Giáo trình Triết học - Nguyễn Hữu Đễ

pdf 78 trang cucquyet12 3590
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Triết học - Nguyễn Hữu Đễ", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_triet_hoc_nguyen_huu_de.pdf

Nội dung text: Giáo trình Triết học - Nguyễn Hữu Đễ

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦY LỢI BÀI GIẢNG TRIẾT HỌC (DÀNH CHO HỌC VIÊN CAO HỌC) Người biên soạn: 1. PGS.TS. Nguyễn Hữu Đễ 2. Th.S Tô Mạnh Cường HÀ NỘI, 2013 1
  2. Chương I: TRIẾT HỌC VÀ VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI I.Khái niệm triết học và đối tương nghiên cứu của triết học 1. Khái niệm triết học Triết học ra đời ở cả phương Đông và phương Tây gần như cùng một thời gian (khoảng từ thế kỷ VIII đến thế kỷ VI trước Công nguyên) tại một số trung tâm văn minh cổ đại của nhân loại như Trung Quốc, ấn Độ, Hy Lạp. ở Trung Quốc, thuật ngữ triết học có gốc ngôn ngữ là chữ triết ( ); người Trung Quốc hiểu triết học không phải là sự miêu tả mà là sự truy tìm bản chất của đối tượng, triết học chính là trí tuệ, là sự hiểu biết sâu sắc của con người. Ở Ấn Độ, thuật ngữ dar'sana (triết học) có nghĩa là chiêm ngưỡng, nhưng mang hàm ý là tri thức dựa trên lý trí, là con đường suy ngẫm để dẫn dắt con người đến với lẽ phải. Ở phương Tây, thuật ngữ triết học xuất hiện ở Hy Lạp. Nếu chuyển từ tiếng Hy Lạp cổ sang tiếng Latinh thì triết học là Philosophia, nghĩa là yêu mến sự thông thái. Với người Hy Lạp, philosophia vừa mang tính định hướng, vừa nhấn mạnh đến khát vọng tìm kiếm chân lý của con người. Như vậy, cho dù ở phương Đông hay phương Tây, ngay từ đầu, triết học đã là hoạt động tinh thần biểu hiện khả năng nhận thức, đánh giá của con người, nó tồn tại với tư cách là một hình thái ý thức xã hội. Khái quát lại, có thể hiểu: Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới; về vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy. Triết học ra đời do hoạt động nhận thức của con người phục vụ nhu cầu sống; song, với tư cách là hệ thống tri thức lý luận chung nhất, triết học chỉ có thể xuất hiện trong những điều kiện nhất định sau đây: Con người đã phải có một vốn hiểu biết nhất định và đạt đến khả năng rút ra được cái chung trong muôn vàn những sự kiện, hiện tượng riêng lẻ. Xã hội đã phát triển đến thời kỳ hình thành tầng lớp lao động trí óc. Họ đã nghiên cứu, hệ thống hóa các quan điểm, quan niệm rời rạc lại thành học thuyết, thành lý luận và triết học ra đời. Tất cả những điều trên cho thấy: Triết học ra đời từ thực tiễn, do nhu cầu của thực tiễn; nó có nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội. 2. Đối tượng của triết học (Học viên tự nghiên cứu) II. Tính quy luật về sự hình thành, phát triển của triết học (Học viên tự nghiên cứu) 2
  3. III. Vai trò của triết học trong đời sông xã hội 1. Vai trò thế giới quan và phương pháp luận của triết học Khái quát lại, có thể hiểu: Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới; về vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy. Triết học ra đời do hoạt động nhận thức của con người phục vụ nhu cầu sống; song, với tư cách là hệ thống tri thức lý luận chung nhất, triết học chỉ có thể xuất hiện trong những điều kiện nhất định sau đây: Con người đã phải có một vốn hiểu biết nhất định và đạt đến khả năng rút ra được cái chung trong muôn vàn những sự kiện, hiện tượng riêng lẻ. Xã hội đã phát triển đến thời kỳ hình thành tầng lớp lao động trí óc. Họ đã nghiên cứu, hệ thống hóa các quan điểm, quan niệm rời rạc lại thành học thuyết, thành lý luận và triết học ra đời. Tất cả những điều trên cho thấy: Triết học ra đời từ thực tiễn, do nhu cầu của thực tiễn; nó có nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội. Thế giới quan là toàn bộ những quan niệm của con người về thế giới, về bản thân con người, về cuộc sống và vị trí của con người trong thế giới đó. Trong thế giới quan có sự hoà nhập giữa tri thức và niềm tin. Tri thức là cơ sở trực tiếp cho sự hình thành thế giới quan, song nó chỉ gia nhập thế giới quan khi nó đã trở thành niềm tin định hướng cho hoạt động của con người. Có nhiều cách tiếp cận để nghiên cứu về thế giới quan. Nếu xét theo quá trình phát triển thì có thể chia thế giới quan thành ba loại hình cơ bản: Thế giới quan huyền thoại, thế giới quan tôn giáo và thế giới quan triết học. Thế giới quan huyền thoại là phương thức cảm nhận thế giới của người nguyên thủy. ở thời kỳ này, các yếu tố tri thức và cảm xúc, lý trí và tín ngưỡng, hiện thực và tưởng tượng, cái thật và cái ảo, cái thần và cái người, v.v. của con người hoà quyện vào nhau thể hiện quan niệm về thế giới. Trong thế giới quan tôn giáo, niềm tin tôn giáo đóng vai trò chủ yếu; tín ngưỡng cao hơn lý trí, cái ảo lấn át cái thực, cái thần vượt trội cái người. Những vấn đề được triết học đặt ra và tìm lời giải đáp trước hết là những vấn đề thuộc về thế giới quan. Thế giới quan đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong cuộc sống của con người và xã hội loài người. Tồn tại trong thế giới, dù muốn hay không con người cũng phải nhận thức thế giới và nhận thức bản thân mình. Những tri thức này dần dần hình thành nên thế giới quan. Khi đã hình thành, thế giới quan lại trở thành nhân tố định hướng cho quá trình con người tiếp tục nhận thức thế giới. Có thể ví thế giới quan như 3
