình đổi mới, hoạt động làm quen với văn học được xác định theo hướng tích hợp chủ để, chủ điểm. Các nhà giáo dục cũng đã lựa chọn và đưa những tác phẩm văn học trong chương trình cải cách như đã nêu trên vào chương trình, bổ sung thêm những tác phẩm mới 41
  42. và có hướng mở cho cô giáo tự lựa chọn những tác phẩm văn học nghệ thuật có giá trị, đáp ứng nhiệm vụ giáo dục. Khi lựa chọn tác phẩm, các nhà giáo cần chú ý đến sự toàn diện, cân đối các thể loại phù hợp với đời sống tâm lí nhận thức, sự lớn khôn của trẻ, giúp các em nhận ra được sự phong phú của văn học và mở rộng không gian nghệ thuật, làm phong phú đời sống tinh thần của các em. Trên cơ sở nội dung chương trình đã nêu trên, ở trường mầm non, khi tiến hành cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học, chương trình đã đưa ra những nội dung thực hiện như: đọc thơ cho trẻ nghe, kể và đọc truyện cho trẻ nghe, dạy trẻ kể lại truyện, dạy trẻ đọc thuộc thơ diễn cảm, tổ chức trò chơi đóng kịch dựa theo tác phẩm văn học. 2. Kết cấu của tổ chức hoạt động làm quen với văn học. Tổ chức hoạt động làm quen với văn học phải được nhìn nhận như thế nào cho khoa học, nổi rõ tính đặc thù ngành học với đối tượng là người học chưa biết chữ, đến lớp với tâm hồn đón đợi hướng về cô giáo? Tổ chức hoạt động làm quen với văn học ở trường mầm non được kết cấu thành hai quá trình sư phạm có liên quan mật thiết với nhau: nghe tác phẩm và tái tạo tác phẩm đã được nghe. Cô giáo không chỉ dạy trẻ biết nghe mà còn dạy trẻ biết nói, biết bước vào hoạt động văn học nghệ thuật độc lập. * Quá trình sư phạm thứ nhất, cô giáo đọc và kể tác phẩm cho trẻ nghe, dẫn dắt trẻ cảm nhận những giá trị phong phú chứa đựng trong tác phẩm văn học, một trong những lĩnh vực cơ bản của nghệ thuật. Bao gồm những nội dung như đọc thơ, kể chuyện, đọc truyện cho trẻ nghe. Quá trình cho trẻ tiếp xúcc với tác phẩm, cô giáo mở rộng nhận thức, khơi gợi ở trẻ những xúc cảm, tình cảm; giúp trẻ cảm nhận giá trị nội dung tư tưởng, nghệ thuật, cái hay cái đẹp của tác phẩm, hình thành ở trẻ khả năng cảm thụ văn học. Nhà sư phạm còn hướng tới phát triển ở trẻ trí tưởng tượng, ngôn ngữ, đặc biệt ngôn ngữ nghệ thuật, phẩm chất trí tuệ, sự tập trung chú ý, kĩ năng nghê âm sắc biểu cảm của ngôn ngữ nghệ thuật, năng khiếu văn học nghệ thuật Từ đó, nảy sinh ý thích tham gia vào các hoạt động văn học nghệ thuật, yêu mến, trân 42
  43. trọng ngôn ngữ dân tộc. Các em sẽ mang tình yêu đó đến trường phổ thông và mai sau sẽ yêu văn học nước nhà. Cơ chế dạy học ở quá trình này: Cô giáo là cầu nối trẻ với tác phẩm, hướng dẫn trẻ với tư cách là một chủ thể lĩnh hội tác phẩm một cách tích cực sáng tạo. Hoạt động dạy học của cô giáo ở đây chính là một hệ thống các thao tác cụ thể, để trẻ em từng bước thâm nhập, tiếp nhận tác phẩm. * Quá trình sư phạm thứ hai, cô giáo tổ chức