Giáo trình Phương pháp luận nghiên cứu khoa học - Dương Văn Tiển
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Phương pháp luận nghiên cứu khoa học - Dương Văn Tiển", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- giao_trinh_phuong_phap_luan_nghien_cuu_khoa_hoc_duong_van_ti.pdf
Nội dung text: Giáo trình Phương pháp luận nghiên cứu khoa học - Dương Văn Tiển
- 6 ph−¬ng ph¸p luËn nghiªn cøu khoa häc TRƯỜNG ĐAI HỌC THUỶ LỢI * PGS.TS.GVCC. Dương Văn Tiển GIÁO TRÌNH PHƯƠNG PHÁP LUẬN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC (Được sửa chữa và bổ sung từ giáo trình xuất bản năm 2006) Hà Nội, tháng 11 năm 2010
- 8 ph−¬ng ph¸p luËn nghiªn cøu khoa häc MỤC LỤC DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT 13 Chương 1: KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ 14 1.1. KHOA HỌC 14 1.1.1. Khái niệm về khoa học 15 1.1.2. Sự phát triển của khoa học 17 1.1.3. Phân loại khoa học 18 1.2. CÔNG NGHỆ 20 1.2.1. Khái niệm về công nghệ 20 1.2.2. Chuyển giao công nghệ 23 1.2.3. So sánh ý nghĩa giữa khoa học và công nghệ 25 1.3. NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 26 1.3.1. Khái niệm về nghiên cứu khoa học 26 1.3.2. Phân loại nghiên cứu khoa học 27 1.3.3. Sản phẩm của nghiên cứu khoa học 30 1.4. BÀI ĐỌC THÊM 32 1.4.1. Bài 1: Luật Khoa học và Công nghệ 32 1.4.2. Bài 2: khoa học và công nghệ trong thế kỷ XXI 34 Câu hỏi cuối chương 40 Chương 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 41 2.1. KHÁI NIỆM VỀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 41 2.1.1. Phương pháp nghiên cứu khoa học là gì? 41 2.1.2. Các đặc trưng cơ bản của phương pháp nghiên cứu khoa học 42 2.1.3. Phân lọai phương pháp nghiên cứu khoa học 44 2.2. CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC THÔNG DỤNG 46 2.2.1. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn 46 2.2.2. Các phương pháp nghiên cứu lý thuyết 55 2.2.3. Các phương pháp toán học trong nghiên cứu khoa học 58 2.3. BÀI ĐỌC THÊM 59 2.3.1. Bài 1: Cơ chế và kỹ năng sáng tạo khoa học 59
- 9 2.3.2. Bài 2: Hãy tổ chức tốt trí nhớ của mình 64 2.3.3. Bài 3: Ứng dụng công nghệ thông tin trong nghiên cứu khoa học 65 CÂU HỎI CUỐI CHƯƠNG 65 Chương 3: LỰA CHỌN ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU 66 3.1. ĐỀ TÀI KHOA HỌC 66 3.1.1. Khái niệm về đề tài khoa học 66 3.1.2. Các loại đề tài khoa học 67 3.1.3. Xây dựng đề tài khoa học 69 3.2. ĐỀ TÀI LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP 69 3.2.1. Các thể loại văn bản khoa học 69 3.2.2. Chuẩn bị luận văn tốt nghiệp 71 3.3. BÀI ĐỌC THÊM 74 3.3.1. Bài 1: 74 3.3.2. Bài 2: 78 3.3.3. Bài 3: 81 CÂU HỎI CUỐI CHƯƠNG 93 Chương 4: THU THẬP VÀ PHÂN TÍCH SỐ LIỆU 94 4.1. KHÁI NIỆM VỀ SỐ LIỆU VÀ THỐNG KÊ 94 4.1.1. Bản chất và vai trò của số liệu trong nghiên cứu 94 4.1.2. Thống kê - một công cụ để nghiên cứu: 99 4.2. CHỌN MẪU 102 4.2.1. Hai phương pháp lấy mẫu 102 4.2.2. Quyết định về kích thước mẫu: 104 4.3. XỬ LÝ CÁC SỐ LIỆU VÀ DIỄN GIẢI 107 4.3.1. Xử lý các số liệu: 107 4.3.2. Diễn giải: 111 4.4. SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP THỐNG KÊ ĐỂ XỬ LÝ VÀ PHÂN TÍCH CÁC SỐ LIỆU 117 4.4.1.Tính tần số, tần suất và các tham số thống kê: 117 4.4.2. Tương quan và hồi quy 117 CÂU HỎI CUỐI CHƯƠNG 127
- 10 ph−¬ng ph¸p luËn nghiªn cøu khoa häc Chương 5: VIẾT VĂN BẢN KHOA HỌC 128 5.1. CÁC SẢN PHẨM KHOA HỌC VÀ ĐỀ TÀI KHOA HỌC 128 5.1.1. Viết tài liệu khoa học 128 5.1.2. Viết báo cáo kết quả đề tài nghiên cứu khoa học 132 5.2. VIẾT LUẬN VĂN THẠC SĨ VÀ LUẬN ÁN TIẾN SĨ 135 5.2.1. Những vấn đề chung 136 5.2.2. Hướng dẫn viết đề cương luận văn thạc sĩ 139 5.2.3. Trình bầy luận án và tóm tắt luận án tiến sĩ 141 5.3. BÀI ĐỌC THÊM: 146 5.3.1. Bài 1: Niên giám đào tạo sau đại học của trường ĐH Thủy lợi [23] 146 5.3.2. Bài 2: Tham khảo các luận văn thạc sĩ và luận án tiến sĩ tại thư viện. 146 CÂU HỎI CUỐI CHƯƠNG 146 Chương 6: KỸ NĂNG THUYẾT TRÌNH 147 6.1. BÁO CÁO KHOA HỌC 147 6.1.1. Vấn đề thuyết trình: 148 6.1.2. Luận điểm thuyết trình: 148 6.1.3. Luận cứ của thuyết trình: 149 6.1.4. Phương pháp thuyết trình: 149 6.2. BẢO VỆ LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP 149 6.2.1. Bảo vệ Luận văn thạc sĩ 149 6.2.2. Bảo vệ Luận án tiến sĩ 151 6.3. BÀI ĐỌC THÊM 154 CÂU HỎI CUỐI CHƯƠNG 159 BẢN TỰ KHAI CỦA HỌC VIÊN THAM DỰ MÔN HỌC “PHƯƠNG PHÁP LUẬN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC” 160 BÀI TẬP VÀ THỰC HÀNH 161 TÀI LIỆU THAM KHẢO 163 LỜI NÓI ĐẦU
- 11 "Phương pháp luận nghiên cứu khoa học" là một môn học được quy định trong chương trình đào tạo thạc sĩ và tiến sĩ của Bộ Giáo dục và Đào tạo. "Phương pháp luận nghiên cứu khoa học" là lý thuyết về PPNCKH, lý thuyết về con đường nhận thức, khám phá và cải tạo hiện thực. Môn học này là công cụ giúp cho các nhà khoa học và nhà quản lý trong công tác tổ chức, quản lý và thực hành NCKH một cách sáng tạo. Theo đề nghị của các chuyên gia quốc tế (Giáo sư Ahsim Das Gupta và Tiến sĩ Roger Chenevey) trong Dự án Đan Mạch "Hỗ trợ tăng cường năng lực cho Trường Đại học Thủy lợi" (WaterSPS – Subcomponent 1.3 WRU) khi xem xét các chương trình đang đào tạo thạc sĩ của Trường Đại học Thủy lợi, ngày 05-5-2005 Hội đồng Khoa học và Đào tạo của trường đã đồng ý sẽ đưa môn học "Phương pháp luận nghiên cứu khoa học" với thời lượng 60 tiết (50% lý thuyết và 50% thực hành) là môn học bắt buộc cho tất cả các HVCH và NCS được đào tạo tại Trường Đại học Thủy lợi. Với hình thức học không tập trung (3 năm) thì môn học này sẽ được bố trí vào chương trình học tập của học kỳ thứ 4 và thi ở học kỳ thứ 5 (nếu học tập trung thì ở học kỳ thứ 3). Để viết giáo trình "Phương pháp luận nghiên cứu khoa học", Ban quản lý Dự án Đan Mạch đã mời GS.TS. Nguyễn Đình Cống (Trường Đại học Xây dựng) viết đề cương và TS. Nguyễn Thị Ngọc Bích (Trường Đại học Sư phạm thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội) phản biện đề cương này. Ngày 01-7-2005, Hiệu trưởng Trường Đại học Thủy lợi đã giao cho tác giả viết giáo trình "Phương pháp luận nghiên cứu khoa học" theo đề cương trên đây. Khi bắt tay vào viết giáo trình, tác giả đã đến Trường Đại học Xây dựng nghe Giáo sư Nguyễn Đình Cống giảng dạy môn học này cho các lớp cao học. Cũng rất may mắn cho tác giả là lúc này ở nước ta đã xuất bản một loạt giáo trình "Phương pháp luận nghiên cứu khoa học" của các nhà giáo có tên tuổi như GS.TS. Vũ Cao Đàm, GS.TS. Nguyễn Văn Lê, PGS.TS. Lưu Xuân Mới v.v Do đó, để viết phần lý thuyết thì những cuốn sách trên đây là tài liệu tham khảo rất quý giá và thiết thực cho tác giả khi viết giáo trình này. Nhiệm vụ chính của tác giả là xây dựng nội dung của phần thực hành (30 tiết). Đây là phần rất quan trọng của các giáo trình được viết theo các dự án đầu tư nước ngoài (còn gọi là các nghiên cứu điển hình - case study). Bằng kinh nghiệm của trên 30 năm giảng dạy (trong đó đã hướng dẫn nhiều ĐATN, LVThS và đặc biệt đã có 5 NCS bảo vệ thành công LATS) và tham gia nhiều đề tài khoa học - công nghệ, ở phần thực hành này tác giả đã đề xuất 3 bài tập (các nghiên cứu điển hình) để học viên thực hành và hội thảo. Với 3 bài tập này HVCH sẽ vận dụng gần như toàn bộ nội dung của môn học, đồng thời cũng sẽ góp phần thiết thực cho việc chuẩn bị làm luận văn tốt nghiệp và nghĩ tới những bước đi xa hơn. Nhân dịp này tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn tới Giáo sư Nguyễn Đình Cống đã khích lệ bằng cả nhiệt huyết và kinh nghiệm nghề nghiệp của mình cho người đồng nghiệp tương lai; xin chân thành cảm ơn Tiến sĩ Roger Chenevey, GVC. Trương Văn
- 12 ph−¬ng ph¸p luËn nghiªn cøu khoa häc Ấm, ThS. Nguyễn Thị Vân và KS. Dương Đức Toàn đã giúp tác giả truyền tải những thông tin cần thiết trong các tài liệu tham khảo bằng tiếng Anh của dự án cung cấp; xin cảm ơn KS. Dương Đức Toàn và Đặng Thị Quyên đã giúp tác giả hoàn thành bản thảo cùng tất cả đồng nghiệp của Khoa Sau đại học đã động viên và chia sẻ công việc điều hành trong những ngày vừa qua. Giáo trình "Phương pháp luận nghiên cứu khoa học" đã hoàn thành và sẽ đến tay các bạn HVCH và NCS của Trường Đại học Thủy lợi. Cuốn sách được xuất bản lần đầu nên không thể tránh được những sai sót, rất mong bạn đọc cho những ý kiến đóng góp để tác giả chỉnh sửa khi giảng dạy và tái bản. Email: duong van tien@wru.edu.vn- Tel: 0913.378.402. Xin chân thành cám ơn! Tác giả: PGS.TS.GVCC. Dương Văn Tiển
- 13 DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT CĐTS: Chuyên đề tiến sĩ CN: Công nghệ CNN: Công nghệ nano CNSH: Công nghệ sinh học CNTT: Công nghệ thông tin CNH, HĐH: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ĐATN: Đồ án tốt nghiệp HVCH: Học viên cao học KH: Khoa học KHKT: Khoa học kỹ thuật KH&CN: Khoa học và công nghệ KH-CN: Khoa học - công nghệ LVKH: Luận văn khoa học LVThS: Luận văn thạc sĩ LATS: Luận án tiến sĩ NCKH: Nghiên cứu khoa học NCS: Nghiên cứu sinh PPNC: Phương pháp nghiên cứu PPNCKH: Phương pháp nghiên cứu khoa học
- 14 ph−¬ng ph¸p luËn nghiªn cøu khoa häc Chương 1: KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ “Chỉ có ai không sợ mỏi gối chồn chân mới có thể vươn tới đỉnh cao của khoa học” K. Marx 1.1. KHOA HỌC Để tồn tại và phát triển lâu dài, con người cần có suy nghĩ và thái độ như thế nào đối với khoa học? Sự phát triển của khoa học giúp con người nhận thức về vũ trụ đúng với sự tồn tại vốn có của nó. Chúng ta nên nhìn nhận điều này như là kinh nghiệm để hình thành nên tính cách và trưởng thành hay cố chấp với những ảo tưởng làm thỏa mãn lòng kiêu hãnh tự cho rằng con người là lý do để vũ trụ tồn tại? Theo quan điểm của người viết, dù muốn hay không, con người và khoa học vẫn luôn có mối quan hệ mật thiết với nhau. Và điều chúng ta nên làm là nhận thức đầy đủ tất cả vẻ đẹp và sức mạnh của khoa học, khi đó chúng ta sẽ thực sự thấy được những lợi ích to lớn mà khoa học đem lại cho con người. Tuy nhiên, cùng với tác động tiêu cực của các phương tiện truyền thông và sự thiếu hiểu biết của chính mình, con người đang trở thành nạn nhân của mê tín dị đoan và khoa học giả hiệu. Khoa học giả hiệu đôi khi là trung gian giữa nền tôn giáo cũ và nền khoa học mới. Nó vẫn có thể tồn tại vì nó đánh vào tâm lý con người và thỏa mãn những nhu cầu về tinh thần của con người. Khoa học lịch sử dạy rằng, điều ta có thể hy vọng nhiều nhất là sự tiến bộ liên tục trong hiểu biết của chúng ta, học hỏi từ những sai lầm, một tiệm cận đang tiến sát tới vũ trụ và vạn vật, nhưng với điều kiện là ta sẽ không bao giờ biết được điều gì chắc chắn hoàn toàn. Khoa học hướng dẫn chúng ta tìm hiểu thế giới là như thế nào, chứ không phải chúng ta mong muốn nó trở nên như thế nào. Do đó, mỗi khi một trang tạp chí khoa học được xuất bản thường kèm theo thanh báo lỗi (error bar - có một đoạn bị lỗi) - lời nhắc nhở rằng không có kiến thức nào là hoàn thiện hay hoàn hảo cả. Nó xác định mức độ tin tưởng của chúng ta vào những gì ta nghĩ, ta biết. Nếu error bar nhỏ, thì trình độ hiểu biết của ta cao. Nếu error bar lớn chứng tỏ kiến thức của ta kkông chắc chắn. Khoa học có thể cho ta biết quỹ đạo mặt trời, vị trí của trái đất, dự đoán được chu kỳ nhật thực, nguyệt thực Khoa học cho ta biết cách chữa bệnh thiếu máu ác tính bằng B12 thay vì đi giải bùa chú, chữa bại liệt cho trẻ em bằng cách tiêm chủng thay vì cầu nguyện và rất nhiều ứng dụng khoa học khác. Khoa học thành công là do ứng dụng của nó. Sau đây là một vài ví dụ: - Nhiều người vẫn tin rằng con người có thể có năng lực siêu nhiên. Sự kiện năm 1993 ở Trung Quốc đã có một số người tự nhận rằng mình có khả năng giao tiếp với người ở cõi âm hay có khả năng chữa khỏi mọi bệnh tật. Những kẻ đó đã bị kết án và bắt giữ vì đã khiến cho nhiều người chết vì làm theo những phương pháp chữa bệnh của chúng. Những trò lừa gạt tương tự như vậy vẫn diễn ra và hậu quả tất yếu là
- 15 những kẻ lừa gạt đã phải lãnh án tù. Để ngăn chặn tình trạng này gia tăng, năm 1994, Chính phủ và Đảng Cộng sản Trung Quốc đã ban hành một thông cáo trong đó nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giáo dục khoa học cho toàn dân như là một chiến lược trong công cuộc hiện đại hoá đất nước, làm cho đất nước giàu có và thịnh vượng. - Dư luận đặt ra rất nhiều nghi vấn xoay quanh phiến đá có hình giống như khuôn mặt người đầy bí ẩn trên Sao Hoả: Phải chăng nó được người ngoài hành tinh tạo ra khi họ đặt chân đến đây? Phải chăng nó đang chờ đợi con người khám phá? Phải chăng những người tạo ra nó đã từng đến và kiến tạo cuộc sống trên trái đất? Cũng có dư luận cho rằng trung tâm vũ trụ NASA đã nguỵ tạo ra tai nạn của con tàu vũ trụ làm nhiệm vụ nghiên cứu Sao Hoả để có thể nghiên cứu về phiến đá bí ẩn mà không phải đăng tải những hình ảnh về phiến đá cho công chúng biết đến. Ngày 14 tháng 9 năm 1993, trên trang nhất của tờ Weekly World News đăng tải dòng tít “ Bức ảnh mới của trung tâm NASA cho thấy con người đã từng sống trên Sao Hoả”. Tờ báo cho biết theo một nhà khoa học (mà thực chất người này không tồn tại) thì bức ảnh này do phi hành đoàn nghiên cứu Sao Hoả chụp được (thực chất thì con tàu nghiên cứu Sao Hoả đã không thể bay vào quỹ đạo của nó) và nó cho thấy người Sao Hoả đã xâm lược trái đất 200.000 năm trước đây nhưng nó đã bị tịch thu để tránh gây ra “sự hoảng loạn cho nhân loại”. Khoa học giả hiệu vẫn đang tồn tại ở khắp nơi trên toàn thế giới. Rất nhiều người, trong đó có cả những người giàu có và có quyền lực, những nhà trí thức vẫn tin tưởng và tìm kiếm lời khuyên của những người “có năng lực siêu nhiên”. Thế giới còn biết bao điều bí ẩn mà con người chưa thể khám phá. Theo các học thuyết của Đac-uyn về sự chọn lọc tự nhiên, một số loài có thể tồn tại và phát triển trong một thời gian rất dài, nhưng một số loài lại nhanh chóng biến mất khỏi trái đất. Lịch sử cũng đã cho thấy những con người tưởng chừng như tầm thường nhất lại có thể là những con người có khả năng thay đổi thế giới này [1] (Carl Sagan, 1997). 1.1.1. Khái niệm về khoa học Thuật ngữ “Khoa học” là một khái niệm rất phức tạp ở nhiều mức độ khác nhau của quá trình tích cực nhận thức hiện thực khách quan và tư duy trừu tượng. Trong lịch sử phát triển của khoa học đã có nhiều định nghĩa khác nhau về khoa học, tổng hợp và khái quát lại có thể đưa ra định nghĩa về khoa học như sau: “Khoa học là hệ thống những tri thức được hệ thống hoá, khái quát hoá từ thực tiễn kiểm nghiệm. Khoa học phản ánh dưới dạng lôgic, trừu tượng và khái quát những thuộc tính, những cấu trúc, những mối liên hệ bản chất, những quy luật tự nhiên, xã hội và tư duy. Đồng thời, khoa học còn bao gồm hệ thống tri thức về những biện pháp tác động có kế hoạch đến thế giới xung quanh, đến sự nhận thức và làm biến đổi thế giới đó phục vụ cho lợi ích của con người”. 1. Khoa học là hệ thống những tri thức về các quy luật của tự nhiên, xã hội và tư duy được tích luỹ trong lịch sử.