  4. một "thấu kính", qua đó con người nhìn nhận thế giới xung quanh cũng như tự xem xét chính bản thân mình để xác định cho mình mục đích, ý nghĩa cuộc sống và lựa chọn cách thức hoạt động đạt được mục đích, ý nghĩa đó. Như vậy thế giới quan đúng đắn là tiền đề để xác lập nhân sinh quan tích cực và trình độ phát triển của thế giới quan là tiêu chí quan trọng về sự trưởng thành của mỗi cá nhân cũng như của mỗi cộng đồng xã hội nhất định. Triết học ra đời với tư cách là hạt nhân lý luận của thế giới quan, làm cho thế giới quan phát triển như một quá trình tự giác dựa trên sự tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và tri thức do các khoa học đưa lại. Đó là chức năng thế giới quan của triết học. Các trường phái chính của triết học là sự diễn tả thế giới quan khác nhau, đối lập nhau bằng lý luận; đó là các thế giới quan triết học, phân biệt với thế giới quan thông thường. - Chức năng phương pháp luận: Phương pháp luận là lý luận về phương pháp, là hệ thống các quan điểm, các nguyên tắc chỉ đạo con người tìm tòi, xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương pháp trong nhận thức và trong thực tiễn. Phương pháp luận của triết học chính là phương pháp luận chung nhất. Trong triết học, thế giới quan và phương pháp luận không tách rời nhau. Mỗi quan điểm triết học đồng thời là một nguyên tắc phương pháp luận, là lý luận về phương pháp. Với tư cách là phương pháp luận chung nhất, triết học đóng vai trò định hướng cho con người trong quá trình tìm tòi, xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương pháp trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, do đó, nó có ý nghĩa quyết định đối với thành bại trong hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người. 2. Vai trò của triết học đối với các khoa học cụ thể và đối với tư duy lý luận Sự hình thành, phát triển của triết học không thể tách rời sự phát triển của khoa học cụ thể, qua khái quát những thành tựu của khoa học cụ thể. Tuy nhiên, triết học lại có vai trò rất to lớn đối với sự phát triển của khoa học cụ thể, nó là thế giới quan, phương pháp luận cho khoa học cụ thể, là cơ sở lý luận cho các khoa học cụ thể trong việc đánh giá những thành tựu đạt được, cũng như vạch ra phương hướng, giải pháp cho quá trình nghiên cứu khoa học cụ thể. Sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa duy vật biện chứng đã cho thấy điều đó. Triết học còn có vai trò to lớn đối với rèn luyện năng lực tư duy của con người. Ăngghen từng nói: “Một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao khoa học thì không thể không có tư duy lý luận”. 4
  5. CHƯƠNG II KHÁI LƯỢC VỀ LỊCH SỬ TRIẾT HỌC PHƯƠNG ĐÔNG I. Triết học Ấn Độ cổ - trung đại 1. Điều kiện ra đời và nét đặc thù của triết học Ấn Độ cổ, trung đại a. Điều kiện kinh tế - xã hội * Kinh tế, chính trị - Sự tồn tại từ rất sớm và kéo dài của kết cấu kinh tế - xã hội theo mô hình "công xã nông thôn". Trong kết cấu này, chế độ quốc hữu về ruộng đất được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác coi là "chiếc chìa khoá" để tìm hiểu toàn bộ lịch sử ấn Độ cổ đại. - Trong xã hội Ấn Độ cổ, trung đại đã phân hoá và tồn tại rất dai dẳng bốn đẳng cấp lớn: tăng lữ (Brahman), quý tộc (Ksatriya), bình dân tự do (Vai`sya) và tiện nô (K`sudra). Ngoài sự phân biệt đẳng cấp, xã hội ấn Độ cổ đại còn có sự phân biệt về chủng tộc, dòng dõi, nghề nghiệp, tôn giáo. * Khoa học, văn hóa - Thiên văn học: sáng tạo ra lịch pháp, giải thích được hiện tượng nhật thực, nguyệt thực, đã biết quả đất xoay tròn và tự xoay xung quanh trục của nó. - Toán học: phát minh ra số thập phân, tính được trị số ?, biết đại số, biết lượng giác, biết phép khai căn, giải phương trình bậc 2, 3. - Y học: xuất hiện những danh y nổi tiếng, chữa bệnh bằng cây thuốc, bằng thuật châm cứu, chủng đậu, ngoại khoa, v.v - Văn hoá Ấn Độ cổ, trung đại mang dấu ấn sâu đậm về tín ngưỡng, tôn giáo, tâm linh. b. Quá trình hình thành và phát triển của triết học Ấn Độ cổ, trung đại thành ba thời kỳ chính: - Thời kỳ thứ nhất là thời kỳ Vêđa (khoảng thế kỷ XV tr.CN đến thế kỷ VIII tr.CN) tư tưởng thần thoại mang tính chất đa thần tự nhiên phát triển thành tính chất nhất nguyên, xuất hiện một số tư tưởng duy vật thô sơ tản mạn - Thời kỳ thứ hai là thời kỳ cổ điển hay còn gọi là thời kỳ Bàlamôn-Phật giáo (khoảng thế kỷ VI tr.CN đến thế kỷ VI) tư tưởng triết lý chia làm hai hệ thống: chính thống và không chính thống Phái chính thống: Sàmkhya, Mimànsa, Vedànta, Yoga, Nỳaya, Vai`sesika Phái không chính thống: Jaina, Lokàyata, Buddha (Phật giáo) 5