cho trẻ hoạt động độc lập - tự hoạt động văn học nghệ thuật, thực chất là trẻ em thực hành trải nghiệm nghệ thuật. Cô giáo tổ chức, hướng dẫn trẻ: đọc thuộc thơ diễn cảm, kể lại truyện diễn cảm, nhập vai trong trò chơi đóng kịch sáng tạo. Đây là phương pháp tốt để làm giàu nhân cách trẻ, đặc biệt là lĩnh vực ngôn ngữ, khả năng tự hoạt động văn học nghệ thuật. Nó có ý nghĩa lớn trong việc làm sâu sắc sự cảm thụ văn học ở trẻ, khắc sâu những biểu tượng nghệ thuật, làm giàu trí óc, xúc cảm, tình cảm, làm phong phú trí tưởng tượng, ngôn ngữ mạch lạc, biểu cảm. Kĩ năng thể hiện, tái tạo tác phẩm một cách sáng tạo, tính tích cực cá nhân, tính độc lập, sáng tạo được phát triển để các em tích cực bước vào hoạt động nghệ thuật, tự tin bước vào trường phổ thông. Quá trình này hoạt động nghiêng về phía trẻ. Trẻ em là một chủ thể tự hoạt động nghệ thuật một cách tích cực. Quá trình sư phạm này được xây dựng trên cơ sở cùng hợp tác hành động của tập thể trẻ với cô giáo. Để có thể thực hiện tốt được quá trình này, đòi hỏi trẻ cần phải có một mức độ nhất định những cảm giác, tri giác, tư duy, tình cảm, tưởng tượng, ngôn ngữ, các năng lực chuyên biệt, hệ thống các kĩ năng, kĩ xảo. Mỗi liên hệ giữa hai quá trình này thể hiện ở chỗ: Kết quả của quá trình sư phạm thứ hai phụ thuộc vào quá trình sự phạm thứ nhất. Hay nói cách khác, kết quả quá trình thứ nhất có ý nghĩa rất lớn đối với kết quả quá trình sư phạm thứ hai. Chất lượng của việc tái tạo lại tác phẩm văn học của trẻ phụ thuộc vào mức độ lĩnh hội của chính đứa trẻ. Một tác phẩm văn học được các em tiếp thu một cách máy móc chỉ bằng con đường lặp đi lặp lại nhiều lần mà thiếu sự tái hiện bằng hình ảnh, những quan sát nghệ thuật ngôn ngữ của tác giả, thiếu nhữn cảm 43
  44. xúc, những ấn tượng về những hình tượng nghệ thuật của tác phẩm thì sẽ mang lại rất ít lợi ích cho các em và các em sẽ quên một cách nhanh chóng. Khi mà các em cảm nhận được những tư tưởng chính của tác phẩm, âm điệu của tiếng nói nghệ thuật, khi mà thế giới nhiều màu sắc của tác phẩm đã làm nảy sinh những tình cảm, khi mà cấu trúc lôgíc của từng câu đã nắm vững, lúc đó sự ghi nhớ bài thơ, câu chuyện kể sẽ trở nên bền vững và lâu dài trong các em. Sẽ là sai lầm nếu các nhà sư phạm bắt các em học thuộc lòng những bài thơ, những truyện kể chưa được cảm nhận, bắt chước máy móc, thiếu sáng tạo những vai chơi khi chơi trò chơi đóng kịch dựa theo tác phẩm văn học. Việc đọc kể diễn cảm có nghệ thuật, trao đổi với trẻ về tác phẩm và các biện pháp dạy học tích cực của cô giáo giúp trẻ tri giác tác phẩm, với việc tổ chức, hướng dẫn trẻ học thuộc thơ, kể lại truyện diễn cảm, nhập vai chơi trò chơi đóng kịch dựa theo tác phẩm văn học cần kết hợp chặt chẽ với nhau. Chính công việc đó tạo ra thái độ nhận thức đối với tác phẩm nghệ thuật. Một học thuyết tâm lí học nổi