- 16 ph−¬ng ph¸p luËn nghiªn cøu khoa häc Khoa học có nguồn gốc sâu xa từ trong thực tiễn lao động sản xuất, những hiểu biết (tri thức) ban đầu thường được tồn tại dưới dạng kinh nghiệm. - Tri thức kinh nghiệm là những hiểu biết được tích luỹ một cách ngẫu nhiên trong đời sống hàng ngày, nhờ đó con người hình dung được sự vật, biết cách phản ứng trước tự nhiên, biết ứng xử trong quan hệ xã hội. Tuy chưa đi sâu vào bản chất sự vật, song những tri thức kinh nghiệm làm cơ sở cho sự hình thành các tri thức khoa học. - Tri thức khoa học là những hiểu biết được tích luỹ một cách hệ thống và được khái quát nhờ hoạt động NCKH. Nó không phải là sự kế tục giản đơn các tri thức kinh nghiệm mà là sự khái quát hoá các quá trình ngẫu nhiên, rời rạc thành hệ thống các tri thức phản ánh bản chất về sự vật, hiện tượng. Các tri thức khoa học được tổ chức trong khuôn khổ bộ môn khoa học. Như vậy, khoa học ra đời từ thực tiễn và vận động, phát triển cùng với sự vận động, phát triển của thực tiễn. Ngày nay, khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, thậm chí nó vựơt lên trước hiện thực hiện có. Vai trò của khoa học ngày càng gia tăng và đang trở thành động lực trực tiếp của sự phát triển kinh tế - xã hội. 2. Khoa học là một quá trình nhận thức: tìm tòi, phát hiện các quy luật của sự vật, hiện tượng và vận dụng các quy luật để sáng tạo ra nguyên lý các giải pháp tác động vào các sự vật hiện tượng nhằm biến đổi trạng thái của chúng. Khoa học chỉ tìm thấy chân lý khi áp dụng được các lý thuyết của mình vào thực tiễn một cách có hiệu quả. 3. Khoa học là một hình thái ý thức xã hội: là một bộ phận hợp thành của ý thức xã hội. Nó tồn tại mang tính chất độc lập tương đối và phân biệt với các hình thái ý thức xã hội khác ở đối tượng, hình thức phản ánh và mang một chức năng xã hội riêng biệt. Nhưng nó có mối quan hệ đa dạng và phức tạp với các hình thái ý thức xã hội khác, tác động mạnh mẽ đến chúng. Ngược lại, các hình thái ý thức xã hội khác cũng có ảnh hưởng đến sự phát triển của khoa học, đặc biệt đối với sự truyền bá, ứng dụng các tiến bộ khoa học vào sản xuất và đời sống. 4. Khoa học là một hoạt động mang tính chất nghề nghiệp xã hội đặc thù: là hoạt động sản xuất mang tinh thần mà sản phẩm của nó ngày càng tham gia mạnh mẽ và đầy đủ vào mọi mặt của đời sống xã hội, đặc biệt là sản xuất vật chất thông qua sự đổi mới hình thức, nội dung, trình độ kỹ thuật, công nghệ và làm thay đổi chính cả bản thân con người trong sản xuất. Xuất phát từ đó, xã hội yêu cầu phải tạo ra một đội ngũ những người hoạt động chuyên nghiệp có trình độ chuyên môn nhất định, có phương pháp làm việc theo yêu cầu của từng lĩnh vực khoa học [17] (Lưu Xuân Mới, 2003). Tóm lại, tìm hiểu khoa học và dấn thân vào con đường khoa học vì những ý nghĩa lớn lao của khoa học: a). Khoa học thúc đẩy kinh tế quốc gia và dân sự hoá toàn cầu. Ngăn cản khoa học là con đường tìm về với nghèo nàn và lạc hậu. b) Khoa học cung cấp những hệ thống cảnh báo sớm cần thiết về các mối đe doạ như ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu toàn cầu, mực nước biển tăng
- 17 c) Khoa học mang lại cho chúng ta hiểu biết sâu sắc về thiên nhiên, giống loài, sự sống, hành tinh, vũ trụ. d) Giá trị của khoa học và giá trị của dân chủ là hoà hợp, trong vài trường hợp không thể phân biệt được [2] (Merrilee H. Salmon, John Earman, Clark Glymour, James Lennox, Wesley C. Salmon, Kenneth F. Schaffner, James G. Lennox, Peter Machamer, J. E. McGuire, John D. Norton, 1995). 1.1.2. Sự phát triển của khoa học Quá trình phát triển của khoa học có hai xu hướng ngược chiều nhau nhưng không loại trừ nhau mà thống nhất với nhau: - Xu hướng thứ nhất là sự tích hợp những tri thức khoa học thành hệ thống chung. - Xu hướng thứ hai là sự phân chia các tri thức khoa học thành những ngành khoa học khác nhau. Trong giai đoạn phát triển của lịch sử, tuỳ theo những yêu cầu phát triển của xã hội mà xu hướng này hay xu hướng khác nổi lên chiếm ưu thế. 1. Thời Cổ đại: xã hội loài người còn sơ khai, lao động sản xuất còn đơn giản, những tri thức mà con người tích luỹ được chủ yếu là kinh nghiệm. Thời kỳ này, triết học là khoa học duy nhất tích hợp những tri thức của khoa học khác nhau như: hình học, cơ học, thiên văn học v.v 2. Thời Trung cổ: kéo dài hàng nghìn năm, là thời kỳ thống trị của quan hệ sản xuất phong kiến và cùng với nó là sự thống trị của giáo hội và nhà thờ (chủ nghĩa duy tâm thống trị xã hội). Thời kỳ này khoa học bị giáo hội bóp nghẹt nên chậm phát triển, vai trò của khoa học đối với xã hội rất hạn chế và nó trở thành tôi tớ của thần học. 3. Thời kỳ tiền tư bản chủ nghĩa (thế kỷ XV – XVIII - thời kỳ Phục Hưng): là thời kỳ tan rã của quan hệ sản xuất phong kiến và cũng là thời kỳ mà giai cấp tư sản từng bước xác lập vị trí của mình trên vũ đài lịch sử. Sự phát triển của sản xuất tư bản chủ nghĩa đã thúc đẩy sự phát triển của khoa học, khoa học từng bước thoát ly khỏi thần học, sự phân lập các tri thức khoa học càng rõ ràng, nhiều ngành khoa học xuất hiện. PPNCKH chủ yếu được sử dụng trong thời kỳ này là phương pháp tư duy siêu hình - cơ sở triết học để giải thích các hiện tượng xã hội. 4. Thời kỳ Cách mạng khoa học - kỹ thuật lần thứ nhất (từ giữa thế kỷ XVIII đến thế kỷ XIX - còn gọi là thời kỳ phát triển tư bản công nghiệp): đây là thời kỳ có nhiều phát minh khoa học lớn (định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng, thuyết tiến hoá ) và xuất hiện nhiều phương tiện NCKH. Sự phát triển của khoa học đã phá vỡ tư duy siêu hình và thay vào đó là tư duy biện chứng; khoa học có sự thâm nhập lẫn nhau để hình thành những môn khoa học mới như: toán - lý, hóa - sinh, sinh - địa, hoá - lý, toán kinh tế, xã hội học chính trị 5. Thời kỳ Cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại (từ đầu thế kỷ XX đến nay): Thời kỳ này khoa học và kỹ thuật phát triển theo hai phương hướng:
- 18 ph−¬ng ph¸p luËn nghiªn cøu khoa häc a) Tiếp tục hoàn thiện và nâng cao nhận thức của con người trong nghiên cứu các cấu trúc khác nhau của vật chất, khoa học đi sâu vào tìm hiểu thế giới vi mô, hoàn thiện các lý thuyết về nguyên tử, về điện, sóng, từ trường và nghiên cứu sự tiến hoá của vũ trụ. b) Chuyển kết quả NCKH vào sản xuất một cách nhanh chóng, đồng thời ứng dụng chúng một cách có hiệu quả trong đời sống xã hội. Đặc điểm nổi bật cuả thời kỳ này là khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, trở thành tiền đề, điểm xuất phát cho nhiều ngành sản xuất vật chất mới. Song cũng chính sự phát triển nhanh chóng của khoa học lại làm nảy sinh những vấn đề mới như: ô nhiễm môi trường, khai thác cạn kiệt tài nguyên Vì vậy, cần có sự quan tâm đầy đủ đến mối quan hệ giữa khai thác và tái tạo tự nhiên, bảo vệ môi trường, làm cho khoa học gắn bó hài hoà với môi trường sinh sống của con người. Tóm lại: Khoa học là hệ thống những tri thức về các quy luật của tự nhiên, xã hội và tư duy, về những biện pháp tác động đến thế giới xung quanh, đến sự nhận thức và làm biến đổi thế giới đó phục vụ cho lợi ích của con người. Các tiêu chí nhận biết một khoa học (bộ môn khoa học): - Có một đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu là bản thân sự vật hoặc hiện tượng được đặt trong phạm vi quan tâm của môn khoa học. - Có hệ thống lý thuyết: Lý thuyết là hệ thống tri thức khoa học bao gồm những khái niệm, phạm trù, quy luật, định luật, định lý, quy tắc Hệ thống lý thuyết của một bộ môn khoa học thường gồm hai bộ phận: bộ phận kế thừa từ các khoa học khác và bộ phận mang nét đặc trưng riêng cho bộ môn khoa học đó. - Có một hệ thống phương pháp luận: Phương pháp luận của bộ môn khoa học bao gồm hai bộ phận là phương pháp luận riêng và phương pháp luận thâm nhập từ các bộ môn khoa học khác. - Có mục đích ứng dụng: Do khoảng cách giữa khoa học và đời sống ngày càng rút ngắn mà người ta dành nhiều mối quan tâm tới mục đích ứng dụng. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, người nghiên cứu chưa biết trước được mục đích ứng dụng (chẳng hạn nghiên cứu cơ bản thuần tuý). Vì vậy, không nên vận dụng một cách máy móc tiêu chí này [17] (Lưu Xuân Mới 2003). 1.1.3. Phân loại khoa học Phân loại khoa học là chỉ ra mối liên hệ tương hỗ giữa các ngành khoa học trên cơ sở những nguyên tắc xác định; là sự phân chia các bộ môn khoa học thành những nhóm bộ môn khoa học theo cùng một tiêu thức nào đó để nhận dạng cấu trúc của hệ thống tri thức, xác định vị trí mỗi bộ môn khoa học để xác định con đường đi đến khoa học; là ngôn ngữ quan trọng cho các cuộc đối thoại về NCKH, thông tin, tư liệu, phân ngành đào tạo, tổ chức và quản lý khoa học, hoạch định chính sách khoa học v.v Phân loại khoa học cần tuân theo một số nguyên tắc: - Nguyên tắc khách quan quy định việc phân loại khoa học phải dựa vào đặc điểm của đối tượng nghiên cứu của từng bộ môn khoa học và qu trình vận động, phát triển
- 19 của từng bộ môn khoa học đó gắn với những yêu cầu của thực tiễn, không được tách rời khoa học với đời sống. - Nguyên tắc phụ thuộc đòi hỏi phân loại khoa học phải theo tiến trình phát triển của đối tượng nhận thức của khoa học và mối liên hệ biện chứng chuyển tiếp lẫn nhau giữa chúng. Tuỳ theo mục đích nhận thức hoặc mục đích sử dụng mà có nhiều cách phân loại khoa học. Mỗi cách phân loại dựa trên một tiêu thức có ý nghĩa ứng dụng nhất định. Trong lịch sử phát triển của khoa học có nhiều cách phân loại khác nhau: 1) Cách phân loại của Aristốt (384 - 322 trước công nguyên - thời Hy Lạp cổ đại) theo mục đích ứng dụng của khoa học, có 3 loại: - Khoa học lý thuyết gồm: siêu hình học, vật lý học, toán học với mục đích tìm hiểu khám phá tự nhiên. - Khoa học sáng tạo gồm: tu từ học, thư pháp, biện chứng pháp với mục đích sáng tạo tác phẩm. - Khoa học thực hành gồm: đạo đức học, kinh tế học, chính trị học, sử học với mục đích hướng dẫn đời sống. 2) Cách phân loại của K. Marx có 2 loại: - Khoa học tự nhiên: có đối tượng là các dạng vật chất và các hình thức vận động của các dạng vật chất đó được thể hiện trong giới tự nhiên cùng những mối liên hệ và quy luật giữa chúng như cơ học, toán học, sinh vật học, - Khoa học xã hội hay khoa học về con người: có đối tượng là những sinh hoạt của con người cùng những quy luật, những động lực phát triển của xã hội như sử học, kinh tế học, triết học, đạo đức học 3) Cách phân loại của B.M. Kêdrôv (trong ''Triết học bách khoa toàn thư'' Nhà xuất bản ''Bách khoa toàn thư Liên Xô'', Matxcơva, 1964) có các loại: - Khoa học triết học: Biện chứng pháp, lôgic học - Khoa học toán học: lôgic toán học và toán học thực hành (toán học bao gồm cả điều khiển học). - Khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật: + Cơ học và cơ thực nghiệm ; + Thiên văn học và vũ trụ học; + Vật lý thiên văn; + Vật lý học; + Hoá lý; + Hoá lý và lý kỹ thuật; + Hoá học và khoa học quy trình hoá kỹ thuật với luyện kim; + Hoá địa chất; + Địa chất học và công nghiệp mỏ; + Địa lý học; + Hoá sinh học;
- 20 ph−¬ng ph¸p luËn nghiªn cøu khoa häc + Sinh học và khoa học nông nghiệp; + Sinh lý học người và y học; + Nhân loại học. - Khoa học xã hội gồm: lịch sử, khảo cổ học, nhân chủng học, địa lý kinh tế, thống kê kinh tế xã hội - Khoa học về hạ tầng cơ sở và thượng tầng kiến trúc, gồm: + Kinh tế chính trị học ; + Khoa học về nhà nước pháp quyền ; + Lịch sử nghệ thuật và giảng dạy nghệ thuật ; + Ngôn ngữ học ; + Tâm lý học và khoa học sư phạm ; + Các khoa học khác 4) UNESCO phân loại theo đối tượng nghiên cứu của khoa học có 5 nhóm: - Nhóm các khoa học tự nhiên và khoa học chính xác ; - Nhóm các khoa học kỹ thuật và công nghệ ; - Nhóm các khoa học về sức khoẻ (y học) ; - Nhóm các khoa học nông nghiệp ; - Nhóm các khoa học xã hội và nhân văn. 5) Phân loại theo cơ cấu của hệ thống tri thức hoặc chương trình đào tạo có: - Khoa học cơ bản ; - Khoa học cơ sở của chuyên ngành ; - Khoa học chuyên ngành (chuyên môn). Ngoài các cách phân loại kể trên, còn có những cách tiếp cận phân loại theo nguồn gốc hình thành khoa học; phân loại theo mức độ khái quát của khoa học; phân loại theo tính tương tác giữa các khoa học Mỗi cách phân loại khoa học dựa trên một tiêu thức riêng có ý nghĩa ứng dụng nhất định, nhưng đều chỉ ra được mối liên hệ giữa các khoa học, là cơ sở để nhận dạng cấu trúc của hệ thống tri thức khoa học. Sự phát triển của khoa học luôn dẫn đến sự phá vỡ ranh giới cứng nhắc trong phân loại khoa học, do đó mọi cách phân loại cần được xem như hệ thống mở, phải luôn luôn được bổ sung và phát triển. 1.2. CÔNG NGHỆ 1.2.1. Khái niệm về công nghệ 1. Kỹ thuật: Trong những ngày đầu công nghiệp hóa, người ta sử dụng rất phổ biến thuật ngữ kỹ thuật (Engineering) với ý nghĩa là các giải pháp thực hiện một loại công việc hay công cụ được sử dụng trong sản xuất để làm tăng hiệu quả sản xuất. Thí dụ: Kỹ thuật bôi trơn chống ăn mòn kim loại trong các chi tiết máy. Ngày nay, thuật ngữ "Kỹ thuật'' hầu như chỉ còn giữ lại một ý nghĩa hẹp như định nghĩa sau: ''Kỹ thuật là bất kỳ kiến thức kinh nghiệm hoặc kỹ năng có tính chất hệ thống hoặc thực tiễn được sử dụng cho việc chế tạo sản phẩm hoặc để áp dụng vào các quá