  6. - Thời kỳ thứ ba là thời kỳ sau cổ điển hay còn gọi là thời kỳ xâm nhập của hồi giáo (khoảng thế kỷ VII đến thế kỷ XVIII) là cuộc cạnh tranh uy thế giữa đạo Phật, đạo Bàlamôn, đạo Hồi. Đạo Phật suy yếu, đến thế kỷ XII và đầu kỷ nguyên mới đạo Bàlamôn phát triển thành đạo Hinđu 2. Một số nội dung khái quát triết học Ấn Độ cổ-trung đại Đặt ra và giải quyết nhiều vấn đề triết học như bản thể luận, nhận thức luận - chịu ảnh hưởng của tư tưởng tôn giáo a. Tư tưởng bản thể luận: - Bản thể luận thần thoại tôn giáo: Họ sáng tạo nên một thế giới các vị thần có tính chất tự nhiên, tượng trưng cho sức mạnh của trời, đất, mặt trời, mặt trăng, lửa, gió, mưa, thần ác, thần thiện. Vũ trụ có 3 thế lực thiên giới, trần giới, địa ngục. Về sau, những nguyên lý trừu tượng duy nhất tối cao được coi là nguồn gốc của vũ trụ và đời sống con người là "thần sáng tạo", Brahman "tinh thần tối cao" Bahman - Tư duy triết học về bản thể luận Nội dung căn bản của kinh Upanisad là vạch ra nguyên lý tối cao bất diệt là bản thể của vũ trụ vạn vật, giải thích bản tính con người và mối quan hệ giữa đời sống tinh thần của con người với nguồn sống bất diệt của vũ trụ, từ đó tìm ra con đường giải thoát cho con người ra khỏi sự ràng buộc của thế giới sự vật, hiện tượng hữu hình, hữu hạn như phù du này - Nhận thức luận Upanisad chia nhận thức thành hai trình độ khác nhau: Hạ trí: nhận thức sự vật hữu hình tri thức khoa học thực nghiệm; Thượng trí: nhận thức "tinh thần vũ trụ tối cao" Brahman. Linh hồn bất tử, đầu thai hết thân xác này đến thân xác khác với hình thức khác nhau từ kiếp này sang kiếp khác gọi là luân hồi b. Tư tưởng giải thoát của triết học tôn giáo Ấn Độ Để giải thích nguồn gốc nỗi khổ và cách thức, con đường giải thoát cho con người khỏi bể khổ trầm luân. Mục đích của triết học cổ đại là tìm phương tiện, cách thức, con đường giải thoát. Giải thoát là phạm trù triết học tôn giáo ấn Độ dùng để chỉ trạng thái tinh thần, tâm lý, đạo đức của con người thoát khỏi sự ràng buộc của thế giới trần tục và nỗi khổ của cuộc đời. Để giải thoát thì phải dày công tu luyện theo đạo đức giới luật, tu luyện trí tuệ, trực giác thực nghiệm tâm linh, chiêm nghiệm nội tâm lâu dài. Đạt tới giải 6
  7. thoát là đạt tới siêu thoát, vượt ra khỏi sự ràng buộc của thế tục, hoàn toàn tự do, tự tại. Nguồn gốc của tư tưởng giải thoát do điều kiện kinh tế-xã hội ấn Độ cổ đại quy định đồng thời do các nhà triết học ấn Độ ít chú trọng ngoại giới, coi trọng tư duy hướng nội, đi sâu vào thế giới tâm linh con người. Nó biến đổi cùng với sự biến đổi của xã hội. Tư tưởng giải thoát thể hiện tính nhân bản, nhân văn sâu sắc, phản ánh đặc điểm, yêu cầu của xã hội ấn Độ đương thời. Nó chưa giải thích được nỗi khổ, mới dừng lại ở mặt tinh thần, tâm lý, đạo đức. Không phải là biến đổi cách mạng hiện thực Tóm lại: Nền triết học ấn Độ được xác lập và hình thành từ những tôn giáo khác nhau, từ ấn giáo cổ truyền, từ Phật giáo cho đến Hồi giáo, Ki tô giáo đều được dân tộc ấn giang tay đón nhận phát triển theo tính tự nhiên, theo quan điểm "Hãy sống và để cho người khác sống với" II. Triết học Trung Quốc cổ, trung đại 1. Điều kiện kinh tế - xã hội và nét đặc thù của triết học Trung Quốc cổ- trung đại a. Điều kiện ra đời: - Về tự nhiên: TQ cổ đại đất đai rộng, chia làm hai miền, miền bắc lạnh khô, sản vật nghèo. Miền nam ám áp, sản vật phong phú, phong cảnh đẹp. - Về kinh tế - xã hội: Thời Đông Chu 770-221 Tr.CN sở hữu tư nhân về ruộng đất, xã hội phân hoá giàu nghèo sâu sắc, các thế lực cát cứ tranh giành nhau, chiến tranh triền miên, khốc liệt. Xã hội Trung Hoa lúc này rơi vào tình trạng hỗn loạn, "Vương đạo" suy vi, "Bá đạo" nổi lên lấn át "Vương đạo", tình trạng như Khổng Tử than phiền: "quân bất quân, thần bất thần, phụ bất phụ, tử bất tử". - Xuất hiện 103 trường phái triết học, tranh luận về trật tự xã hội cũ, đề ra hình mẫu cho xã hội tương lai. Ảnh hưởng lớn nhất là 3 phái Nho, Mặc, Đạo - Nét đặc thù của triết học Trung Quốc cổ, trung đại là hầu hết các học thuyết có xu hướng đi sâu giải quyết những vấn đề thực tiễn chính trị - đạo đức của xã hội với nội dung bao trùm là vấn đề con người, xây dựng con người, xã hội lý tưởng và con đường trị nước. b. Quá trình hình thành và phát triển triết học Trung Quốc cổ, trung đại - Thời Tam đại: Hạ, Thương, Chu (thiên niên kỷ II-I Tr.CN) xuất hiện các biểu t- ượng “đế” “thượng đế”, “quỷ thần”, “âm dương”, “Ngũ hành”. Thời Đông Chu (770- 221Tr.CN) quá độ nô lệ sang phong kiến, tư tưởng triết học đã có hệ thống 7
  8. - Thời Tần Hán:Thiên hạ thống nhất, giai cấp thống trị yêu cầu thống nhất tư tưởng, các trường phái lần lượt dung hợp với Phật giáo tạo nên nền văn hoá huy hoàng, xán lạn, là thời kỳ cực thịnh của xã hội phong kiến - Từ thời Tống trở về sau nho học được đề cao : thời hậu kỳ của XHPKTQ, biểu hiện của nó là Lý học - dung hợp đạo Phật vào Nho. Từ đời Thanh về sau tranh cãi xung quanh phạm trù Hữu và Vô (động và tĩnh), tâm và vật (tri và hành)Thời kỳ thứ nhất (từ thế kỷ thứ IX trở về trớc): Những tư tưởng triết học ít nhiều đã xuất hiện, nhưng chia thành một hệ thống. 