tiếng về trí nhớ đã khẳng định: “Những điều cần thiết cho cuộc sống được ghi nhớ trước tiên” và nhà sư phạm học X.Akosaria đã nhận xét rằng: “ kĩ năng cần thiết đó được nảy sinh ra trước hết là do sự say mê mãnh liệt và sau đó là do lòng yêu sâu sắc tác phẩm”. Như vậy, cần thiết phải khẳng định rằng trẻ em chỉ có thể thể hiện những ý tưởng mà chúng hiểu, những tình cảm mà chúng trải nghiệm. Vì vậy, trẻ em càng hiểu sâu sắc toàn diện tác phẩm văn học thì chúng càng có thể đọc, kể một cách diễn cảm, một vai chơi có chủ định, sáng tạo, dấu hiệu của sự nắm vững có ấn tượng mạnh mẽ về tác phẩm một cách diễn cảm, kĩ năng nhập vai trong trò chơi đóng kịch của trẻ, sẽ là cơ sở để trẻ có thể sáng tạo ra những tác phẩm theo tưởng tượng chủ quan của mình, có thể kể chuyện sáng tạo. Thái độ tích cực, đặc trưng của trẻ đối với hoạt động nghệ thuật này chính là ở chúng xuất hiện ý muốn cải tạo lại những điều đã được nghe ở mức độ này hay mức độ kia. Ngay ở lứa tuổi hài nhi, khi chưa nắm được ngôn ngữ ở mức độ hoàn chỉnh, trẻ đã nhắc lại những tổ hợp âm, từ riêng lẻ trong tác phẩm văn học mà chúng lĩnh hội được. Sau đó, ở trẻ xuất hiện ý muốn nhớ lại những đoạn thơ, 44
  45. kể lại câu truyện, thái độ tích cực của trẻ đối với ngôn ngữ tác phẩm văn học được nghe là điều kiện thuận lợi để đưa hoạt động văn học nghệ thuật vào trường mầm non, sử dụng tác phẩm văn học vào mục đích giáo dục thẩm mĩ, giáo dục nghệ thuật, phát triển ngôn ngữ. Nhà sư phạm cần phải làm gương cho các em. Sự nghiệp vẻ vang của các cô giáo nhằm giáo dục, phát triển tiếng mẹ đẻ và văn học nghệ thuật trong quá trình cho trẻ làm quen văn học là nắm vững và thuộc lòng tất cả các tác phẩm văn học trong chương trình. Có như vậy, trong bất kì hoàn cảnh nào, các cô giáo cũng gây cho các em một ấn tượng kỳ lạ. Như vây, đây là một quá trình sư phạm có hệ thống năng lực của trẻ trong lĩnh vực này có thể còn hạn chế nhưng ý nghĩa giáo dục của vấn đề này lại rất đáng kể. Kết quả của những hoạt động trên phụ thuộc rất nhiều vào năng lực, cách thức tổ chức hướng dẫn của nhà sư phạm với những phương pháp, biện pháp thích hợp. Trên đây là nội dung, kết cấu, mục đích, ý nghĩa và cơ chế của tổ chức hoạt động làm quen văn học ở trường mầm non. Nó là những cơ sở lý luận giáo dục văn học nghệ thuật, phát triển ngôn ngữ, khoa học giáo dục trẻ em trước tuổi đến trường phổ thông. Khi mà hiện nay trên thực tiễn việc dạy trẻ đọc thuộc lòng bài thơ, kể lại truyện, nhập vai trong trò chơi đóng kịch dựa theo tác phẩm văn học còn mang tính rập khuôn, máy móc chưa thật diễn cảm, thiếu tính sáng tạo, chưa chú ý đến mỗi liên kết của hai quá trình sư phạm thì tư tưởng, luận điểm nêu trên sẽ là những tri thức cở bản, giúp cô giáo nhận thức vấn đề một cách đầy đủ khoa học, thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ cho trẻ mầm non làm quen với tác phẩm văn học. CÂU HỎI 1. Hãy phân tích nội dung chương trình làm quen với văn học hiện hành và chương trình theo xu hướng đổi mới từ độ tuổi ẩu nhi đến tuổi mẫu giáo lớn? 2. Trình bày kết cấu của tổ chức hoạt động làm quen với văn học ở trường mầm non. 45