- 21 trình sản xuất, quản lý hoặc thương mại, công nghiệp hoặc trong các lĩnh vực khác nhau cuả đời sống xã hội''. Thuật ngữ kỹ thuật mang một ý nghĩa hẹp hơn: nó chỉ những yếu tố vật chất và vật thể, chẳng hạn như máy móc, thiết bị và sự tác nghiệp, vận hành của con người. Khi xuất hiện thuật ngữ công nghệ sản xuất, lúc đầu nó được hiểu là quy trình kỹ thuật dùng trong dây chuyền sản xuất, về sau khái niệm công nghệ sản xuất được hiểu theo nghĩa rộng hơn và dần ổn định như ngày nay. 2. Công nghệ Theo quan điểm của ESCAP (Trung tâm chuyển giao công nghệ Châu Á - Thái Bình Dương), thì công nghệ sản xuất là tất cả những gì liên quan đến việc biến đổi tài nguyên ở đầu vào thành hàng hoá ở đầu ra của quy trình sản xuất. Hệ thống công nghệ sản xuất bao gồm 4 phần: a) Phần kỹ thuật (Technoware): Hệ thống máy móc, thiết bị đồng bộ của các dây chuyền sản xuất. b) Phần thông tin (Infoware): Thông tin về quy trình sản xuất hay các bí quyết kỹ thuật cho một hệ sản xuất. c) Phần con người (Humanware): Trình độ tay nghề, kỹ năng của người lao động trực tiếp. d) Phần tổ chức (Orgaware): Trình độ tổ chức quản lí, điều hành sản xuất của các nhà máy, xí nghiệp, công ty Công nghệ (Technology) là thuật ngữ gọi tắt của công nghệ sản xuất bao gồm hai phần: phần kỹ thuật và phần thông tin. Phần kỹ thuật của công nghệ gọi là phần cứng (Hardware). Phần thông tin của công nghệ gọi là phần mềm (Software). Như vậy, công nghệ là hệ thống thiết bị kỹ thuật và thông tin về quy trình sản xuất được áp dụng trong quá trình chế biến tài nguyên thành sản phẩm hàng hoá và dịch vụ. Về bản chất, công nghệ là kết quả của quá trình áp dụng các thành tựu khoa học vào sản xuất. Công nghệ là sản phẩm của lao động trí tuệ sáng tạo của con người trong lĩnh vực sản xuất. Công nghệ là tổ hợp nhiều công đoạn của quy trình ứng dụng kiến thức khoa học vào sản xuất và phương tiện để chế biến tài nguyên vật chất thành sản phẩm hàng hoá. Khái niệm công nghệ được sử dụng rộng rãi vào tất cả các lĩnh vực của cuộc sống con người. Công nghệ được dùng không chỉ trong sản xuất vật chất mà còn trong các hoạt động xã hội. Thí dụ: công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, công nghệ quản lí, công nghệ giáo dục Tuy nhiên, công nghệ luôn gắn chặt với công nghiệp. Công nghiệp và công nghệ là hai mặt của một thực thể thống nhất. Công nghệ là nền tảng của công nghiệp, còn công nghiệp là phương thức chuyển tải công nghệ vào cuộc sống. Hiện đại hoá gắn chặt với công nghiệp hoá nền sản xuất, vì nòng cốt của hiện đại hoá là công nghiệp hoá. Công nghiệp hoá phải dựa vào công nghệ tiên tiến ở trình độ
- 22 ph−¬ng ph¸p luËn nghiªn cøu khoa häc cao. Công nghiệp hiện đại với công nghệ cao mà hệ trung tâm là máy tính điện tử, tạo khả năng tự động hoá hoàn toàn trong các dây chuyền sản xuất, đem lại năng suất và hiệu quả sản xuất rất lớn. Trong nền công nghiệp hiện đại một phần lao động sức lực và trí tuệ giao cho máy móc đảm nhiệm. Rôbốt thông minh thay vị trí con người trong những lao động chính xác nặng nhọc và độc hại. Những dây chuyền cơ điện tử (Mechatronic) điều khiển bằng máy tính, hoàn toàn tự động từ khâu tính toán, thiết kế đến khâu nhập vật liệu, gia công, lắp ráp, kiểm tra thành phẩm nhập kho. Con người đứng bên cạnh dây chuyền làm nhiệm vụ chỉ huy, điều chỉnh và kiểm tra chúng, từ đó xuất hiện thuật ngữ công nghệ cao. Công nghệ cao là một khái niệm nói về nền sản xuất ở trình độ tinh xảo nhất với những đặc điểm sau đây: + Hệ thống thiết bị được thiết kế tự động hoàn toàn, máy móc có kết cấu phức tạp nhưng vận hành đơn giản. + Quy trình kỹ thuật sản xuất hết sức tinh vi (các bí quyết công nghệ ). + Máy móc, thiết bị sản xuất tiêu thụ rất ít năng lượng, nguyên vật liệu sản xuất được sử dụng rất tiết kiệm và nguyên liệu tái tạo được sử dụng nhiều nhất. + Năng xuất lao động rất cao, sản phẩm hàng hoá có chất lượng tốt. + Nhà máy được thiết kế khép kín, phế thải được tinh lọc, không gây ô nhiễm môi trường. Nền sản xuất với công nghệ hiện đại có hàm lượng trí tuệ cao. Nếu trước đây hiệu quả kinh tế dựa chủ yếu vào vốn đầu tư và sức lao động đơn giản, nặng nhọc chiếm tới 60% đến 70% cơ cấu giá thành, thì ngày nay trong sản phẩm công nghệ cao chất xám chiếm 70 đến 75% cơ cấu ấy. Có những mặt hàng như: điện tử, tin học, dược phẩm nguyên liệu chiếm 1-3% giá thành, sức lao động 12%, còn lại dành cho đầu tư kiến thức mua bí quyết công nghệ, thực hành thí nghiệm, sản xuất thử. Hiện tại các nước phát triển đang chú trọng vào những mũi nhọn sau đây: - Công nghệ điện tử, tin học, viễn thông, trong đó có công nghệ thông tin, tự động hoá ; - Công nghệ sản xuất vật liệu mới như: chất dẻo, kim loại mới, gốm và vật liệu tổ hợp (Compozit); - Công nghệ sinh học bao gồm: kỹ thuật vi sinh, sinh học phân tử và công nghệ gen; - Công nghệ sản xuất năng lượng mới như: năng lượng hạt nhân, năng lượng mặt trời, năng lượng sức gió ; - Công nghệ hàng không vũ trụ bao gồm: sản xuất các phương tiện vận chuyển trong và ngoài khí quyển, nghiên cứu sử dụng tài nguyên ngoài trái đất. - Công nghệ bảo vệ môi trường Mục tiêu lâu dài của Việt Nam là CNH, HĐH đất nước nhằm “cải biến nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất và kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lí, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ sản xuất, mức sống vật chất và
- 23 tinh thần cao, quốc phòng và an ninh vững chắc” (Nghị quyết TW 7). Vì vậy chúng ta phải thực hiện hàng loạt các biện pháp nhằm: - Thúc đẩy quá trình đổi mới công nghệ trong lĩnh vực sản xuất vật chất và hoạt động xã hội. - Phát triển khả năng, điều kiện tiếp nhận và ứng dụng công nghệ cao của các nước tiên tiến. - Khai thác tài nguyên thiên nhiên hợp lý và bảo vệ môi trường sống của con người. - Xây dựng và phát triển tiềm lực KH&CN quốc gia, tạo thành năng lực nội sinh, tiếp thu công nghệ mới và ra quyết định chính xác trong quản lý xã hội. - Tăng cường chất lượng sản xuất hàng hoá. - Đưa khoa học và kỹ thuật hỗ trợ miền núi, vùng dân tộc ít người. Các nhà khoa học dự báo hướng đi của công nghệ Việt Nam trong những năm đầu của thế kỉ XXI sẽ là: - Phát triển các công nghệ phục vụ cho sự phát triển ngành công nghiệp và dịch vụ điện tử, tin học, viễn thông, công nghệ thông tin vi điện tử và tự động hoá; - Phát triển công nghệ vi sinh, tế bào, gen phục vụ cho ngành nông nghiệp lai tạo giống mới, ngành công nghiệp bảo quản và chế biến thực phẩm ; - Phát triển công nghệ dịch vụ khai thác, chế biến tài nguyên quý, hiếm như: dầu mỏ, khoáng sản quý và chế tạo vật liệu mới; - Công nghệ bảo vệ môi trường [21] (Phạm Viết Vượng, 2004). 1.2.2. Chuyển giao công nghệ Cách mạng khoa học và kỹ thuật hiện đại đã làm thay đổi bộ mặt thế giới. Thang giá trị xã hội được đo bằng trí tuệ. Trí tuệ đã trở thành sản phẩm cao cấp có giá trị và giá trị sử dụng. Sản phẩm trí tuệ đã có mối giao lưu trên thị trường hiện đại và bản thân nó cũng tạo ra thị trường có sức cạnh tranh mạnh mẽ. Các nhà tương lai học khẳng định: Tương lai sẽ thuộc về dân tộc nào có tiềm lực trí tuệ cao, chứ không thuộc về những nước giàu có tài nguyên, bởi vì trí tuệ con người là cơ sở thật sự cho mọi sự phát triển khoa học và kinh tế - xã hội. Việc ứng dụng các thành tựu khoa học đã làm rút ngắn thời gian đổi mới công nghệ. Khả năng thay đổi công nghệ được dự tính trước. Máy móc có tính mềm dẻo, linh hoạt, phụ kiện dễ thay thế, đảm bảo không bị lạc hậu so với công nghệ mới. Việc đổi mới công nghệ diễn ra nhanh chóng kể cả số lượng và tốc độ trên phạm vi toàn thế giới từ đó tạo nên quá trình chuyển giao công nghệ. Chuyển giao công nghệ là nơi gặp gỡ giữa khoa học và thị trường. Về bản chất, chuyển giao công nghệ là chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ, thông qua dịch vụ thương mại có tổ chức. Chuyển giao công nghệ theo khái niệm của UNESCO bao hàm: chuyển giao thiết kế kỹ thuật, chuyển giao kiến thức về quy trình sản xuất, chuyển giao kinh nghiệm tổ chức quản lý và hoạt động tư vấn trong lĩnh vực sản xuất. Tuy nhiên,
- 24 ph−¬ng ph¸p luËn nghiªn cøu khoa häc chuyển giao công nghệ chú trọng hai phần một cách đồng bộ: phần kỹ thuật và phần thông tin. Phần kỹ thuật được chuyển giao bằng dịch vụ thương mại thông thường, phần thông tin được chuyển giao bằng những thoả thuận của hai bên chuyển giao và tiếp nhận. Chuyển giao công nghệ được thực hiện bởi hai nguồn: + Nguồn thứ nhất, chuyển giao từ nơi phát minh đến các xí nghiệp ứng dụng sản xuất gọi là chuyển giao dọc. Nội dung công nghệ theo con đường chuyển giao dọc hoàn toàn mới, lần đầu tiên được đưa vào sản xuất. Đây là con đường ngắn nhất của chu trình nghiên cứu ứng dụng. Tuy nhiên, con đường này chứa những yếu tố mạo hiểm vì công nghệ mới chưa được thử thách. + Nguồn thứ hai, chuyển giao từ cơ sở sản xuất có trình độ công nghệ cao đến cơ sở sản xuất còn yếu kém, gọi là chuyển giao ngang. Nguồn chuyển giao này ít mạo hiểm hơn vì công nghệ được thực tiễn thử thách, nhưng bên mua công nghệ thường bị thua thiệt, bởi vì trong thị trường cạnh tranh không một xí nghiệp nào lại bán bí quyết công nghệ mới nhất cho đối thủ cạnh tranh. Cho nên trong quá trình chuyển giao công nghệ ở nước ta, đặc biệt là quá trình nhập ngoại công nghệ phải thận trọng và thực hiện đúng các quy định của Nhà nước, thể hiện trong các nguyên tắc dưới đây: - Công nghệ nhập ngoại phải là công nghệ tiên tiến, nếu đạt tới trình độ tiên tiến nhất thì đó là điều lý tưởng; - Công nghệ nhập ngoại phải giúp ta tận dụng hết các nguồn lực sản xuất trong nước; - Công nghệ nhập ngoại phải thúc đẩy sự phát triển công nghệ quốc gia; - Công nghệ nhập ngoại phải phù hợp với trình độ sản xuất của công nhân Việt Nam và đem lại hiệu quả cao; - Công nghệ nhập ngoại không gây ô nhiễm môi trường. Chuyển giao công nghệ được thực hiện cả ở trong nước và quốc tế. Chuyển giao công nghệ có ý nghĩa thực tiễn to lớn đối với từng quốc gia và với cả thế giới. Với ý nghĩa văn hoá - khoa học, chuyển giao công nghệ vừa kích thích quá trình lao động sáng tạo của các nhà khoa học, nó vừa thúc đẩy quá trình sản xuất bằng việc ứng dụng nhanh chóng các thành tựu khoa học. Chuyển giao công nghệ đảm bảo tính pháp lý của các chủ thể sáng tạo và quyền sử dụng hợp pháp các thành quả khoa học ở các cơ sở sản xuất. Với ý nghĩa kinh tế - thương mại, nó giúp mở rộng sự hợp tác giao lưu kinh tế - khoa học - kỹ thuật giữa các khu vực trong nước và quốc tế, từ đó làm rút ngắn khoảng cách sự khác biệt trình độ phát triển kinh tế - văn hoá - khoa học - kỹ thuật giữa các khu vực và tạo điều kiện để các quốc gia cùng phát triển. Ở thập niên này, Châu Á - Thái Bình Dương là nơi hội tụ giao lưu của các làn sóng chuyển giao công nghệ làm cho khu vực này có triển vọng trở thành nơi có nhịp
- 25 độ phát triển kinh tế cao so với các khu vực khác trên thế giới. Việt Nam chúng ta ở trong khu vực phát triển đó. Để thực hiện mục tiêu CNH, HĐH đất nước, một trong những con đường quan trọng của chúng ta là phải nhập công nghệ tiên tiến, với chiến lược chung là: Bước đầu thích nghi với công nghệ nước ngoài để áp dụng có kết quả vào sản xuất, dần dần cải tiến công nghệ nhập ngoại để có sản phẩm tốt hơn, khi năng lực KH&CN đủ mạnh thì vươn lên sáng tạo công nghệ Việt Nam có sức cạnh tranh với công nghệ thế giới. Quá trình chuyển giao công nghệ thành công ở Nhật Bản và các nước Đông Nam Á được thực hiện trong khoảng 30 năm. Với kinh nghiệm cuả thế giới và tiềm lực của bản thân, chúng ta có thể thực hiện quá trình đó nhanh hơn. Chuyển giao công nghệ là hoạt động phức tạp có các mức độ, chiều sâu khác nhau, đó là: trao kiến thức, trao phương tiện kỹ thuật, trao chìa khoá sau khi xây dựng nhà máy, trao chìa khoá sau khi đã sản xuất ra sản phẩm, trao thị trường truyền thống tiêu thụ sản phẩm, mức sâu nhất là đầu tư tư bản. Chúng ta đang tranh thủ tối đa mọi khả năng của chuyển giao công nghệ để nhanh chóng phát triển kinh tế, tiến kịp trình độ các nước trong khu vực 1.2.3. So sánh ý nghĩa giữa khoa học và công nghệ Các nhà xã hội học xem xét công nghệ như một thiết chế xã hội quy định sự phân công lao động xã hội, cơ cấu công nghệ và công nghiệp. Có thể so sánh về mặt ý nghĩa KH&CN: công nghệ đã được xác nhận qua thử nghiệm đã được kiểm chứng, là không còn rủi ro về mặt kỹ thuật thực hiện - nghĩa là đã qua giai đoạn nghiên cứu để bước vào giai đoạn vận hành ổn định, đủ điều kiện khả thi về mặt kỹ thuật để chuyển giao cho người sử dụng. So sánh các đặc điểm khoa học và công nghệ [15] (Vũ Cao Đàm, 2005): Bảng 1.1: So sánh các đặc điểm của khoa học và công nghệ T Khoa học Công nghệ T 1 Lao động linh hoạt và tính Lao động bị định khuôn theo quy định. sáng tạo cao 2 Hoạt động khoa học luôn Hoạt động công nghệ được lặp lại theo chu đổi mới, không lặp lại kỳ. 3 NCKH mang tính xác suất. Điều hành công nghệ mang tính xác định. 4 Có thể mang mục đích tự Có thể không mang tính tự thân. thân 5 Phát minh khoa học tồn tại Sáng chế công nghệ tồn tại nhất thời và bị tiêu mãi mãi với thời gian. vong theo lịch sử tiến bộ kỹ thuật 6 Sản phẩm khó được định Sản phẩm định hình theo thiết kế. hình trước. 7 Sản phẩm mang đặc trưng Đặc trưng của sản phẩm tuỳ thuộc đầu vào. thông tin.