2. Một số nội dung triết học Trung Quốc cổ, trung đại a. Tư tưởng bản thể luận - Nho gia Khổng tử nói đến trời, đạo trời và mệnh trời. Mạnh tử hình thành quan niệm "thiên mệnh" Thời Chiến Quốc, Tuân Tử “trời đất hợp lại thì vạn vật sinh ra, âm dương giao tiếp với nhau thì sinh ra biến hoá” Thời nhà Hán, theo Vương Sung (27-107) cho rằng nguyên khí là yếu tố đầu tiên của thế giới - Đạo gia Coi bản nguyên thế giới là "Đạo", Đạo sáng tạo ra vạn vật, vạn vật nhờ đó mà sinh ra, sự sinh ra vạn vật theo trình tự đạo sinh một, một sinh hai, hai sinh ba, ba sinh ra vạn vật" - Âm dương gia Âm dương là hai khí tác động qua lại với nhau sinh ra mọi sự vật, hiện tượng trong trời đất. Kinh dịch cho Thái cực là khí tiên thiên: Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái, bát quái sinh vạn vật a. Tư tưởng về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức - Cặp phạm trù thần- hình, xuất hiện thời nhà Hán. Đổng Trọng Thư (174- 104 Tr.CN) cho rằng thần là bản nguyên của hình, hình phát sinh từ thần. Vương Sung (27- 127) phê phán Đổng Trọng Thư và cho rằng nguyên khí là cội nguồn của thế giới - Cặp phạm trù tâm - vật: xuất hiện thời Tuỳ Đường, Phật giáo thịnh hành, họ quan niệm mọi hiện tượng giữa thế gian và trong cõi xuất thế đều do "thanh tịnh tâm" sinh ra, tâm là bản nguyên của thế giới. Các nhà duy vật (Trương Tải) cho rằng có vật mới có tâm - Cặp phạm trù lý-khí Thời nhà Tống Trình Hạo(1033-1107), Trình Di (1023-1085) cho rằng "vạn vật đều chỉ một lẽ trời", "Âm dương nhị khí cùng với ngũ hành là tài liệu để "Lý" sáng tạo ra vạn vật trong trời đất. Vương Phu Chi cho rằng "Trong trời đất chỉ có khí" "Lý ở trong 8
  9. khí" c. Tư tưởng biện chứng - Phạm trù biến dịch: trời đất vạn vật luôn luôn vận động biến đổi. Theo Lão Tử "trong vạn vật không vật nào mà không cõng âm và bồng dương" Vương An Thạch: mâu thuẫn nội ngoại của Ngũ hành là nguyên nhân cơ bản và vô cùng tận của biến hoá La Thuận Khâm và Vương Đình Tương (thời Tống Minh): động lực của sự vận động vật chất là do khí âm dương không đồng đều nhau Vương Phu Chi (nhà Thanh): vạn vật vận động là do âm dương vừa mâu thuẫn, vừa thống nhất Kinh Dịch: vận vật phát triển không rõ ràng - rõ ràng - sâu sắc- kịch liệt - cao điểm - mặt trái. Lão Tử: Vũ trụ vận động biến đổi theo hai quy luật, quy luật bình quân và quy luật phản phục d. Tư tưởng về nhận thức - Khổng Tử, Thuyết chính danh, lấy "danh" để định "thực" đã đề cập đến bản thân nhận thức luận, lấy "danh" để định "thực" - Mặc tử - lấy thực đặt tên. Thuyết tam biểu: lập luận phải có căn cứ, lập luận phải có chứng minh, lập luận phải có hiệu quả - Huệ Thi chú trọng "thực", Công Tôn Long chú trọng danh nhấn mạnh sự sai biết giữa từ và khái niệm (Danh gia) Hai ông đều tư biện, rơi vào quỷ biện - Các nhà Mặc gia đời sau có tư tưởng minh biện, dựa vào khoa học họ đã có phạm trù vận động, không gian, thời gian - Đạo gia, Lão Tử, Trang tử đề cao tư duy trừu tượng, coi khinh việc nghiên cứu sự vật, hiện tượng cụ thể "Không cần ra cửa mà biết cả thiên hạ, không cần nhìn qua khe cửa mà biết được cả đạo trời" - Thời Tuỳ-Đường: Nho, Đạo, Phật dung hợp, lấy Phật giáo làm chủ, nhận thức luận thể hiện ở thuyết "Đốn ngộ" cho rằng mỗi người đều có năng lực nhận thức trời cho tiên nghiệm, Phật tính đ. Tư tưởng con người và xây dựng con người - Nguồn gốc con người: Khổng Tử, Mặc Tử cho là trời. Lão Tử cho là Đạo - Vai trò, vị trí con người: Lão Tử: Đạo lớn, Trời lớn, Đất lớn, Người cũng lớn. Nho giáo: Con người cùng với trời đất là ba ngôi tiêu biểu cho mọi vật trong trời đất Mạnh Tử: Trời an bài địa vị của mỗi người 9
  10. Đổng Trọng Thư "Thiên nhân cảm ứng" Các nhà triết học tiến bộ "Thiên nhân cảm ứng" Kinh dịch: "Trời đất muôn vật là nhất thể" Tuân Tử "Thiên nhân bất tương quan" - Bản tính con người Khổng Tử: "Tính mỗi người đều gần nhau, do tập tành và thói quen mới hoá ra xa nhau”; Mạnh Tử: bản tính con người là thiện; Tuân Tử: Bản tính con người là ác; Cáo Tử: không thiện, không ác; Vương Sung: Vừa thiện vừa ác. - Về xây dựng con người Các trường phái đều coi trọng sự nỗ lực cá nhân, sự quan tâm của gia đình và xã hội. + Đạo gia: Bản tính con người có khuynh hướng trở về cuộc sống tự nhiên, vào cuộc sống trong sạch, thanh cao. + Nho gia: Hướng con người vào tu thân và thực hành đạo đức. Tất cả mọi vấn đề đều lấy đạo đức làm chuẩn. Vấn đề thiện-ác trở thành tiêu điểm tranh luận quan trọng nhất của lịch sử triết học Trung Quốc. Tu thân dưỡng tính là cơ sở để nhận thức thế giới quan. Mục tiêu xây dựng con người: Giúp con người nhận thức và làm tròn 5 mối quan hệ cơ bản (ngũ luân). Vua tôi, cha con, anh em, vợ chồng, bạn bè. Trong đó, vua nhân, tôi trung, cha từ, con hiếu, anh lành, em đễ, chồng có nghĩa, vợ vâng lời, bạn hữu phải có tín. Trong ngũ luân có ba điều chính (tam cương): vua tôi, cha con, vợ chồng Vấn đề tu dưỡng bản thân hàng đầu là phải tu thân. “Thiên hạ gốc ở nước, nước gốc ở nhà, nhà gốc ở thân mình”. Những đức thường xuyên phải trau dồi (ngũ thường): Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Với người có trọng trách thì: Nhân, trí, dũng. Mục tiêu xây dựng con người của Nho gia đối lập với Đạo gia. Đạo gia khởi xướng đạo vô vi, trốn tránh trách nhiệm xã hội. Trong hoàn cảnh xã hội TQ cổ đại, mỗi học thuyết đều có mặt tích cực và hạn chế. e. Tư tưởng về xã hội lý tưởng và con đường trị quốc - Khổng Tử: thuyết xã hội đại đồng - Thuyết trị nước: + Nhân trị: Cách cai trị phải lấy đạo đức mà giáo hóa. Biện pháp thực hiện là chính danh, lễ, vài trò tài đức của người cầm quyền và vai trò của dân. + Pháp trị: Lấy pháp luật làm căn bản trong việc cai trị. III. Lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam 1. Điều kiện hình thành, phát triển và những đặc điểm của lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam (Học viên tự nghiên cứu) 10