  46. 3. Hãy nhận xét về việc tổ chức hoạt động dạy thơ cho trẻ mẫu giáo ở trường mầm non địa phương chị? IV. ĐẶC ĐIỂM TIẾP NHẬN TÁC PHẨM VĂN HỌC CỦA TRẺ EM 1. Đặc trưng của tiếp nhận văn học nghệ thuật Hành động tiếp xúc với tác phẩm văn học được quan niệm như hành động cảm thụ, xuất phát từ luận điểm tâm lý học nghệ thuật cho rằng “phản ứng nghệ thuật không phải là hành vi cảm thụ cảm tính mà còn là cảm xúc và tưởng tượng” (L.X.Vưgốtxki). Từ luận điểm “tiếp nhận văn học là quá trình xung đột của nhận thức trực giác và nhận thức lý tính, lý thuyết nhận thức luận gọi đó là hành động nhận thức.” (E.L.Feinberg). Lý luận dạy học coi việc tiếp xúc với tác phẩm văn học đồng thời là hành động cảm thụ, tiếp nhận văn học. Vào những năm cuối thể kỷ XX, với sự ra đời lý thuyết tiếp nhận của trường phái Mỹ học Cônstan Đức, người ta gọi hành động này là tiếp nhận văn học. Nội dung quan trọng nhất của lí thuyết tiếp nhận là việc đọc hiểu những giá trị nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật tác phẩm, trên cơ sở nhận thức đánh giá và thưởng thức theo những chuẩn cứ văn hóa, văn học và thiên hướng cá nhân. Như vậy, tiếp nhận văn học là hành động tìm tòi nhận thức, đòi hỏi sự sáng tạo. Tiếp nhận văn học là hoạt động chiếm lĩnh tư tưởng, thẩm mĩ của tác phẩm văn học, bắt đầu từ sự cảm thụ văn bản ngôn từ, hình tượng nghệ thuật, tư tưởng, cảm hứng, quan niệm nghệ thuật, tài nghệ tác giả. Qua tiếp nhận văn học nhờ được tri giác, liên tưởng, cắt nghĩa tưởng tượng của người đọc mà tác phẩm trở nên đầy đặn, sống động, hoàn chỉnh, ngược lại người đọc nhờ tác phẩm mà được mở rộng vốn hiểu biết, kinh nghiệm về đời sống, tư tưởng và tình cảm cũng như năng lực cảm thụ, tư duy. Về thực chất, tiếp nhận văn học là cuộc giao tiếp đối thoại tự do giữa người đọc và tác giả qua tác phẩm. Nó đòi hỏi người đọc tham gia với tất cả trái tim, khối óc, hứng thú và nhân cách, tri thức và sức sáng tạo. Trong tiếp nhận văn học, người đọc ở vào một tâm trạng đặc biệt, vừa quen mình nhập thân vừa sống và thể nghiệm nội dung của tác phẩm, vừa phân thân duy trì khoảng cách thẩm mĩ để nhìn nhận tác phẩm từ bên ngoài, thưởng thức tài nghệ hoặc nhận ra điều 46