- 26 ph−¬ng ph¸p luËn nghiªn cøu khoa häc Cũng cần nhấn mạnh thêm rằng: - Khoa học luôn hướng tới tìm tòi tri thức mới; - Công nghệ hướng tới tìm tòi quy trình tối ưu; Đấy cũng là đích đi tới của NCKH. 1.3. NGHIÊN CỨU KHOA HỌC NCKH là một quá trình nhận thức chân lý khoa học, là một hoạt động trí tuệ đặc thù; nó tuân theo những quy luật chung nhất của sự nhận thức, tuân theo những quy luật sáng tạo khoa học và tuân theo những quy luật chung, phổ biến của lôgic nghiên cứu một đề tài khoa học nói riêng. Đồng thời NCKH cũng chịu sự chi phối của những quy luật đặc thù của việc nghiên cứu đối tượng, chịu sự chi phối của tính chất riêng của đối tượng nghiên cứu. Thành tựu của NCKH là do các công trình nghiên cứu cụ thể vun đắp nên. Hiệu quả của một công trình lý thuyết hay thực nghiệm phụ thuộc vào việc tổ chức, điều khiển và điều chỉnh tối ưu lôgic của công trình NCKH đó. HVCH làm LVThS, NCS viết các chuyên đề và LATS v.v đều được xem là một công trình khoa học. Quá trình làm những công việc này cũng được gọi là NCKH [15] (Vũ Cao Đàm, 2005). 1.3.1. Khái niệm về nghiên cứu khoa học NCKH là quá trình nhận thức chân lý khoa học, một hoạt động trí tuệ đặc thù bằng những PPNC nhất định để tìm kiếm, để chỉ ra một cách chính xác và có mục đích những điều mà con người chưa biết đến (hoặc biết chưa đầy đủ), tức là tạo ra sản phẩm mới dưới dạng tri thức mới, có giá trị mới về nhận thức hoặc phương pháp. NCKH là sự tìm kiếm những điều mà khoa học chưa biết: hoặc là phát hiện bản chất sự vật, phát triển nhận thức khoa học về thế giới; hoặc là sáng tạo phương pháp mới và phương tiện kỹ thuật mới để làm biến đổi sự vật phục vụ cho mục tiêu hoạt động của con người. NCKH là loại hoạt động đặc biệt. Nó đặc biệt ở chỗ đó là công việc tìm kiếm những điều chưa biết và người nghiên cứu hoàn toàn không thể hình dung được, hoặc không thể hình dung thật chính xác kết quả dự kiến. Điều này khác biệt hoàn toàn với hàng loạt hoạt động khác trong đời sống xã hội, chẳng hạn, khi xây dựng một toà nhà thì người kỹ sư xây dựng đã hình dung rất rõ công trình của mình, từ địa điểm xây dựng, hướng nhà, diện tích xây dựng, phong cách kiến trúc, kết cấu, bố trí nội thất, bố trí ngoại thất và chi phí xây dựng. Có thể nói, NCKH là sự tìm tòi, khám phá trong một thế giới hoàn toàn chưa được biết đến và kết quả tìm kiếm ra sao cũng không thể dự kiến trước một cách chi tiết. Chính vì vậy, mà trong NCKH, mỗi người nghiên cứu cần đưa ra một hoặc một số nhận định sơ bộ về kết quả nghiên cứu cuối cùng, gọi đó là giả thuyết nghiên cứu hoặc giả thuyết khoa học.
- 27 Giả thuyết nghiên cứu hoặc giả thuyết khoa học là một phán đoán về bản chất đối tượng nghiên cứu. Theo phán đoán này, người nghiên cứu tiếp tục đi tìm kiếm các luận cứ để chứng minh. Rất có thể kết quả nghiên cứu sẽ xác nhận giả thuyết khoa học đặt ra ban đầu là đúng. Khi đó, người nghiên cứu khẳng định được luận điểm khoa học của mình. Nhưng rất có thể kết quả nghiên cứu sẽ phủ định hoàn toàn phán đoán ban đầu, tức giả thuyết khoa học, khi đó, người ta nói, giả thuyết khoa học bị bác bỏ. Rốt cuộc, toàn bộ quá trình NCKH chẳng qua là quá trình tìm kiếm các luận cứ để chứng minh hoặc bác bỏ giả thuyết khoa học, tức luận điểm khoa học của tác giả. Như vậy, trong quá trình tìm kiếm câu trả lời cho một vấn đề khoa học, mỗi người có thể đưa ra những cách giải thích khác nhau. Kết thúc của quá trình nghiên cứu sẽ xác nhận một giả thuyết được chứng minh là đúng, một số giả thuyết khác được chứng minh là sai. Trong NCKH, một giả thuyết bị bác bỏ cũng là một kết quả nghiên cứu. Một giả thuyết bị chứng minh là sai có nghĩa rằng, người nghiên cứu đã chứng minh không tồn tại bản chất đó trong khoa học. Như vậy, chứng minh giả thuyết khoa học, thường khi cũng nói chứng minh luận điểm khoa học luôn là một nhiệm vụ của người nghiên cứu, là nội dung cơ bản, xuyên suốt quá trình NCKH, là công việc nhất thiết phải thực hiện trong quá trình NCKH. Cuối cùng, một luận điểm khoa học phải được công bố trước cộng đồng khoa học. Mỗi người nghiên cứu phải biết trình bày luận điểm khoa học của mình. Quá trình NCKH được thực hiện theo 4 bước như sau: Bước 1: Lựa chọn đề tài nghiên cứu; Bước 2: Xây dựng luận điểm khoa học; Bước 3: Chứng minh luận điểm khoa học; Bước 4: Trình bày luận điểm khoa học. 1.3.2. Phân loại nghiên cứu khoa học Có nhiều cách phân loại NCKH. Trong phần này sẽ đề cập hai cách phân loại: theo chức năng nghiên cứu và theo các giai đoạn nghiên cứu . 1. Phân loại theo chức năng nghiên cứu Nghiên cứu mô tả là nghiên cứu nhằm đưa ra một hệ thống tri thức về nhận dạng sự vật, giúp phân biệt được sự khác nhau về bản chất giữa sự vật này với sự vật khác. Nội dung mô tả có thể bao gồm mô tả hình thái, động thái, tương tác; mô tả định tính tức các đặc trưng về chất của sự vật; mô tả định lượng nhằm chỉ rõ các đặc trưng về lượng của sự vật. Nghiên cứu giải thích là những nghiên cứu nhằm làm rõ nguyên nhân dẫn đến sự hình thành và quy luật chi phối quá trình vận động của sự vật. Nội dung của giải thích có thể bao gồm giải thích nguồn gốc; động thái; cấu trúc; tương tác; hậu quả; quy luật chung chi phối quá trình vận động của sự vật. Nghiên cứu giải pháp là loại nghiên cứu nhằm làm ra một sự vật mới chưa từng tồn tại. Khoa học không bao giờ dừng lại ở mô tả và giải thích mà luôn hướng vào sự sáng tạo các giải pháp làm biến đổi thế giới.
- 28 ph−¬ng ph¸p luËn nghiªn cøu khoa häc Nghiên cứu dự báo là những nghiên cứu nhằm nhận dạng trạng thái của sự vật trong tương lai. Mọi dự báo đều phải chấp nhận những sai lệch, kể cả trong nghiên cứu tự nhiên và xã hội. Sự sai lệch trong các kết qủa dự báo có thể do nhiều nguyên nhân: sai lệch khách quan trong kết quả quan sát; sai lệch do luận cứ bị biến dạng trong sự tác động của các sự vật khác; môi trường cũng luôn có thể biến động, v.v 2. Phân loại theo các giai đoạn của nghiên cứu Theo các giai đoạn của nghiên cứu, người ta phân chia thành nghiên cứu cơ bản; nghiên cứu ứng dụng và triển khai. Nghiên cứu cơ bản (fundamental research, cũng gọi là basic research) là những nghiên cứu nhằm phát hiện thuộc tính, cấu trúc, động thái các sự vật, tương tác trong nội bộ sự vật và mối liên hệ giữa sự vật này với các sự vật khác. Sản phẩm nghiên cứu cơ bản có thể là các khám phá, phát hiện, phát minh, dẫn đến việc hình thành một hệ thống lý thuyết có giá trị tổng quát, ảnh hưởng đến một hoặc nhiều lĩnh vực khoa học. Ví dụ: Newton phát minh định luật hấp dẫn vũ trụ, Marx phát hiện quy luật giá trị thặng dư Nghiên cứu cơ bản được phân chia thành hai loại: nghiên cứu cơ bản thuần tuý và nghiên cứu cơ bản định hướng. Nghiên cứu cơ bản thuần tuý hoặc nghiên cứu thuần tuý (pure fundamental resarch hoặc pure research) được gọi là nghiên cứu cơ bản tự do, hoặc nghiên cứu cơ bản không định hướng, là những nghiên cứu về bản chất sự vật để nâng cao nhận thức, chưa có hoặc chưa bàn đến ý nghĩa ứng dụng. Nghiên cứu cơ bản định hướng (oriented fundamental research), là những nghiên cứu cơ bản đã dự kiến trước mục đích ứng dụng. Các hoạt động điều tra cơ bản tài nguyên, kinh tế, xã hội, v.v đều có thể xem là nghiên cứu cơ bản định hướng. Nghiên cứu cơ bản định hướng được chia thành nghiên cứu nền tảng (background research) và nghiên cứu chuyên đề (thematic research). Nghiên cứu nền tảng là những nghiên cứu về quy luật tổng thể của một hệ thống sự vật. Hoạt động điều tra cơ bản tài nguyên và các điều kiện thiên nhiên như địa chất, đại dương, khí quyển, khí tượng; điều tra cơ bản kinh tế, xã hội đều thuộc loại nghiên cứu nền tảng. Nghiên cứu chuyên đề là nghiên cứu về một hiện tượng đặc biệt của sự vật, ví dụ trạng thái plasma của vật chất, bức xạ vũ trụ, gen di truyền. Nghiên cứu chuyên đề vừa dẫn đến hình thành những cơ sở lý thuyết, mà còn dẫn đến những ứng dụng có ý nghĩa thực tiễn. Nghiên cứu ứng dụng (applied research) là sự vận dụng quy luật được phát hiện từ nghiên cứu cơ bản để giải thích một sự vật; tạo ra những nguyên lý mới về các giải pháp và áp dụng chúng vào sản xuất và đời sống. Giải pháp được hiểu theo một nghĩa rộng nhất của thuật ngữ này; có thể là một giải pháp về công nghệ, về vật liệu, về tổ chức và quản lý. Một số giải pháp công nghệ có thể trở thành sáng chế. Cần lưu ý rằng, kết quả của nghiên cứu ứng dụng thì chưa ứng dụng được. Để có thể đưa kết quả nghiên cứu ứng dụng vào sử dụng thì còn phải tiến hành một loại hình nghiên cứu khác, có tên gọi là triển khai.