  11. a. Điều kiện hình thành và phát triển của lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam b. Những đặc điểm chủ yếu của lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam - Đặc điểm của quá trình hình thành và phát triển các tư tưởng triết học Việt Nam - Đặc điểm về hình thức thể hiện các tư tưởng triết học Việt Nam 2. Những nội dung cơ bản của lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam a. Những tư tưởng triết học chính trị, đạo đức, nhân văn b. Môt số tư tưởng triết học Phật giáo c. Một số tư tưởng triết học Nho giáo d. Sự đối lập giữa thế giới quan duy vật và thế giới quan duy tâm, triết học và tôn giáo 3. Vai trò của Hồ Chí Minh đối với sự phát triển lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam (Học viên tự nghiên cứu) Chương III: KHÁI LƯỢC LỊCH SỬ TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY I. Triết học Hy Lạp cổ đại. 1. Điều kiện ra đời, phát triển và nét đặc thù của triết học Hy Lạp cổ đại Tư tưởng triết học ra đời ở xã hội Hy Lạp cổ đại, xã hội chiếm hữu nô lệ với những mâu thuẫn gay gắt giữa tầng lớp chủ nô dân chủ và chủ nô quý tộc. Những cuộc xâm lăng từ bên ngoài đã làm suy yếu nền kinh tế thủ công Hy Lạp. Do thuận lợi về đường biển nên kinh tế thương nghiệp khá phát triển. Một số ngành khoa học cụ thể thời kỳ này như toán học, vật lý học, thiên văn, thuỷ văn, v.v. bắt đầu phát triển. Khoa học hình thành và phát triển đòi hỏi sự khái quát của triết học. Nhưng tư duy triết học thời kỳ này chưa phát triển cao; tri thức triết học và tri thức khoa học cụ thể thường hoà vào nhau. Các nhà triết học lại cũng chính là các nhà khoa học cụ thể. Thời kỳ này cũng diễn ra sự giao lưu giữa Hy Lạp và các nước ảrập phương Đông nên triết học Hy Lạp cũng chịu sự ảnh hưởng của triết học phương Đông. Sự ra đời và phát triển của triết học Hy Lạp cổ đại có một số đặc điểm như: gắn hữu cơ với khoa học tự nhiên, hầu hết các nhà triết học duy vật đều là các nhà khoa học tự nhiên; sự ra đời rất sớm chủ nghĩa duy vật mộc mạc, thô sơ và phép biện chứng tự phát; cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm biểu hiện qua cuộc đấu tranh giữa đường lối triết học của Đêmôcrít và đường lối triết học của Platôn, đại diện cho hai tầng lớp chủ nô dân chủ và chủ nô quý tộc; về mặt nhận thức, triết học Hy Lạp cổ đại đã theo khuynh hướng của chủ nghĩa duy giác. 2. Một số nội dung cơ bản của triết học Hy Lạp cổ đại 11
  12. a.Tư tưởng về bản nguyên của thế giới - Bản nguyên đầu tiên với tư cách là cái đơn nhất + Trường phái Milê: Nước (Talet), không khí (Anaximen), Apeiron (Anaximanđrơ) - Bản nguyên đầu tiên với tư cách là cái đặc thù + Trường phái của các nhà triết học tự nhiên thế ký V tr.CN: Anaxago coi là những phần nhỏ bé, siêu cảm giác, không nhìn thấy được của nước, đất, khí, lửa, gọi là mầm sống, hạt giống của muôn vật. Những mầm sống ấy kết hợp khác nhau tạo thành các vật đang tồn tại. Empêđôclơ coi khởi nguyên là một số xác định: đất, nước, lửa, không khí kết hợp với nhau do sự tác động qua lại của hai lực “tình yêu” và “hận thù”. - Bản nguyên thế giới với tư cách là cái phổ biến. + Trường phái nguyên tử luận: Đê-mô-crit thừa nhận nguyên tử (tồn tại) và chân không (không tồn tại” là những bản nguyên thế giới luôn đối lập nhau. b. Tư tưởng biện chứng - Hê-ra-cơ-lít coi bản nguyên thế giới là lửa và khẳng định bản tính thế giới là “mọi thứ đều trôi qua”. (Dòng sông luôn chảy và mặt trời luôn chiếu sáng. Và không có gì ổn định hơn việc dòng sông luôn chảy và mặt trời luôn chiếu sáng). Khái niệm triết học cơ bản của tư tưởng về bản tính của thế giới của Hê-ra-cơ-lít là Logos. Logos là sự thống nhất của mọi cái hiện hữu. - Biện chứng “phủ định” của trường phái Elê chủ trương vạn vật bất biến, không sinh thành cũng không diệt vong với hai đại biểu là Pác-mê-nít và Dê-nôn. - Xô-crat và Platon phát triển theo tinh thần chủ nghĩa duy tâm khách quan. Theo Platon, muốn co tri thức thì phải “hồi tưởng”. Hồi tưởng là con đường đánh thức trong linh hồn “tri thức bị lãng quên”, là “tìm kiếm tri thức nơi mình”. Phương pháp hồi tưởng là phương pháp biện chứng. c. Tư tưởng về nhận thức - Hê-ra-cơ-lít cho rằng “mọi người đều có khả năng nhận thức bản thân và suy xét” và Logos thế giới con người (chủ quan) có khả năng phù hợp logos thế giới (khách quan). Do đó, có thể tự nhân thức thế giới. - Phái Ê-lê: (Pác-mê-nít và Dê-nôn) Đề cao vai trò nhận thức lý tính, phủ nhận vai trò nhận thức cảm tính. - Platon: Phủ nhận quan điểm các nhà duy vật về vai trò của cảm giác. Đối tượng của nhận thức chân lý không phải là giới tự nhiên mà là những thực thể tinh thần, tức là thế giới “ý niệm”. - A-rít-tốt: Đối lập quan điểm Platon coi “ý niệm” là đối tượng của nhận thức. Ông coi nhận thức là cả quá trình đi từ kinh nghiệm cảm tính đến nhận thức lý tính. d. Vấn đề đạo đức và chính trị: 12