  47. bất cập, hoặc cắt nghĩa khác với tác giả. Tiếp nhận văn học là một hoạt động sáng tạo, nó thúc đẩy ảnh hưởng văn học làm cho tác phẩm văn học không đứng yên và luôn lớn lên, phong phú thêm trong trường kì lịch sử. Hiện tượng tiếp nhận văn học xác nhận vai trò chủ sáng tạo của chủ thể người đọc trong việc chiếm lĩnh giá trị văn học. Có thể nói tiếp nhận văn học là một vấn đề rộng lớn, phức tạp. Nói tới tiếp nhận văn học là nói tới mối quan hệ giữa tác giả, tác phẩm và bạn đọc, nó có liên quan đến vấn đề tâm lí. Những năm gần đây, các nhà xã hội học, tâm lí học đã đề cập đến vấn đề này, công trình tiêu biểu phải kể đến là: “Tâm lí học nghệ thuật” của L.X.Vưgôtxki xuất bản năm 1925. Ngày nay, những quan điểm của ông vẫn còn giá trị, nó gợi ra những phương hướng mới trong nghiên cứu tâm lí học nghệ thuật. “Tâm lí học nghệ thuật” của Vưgôtxki dã đề cập đến sự sáng tạo nghệ thuật không chỉ là phản ứng của tâm lí cao hơn là khả năng rung cảm, đồng cảm xúc với tác giả, mà rung cảm đồng cảm xúc trong quá trình tiếp nhận văn học cũng chưa phải là kết quả cao nhất của tiếp nhận nghệ thuật. “Nếu như nhà văn chỉ nhằm truyền đạt và làm lấy lan cảm xúc của minh sang người đọc thì sứ mệnh của nhà văn thật đáng nghi ngờ”. Qua tiếp nhận văn học, người đọc tự nhận thức, tự phát triển và có ý thức về sự hoàn thiện con người - đó là sự thanh lọc. Vưgôtxki nhận thấy nghệ thuật chỉ làm tròn chức năng của mình khi người đọc cảm nhận được nó. Ông đã gắn hai quá trình sáng tạo nghệ thuật và tiếp nhận nghệ thuật với nhau để chỉ ra sứ mạng của nghệ thuật. Sáng tạo chưa đủ mà phải là sự tiếp nhận của người đọc. Quá trình tiếp thu tác phẩm của người đọc cũng là quá trình sáng tạo, nghĩa là cũng phải tưởng tượng, liên tưởng, cảm xúc, nhận thức Quá trình đó đòi hỏi người tiếp thu phải có kiến thức cơ bản về tác phẩm văn học và phải có năng lực tiếp nhận sáng tạo. Vấn đề trọng tâm trong tiếp nhận văn học là vai trò của hình tượng nghệ thuật. Từ hình tượng nghệ thuật tác động đến tư tưởng người cảm thụ sau đó là xảm xúc. Có khi quá trình lại diễn ra một cách khác, từ cảm xúc đến tư tưởng, đằng sau tư tưởng đó nữa Vưgôtxki không nêu quá trình này một cách cố định bất biến. 47
  48. “Văn bản là duy nhất, tác phẩm là vô vàn”, trong tiếp nhận văn học, người đọc có thể tán thành, đồng cảm với tác phẩm, tác giả hoặc chối bỏ một số vấn đề trong tác phẩm, người ta gọi đó là khoảng cách thẩm mĩ. Điều này phụ thuộc vào sự từng trải của mỗi cá nhân, điều kiện xã hội, nhu cầu, hứng thú, trình độ của người đọc. Tiếp nhận văn học thừa nhận vai trò sáng tạo của mỗi cá nhân, của mỗi nhà sư phạm. Tiếp nhận không có con đường nào khác là phải đọc, đọc hiểu, đọc sáng tạo. Ở trường mầm non, cô giáo có nhiệm vụ đọc và kể tác phẩm cho trẻ nghe để trẻ tiếp nhận tác phẩm văn học . Vậy, trước tiên cô giáo phải có trình độ đọc để tiếp nhận tốt tác phẩm, có như vậy mới hướng dẫn trẻ tri giác tác phẩm đạt hiệu quả. Như đã nêu ở trên (Phần III, mục 5) về đặc điểm “đọc” của trẻ, trẻ em là một bạn đọc đang phát triển, khi cho trẻ tiếp xúc với tác phẩm văn học, cô giáo cần phải khêu gợi để trẻ cảm nhận tác phẩm, bước đầu biết đánh giá, thưởng thức về phương diện thẩm mĩ những vấn đề