- 29 Triển khai (cũng gọi là technological experimental development, cũng gọi là experimental development, nói tắt là development), còn gọi là triển khai thực nghiệm, là sự vận dụng các lý thuyết để đưa ra các hình mẫu (prototype) với những tham số khả thi về kỹ thuật. Hoạt động triển khai gồm 3 giai đoạn: Tạo vật mẫu (prototype), là giai đoạn thực nghiệm nhằm tạo ra được sản phẩm, chưa quan tâm đến quy trình sản xuất và quy mô áp dụng. Tạo công nghệ còn gọi là giai đoạn “làm pilot’’, là giai đoạn tìm kiếm và thử nghiệm công nghệ để sản xuất ra sản phẩm theo mẫu (prototype) vừa thành công trong giai đoạn thứ nhất. Sản xuất thử loạt nhỏ, còn gọi là sản xuất “Serie 0’’ (Loạt 0). Đây là giai đoạn kiểm chứng độ tin cậy của công nghệ trên quy mô nhỏ, thường gọi là quy mô sản xuất bán đại trà, còn được gọi là quy mô bán công nghiệp. Toàn bộ các loại hình nghiên cứu và mối liên hệ giữa các loại hình nghiên cứu được trình bày trong sơ đồ trên Hình 1.1. Nghiờn cứu cơ bản thuần tuý Nghiờn cứu Nghiờn cứu nền tảng cơ bản Nghiên cứu cơ bản định hướng Nghiờn cứu Nghiên cứu chuyờn đề ứng dụng Làm ra vật mẫu (Prototype) Triển khai Chế tạo cụng nghệ để chế tạo prototype Sản xuất loạt nhỏ theo prototype Hình 1.1: Quan hệ giữa các loại hình nghiên cứu Khái niệm triển khai được áp dụng cả trong nghiên cứu công nghệ và nghiên cứu xã hội: chế tạo mẫu công nghệ mới hoặc sản phẩm mới; thử nghiệm một phương pháp giảng dạy ở các lớp thí điểm; chỉ đạo thí điểm một mô hình quản lý mới tại một cơ sở được lựa chọn. Sự phân chia loại hình nghiên cứu như trên đây được thống nhất sử dụng phổ biến trên thế giới. Phân chia là để nhận thức rõ bản chất của nghiên cứu khoa học, để có cơ
- 30 ph−¬ng ph¸p luËn nghiªn cøu khoa häc sở lập kế hoạch nghiên cứu, cụ thể hoá các cam kết trong hợp đồng nghiên cứu giữa các đối tác. Tuy nhiên, trên thực tế, trong một đề tài có thể chỉ tồn tại một loại nghiên cứu, song cũng có thể tồn tại cả ba lọai nghiên cứu, giữa chúng có mối liên hệ rất chặt chẽ, hoặc tồn tại hai trong ba loại hình nghiên cứu. 1.3.3. Sản phẩm của nghiên cứu khoa học 1. Đặc điểm của sản phẩm nghiên cứu khoa học Trong mọi trường hợp, sản phẩm của nghiên cứu khoa học là thông tin, bất kể đó là khoa học tự nhiên, khoa học xã hội hay khoa học công nghệ. Xét về cơ sở lôgic, sản phẩm của NCKH bao gồm: - Các luận điểm của tác giả đã được chứng minh hoặc bị bác bỏ. Luận điểm khoa học biểu hiện thông qua những hình thức khác nhau, tuỳ thuộc khoa học. Có thể là những định lý trong toán học (Định lý Thales, Định lý Ferma); những định luật trong vật lý học (Định luật Newton); những quy luật trong các nghiên cứu xã hội (Quy luật giá trị thặng dư của Marx, Quy luật bàn tay vô hình của Adam Smith); những nguyên lý trong kỹ thuật (nguyên lý máy phát điện, nguyên lý động cơ phản lực), v.v - Các luận cứ để chứng minh hoặc bác bỏ luận điểm. Luận cứ là những sự kiện khoa học đã được kiểm nghiệm là đúng hoặc sai với luận điểm trong thực tế. Luận điểm hay luận cứ đều là những sản phẩm nghiên cứu [7] (E. Bright Wilson, Jr., 1991). 2. Vật mang thông tin Sản phẩm khoa học là thông tin. Tuy nhiên, chúng ta không thể tiếp xúc trực tiếp với thông tin, mà chỉ có thể tiếp xúc với thông tin qua các phương tiện trung gian là vật mang thông tin. Mọi hoạt động liên quan đến việc xem xét hoặc đánh giá sản phẩm của NCKH đều được thực hiện thông qua các vật mang thông tin. Vật mang thông tin về các kết quả NCKH có thể bao gồm: Vật mang vật lý: sách báo, băng âm, băng hình. Chúng ta tiếp nhận được thông tin nhờ đọc, xem, nghe, v.v thông qua những vật mang này. Vật mang công nghệ: một vật dụng được sản xuất ra cho chúng ta hiểu được những thông tin về nguyên lý vận hành của nó, công nghệ và vật liệu được sử dụng để chế tạo ra nó, v.v Chúng ta không thể đọc được, không thể nghe hoặc xem được những thông tin, mà chỉ có thể cảm nhận và hiểu được tất cả những thông tin liên quan đến vật phẩm này. Một cách quy ước, gọi đó là nhưng vật mang công nghệ. Vật mang xã hội: một người hoặc một nhóm người cùng nhau chia sẻ một quan điểm khoa học, cùng đi theo một trường phái khoa học, cùng nuôi dưỡng một ý tưởng khoa học hoặc một bí quyết công nghệ. Chúng ta có thể hoặc không thể khai thác được những thông tin từ họ. Đương nhiên, đây là loại vật mang rất đặc biệt, khác hẳn loại vật mang vật lý và vật mang công nghệ. 3. Một số sản phẩm đặc biệt của nghiên cứu khoa học
- 31 Một số sản phẩm đặc biệt của nghiên cứu, như phát hiện, phát minh, sáng chế, là những khái niệm cần hiểu đúng trong giới nghiên cứu và trên các diễn đàn, bởi vì nó liên quan đến nhiều vấn đề không chỉ về KH&CN, mà cả nhiều vấn đề kinh tế, thương mại, pháp lý. Những giải thích về khái niệm phát hiện, phát minh, sáng chế được trình bày trong phần này được sử dụng theo các quy định trong Bộ Luật Dân sự của Việt Nam. Phát minh: Phát minh (tiếng Anh - Discovery, tiếng Pháp - Découverte, tiếng Nga -Otkrưtije) là sự phát hiện ra những quy luật, những tính chất hoặc những hiện tượng của thế giới vật chất tồn taị một cách khách quan mà trước đó chưa ai biết, nhờ đó làm thay đổi cơ bản nhận thức con người. Ví dụ: Archimède phát minh định luật sức nâng của nước; Lebedev phát minh tính chất áp suất của ánh sáng, Newton phát minh định luật vạn vật hấp dẫn, Nguyễn Văn Hiệu phát minh định luật bất biến tiết diện của các quá trình sinh hạt, v.v Phát minh là khám phá về quy luật khách quan, chưa có ý nghĩa áp dụng trực tiếp vào sản xuất hoặc đời sống. Vì vậy, phát minh không có giá trị thương mại, không quốc gia nào cấp patent cho các phát minh, trừ Liên Xô cũ cấp diplôm cho phát minh. Một số đồng nghiệp dịch patent là bằng phát minh sáng chế là sai. Phát minh không được bảo hộ pháp lý. Phát hiện: Phát hiện (tiếng Anh cũng là Discovery, tiếng Pháp là Découverte) là sự phát hiện ra những vật thể, những quy luật xã hội đang tồn tại một cách khách quan. Ví dụ: Kock phát hiện vi trùng lao, Marie Curie phát hiện nguyên tố phóng xạ radium, Colombo phát hiện Châu Mỹ, Marx phát hiện quy luật giá trị thặng dư, Adam Smith phát hiện quy luật “bàn tay vô hình’’ của kinh tế thị trường Phát hiện, cũng chỉ mới là sự khám phá các vật thể hoặc các quy luật xã hội, làm thay đổi nhận thức, chưa thể áp dụng trực tiếp, chỉ có thể được áp dụng thông qua các giải pháp. Vì vậy, phát hiện cũng không có giá trị thương mại, không cấp patent và không được bảo hộ pháp lý. Sáng chế: Sáng chế là loại thành tựu trong lĩnh vực KH&CN. Trong khoa học xã hội và nhân văn không có sản phẩm loại này, song các nhà khoa học xã hội luôn phải bàn đến sáng chế khi phân tích ý nghĩa kinh tế, pháp lý và xã hội của sáng chế. Sáng chế (tiếng Anh, tiếng Pháp – Invention, tiếng Nga – Izobretenije) là một giải pháp kỹ thuật mang tính mới về nguyên lý kỹ thuật, tính sáng tạo và áp dụng được. Ví dụ: máy hơi nước của James Watt, công thức nổ TNT của Nobel Vì sáng chế có khả năng áp dụng, nên nó có ý nghĩa thương mại, được cấp patent, có thể mua bán patent hoặc ký kết các hợp đồng cấp giấy phép sử dụng (hợp đồng licence) cho người có nhu cầu và được bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp. Trên Bảng 1.2 giới thiệu một số chỉ tiêu so sánh các phát hiện, phát minh và sáng chế. Bảng 1.2: So sánh phát hiện, phát minh, sáng chế Phát hiện Phát minh Sáng chế Bản chất Nhận ra vật thể, Nhận ra quy luật Tạo ra phương
- 32 ph−¬ng ph¸p luËn nghiªn cøu khoa häc chất, trường hoặc tự nhiên, quy luật tiện mới về quy luật xã hội toán học vốn tồn nguyên lý kỹ vốn tồn tại tại thuật, chưa từng tồn tại. Khả năng áp dụng Có Có Không để giải thích thế giới Khả năng áp dụng Không trực tiếp, Không trực tiếp, Có thể áp dụng vào sản xuất/đời mà phải qua các mà phải qua sáng trực tiếp hoặc phải sống giải pháp vận chế qua thử nghiệm dụng Giá trị thương mại Không Không Mua bán patent và licence Bảo hộ pháp lý Bảo hộ tác phẩm Bảo hộ tác phẩm Bảo hộ quyền sở viết về các phát viết về các phát hữu công nghiệp hiện và phát minh hiện và phát minh theo các đạo luật theo các đạo luật về quyền tác giả về quyền tác giả chứ không bảo hộ chứ không bảo hộ bản thân các phát bản thân các phát hiện và phát minh hiện và phát minh Tồn tại cùng lịch Có Có Tiêu vong theo sự sử tiến bộ công nghệ Sự hiểu biết và so sánh các khái niệm sáng chế, phát hiện, phát minh không chỉ quan trọng đối với người làm việc trong các ngành công nghệ, mà cũng rất quan trọng đối với những người làm việc trong các ngành khoa học xã hội và nhân văn, các luật gia, các thương gia, các nhà kinh tế và các nhà báo, vì nó quan hệ tới việc bảo hộ pháp lý về quyền sở hữu trí tuệ và các hoạt động kinh doanh trên các đối tượng này. 1.4. BÀI ĐỌC THÊM 1.4.1. Bài 1: Luật Khoa học và Công nghệ (Trích) [18] (Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, 2003) Điều 2: Giải thích từ ngữ Trong Luật này các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau: 1. Khoa học là hệ thống tri thức về các hiện tượng, sự vật, quy luật của tự nhiên, xã hội và tư duy; 2. Công nghệ là tập hợp các phương pháp, quy trình, kỹ năng, bí quyết, công cụ, phương tiện dùng để biến đổi các nguồn lực thành sản phẩm;
- 33 3. Hoạt động khoa học và công nghệ bao gồm NCKH, nghiên cứu và phát triển công nghệ, dịch vụ KH&CN, hoạt động phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất và các hoạt động khác nhằm phát triển KH&CN. 4. Nghiên cứu khoa học là hoạt động phát hiện, tìm hiểu các hiện tượng, sự vật, quy luật của tự nhiên, xã hội và tư duy; sáng tạo các giải pháp nhằm ứng dụng vào thực tiễn. NCKH bao gồ m nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng; 5. Phát triển công nghệ là hoạt động nhằm tạo ra và hoàn thiện công nghệ mới, sản phẩm mới. Phát triển công nghệ bao gồm Triển khai thực nghiệm và Sản xuất thử nghiệm. a. Triển khai thực nghiệm là hoạt động ứng dụng kết quả NCKH để làm thực nghiệm nhằm tạo ra công nghệ mới, sản phẩm mới; b. Sản xuất thử nghiệm là hoạt động ứng dụng kết quả triển khai thực nghiệm để sản xuất thử ở quy mô nhỏ nhằm hoàn thiện công nghệ mới, sản phẩm mới trước khi đưa vào sản xuất và đời sống; 6. Dịch vụ khoa học và công nghệ là các hoạt động phục vụ việc NCKH và phát triển công nghệ; các hoạt động liên quan đến sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ; các dịch vụ về thông tin, tư vấn, đào tạo, bồi dưỡng, phổ biến, ứng dụng tri thức KH&CN và kinh nghiệm thực tiễn. Điều 5: Nguyên tắc hoạt động khoa học và công nghệ Trong hoạt động KH&CN, phải bảo đảm các nguyên tắc sau đây: 1. Hoạt động KH&CN phải phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh; 2. Xây dựng và phát huy năng lực nội sinh về KH&CN kết hợp với việc tiếp thu có chọn lọc các thành tựu KH&CN của thế giới, phù hợp với thực tiễn Việt Nam; 3. Kết hợp chặt chẽ khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ với khoa học xã hội và nhân văn; gắn NCKH và phát triển công nghệ với giáo dục và đào tạo, với hoạt động sản xuất, kinh doanh và phát triển thị trường công nghệ; 4. Phát huy khả năng lao động sáng tạo của mọi tổ chức cá nhân; 5. Trung thực, khách quan, đề cao đạo đức nghề nghiệp, tự do sáng tạo, dân chủ, tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Điều 26. Quyền sở hữu, quyền tác giả đối với kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ. 1. Tổ chức, cá nhân đầu tư cho việc thực hiện nhiệm vụ KH&CN là chủ sở hữu kết quả NCKH và phát triển công nghệ; tổ chức, cá nhân trực tiếp thực hiện công trình KH&CN là tác giả của công trình đó, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác trong hợp đồng KH&CN. 2. Cơ quan quản lý nhà nước về KH&CN có thẩm quyền quyết định việc sử dụng, chuyển giao, chuyển nhượng kết quả NCKH và phát triển công nghệ có sử dụng ngân sách nhà nước.