  13. - Về đạo đức: + Đê-mô-crit: xuất phát từ bản chất con người để định nghĩa về đạo đức. Sự hài lòng và không hài lòng là động lực của hành vi và tiêu chuẩn của tốt xấu. Con người phải biết phải biết phân biệt tốt xấu. Do vậy, phải tích cực trau đồi lý trí và nắm bắt quy luật tự nhiên, của hành động. + Platon: Đối lập với Đê-mô-crit. Là nhà duy tâm khách quan. Bản chất đạo đưc người không nằm trong bản chất con người mà nằm trong linh hồn vĩnh cửu. Tri thức đúng đắn chỉ có được thông qua “sự hồi tưởng của linh hồn về cái thế giới mà nó nảy sinh từ đó”. Nhà nước được xây dựng từ các tầng lớp công dân khác nhau: Các nhà triết học, các chiến binh và những người lao động chân tay, buôn bán. Nhà nước phải vừa đảm bảo bình đẳng, vừa đảm bảo bất bình đẳng nhằm duy trì trật tự thang bậc xã hội cần thiết. Trong nhà nước ấy, mọi người thực hiện công việc theo sự phân công chung nhằm đạt tới sự hài hòa, thống nhất. Giáo dục giữ vài trò quan trọng hướng con người tới lẽ công bằng và cái thiện. + Aritxtot: Có nhiều cống hiến. Không thể dựa vào Thượng đế áp đặt để có được công dân hoàn thiện về đạo đức mà phải dựa vào nhu cầu trên trái đất, phát triển khoa học và chính trị mới có con người hoàn thiện về đạo đức. Nghệ thuật quyền lực của nhà chính trị được xây dựng trên cơ sở hiểu biết về con người, về đức hạnh. Giữa chính trị và đạo đức có quan hệ với nhau. Tiêu chuẩn xây dựng nhà nước kiểu mẫu là khả năng phụng sự lợi ích chung, tìm hạnh phúc cho xã hội. Còn đạo đức lại đi tìm hạnh phúc cho cá nhân. II. Triết học Tây Âu thời trung cổ 1. Điều kiện ra đời, phát triển và nét đặc thù của triết học Tây Âu thời trung cổ Xã hội Tây Âu vào thế kỷ II - V là xã hội đánh dấu sự tan rã của chế độ nô lệ và sự ra đời chế độ phong kiến. Nền kinh tế của thời kỳ này nằm trong tay những người tiểu nông, những người khốn cùng, phụ thuộc, nhục nhã về mặt cá nhân và tối tăm về trí tuệ. Thời kỳ đầu trung cổ là thời kỳ của sự suy đồi toàn bộ đời sống xã hội. Ở những thế kỷ tiếp theo, chế độ phong kiến cũng tạo ra được một sự phát triển xã hội cao hơn xã hội cổ đại: kỹ thuật và nghề thủ công dần dần được phát triển; dân cư tăng nhanh, các thành thị ra đời, tạo ra những tiền đề cho sự phục hưng mới của khoa học và văn hóa. Nhà thờ thời trung cổ là một tổ chức tập quyền hùng mạnh, tôn giáo bao trùm lên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội làm cho triết học, luật học, chính trị học biến thành các bộ môn của thần học. Đặc điểm của triết học thời kỳ này là khuynh hướng phát triển của chủ nghĩa kinh viện. Chủ nghĩa kinh viện Thiên chúa giáo thể hiện tập trung ở học thuyết của Tômát Đacanh. 13
  14. Trong lĩnh vực triết học, Tômát Đacanh có mưu đồ làm cho học thuyết của Arixtốt thích hợp với giáo lý đạo Thiên Chúa, biến triết học của mình thành cơ sở giáo lý của nhà thờ. 2. Một số nội dung cơ bản của triết học Tây Âu thời trung cổ a. Mối quan hệ giữa tri thức và niềm tin tôn giáo Các nhà triết học thời kỳ này coi niềm tin tôn giáo giữ vị trí hàng đầu trong quan hệ với lý trí. Từ đó, đi sâu nghiên cứu các vấn đề triết học liên quan, trong đó có mối quan hệ giữa “cái chung” và “cái riêng”. - Ý kiến thứ nhất: Cái chung, cái phổ biến là thực thể tinh thần, tồn tại thật, có trước sự vật đơn nhất (chủ nghĩa duy thực) – gần với CNDT. Tiêu biểu như Téc-tu-liêng, Ơ-ni- ghen-nơ, Tô-mát-đa-canh - Ý kiến thứ hai: Sự vật đơn nhất có thực, có trước, còn cái chung, cái phổ biến chỉ là tên gọi giản đơn do con người sáng tạo ra (chủ nghĩa duy danh) – gần với CNDV. Tiêu biểu như Đun-Xcot, Rôgie Bê-cơn, Uyliam Ốc-Cam. b. Vấn đề xã hội và đạo đức - Vấn đề xã hội + Ô-guýt-Xtanh: Vương quốc của loài người, của điều ác là Nhà nước, vương quốc của thượng đế là nhà thờ. Bảo vệ sự bất bình đẳng xã hội và cho rằng Thượng đế ban cho người này sướng, người kia khổ. Người nghèo chỉ nên yêu cái không lấy được, không nên yêu của cải, chỉ nên yêu Thượng đế. + Tô-mát Đa-canh: ca ngợi bất bình đẳng, cho rằng chính quyền vua chúa do Thương đế sáng tạo ra. Dân phải phục tùng vua và vua phải phục tùng giáo hoàng. Chính quyền quản lý thân thể, giáo hội quản lý phần hồn. + Rô-giê Bê-cơn chống lại điều này và bị cầm tù. - Vấn đề đạo đức: Bị quan điểm thần học chi phối, đạo đức không được xem là mục đích mà bị coi là phương tiện để thực hiện mệnh lệnh của tôn giáo, đạo đức gắn với thần học. + Ô-guýt-xtanh: Sự can thiệp của Chúa vào mối quan hệ con người là cơ sở hình thành đạo đức + Tô-mát Đa-canh: Đạo đức chính là phẩm chất linh hồn. Với sự giúp đỡ của nó, con người sẽ sống trong trắng và thông qua nó thần linh sẽ tác động vào. Hạnh phúc, hy vọng, tình yêu, niềm tin là những phẩm chất cao cả, thông qua đó, quan hệ con người va thần linh được xác định. III. Triết học Tây Âu thời Phục hưng và cận đại 1. Triết học Tây Âu thời Phục hưng a. Điều kiện ra đời Thế kỷ XV - XVI ở Tây Âu được gọi là thời kỳ Phục hưng với ý nghĩa là thời kỳ có sự khôi phục lại nền văn hóa cổ đại. Về mặt hình thái kinh tế - xã hội đó là thời kỳ quá độ từ xã hội phong kiến sang xã hội tư bản. 14