trong tác phẩm phù hợp với trình độ của trẻ,cần phát triển cá nhân, cá tính sáng tạo của trẻ trong tiếp nhận văn học. Có thể coi đây là một nhiệm vụ đào tạo của ngành giáo dục trẻ em trước tuổi đến trường phổ thông qua việc cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học, để trẻ trở thành bạn đọc có văn hóa trong tương lai. 2. Đặc điểm tiếp nhận tác phẩm văn học của trẻ Tiếp nhận văn học là vấn đề lớn và phức tạp. Trẻ em chưa phải là bạn đọc đích thực, chúng chưa tự mình tiếp nhận tác phẩm văn học mà phụ thuộc vào sự tiếp nhận của người khác và mới chỉ ở mức độ “làm quen” với tác phẩm. Sự tiếp nhận văn học của trẻ có một số đặc điểm sau: Tiếp nhận gián tiếp: Trẻ mẫu giáo chưa thể tự đọc bằng mặt chữ một văn bản nghệ thuật, cho nên trẻ tiếp nhận các thể loại văn học nghệ thuật thông qua khâu trung gian là cô giáo - với tư cách là người đọc trực tiếp rồi đọc lại và kể lại trung thành nội dung văn bản với những ấn tượng sâu đậm rõ nét nhất và những hiểu biết kỹ càng giá trị toàn diện văn bản. Bằng con đường truyền thụ thông qua ngôn ngữ nói, trẻ có thể tiếp nhận được văn học. Do đặc điểm tiếp nhận gián tiếp này, trẻ thiếu đi tính chủ động, giảm trừ đáng kể khả năng trực 48
  49. cảm, trực giác dựa trên sự phối hợp và hòa quyện giữa các cơ quan thụ cảm, sự tri giác nhạy cảm của thị giác, thính giác ngữ cảm và linh cảm, độ tập trung tự lực trực tiếp tạo ra. Trẻ không tự đọc được mà phải “nghe nhờ” tức là đã không phát huy được khả năng tri giác phối hợp giữa chữ viết và âm thanh, giữa ký hiệu và nghĩa, phần nào giảm bớt năng lực ghi nhớ và liên tưởng của trẻ. Trẻ không tự đọc được, nên không có điều kiện tự mình nhận ra những âm thanh chứa đựng ý nghĩa giữa các từ, nhóm từ, các câu và các đoạn. Tính liên tục, liền mạch của nội dung tác phẩm thường bị gián đoạn và khả năng tác động âm thanh, giọng điệu, ngôn từ nghệ thuật không được bộc lộ hết và không thể huy động cảm xúc về ngôn ngữ để làm phong phú cảm xúc thẩm mĩ. Với đặc điểm này, cô giáo phải tập trung đọc văn trước lớp, kể lại có nghệ thuật để tác động và phát triển sức nghe của trẻ. Việc đọc phải mạch và phân biệt nhấn mạnh được sắc thái biểu cảm ở những chỗ trọng tâm. Từ tác động ngôn ngữ âm thanh, cô giáo tạo điều kiện cho trẻ có khả năng nhìn ra những hình ảnh sinh động rực rỡ của cuộc sống. Ngôn ngữ văn học “phi vật thể”, là “ngôn ngữ tình cảm”. Do đó, phải tạo điều kiện cho trẻ co khả năng nghe ra, nhìn thấy và cảm nhận được màu sắc xúc cảm của những điều được cô giáo truyền đạt. Việc đọc của cô giáo trên văn bản tác phẩm là truyền đạt lại có “sai số” ngôn ngữ viết bao giờ cũng trừu tượng và ước lệ hơn ngôn ngữ nói. Thật khó đạt tới sự tự nhiên sinh động trong khi viết. Bởi thể kể lại văn bản tác phẩm văn học sẽ tận dụng được ưu thế của ngôn ngữ nói, giúp các em tiếp nhận tốt tác phẩm văn học sẽ tận