- 34 ph−¬ng ph¸p luËn nghiªn cøu khoa häc 3. Chủ sở hữu kết quả NCKH và phát triển công nghệ không sử dụng ngân sách nhà nước được sử dụng, chuyển giao, chuyển nhượng kết quả đó theo quy định của pháp luật. 4. Tác giả của công trình KH&CN được hưởng các quyền theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật. 1.4.2. Bài 2: khoa học và công nghệ trong thế kỷ XXI (Trần Thanh Phương - Tạp chí KH-CN-MT tháng 11 năm 2005) Trong lịch sử phát triển của nhân loại, thế kỷ XXI có lẽ sẽ tiêu biểu nhất với sự tiếp tục của các cuộc cách mạng trong nhiều lĩnh vực KH&CN diễn ra từ cuối thế kỷ XX. Các cuộc cách mạng này đã làm cho lực lượng sản xuất thay đổi tận gốc và được xã hội hoá cao độ, khiến nền kinh tế thế giới phát triển, biến hoá cực kỳ mạnh mẽ, cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, với tốc độ và quy mô ngày càng lớn. Cách đây trên 10.000 năm, cuộc cách mạng thông tin lần thứ nhất được khởi phát bằng việc tạo ra tiếng nói; tiếp theo là cuộc cách mạng thông tin lần thứ hai được đánh dấu bằng việc tạo ra chữ viết; cuộc cách mạng thông tin lần thứ ba - phát minh ra nghề in; cuộc cách mạng thông tin lần thứ tư - phát minh ra điện tín, điện thoại, điện báo. Vào thế kỷ XXI, cuộc cách mạng thông tin lần thứ năm đang diễn ra hiện nay, với cốt lõi là cuộc cách mạng số hoá - đang tạo ra các siêu lộ cao tốc thông tin, mạng Internet thuộc thế hệ II và thế hệ mới có tốc độ nhanh hơn 1000 lần so với mạng Internet hiện nay, hệ thống thông tin di động thế hệ 3G và 4G, cùng với các hạ tầng cơ sở thông tin quốc gia, hạ tầng cơ sở thông tin khu vực và hạ tầng cơ sở thông tin toàn cầu. Dưới tên gọi khái quát chung là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba, cuộc cách mạng KH&CN hiện đại và cuộc cách mạng thông tin lần thứ năm, đã đưa nhân loại quá độ từ thời đại công nghiệp lên thời đại trí tuệ, được đặc trưng bởi nền kinh tế dựa trên tri thức (hay còn được gọi là nền Kinh tế tri thức, nền Kinh tế mạng, nền Kinh tế mới hay nền Kinh tế số). Trong thời đại trí tuệ, việc khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp của nền sản xuất xã hội đã đẩy những yếu tố phát triển truyền thống như tài nguyên thiên nhiên, lao động, xuống hàng thứ yếu. Thay vào đó, tri thức và thông tin đã được coi là yếu tố lợi thế so sánh hàng đầu. Trong quá trình hoán đổi vị trí này, những ngành công nghiệp nặng như sản xuất thép, ô tô, hoá chất, cao su, v.v đã nhường vai trò then chốt cho những ngành chế tạo có hàm lượng tri thức KH&CN cao như hàng không - vũ trụ, máy tính, viễn thông, điện tử dân dụng, dược phẩm và các thiết bị y tế, v.v Với cuộc cách mạng số trong lĩnh vực công nghệ thông tin, ngày càng xuất hiện nhiều ngành dịch vụ có hàm lượng trí tuệ và tri thức cao như tài chính, truyền thông và viễn thông, chăm sóc y tế, giáo dục và đào tạo, luật, kế toán, xử lý số liệu và giải trí, v.v Về mặt công nghệ và kinh tế - xã hội, tầm quan trọng của cuộc cách mạng công nghiệp mới này có thể còn cao hơn so với cuộc cách mạng về đường sắt, hay điện năng diễn ra ở thế kỷ trước, với tác dụng ngày càng sâu rộng, nhờ các mạng lưới
- 35 truyền thông, viễn thông đầy hiệu quả với hệ thống các mạng thông tin điện tử toàn cầu, rải dưới đáy đại dương, trên mặt đất hay đặt trong vũ trụ - tạo thành một hệ thống thần kinh đầu não của xã hội thông tin trên quy mô toàn cầu. Đồng thời, đây cũng là một biểu trưng nổi bật của KH&CN ở cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI. Nhờ KH&CN được phát triển với tốc độ cao hơn so với thế kỷ XX trước đây, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba này sẽ diễn ra nhanh hơn và đang làm thay đổi về căn bản cơ cấu kinh tế, phương thức tổ chức và sản xuất, cách tiếp cận của từng cá nhân, cộng đồng và các doanh nghiệp tới tri thức, giải trí, phương pháp làm việc, công tác nghiên cứu, sản xuất - kinh doanh và các mối quan hệ trong các khu vực kinh tế - xã hội, thông qua việc sáng tạo ra những giá trị mới và việc làm mới, những thị trường mới và những nghề nghiệp mới có tính thách thức đối với toàn thế giới. Trên quy mô toàn cầu, vào những thập niên đầu của thế kỷ XXI, với vô số thành tựu KH&CN mới nhất được tạo ra trong các ngành công nghệ cao - CNNN, CNTT, công nghệ vật liệu mới, công nghệ sinh học, công nghệ năng lượng mới, công nghệ vũ trụ, v.v (như kỹ thuật vi - điện tử, lade, bán dẫn, siêu dẫn, cáp quang, truyền thông và viễn thông hiện đại, siêu máy tính, trí tuệ nhân tạo, kỹ thuật ADN, rôbốt công nghiệp, mạng internet, ), lực lượng sản xuất đã thực sự có bước phát triển nhảy vọt và đạt tới một trình độ chưa từng có trong lịch sử phát triển của nhân loại, góp phần đưa nhanh quá trình quốc tế hoá nền sản xuất xã hội của mọi quốc gia trên thế giới lên một mức mới nữa về chất và chuyển thành một xu thế mới - đó là xu thế toàn cầu hoá và phi địa phương hoá. Trong đó, tất cả các loại hàng hoá dịch vụ, các nguồn nhân lực, vật lực, tài lực, cùng với những yếu tố của nền sản xuất đang luân chuyển và vận động xuyên qua các đường biên giới của mọi quốc gia, khu vực. Đặc điểm nổi bật của giai đoạn phát triển KH&CN hiện nay là tính liên tục của các làn sóng đổi mới công nghệ, cũng như tính phức hợp đồng bộ của các đổi mới ngày càng bao trùm và thâm nhập mọi thành phần và yếu tố cơ bản của lực lượng sản xuất. Mặt khác, nhờ những đột phá lớn trong CNTT và viễn thông hiện đại ở cuối thế kỷ 20, mà bức tường rào không gian - thời gian bị xoá bỏ, khiến cho các đường biên giới quốc gia và khu vực không còn nhiều ý nghĩa trên phương diện địa lý - chính trị như trước đây. Nhờ cuộc cách mạng thông tin và viễn thông, mà tất cả các khu vực đời sống kinh tế và văn hoá - xã hội đã có sự thay đổi to lớn dựa trên: 1. Sự cất cánh của nền kinh tế ảo với các hoạt động phi vật chất - các hoạt động của doanh nghiệp, nghiên cứu - phát triển, thương mại hoá, thiết kế và sản xuất đã thay đổi căn bản. Do quá trình quốc tế hoá sản xuất, xuất hiện các xí nghiệp ảo và cạnh tranh quốc tế diễn ra nhanh chóng và khốc liệt, cũng như khả năng linh hoạt về thời gian lao động và của bản thân lao động nên trong 10 năm tới đây, có thể dự báo được khả năng quy hoạch lại trên toàn lãnh thổ quốc gia hay toàn cầu đối với việc tổ chức các doanh nghiệp.
- 36 ph−¬ng ph¸p luËn nghiªn cøu khoa häc 2. Sự triển khai những việc làm mới và làm việc từ xa sử dụng các kỹ thuật và CNTT, viễn thông, kỹ thuật nghe nhìn đã cho phép các doanh nghiệp có thể bố trí được các hoạt động của mình tại những nơi có nhiều mối quan tâm (làm việc từ xa). Trong tiêu dùng, sự bùng nổ của các mạng lưới đa dịch vụ thông tin cũng như về hậu cần đã cung cấp tới tận nhà tất cả những dịch vụ nhằm đảm bảo đầy đủ những nhu cầu vật chất (tủ lạnh, lò vi sóng, máy giặt, thực phẩm, thức ăn chuẩn bị sẵn, ) và tinh thần cho sinh hoạt gia đình (như chữa bệnh, sửa chữa máy móc, đặt vé máy bay, đặt chỗ khách sạn trong nước và quốc tế, ) đã giảm nhiều thời gian cho công việc nội trợ và dành nhiều thời gian hơn cho giáo dục con cái, tự học, giải trí, thể dục - thể thao, các sinh hoạt xã hội và sinh hoạt tâm linh, làm phong phú thêm đời sống văn hoá cho con người. Vào đầu thế kỷ XXI, nhân loại đang tiến dần vào kỷ nguyên thông tin. Kỷ nguyên này, theo các nhà khoa học, sẽ vào quãng năm 2010 - 2015. Như vậy, nhờ sự phát triển vũ bão của KH&CN, với các ngành công nghệ cao làm then chốt, việc thực hiện bước quá độ lên xã hội thông tin, trên thực tế chỉ diễn ra trong một khoảng thời gian cực kỳ ngắn ngủi là khoảng 30 năm, so với quãng đường gần 300 năm để tiến lên xã hội công nghiệp. Đồng thời, bước quá độ to lớn "vô tiền, khoáng hậu" sang nền kinh tế tri thức đang diễn ra hiện nay ở khắp các châu lục trên thế giới, đã và đang tạo ra nhiều xung lực và động lực mạnh mẽ cho trào lưu toàn cầu hoá, thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế toàn cầu, cũng như quá trình khu vực hoá diễn ra với gia tốc ngày một lớn. Trong quá trình đó, việc dành ưu tiên phát triển KH&CN, cũng như nâng cao hiệu quả của KH&CN và tận dụng những ưu thế lớn nhất của chúng để phục vụ phát triển kinh tế - xã hội ngày nay đã trở thành nhiệm vụ then chốt và hết sức cấp bách đối với mọi quốc gia và khu vực trên thế giới. Trong thế kỷ XXI, KH&CN vẫn tiếp tục là một trong những động lực phát triển của tất cả các nước trên thế giới. Mặc dù chưa thể dự đoán được một cách chính xác tương lai, nhưng việc xem xét những xu thế và triển vọng phát triển KH&CN hiện nay, sẽ góp phần nắm bắt được những sự vận động và sự tiến bộ đang diễn ra trong các lĩnh vực của đời sống xã hội hiện nay và tới đây trên thế giới. CNTT CNSH Bits Gens KIẾN TRÚC THẾ KỶ 21 Atoms Neuron INTERNET CNNN
- 37 Hình 1.2. Những xu thế và triển vọng phát triển khoa học và công nghệ hiện nay Theo James Canton, Chủ tịch và đồng thời là Giám đốc điều hành về thông tin của Viện tương lai toàn cầu (Mỹ), thì kiến trúc của thế kỷ XXI chủ yếu dựa trên sự hội tụ của các ngành công nghệ cao là công nghệ sinh học, CNNN, CNTT và một số ngành mũi nhọn khác, v.v (xem Hình 1.2). Kiến trúc của thế kỷ XXI dựa trên sự hội tụ của các ngành công nghệ cao. Trong một Báo cáo dưới tên gọi "Các công nghệ hội tụ cho việc nâng cao hiệu suất của con người", do Quỹ Khoa học Quốc gia Mỹ và Bộ Thương mại Mỹ công bố tháng 6/2002, khi đề cập tới sự hội tụ của các ngành công nghệ cao là CNNN, CNSH, CNTT và khoa học về nhận thức, các nhà khoa học Mỹ đã tuyên bố rằng "Trong khi nền KH&CN Mỹ làm lợi cho toàn thế giới, thì điều sống còn là phải nhận thức được rằng việc vượt trội về công nghệ là nền tảng cơ bản của sự phồn vinh kinh tế và an ninh quốc gia của Mỹ". Tương tự, Bộ Quốc phòng của Anh, sau khi đánh giá những xu thế KH&CN chiến lược tới tầm các năm 2025 - 2030, đã kết luận rằng "Cho tới năm 2030, nếu đầu tư mạnh vào các hệ thống giáo dục, cơ sở hạ tầng thương mại và giữ vững uy danh công nghệ đã từng có trước đây, thì các nước phát triển vẫn tiếp tục duy trì được vị trí bá chủ của mình trong lĩnh vực đổi mới KH&CN". Để duy trì sức mạnh cạnh tranh đó, các nước phát triển hiện nay đều tập trung vào những ngành công nghệ "hội tụ". Về thực chất, đây đều là những ngành công nghệ cao đã nêu ở trên, như CNSH, CNNN, CNTT, nhất là các hệ thống điện toán. Hầu như mọi nước phát triển đều đầu tư thích đáng vào các lĩnh vực đó nhằm chiếm lĩnh những vị trí quan trọng trong các lĩnh vực công nghệ cao này. 1.4.3. Bài 3: Khoa học về sự sáng tạo [16] (Nguyễn Văn Lê, 2001) • Hiện nay, trên đất nước ta, hàng ngày hàng giờ đang xuất hiện những cách giải quyết mới về quản lý sản xuất, đang nẩy nở những sáng kiến cải tiến qui trình công nghệ, cải tiến cách làm việc, những phát minh về khoa học kỹ thuật làm xuất hiện những giống mới, những máy mới, cho phép tăng năng suất lao động, những tác phẩm văn học nghệ thuật mới có sức cải tạo xã hội mạnh hơn. Do đâu mà có sự sáng tạo đó? Những con người sáng tạo đã có những gì đặc biệt, khiến cho họ khác những con người bình thường? Đó là vấn đề đặt ra cho khoa học nghiên cứu về sự sáng tạo của bộ óc. • Đã từ lâu, các nhà nghiên cứu muốn đi sâu tìm hiểu vấn đề đó, tức là tìm hiểu bản chất của sự sáng tạo, sự phát minh. Các phát minh đã xảy ra khi nào, ở hoàn cảnh nào, và như thế nào? Vấn đề đó đã hấp dẫn nhiều người. Newton nhìn quả táo rơi và phát minh ra định luật về sự hấp dẫn vũ trụ. Archimède dìm mình trong bể nước và tìm ra định luật vật lý quan trọng mang tên ông. Watt nhìn những luồng hơi bốc lên từ nắp một cái ấm trà và phát kiến ra động cơ hơi nước Bản chất của những hiện tượng đó là ở đâu? Để giải quyết vấn đề đó, nhiều nhà tâm lý học đã cố gắng mô tả, những tình huống trong đó những người lao động chân tay và trí óc ưu tú sáng tạo. Những ý nghĩ hay này nảy sinh trong bể tắm, những ý nghĩ khác, trên tầu hoả hay trên xe hơi, nhưng ý nghĩ khác nữa, khi mặc quần áo, cạo râu, làm vườn, câu cá, đánh bài, nghe
- 38 ph−¬ng ph¸p luËn nghiªn cøu khoa häc hoà nhạc trên bãi biển, khi đọc sách, khi đi dạo chơi, hay lúc nghỉ trưa, trong chăn lúc ngủ, buổi sáng sau khi thức giấc, hay nửa đêm 1. Sự mô tả về những tình huống đa dạng nói trên trước hết cho ta một ý nghĩ rằng trong thực tế không có một thời gian nào trong ngày mà những con người có đầu óc sáng tạo lại không có thể nảy ra ý kiến về cách giải quyết nhiệm vụ phức tạp mà trước đó không giải quyết được. Thường con người ta khi tìm ra được một cách giải quyết mới, một cấu trúc mới, hay một quy luật mới, thì lại coi đó như là một khám phá ngẫu nhiên, một “món” quà bất ngờ và may mắn. Ngày nay, khoa sinh lý học về lao động trí óc đã nói đến “qui luật quán tính của tư duy”, nghĩa là khi nhà khoa học đang quan tâm theo đuổi một ý nghĩ nào đó thì “luồng tư tưởng” có xu hướng tiếp diễn trong thời gian và không gian và đó là một qui luật của sự sáng tạo. 2. Trong bữa tiệc mừng ông 70 tuổi, Hemhon, một nhà vật lí nói về quá trình sáng tạo của ông như sau: “Theo tôi nhớ rõ, thì những ý nghĩ hay không bao giờ đến trên bàn viết khi óc đã mệt”. Và ông còn khẳng định sự thật sau đây: bao giờ cũng cần phải nghiên cứu trước một cách toàn diện vấn đề tới một mức độ để giữ lại được trong óc mình những góc cạnh sắc, những khía cạnh phức tạp, để có thể trở lại với chúng một cách tự do, thoải mái mà không cần ghi chép. Thường nếu không có sự nghiên cứu trước một cách lâu dài, bền bỉ thì không thể đưa vấn đề đến tình trạng đó được. Sau đó, khi sự mỏi mệt do quá trình lao động đó qua đi, khi ta có một trạng thái hoàn toàn trong sạch về thể chất, nhẹ nhõm về tinh thần, thì lúc đó những ý nghĩ hay sẽ đến. Thường chúng đến vào các buổi sáng khi ta vừa tỉnh dậy, giống như điều mà Goeth đã nói trong các bài thơ của ông, và đúng như đã có lần Gaus cũng nói, các ý nghĩ hay “ưa’’ xuất hiện trong thời gian đi dạo nhẹ nhàng trong thời tiết có ánh mặt trời. Chỉ cần một ly rượu nhỏ là có thể làm mất hết những ý nghĩ đó. 3. Newton nói: “Thiên tài là lao động” (La génie, c’estle travail). Ông nói đến một quá trình lao động kiên trì và bền bỉ, bao gồm việc tích luỹ tri thức về vấn đề nghiên cứu, việc khắc phục lần lượt các khó khăn để thực hiện các thí nghiệm. Câu nói của Newton đã được hai nhà khoa học Pierre Curie và Marie Curie chứng minh trong lịch sử phát minh ra nguyên tố Radium của họ. 4. Nhiều nhà khoa học đã nhấn mạnh đến phương pháp. Theo họ, phương pháp là điều kiện đầu tiên, điều kiện cơ bản nhất. Tất cả tính nghiên túc của nghiên cứu phụ thuộc vào phương pháp, cách thức hoạt động. Tất cả sự nghiệp nằm ở phương pháp tốt. Phương pháp nắm trong tay vận mệnh của công trình nghiên cứu. Nhờ có phương pháp làm việc khoa học, nhà nghiên cứu mới thu được một cách đầy đủ và chính xác các sự kiện. Các sự kiện, đó là không khí của nhà khoa học. Không có chúng thì sẽ không có khoa học, nhà khoa học phải có các phương pháp tốt để thu thập và xử lý chúng. Nhiều nhà khoa học nói họ đã đưa ra nhiều khám phá chỉ bằng cách quan sát cẩn thận.