  15. Thời kỳ này, sự phát triển của khoa học đã dần dần đoạn tuyệt với thần học và tôn giáo thời kỳ trung cổ, bước lên con đường phát triển độc lập. Giai cấp tư sản mới hình thành và là giai cấp tiến bộ, có nhu cầu phát triển khoa học tự nhiên để tạo cơ sở cho sự phát triển kỹ thuật và sản xuất. Sự phát triển của khoa học, về khách quan đã trở thành vũ khí mạnh mẽ chống thế giới quan duy tâm tôn giáo. Sự phát triển khoa học tự nhiên đã đòi hỏi có sự khái quát triết học, rút ra những kết luận có tính chất duy vật từ các tri thức khoa học cụ thể. Thời kỳ này đã có những nhà khoa học và triết học tiêu biểu như: Nicôlai Côpécních, Brunô, Galilê, Nicôlai Kuzan, Tômát Morơ, v.v b. Một số nội dung triết học Tây Âu thời Phục hưng - Tư tưởng triết học về tự nhiên Những thành tựu lớn trong khoa học tự nhiên đã tạo nên khuynh hướng phản kinh viện. + Ni-cô-lai Cu-dan: Trái đất không phải là trung tâm của vũ trụ mà trái đất chỉ là một vì sao chuyển động “giống như các ngôi sao khác”. Vũ trụ là vô tận. + Ni-cô-lai Cô-péc-ních: Thuyết nhật tâm. Thách thức quyền uy của giáo hội trong các vấn đề tự nhiên. Từ đó, khoa học tự nhiên được giải phóng khỏi thần học. - Tư tưởng về triết học con người Phát hiện ra con người trong thế giới và cả một thế giới trong con người. + Chủ nghĩa nhân đạo ra đời: tự do cá nhân, phản đối chủ nghĩa khổ hạnh tôn giáo, tán thành quyền con người được hưởng lạc và thỏa mãn những nhu cầu trần gian. Tiêu biểu như Leona Đờ Vanh-xi, Bruno, Sếch-xpia + Chủ nghĩa cá nhân: Giải phóng con người khỏi xiềng xích phong kiến, giáo hội. - Tư tưởng triết học về chính trị và xã hội 2. Triết học Tây Âu thời cận đại (thế kỷ XVII-XVIII) a. Điều kiện ra đời Từ cuối thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII là thời kỳ của những cuộc cách mạng tư sản bắt đầu ở Hà Lan, sau đến Anh, Pháp, ý, áo, v.v. và đây cũng là thời kỳ phát triển rực rỡ của triết học Tây Âu. Sự phát triển của lực lượng sản xuất mới làm cho quan hệ sản xuất phong kiến trở nên lỗi thời và mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trở nên gay gắt là nguyên nhân kinh tế của những cuộc cách mạng thời kỳ này. Nhưng đòn giáng mạnh nhất vào chế độ phong kiến Tây Âu là cuộc cách mạng tư sản Anh (giữa thế kỷ XVII) và cách mạng tư sản Pháp (cuối thế kỷ XVIII). Theo lời Mác, đó là những cuộc cách mạng có quy mô toàn châu Âu, đánh dấu thắng lợi của trật tự tư sản mới đối với trật tự phong kiến cũ. Thời kỳ này cũng là thời kỳ phát triển mạnh của khoa học kỹ thuật do nhu cầu của sự phát triển sản xuất; thế kỷ XVII - XVIII cơ học phát triển, thế kỷ XVIII - XIX, vật lý học, hóa học, sinh học, kinh tế học ra đời. Tất cả cái đó làm tiền đề cho sự phát triển triết học mới với nhiều đại biểu nổi tiếng. 15
  16. b. Một số nội dung: - Tư tưởng về bản thể và bản tính của thế giới Do ảnh hưởng của khoa học tự nhiên, triết học tự nhiên thấm đượm tư duy siêu hình. Tư duy siêu hình đã chi phối những hiểu biết triết học về bản nguyên và bản tính của thế giới. Giải thích mọi hiện tượng tự nhiên bằng sự tác động qua lại của lực hấp dẫn và lực đẩy giữa các phần tử vật thể. Các phần tử vật thể luôn bất biến, các thay đổi chỉ là thay đổi về trạng thái không gian và tập hợp của chúng. Mọi phân biệt về chất đều bị quy về sự thay đổi về lượng, mọi vận động đều bị quy về sự thay đổi vị trí trong không gian Tiêu biểu: Phran-xi Bê-cơn, Tô-mát Hốp-xơ, Đề-các-tơ, Đi-Đrô - Lý luận nhận thức: Nhiệm vụ trọng tâm là tìm ra phương pháp của tri thức chân lý cho tất cả các khoa học + Chủ nghĩa kinh nghiệm: Ph Bê-cơn, T Hốp-xơ, J Lốc-cơ. Nguồn gốc duy nhất của tri thức là kinh nghiệm. Kinh nghiệm liên quan đến cảm tính, cảm giác, tri giác, biểu tượng. Không có gì trong nhận thức mà trước đó không do cảm giác thu nhận. Tri thức phải đi từ cái cụ thể, cái kinh nghiệm đến cái khái quát và đưa ra lý thuyết. Đó là phương pháp quy nạp. + Chủ nghĩa duy lý: R Đề-các-tơ, Xpi-nô-da, Lép-ních. Những kinh nghiệm cho trước cũng như kết quả thực nghiệm bao giờ cũng bi nghi vấn, chưa được khẳng định. Trong lý tính của con người hàm chứa những tư tưởng rõ nét một cách trực giác. Khi phát triển những tư tưởng có sẵn ấy, con người có thể thu được tri thức chính xác về thế giới. Tư duy đều dựa trên trực giác và diễn dịch. - Tư tưởng về con người và bản tính con người Đấu tranh chống các quan điểm tôn giáo và các học thuyết siêu hình của Đề-các-tơ và Lep-ních vì trong học thuyết đó có sự khẳng định, tán thành của lý tính về cơ sở niềm tin của tôn giáo. Con người chịu sự quy định của cấu trúc cơ thể trong sự tác động qua lại với môi trường và điều kiện sống (La-mê-tri), Con người là thực thể thống nhất hữu cơ giữa hai mặt linh hồn và thể xác (Đi-Đrô), con người là sản phẩm của hoàn cảnh, của xã hội (Hen-vê-tuýt) Bản tính con người vốn không ác. Sở dĩ xã hội có cái ác là do sự khiếm khuyết của các quan hệ xã hội và nền giáo dục không đúng đắn. Con người được giáo dục đúng đắn tức là sự khai sáng. - Tư tưởng về đạo đức Các nhà duy vật Pháp đã phát triển đạo đức duy vật và đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tư tưởng đạo đức thần học tôn giáo. Họ cho rằng con người không phải sinh ra là có đạo đức. Đạo đức nảy sinh dưới sự tác động của môi trường xã hội, trước hết là chính trị và 16