dụng được ưu thế của ngôn ngữ nói, giúp các em tiếp nhận tốt tác phẩm văn học. Các tác phẩm văn học nghệ thuật trở thành nguồn cảm hứng ngày càng mạnh của trẻ nếu người lớn có biểu hiện thái độ đồng cảm. Có nghĩa là việc đọc và kể tác phẩm một cách diễn cảm, sống động, sáng tạo của cô giáo trên lớp có ảnh hưởng rất lớn đến sự cảm thụ văn học nghệ thuật và việc thể hiện lại tác phẩm của trẻ. Tiếp nhận văn học của trẻ mang tính tập thể. Như đã nêu ở trên, ở trường mầm non, trẻ tiếp nhận văn học là nhờ vào việc đọc, kể tác phẩm của cô giáo trên cả lớp hoặc trong các nhóm. Vì thế, việc tiếp nhận văn học của trẻ mang 49
  50. tính tập thể. Trong lớp, để tiếp thu, tiếp nhận tác phẩm văn học, trẻ phải ngồi im lặng để nghe cô giáo đọc, chúng phải tập trung chăm chú lắng nghe, theo dõi những gì cô giáo làm. Trong việc học văn, xúc cảm thẩm mĩ giữ vai trò quan trọng. Nhưng do nghe trong tập thể nên trẻ dễ bị bạn quấy rầy, phân tán chú ý và không thể tự do bộc lộ những phản ứng cảm xúc của mình về tác phẩm. Tuy nhiên, trong long tin cậy và sự quen biết nhau trong lớp học có thể làm trẻ đỡ căng thẳng, làm cho sự tiếp nhận có không khí thi đua, cởi mở, kích thích ham muốn nhận thức, tính năng động, hoạt bát của trẻ. Cũng vì sự tiếp nhận văn học gián tiếp và tập thể nên gần như trẻ tiếp nhận lại sự tiếp nhận của cô giáo. Về mặt nội dung tri thức có thể không phải bận tâm, nhưng cảm xúc và khả năng cảm thụ trực giác của trẻ phần nào giảm đi. Như vậy, có thể nói, trẻ em chưa phải là bạn đọc đích thức chúng chưa tự mình tiếp nhận tác phẩm mà phục thuộc vào sự tiếp nhận của người khác. Sự tiếp nhận văn học diễn ra ở tre chưa phản ánh đầy đủ nội dung của các giai đoạn cũng như mức độ sâu sắc của quá trình tiếp nhận mà chỉ là “làm quen” với tác phẩm văn học. Tuy chưa tự đọc được, nhưng bằng con đường truyền thụ thông qua hoạt động ngôn ngữ nói, trẻ mẫu giáo có thể tiếp nhận được những giá trị phong phú chứa đựng trong sự hoàn chỉnh thống nhất nội tại giữa nội dung và hình thức nghệ thuật tác phẩm văn học. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng mức độc tiếp nhận văn học của trẻ chỉ giới hạn trong việc “cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học” với các thể loại phù hợp với từng độ tuổi. Sự tiếp nhận văn học của trẻ mẫu giáo diễn ra trong trường mầm non, vì thế các nhà sư phạm phải tôn trọng quy luật nhận thức của trẻ, đồng thời có những phương pháp giáo giục đặc biệt, trong đó đề cao sự đan xen giữa quá trình tiếp nhận của trẻ và quá trình sư phạm của cô giáo. Vấn đề đặt ra là phải hình dung và xác định được nội dung làm quen với tác phẩm văn học mà trẻ mẫu giáo tiếp nhận, cải biến bắt nguồn tự nội dung bản chất và đặc trưng nghệ thuật của tác phẩm văn học. Đó là cái đẹp của thiên nhiên, cái đẹp của xã hội và con người cùng cái đẹp của nghệ thuật. 50