- 39 Galile khám phá những “mặt trăng’’ của sao Mộc theo cách này. Có thể bạn biết loài kiến sống và làm việc với nhau như thế nào. Đấy là một ví dụ khác về những điều các nhà khoa học đã tìm ra bằng cách nhìn và quan sát cẩn thận. Ngày nay, có nhà khoa học đang thực hiện việc tổ chức lao động của các ROBOT dựa theo cách tổ chức lao động và xã hội của loài kiến. Còn Claude Bernard thì nhấn mạnh đến phương pháp thí nghiệm và sự dũng cảm khoa học. Theo ông, nhà khoa học phải sẵn sàng thay đổi định kiến của mình. Nếu một thí nghiệm không có kết quả theo cách anh mong muốn nó như vậy, anh phải sẵn sàng nói: “Có thể ý nghĩ của tôi đã nhầm. Tôi sẽ bắt đầu trở lại”. 5. Phải có phương tiện (những dụng cụ thích hợp) để làm việc. Ngay cả những nhà khoa học giỏi cũng phải có những dụng cụ để sử dụng. Galileo đã không thể nhìn thấy những Mặt trăng của sao Mộc nếu không có kính viễn vọng. Pasteur đã không thể thực hiện được công trình của mình nếu không có kính hiển vi. Ông bà Curie cũng phải có những dụng cụ để đo lường và thử nghiệm. Nhiều khám phá nổi tiếng đã có thể không bao giờ thực hiện được nếu như các nhà khoa học đã không có những dụng cụ để làm việc. 6. Nhiệt tình hay lòng hăng say nghiên cứu. Công tác NCKH là quá trình sáng tạo rất công phu và phức tạp, đòi hỏi thường xuyên phải có “lòng hăng say cao độ”, có nhiệt tình công tác. Nếu công tác nghiên cứu ta làm với tinh thần thờ ơ lãnh đạm thì nó sẽ trở thành công việc rất thủ công và sẽ không bao giờ đưa lại một cái gì có thực chất cả. Không phải ngẫu nhiên mà người ta so sánh sự sáng tạo trong khoa học với những chiến công. Cũng như chiến công, nó đòi hỏi toàn bộ năng lực sáng tạo ở con người phải hoạt động căng thẳng tối đa. Viện sĩ Ferman nói: “Trong cuộc đấu tranh để giành lấy những bí mật và sức mạnh của thiên nhiên có chứa đựng phần hạnh phúc của nhà khoa học, có cuộc đời, niềm vui, nỗi đau khổ, sự lôi cuốn, lòng say mê và nhiệt tình nóng bỏng của anh ta. Nếu như ở người cán bộ NCKH không có lòng say mê ấy, nếu anh ta làm việc theo lối “sáng vác ô đi, tối vác ô về”, nếu anh ta không run lên khi tiến hành những lần cân đo, những con tính cuối cùng, thì anh ta không phải là nhà khoa học chân chính”. Lênin đã nhấn mạnh rằng nếu thiếu “sự xúc động của con người” thì con người không thể và sẽ không bao giờ có thể tìm thấy chân lý. 7. Biết làm việc một cách khoa học. Nhà tổ chức khoa học lao động trí óc Védenski nói: “Ta bị mệt mỏi không phải chỉ do làm việc nhiều, mà còn do làm việc tồi”. Ông đề nghị các nhà khoa học áp dụng 6 điểm sau đây: - Bắt tay vào làm việc phải từ từ, làm việc nhịp nhàng không hấp tấp; - Phải làm việc theo trình tự, hết giai đoạn này đến giai đoạn khác, làm việc có hệ thống; - Phải có chế độ luân phiên thích đáng giữa làm việc và nghỉ ngơi; - Kết hợp lao động chân tay với lao động trí óc;
- 40 ph−¬ng ph¸p luËn nghiªn cøu khoa häc - Thường xuyên và đều đặn rèn luyện về chuyên môn; - Cần có sự ủng hộ của xã hội đối với lao động sáng tạo của con người lao động. 8. Cần có sự ủng hộ của xã hội. Gia đình là một môi trường xã hội trực tiếp có ảnh hưởng đến tâm lý trong lao động trí óc. Ngoài sự hoà thuận, sự ấm cúng, còn cần có sự quan tâm, động viên, sự tạo điều kiện tốt cho lao động trí óc. Đối với mỗi người lao động trí óc, trong nhà cần có một góc yên tĩnh để có thể đọc viết và suy nghĩ dễ dàng. Câu hỏi cuối chương 1- Khái niệm về KH, CN và NCKH? Phân loại NCKH và đặc điểm cơ bản của NCKH là gì? 2- Phân biệt các khái niệm: phát hiện, phát minh và sáng chế về thuộc tính bản chất, ý nghĩa thương mại, bảo hộ pháp lý, khả năng áp dụng trực tiếp vào sản xuất và vai trò lịch sử? Trong các thành tựu dau đây, hãy chỉ rõ đâu là phát hiện, phát minh và sáng chế: a- Điện thoại di động 3 G: phát hiện/phát minh/sáng chế b- Học thuyết di truyền: phát hiện/phát minh/sáng chế c- Gien di truyền: phát hiện/phát minh/sáng chế d- Công nghệ di truyền: phát hiện/phát minh/sáng chế 3- Trình tự logic của NCKH là gì? Trong các bước trên, bước nào quan trọng nhất? Tại sao? 4- "Những phát minh sáng chế phải được bảo vệ có hiệu quả bản quyền của tác giả" (Tạp chí Hoạt động KH, số 9, năm 1986, trang 32) Anh/Chị hãy phân tích các lỗi quan trọng của câu văn trên?
- 41 Chương 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC (Suy nghĩ, suy nghĩ, suy nghĩ nữa) Albert Einstein Phương pháp nghiên cứu khoa học là phạm trù trung tâm của phương pháp nghiên cứu; là điều kiện đầu tiên, cơ bản nhất của nghiên cứu khoa học. Tất cả tính nghiêm túc của NCKH phụ thuộc vào phương pháp. Phương pháp nắm trong tay vận mệnh của cả công trình nghiên cứu. Phương pháp đúng, phù hợp là nhân tố đảm bảo cho sự thành công của người nghiên cứu và là điều kiện cơ bản quyết định để hoàn thành thắng lợi công trình nghiên cứu. Kết quả giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài phụ thuộc vào phương pháp luận, phương pháp hệ mà trực tiếp vào các phương pháp nghiên cứu cụ thể được tổ chức và thực hiện một cách nghiêm túc và khoa học. Do đó, đòi hỏi người nghiên cứu cần tiếp cận đúng đắn với đối tượng, biết tìm, chọn, sử dụng các phương pháp nghiên cứu thích hợp, hiệu nghiệm. 2.1. KHÁI NIỆM VỀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 2.1.1. Phương pháp nghiên cứu khoa học là gì? Dưới góc độ thông tin: Phương pháp nghiên cứu khoa học là cách thức, con đường, phương tiện thu thập, xử lý thông tin khoa học (số liệu, sự kiện) nhằm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu để giải quyết nhiệm vụ nghiên cứu và cuối cùng đạt được mục đích nghiên cứu. Nói cách khác: Phương pháp nghiên cứu khoa học là những phương thức thiết lập và xử lý thông tin khoa học nhằm mục đích thiết lập những mối liên hệ phụ thuộc có tính quy luật và xây dựng lý luận khoa học mới. Dưới góc độ hoạt động: Phương pháp nghiên cứu khoa học là hoạt động có đối tượng, chủ thể (người nghiên cứu) sử dụng những thủ thuật, biện pháp, thao tác tác động, khám phá đối tượng nghiên cứu nhằm biến đổi đối tượng theo mục tiêu mà chủ thể tự giác đặt ra để thoả mãn nhu cầu nghiên cứu của bản thân. Phương pháp nghiên cứu khoa học là tích hợp của các phương pháp: phương pháp luận, phương pháp hệ, phương pháp nghiên cứu cụ thể và tuân theo quy luật đặc thù của việc nghiên cứu đề tài khoa học [17] (Lưu Xuân Mới, 2003). 1. Phương pháp luận (Methodology) Phương pháp luận là lý thuyết về phương pháp nhận thức khoa học thế giới tổng thể, các thủ thuật nghiên cứu hiện thực (nghĩa rộng); là lý luận tổng quát, là những quan điểm chung, là cách tiếp cận đối tượng nghiên cứu (nghĩa hẹp). Những quan điểm phương pháp luận đúng đắn là kim chỉ nam hướng dẫn người nghiên cứu trên con đường tìm tòi, nghiên cứu; phương pháp luận đóng vai trò chủ đạo, dẫn đường và có ý nghĩa thành bại trong nghiên cứu khoa học. 2. Phương pháp hệ (Methodica)
- 42 ph−¬ng ph¸p luËn nghiªn cøu khoa häc Phương pháp hệ là nhóm các phương pháp được sử dụng phối hợp trong một lĩnh vực khoa học hay một đề tài cụ thể; là hệ thống các thủ thuật hoặc biện pháp để thực hiện có trình tự, có hiệu quả một công trình nghiên cứu khoa học. Sử dụng phối hợp các phương pháp là cách tốt nhất để phát huy điểm mạnh và khắc phục chỗ yếu của từng phương pháp. Đồng thời chúng hỗ trợ, bổ sung, kiểm tra lẫn nhau trong quá trình nghiên cứu và để khẳng định tính xác thực của luận điểm khoa học. 3. Phương pháp nghiên cứu cụ thể (Research method) Phương pháp nghiên cứu cụ thể là tổ hợp các cách thức, các thao tác mà người nghiên cứu sử dụng để tác động, khám phá đối tượng, để thu tập và xử lý thông tin nhằm xem xét và lý giải đúng đắn vấn đề nghiên cứu. Phương pháp nghiên cứu gắn chặt với nội dung của các vấn đề nghiên cứu. Vì vậy, người nghiên cứu cần tìm tòi, chọn và sử dụng các Phương pháp nghiên cứu phù hợp với đặc điểm đối tượng, mục đích, nhiệm vụ, nội dung nghiên cứu. 2.1.2. Các đặc trưng cơ bản của phương pháp nghiên cứu khoa học 1. Phương pháp nghiên cứu khoa học có mặt chủ quan và khách quan thể hiện sự tương tác biện chứng giữa chủ thể và khách thể trong hoạt động nghiên cứu khoa học. Mặt chủ quan gắn liền với chủ thể nghiên cứu. Đó chính là đặc điểm, trình độ, năng lực nhận thức, kinh nghiệm hoạt động sáng tạo, khả năng thực hành của chủ thể, thể hiện trong việc ý thức được các quy luật vận động của đối tượng và sử dụng chúng để khám phá chính đối tượng và kết quả đạt được sẽ phù hợp với khả năng chủ quan ấy. Mặt khách quan gắn liền với đối tượng nghiên cứu, phản ánh đặc điểm của đối tượng và quy luật khách quan chi phối đối tượng mà chủ thể nghiên cứu phải ý thức được. Nhờ các quy luật khách quan mà người nghiên cứu lựa chọn cách này, cách khác trong hoạt động nghiên cứu, tức là phát hiện ra phương pháp. Sự tương tác hợp quy luật giữa mặt chủ quan (thuộc về chủ thể) và khách quan (thuộc về đối tượng) trong hoạt động nghiên cứu khoa học tạo ra Phương pháp nghiên cứu khoa học hiệu nghiệm. Chủ thể Đối tượng (chủ quan) (khách quan) Hình 2.1: Sự tương tác giữa mặt chủ quan và khách quan trong NCKH Trong nghiên cứu khoa học cái chủ quan phải tuân thủ cái khách quan. Vì vậy chủ thể phải hiểu biết chân thực về đối tượng để trên cơ sở đó tìm ra được những thao tác đúng đắn với đối tượng và hành động chủ quan theo đúng quy luật đó.
- 43 2. Phương pháp nghiên cứu khoa học có tính mục đích, gắn liền với nội dung; chịu sự chi phối của mục đích và nội dung; bản thân phương pháp có chức năng phương tiện để thực hiện mục đích và nội dung. Tính mục đích của phương pháp là nét đặc trưng cơ bản nổi bật nhất của nó. Mục đích nào, phương pháp ấy; mục đích chỉ đạo việc tìm tòi và lựa chọn phương pháp nghiên cứu. Muốn cho phương pháp nghiên cứu được hiệu nghiệm, hoạt động thành công cần đảm bảo được hai điều: Xác định mục đích và tìm được phương pháp thích hợp với mục đích. Nội dung nào, phương pháp ấy. Sự thống nhất của nội dung và phương pháp thể hiện ở lôgíc phát triển của bản thân đối tượng nghiên cứu. Đúng như Heghen đã khẳng định: phương pháp là ý thức về hình thức của sự tự vận động bên trong của nội dung. Mối quan hệ của mục đích, nội dung, phương pháp nghiên cứu được diễn ra theo quy luật: mục đích (M) và nội dung (N) quy định phương pháp (P); còn phương pháp là phương tiện thực hiện nội dung để đạt mục đích. M N P Hình 2.2. Mối quan hệ giữa mục đích, nội dung, phương pháp trong NCKH Trong nghiên cứu khoa học người nghiên cứu cần tìm, chọn được phương pháp phù hợp và thống nhất với mục đích và nội dung, tức là bảo đảm nhất quán sự thống nhất biện chứng của mục đích, nội dung và phương pháp nghiên cứu khoa học. 3. Phương pháp nghiên cứu khoa học là một hoạt động có kế hoạch, được tổ chức hợp lý, có cấu trúc đa cấp biểu hiện ở tính lôgíc và tính kế hoạch rõ ràng. Phương pháp nghiên cứu khoa học là một hoạt động có kế hoạch được tổ chức một cách hợp lý: hoạt động (có mục đích chung: M) gồm nhiều hành động A1 An (có mục đích riêng – chính là mục tiêu: MA1 MAn); mỗi hành động lại gồm nhiều thao tác: tl tn (thao tác không có mục đích). Hình 2.3. Cấu trúc đa cấp của PPNCKH trong một hoạt động. Để đạt mục đích chung, người nghiên cứu phải thực hiện một loạt các hành động với những hệ thống lôgíc chặt chẽ được sắp xếp theo một trình tự xác định và có kế hoạch rõ ràng (được gọi là Algorithm của phương pháp).
- 44 ph−¬ng ph¸p luËn nghiªn cøu khoa häc Trong nghiên cứu khoa học, người nghiên cứu cần đề ra kế hoạch và thi công đúng đắn, thành thạo cấu trúc công nghệ của phương pháp (Algorithm của phương pháp). Nói cách khác: người nghiên cứu biết tổ chức hợp lý cấu trúc bên trong của phương pháp và triển khai quy trình đó một cách tinh thông. Đây là mặt kỹ thuật của phương pháp nghiên cứu. 4. Phương pháp nghiên cứu khoa học luôn cần có các công cụ, các phương tiện kĩ thuật hỗ trợ. Tuỳ theo yêu cầu của phương pháp nghiên cứu mà chọn các phương tiện phù hợp, đôi khi phải tạo ra các công cụ đặc biệt để nghiên cứu đối tượng. Phương tiện kỹ thuật hiện đại tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các phương pháp nghiên cứu và đảm bảo cho quá trình nghiên cứu đạt tới trình độ chính xác và độ tin cậy cao. 2.1.3. Phân lọai phương pháp nghiên cứu khoa học Các phương pháp nghiên cứu khoa học rất phong phú và đa dạng. Sự phân loại hợp lý các PPNCKH là cơ sở khoa học cho việc tìm, chọn, vận dụng và sáng tạo phong phú của người nghiên cứu [3] (Hugh G. Gauch, Jr., 2002), [7] (E. Bright Wilson, Jr., 1991). Trong thực tế, có nhiều cách phân loại phương pháp nghiên cứu khoa học dựa trên những dấu hiệu khác nhau: 1. Phân loại dựa theo lý thuyết thông tin về quy trình nghiên cứu một đề tài khoa học chia thành ba nhóm: - Nhóm phương pháp thu thập thông tin; - Nhóm phương pháp xử lý thông tin; - Nhóm phương pháp trình bầy thông tin. 2. Phân loại dựa theo tính chất và trình độ nhận thức chia thành hai nhóm: - Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết; - Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn; Ngoài ra, người ta còn bổ sung vào cách phân loại này nhóm phương pháp toán học. 3. Phân loại theo lôgíc của nghiên cứu khoa học (theo vòng khâu trọn vẹn của hoạt động hay công việc của người nghiên cứu), có thể chia phương pháp nghiên cứu khoa học thành 8 nhóm phương pháp: (1) Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết. (2) Nhóm phương pháp lập kế hoạch nghiên cứu. (3) Nhóm phương pháp tổ chức nghiên cứu. (4) Nhóm phương pháp thu thập thông tin. (5) Nhóm phương pháp xử lý số liệu. (6) Nhóm phương pháp lý giải các số liệu. (7) Nhóm phương pháp kiểm tra trong thực tiễn. (8) Nhóm phương pháp liên hệ giả thuyết với các phương thức nghiên cứu. 4. Phân loại theo các giai đoạn tiến hành nghiên cứu một đề tài khoa học
- 45 (1). Giai đoạn chuẩn bị gồm các phương pháp: - PPNC lý thuyết (nghiên cứu tài liệu, sách báo). - Phương pháp tìm hiểu bước đầu về đối tượng (gồm các phương pháp: quan sát, trò chuyện, bảng câu hỏi v.v ) Kết thúc giai đoạn đầu tiên này cần đạt được những yêu cầu: đặt trước được cơ sở lý lụân của đề tài, hình thành những giả thuyết cơ bản, xác định rõ đối tượng và dự đoán về các thuộc tính của đối tượng nghiên cứu, xây dựng mô hình lý thuyết ban đầu và những luận điểm xuất phát để xây dựng những phương pháp nghiên cứu cụ thể của đề tài. (2). Giai đoạn xây dựng phương pháp nghiên cứu gồm: a) Phương pháp tổ chức nghiên cứu (có tính quyết định) - đó là những phương pháp xác định chiến lược và phương hướng nghiên cứu ở tất cả các giai đoạn và cả quá trình nghiên cứu. Theo tiến sĩ B.B.Ananhev thì có thể chia việc tổ chức nghiên cứu thành 3 nhóm phương pháp [17] (Lưu Xuân Mới, 2003): - Phương pháp bổ dọc: là phương pháp tổ chức nghiên cứu trong suốt thời gian dài, liên tục trên cùng một đối tượng, cho phép chuẩn đoán chính xác hơn về sự phát triển của đối tượng. Tuy nhiên có hạn chế là không thể một lúc quan sát, theo dõi được một nhóm lớn những đối tượng được thực nghiệm. - Phương pháp cắt ngang (so sánh): là phương pháp nghiên cứu một cách song song và đồng thời trên nhiều đối tượng khác nhau (cùng nghiên cứu một hiện tượng, quá trình nào đó trên nhiều đối tượng khác nhau để so sánh, đối chứng và kết luận). - Phương pháp phức hợp: là phương pháp tổ chức nghiên cứu với sự tham gia của các nhà khoa học hoặc chuyên gia thuộc nhiều ngành khoa học khác nhau. Phương pháp phức hợp chủ yếu nghiên cứu mối quan hệ cấu trúc - chức năng của một đối tượng trọn vẹn, hướng vào xây dựng một quy trình nghiên cứu có tính chất trọn vẹn của đối tượng và hiện tượng được nghiên cứu. b) Các phương pháp cơ bản để thu thập tài liệu thực tế được lựa chọn. c) Các phương pháp, phương tiện thực nghiệm cần thiết cũng được chuẩn bị. (3) Giai đoạn thu thập thông tin - tài liệu: là giai đoạn cơ bản gồm các phương pháp tìm kiếm, thu thập các sự kiện khoa học (bao gồm các phương pháp: nghiên cứu lịch sử, quan sát khách quan, thực nghiệm, nghiên cứu các sản phẩm hoạt động lý luận và thực tiễn, phương pháp mô hình hoá, điều tra và chuẩn đoán, vv ). (4) Giai đoạn phân tích, xử lý tài liệu: là giai đoạn lý giải và trình bày kết quả nghiên cứu (phân tích cả số lượng, chất lượng). Phải xây dựng phương pháp mới hay lặp lại thực nghiệm bao gồm các phương pháp: a) Các phương pháp xử lý tài liệu (phương pháp thống kê số lượng (định lượng) và phân tích chất lượng (định tính)), đó là các phương pháp thống kê toán học, phân loại, kỹ thuật vi xử lý, v.v b) Các phương pháp lý giải các số liệu: giúp cắt nghĩa những tài liệu thu thập được, nó cung cấp phương pháp khái quát hoá, giải thích sự kiện và mối quan hệ giữa
- 46 ph−¬ng ph¸p luËn nghiªn cøu khoa häc chúng (bao gồm các phương pháp: mô hình hoá, sơ đồ (graph) ). Có thể chia thành 2 loại phương pháp lý giải: - Phương pháp phát sinh: là phương pháp lý giải theo quan điểm các mối liên hệ phát sinh. - Phương pháp cấu trúc: là phương pháp lý giải bằng cách phân tích các mối liên hệ qua lại giữa cái bộ phận, cái toàn bộ. (5) Giai đoạn kiểm tra kết quả nghiên cứu trong thực tiễn: bao gồm các phương pháp kiểm tra kết quả nghiên cứu qua việc ứng dụng có hiệu quả hay không vào thực tiễn và chỉ dẫn ứng dụng. 2.2. CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC THÔNG DỤNG 2.2.1. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn là các phương pháp trực tiếp tác động vào đối tượng có trong thực tiễn để làm bộc lộ bản chất và các quy luật vận động của các đối tượng ấy. Nhóm này có các phương pháp cụ thể sau đây [21] (Phạm Viết Vượng, 2004): 1. Phương pháp quan sát khoa học Quan sát khoa học là phương pháp tri giác đối tượng một cách có hệ thống để thu thập thông tin về đối tượng. Đây là một hình thức quan trọng của nhận thức kinh nghiệm thông tin, nhờ quan sát mà ta có thông tin về đối tượng, trên cơ sở đó mà tiến hành các bước tìm tòi và khám phá tiếp theo. Quan sát là một hoạt động được tổ chức đặc biệt, có mục đích, có kế hoạch, có phương tiện để tri giác các đối tượng được lựa chọn điển hình. Mục đích quan sát là tìm các dấu hiệu đặc trưng hay những quy luật vận động và phát triển của đối tượng. Quan sát khoa học được tiến hành trong thời gian dài hay ngắn, không gian rộng hay hẹp, đối tượng nhiều hay ít tuỳ thuộc vào mục đích nghiên cứu của các đề tài. Các tài liệu quan sát qua xử lý đặc biệt cho ta những kết luận đầy đủ, chính xác về đối tượng. Có hai loại quan sát khoa học: quan sát trực tiếp và quan sát gián tiếp. a) Quan sát trực tiếp là quan sát trực diện đối tượng đang diễn biến trong thực tế bằng mắt thường hay bằng các phương tiện kỹ thuật như: máy quan trắc, kính thiên văn, kính hiển vi để thu thập thông tin một cách trực tiếp. b) Quan sát gián tiếp là quan sát diễn biến hiệu quả của các tác động tương tác giữa đối tượng cần quan sát tới các đối tượng khác, mà bản thân đối tượng không thể quan sát trực tiếp được, thí dụ: nghiên cứu các nguyên tử, hoá học lượng tử Các đối tượng nghiên cứu khoa học có thể là đơn lẻ, có thể là số đông. Các đối tượng đó có thể đang vận động trong môi trường tự nhiên hay trong môi trường nhân tạo. Người quan sát có thể là nhà khoa học hay các cộng tác viên. Quan sát khoa học có ba chức năng:
- 47 - Chức năng thu thập thông tin thực tiễn, đây là chức năng quan trọng nhất. Các tài liệu này qua xử lý cho ta những thông tin có giá trị về đối tượng. - Chức năng kiểm chứng các giả thiết hay các lý thuyết đã có. Trong NCKH khi cần xác minh tính đúng đắn của các lý thuyết hay giả thuyết nào đó, các nhà khoa học cần phải thu thập các tài liệu từ thực tiễn để kiểm chứng. Qua thực tiễn kiểm nghiệm mới khẳng định được độ tin cậy của lý thuyết. - Chức năng đối chiếu các kết quả nghiên cứu lý thuyết với thực tiễn để tìm ra sự sai lệch của chúng, mà tìm cách bổ khuyết, hoàn thiện lý thuyết. Quá trình quan sát được tiến hành như sau: - Xác định đối tượng quan sát trên cơ sở mục đích của đề tài, đồng thời xác định cả các phương diện cụ thể của đối tượng cần phải quan sát. - Lập kế hoạch quan sát: thời gian, địa điểm, số lượng đối tượng, người quan sát, phương tiện quan sát, các thông số kỹ thuật cần đo đạc được, - Lựa chọn phương thức quan sát: quan sát trực tiếp, quan sát gián tiếp, quan sát bằng mắt thường hay bằng các phương tiện kỹ thuật, quan sát một lần hay nhiều lần, số người quan sát, địa điểm, thời điểm và khoảng cách thời gian cho mỗi lần quan sát, - Tiến hành quan sát đối tượng hết sức thận trọng, phải theo dõi từng diễn biến dù là nhỏ nhất kể cả ảnh hưởng của những tác động khác từ bên ngoài tới đối tượng. - Phải ghi chép mọi diễn biến của đối tượng, có nhiều cách ghi chép các diễn biến quan sát: + Ghi theo mẫu phiếu in sẵn. + Ghi biên bản toàn bộ nội dung quan sát. + Ghi nhật ký theo thời gian quy định trong một ngày, một tuần, một tháng, + Ghi vắn tắt theo "dấu vết nóng hổi". + Ghi âm, chụp ảnh, quay phim toàn bộ sự kiện, - Xử lý tài liệu: các tài liệu do các cá nhân quan sát được là các “tư liệu thô” (tài liệu cảm tính, mang tính chủ quan ), chưa phải là tài liệu khoa học. Các tài liệu này cần phải được xử lý thận trọng bằng cách phân loại, hệ thống hoá, bằng thống kê toán học, bằng máy tính mới đáng tin cậy, các tài liệu qua xử lý cho ta thông tin cô đọng và khái quát về đối tượng. - Để kiểm tra các kết quả quan sát khách quan, người ta thường sử dụng một loạt các biện pháp hỗ trợ khác như: trao đổi trực tiếp với nhân chứng, lặp lại quan sát nhiều lần, sử dụng người có trình độ cao hơn để quan sát lại, Bất cứ một quan sát nào cũng đều do con người thực hiện, cho nên phải tính đến các đặc điểm của quá trình quan sát, để tránh những sai sót có thể xảy ra cần lưu ý một số điều sau đây: + Một là: chủ thể quan sát là các nhà khoa học hay các cộng tác viên, đã là con người đều bị các quy luật tâm lý chi phối. Mỗi cá nhân đều có tính chủ quan. Chủ quan ở trình độ kinh nghiệm, ở thế giới quan, ở cảm xúc. Quan sát bao giờ cũng thông
- 48 ph−¬ng ph¸p luËn nghiªn cøu khoa häc qua lăng kính chủ quan, có "cái tôi" trong sản phẩm. Ngay cả khi sử dụng máy quay phim "vô tư" người cầm máy cũng vẫn quay theo góc độ mà họ muốn. Cái chủ quan có thể là nguồn gốc của mọi sự sai lệch, thậm chí có thể "xuyên tạc" sự thật. + Hai là: phải chú ý tới các quy luật của cảm giác, tri giác như quy luật lựa chọn, quy luật thích ứng và các ảo giác, + Ba là: đối tượng quan sát là thế giới phức tạp. Sự chính xác một mặt do trình độ của con người, mặt khác do sự bộc lộ của chính đối tượng. Đối tượng nằm trong một hệ thống có mối quan hệ phức tạp với đối tượng phức tạp khác, nó lại luôn vận động, phát triển và biến đổi. Cho nên việc xác định đúng các chỉ số trọng tâm về đối tượng cần quan sát là điều rất quan trọng. Tóm lại, quan sát là một PPNCKH quan trọng, tuy nhiên chúng chưa đạt tới trình độ nhận thức bản chất bên trong của đối tượng, cần phải sử dụng phối hợp quan sát với các phương pháp khác để đạt tới kết quả bản chất và khách quan. 2. Phương pháp điều tra Điều tra là phương pháp khảo sát một nhóm đối tượng trên một diện rộng nhằm phát hiện các quy luật phân bố, trình độ phát triển, những đặc điểm về mặt định tính và định lượng của các đối tượng cần nghiên cứu. Các tài liệu điều tra được sẽ là những thông tin quan trọng về đối tượng cần cho các quá trình nghiên cứu và là căn cứ quan trọng để đề xuất những giải pháp khoa học hay giải pháp thực tiễn. Có hai loại điều tra: điều tra cơ bản và điều tra xã hội học. - Điều tra cơ bản: là khảo sát sự có mặt của các đối tượng trên một diện rộng, để nghiên cứu các quy luật phân bố cũng như các đặc điểm về mặt định tính và định lượng. Ví dụ: điều tra địa hình, địa chất, điều tra dân số, trình độ văn hoá, điều tra chỉ số thông minh (IQ) của trẻ em, điều tra khả năng tiêu thụ hàng hoá, - Điều tra xã hội học: là điều tra quan điểm, thái độ của quần chúng về một sự kiện chính trị, xã hội, hiện tượng văn hoá, thị hiếu, Thí dụ: điều tra nguyện vọng nghề nghiệp của thanh niên, điều tra hay trưng cầu dân ý về bản hiến pháp mới, Điều tra là một phương pháp nghiên cứu khoa học quan trọng, một hoạt động có mục đích, có kế hoạch, được tiến hành một cách thận trọng. Điều tra cơ bản được sử dụng trong cả khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Các bước điều tra thường được tiến hành như sau: - Xây dựng một kế hoạch điều tra bao gồm: mục đích, đối tượng, địa bàn, nhân lực, kinh phí, - Xây dựng các mẫu phiếu điều tra với các thông số, các chỉ tiêu cần làm sáng tỏ.
- 49 - Chọn mẫu điều tra đại diện cho số đông, chú ý tới tất cả những đặc trưng của đối tượng, cũng cần lưu ý đến: + Chi phí cho điều tra rẻ. + Thời gian có thể rút ngắn. + Nhân lực để điều tra không quá đông. + Có thể kiểm soát tốt mọi khâu điều tra, dự tính được những diễn biến của quá trình điều tra và các kết quả nghiên cứu đúng mục đích. - Có hai kỹ thuật chọn mẫu: + Chọn xác suất, tức là chọn mẫu ngẫu nhiên, đơn giản bằng cách lấy mẫu bất kỳ theo hệ thống, từng lớp, từng nhóm hay theo từng giai đoạn thời gian. + Chọn mẫu có chủ định là phương pháp chọn mẫu theo chỉ tiêu cụ thể phục vụ cho mục đích nghiên cứu. Về kích thước mẫu phải tính toán chi ly cho phù hợp với chiến lược điều tra và phạm vi của đề tài. - Xử lý tài liệu: các loại tài liệu thu thập theo điều tra có thể được phân loại bằng phương pháp thủ công hay xử lý bằng công thức toán học thống kê và máy tính cho ta kết quả khách quan. - Khi cần kiểm tra kết quả nghiên cứu ta có thể dùng cách lặp lại điều tra, thay đổi địa điểm, thời gian, thay người điều tra hoặc sử dụng các phương pháp nghiên cứu hỗ trợ khác. Điều tra còn được sử dụng trong NCKH xã hội. Điều tra xã hội thực chất là trưng cầu ý kiến quần chúng, được tiến hành bằng cách phỏng vấn trực tiếp, thảo luận hay bằng hệ thống bảng câu hỏi. Trưng cầu ý kiến là phương pháp thu thập thông tin, dựa trên tác động về mặt tâm lý trực tiếp hay gián tiếp giữa nhà khoa học và người được hỏi ý kiến để tìm ra các quan điểm phổ biến nhất trong đám đông quần chúng. - Phỏng vấn là phương pháp nói chuyện trực tiếp giữa nhà khoa học với các đối tượng cần biết ý kiến. Cuộc nói chuyện có chủ đích nên được chuẩn bị chu đáo về nội dung, về chiến thuật dẫn dắt câu chuyện, làm cho cuộc trò chuyện diễn ra tự nhiên và người được hỏi tự bộc lộ quan điểm, tâm trạng của mình. Phỏng vấn có thể được ghi âm, tốc ký hay quay phim để có tài liệu đầy đủ và chính xác. - Hội thảo là phương pháp tổ chức thu thập thông tin bằng cách đưa ra những tình huống có vấn đề, nhằm thu hút các đối tượng nghiên cứu vào một cuộc tranh luận bổ ích, để mọi người tự bộc lộ quan điểm, tư tưởng. Điều quan trọng nhất trong kỹ thuật