  17. pháp luật. Vì vậy, con người phải thay đổi điều kiện xã hội nếu muốn đạt đến đạo đức cao cả. (Đi-Đrô, Hôn-bách) IV. Triết học Cổ điển Đức 1. Điều kiện ra đời, phát triển và nét đặc thù của triết học cổ điển Đức Triết học cổ điển Đức ra đời và phát triển trong những điều kiện của chế độ chuyên chế Nhà nước Phổ. Song, thời kỳ cuối thế kỷ XVIII cuộc Cách mạng tư sản Pháp (1789) ảnh hưởng mạnh đến nước Phổ, và Hêghen là một người tán dương cuộc cách mạng đó. Đồng thời xã hội Phổ lúc này với những điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt đã làm nảy sinh hệ tư tưởng có tính chất tiểu tư sản, thoả hiệp. Tất cả cái đó tạo nên nét riêng của triết học cổ điển Đức. Đặc trưng những học thuyết duy tâm của triết học cổ điển Đức là: khôi phục lại truyền thống phép biện chứng; bước chuyển từ chủ nghĩa duy tâm chủ quan, tiên nghiệm của Cantơ đến chủ nghĩa duy tâm khách quan của Hêghen; phê phán phép siêu hình truyền thống "lý tính"; chú ý đến vấn đề triết học lịch sử. 2. Một số nội dung triết học cổ điển Đức a. Tư tưởng về nguồn gốc thế giới Có duy vật, duy tâm và nhị nguyên luận - Can-tơ: nhà sáng lập triết học cổ điển Đức. Một mặt thừa nhận thế giới “vật tự nó” tồn tại khách quan, có thể tác động lên giác quan con người. - Heghen: nguồn gốc của mọi sự vật, hiện tượng tự nhiên và xã hội là ý niệm tuyệt đối. - Phoi ơ bắc: thế giới là thế giới vật chất, giới tự nhiên không do ai sáng tạo ra, nó tồn tại độc lập với ý thức và không phụ thuộc vào bất cứ thứ triết học nào. b. Tư tưởng biện chứng - Can-tơ: Người sáng lập PBC cổ điển Đức. Đưa ra giả thuyết vũ trụ luận và sự hình thành hệ hành tinh từ “đám mây mù đầu tiên”. Sự phát triển không chỉ là “trạng thái của tự nhiên”, mà còn là nguyên lý quan trọng nhận thức về tự nhiên. - Heghen: Thành tựu quan trong nhất của triết học Heghen là phương pháp biện chứng mà hạt nhân hợp lý của nó là tư tưởng về sự phát triển. Hệ thống triết học của ông gồm ba phần: Lôgic học, triết học tự nhiên, triết học tinh thần. Lôgic học: “ý niệm tuyệt đối” vận động và phát triển thì đó là sự tự vận động. Tồn tại, bản chất, khái niệm là ba sự quy định, ba hình thức chủ yếu của “ý niệm tuyết đối” trong quá trình phát triển. (phù hợp quá trình nhận thức của con người: mới nhìn vào sự vật thấy tồn tại, đi sâu thấy bản chất, nắm bản chất rút ra khái niệm). Trong loogic học tồn tại, Heghen đưa ra các phạm trù chất, lượng, độ, và tư tưởng biện chứng về sự chuyển hóa từ lượng đến chất và ngược lại. Ở phần bản chất, ông đưa ra các cặp phạm trù bản chất, hiện tượng, quy luật, khả năng, hiện thực, nguyên nhân, kết quả, 17
  18. học thuyết về mâu thuẫn và sự phát triển. Ở phần khái niệm, ông đưa ra phạm trù cái chung, cái riêng, quy nạp, diễn dịch, phân tích, tổng hợp, nguyên lý thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, quan niệm về sự phát triển với tư cách là phủ định của phủ định. Leenin coi Heghen là người phác thảo về PBC. Trong triết học tự nhiên, có tư tưởng về sự thống nhất giữa vật chất và vận động, dự đoán giữa không gian, thời gian và vận động có mâu thuẫn bên trong c. Tư tưởng về con người - Can-tơ: Về các chủng tộc người khác nhau (1775), tất cả mọi người đều thuộc một loài nhưng do tác động của điều kiện tự nhiên-vật chất khác nhau mới thành các chủng tộc khác nhau. Tư tưởng về bốn bước phát triển của xã hội loài người; vai trò hoạt động cải tạo của con người với tư cách là chủ thể thế giới - Heghen: Tư duy, tinh thần là nguồn gốc duy nhất của mọi cái trong tồn tại. Hoạt động thực tiễn của con người chính là quá trình tự ý thức, tự nhận thức, lịch sử loài người chính là lịch sử tư duy. - Phoi-ơ-bắc: chủ nghĩa nhân bản. Con người là sản phẩm cao nhất của giới tự nhiên. Thành tựu TH CĐ Đức về con người là: đề cao sức mạnh con người, khẳng định tư duy, ý thức chỉ phát triển trong chừng mực con người nhận thức và cải tạo thế giới, con người là chủ thể và là kết quả hoạt động của mình d. Tư tưởng về đạo đức - Can-tơ: Lý tính là nguồn gốc duy nhất sinh ra các nguyên lý, chuẩn mực đạo đức. Nguyên tắc cơ bản của đạo đức là tuân theo mệnh lệnh tuyệt đối. - Heghen: Trình bày các phạm trù đạo đức, thiện – ác và những mâu thuẫn nội tại cũng như sự chuyển hóa giữa chúng. Học thuyết đạo đức của Heghen kết thúc bằng lý luận về nhà nước. Đạo đức cao cả là yêu nước, phục tùng nhà nước. Hạn chế: Đề cao và bảo vệ nhà nước quân chủ Phổ, nhà nước lý tưởng! - Phoi-ơ-bắc: Đạo đức chỉ tồn tại trong quan hệ người. Nhiệm vụ đạo đức học là khám phá ra con đường tới sự hài hòa giữa nghĩa vụ và hạnh phúc, giữa lợi ích. V. Một số trào lưu triết học Phương Tây hiện đại 1. Điều kiện ra đời, phát triển và nét đặc thù của triết học phương Tây hiện đại - Từ giữa TK XIX, khoa học – kỹ thuật phát triển -> CNTB phát triển mạnh. Con người vươn lên làm chủ hoàn cảnh. Song chính điều này khiến con người phụ thuộc và KH-KT, chịu tác động trở lại của các thành tựu, thành nạn nhân của KH-KT - Hoài nghi, mất lòng tin vào lịch sử, mất nhân tính. (Sức mạnh của nó càng tăng lên bao nhiêu thì nó càng trở nên nghèo nàn bấy nhiêu) -> Nét đặc thù của TH P.Tây hiện đại là diễn ra theo hướng có sự điều hòa mâu thuẫn giữa khoa học với tôn giáo, sự tách biệt đối lập giữa CN duy lý và chủ nghĩa nhân bản. 18
  19. -> Ba trường phái chủ yếu: chủ nghĩa duy khoa học, chủ nghĩa nhân bản phi duy lý, chủ nghĩa Tô-mát mới. 2. Một số nội dung a. Triết học duy khoa học - Đại diện là chủ nghĩa thực chứng: Chỉ có những khoa học cụ thể mới cung cấp tư liệu thiết thực. Khoa học tự nó đã là triết học. + Ô-guýt-tơ Công-tơ (1789-1957): người sáng lập chủ nghĩa thực chứng. b. Triết học nhân bản phi duy lý - Trong vấn đề con người và xã hội, giai cấp tư sản không muốn thừa nhận quy luật khách quan của sự phát triển nên họ đề cao chủ nghĩa phi duy lý, hình thành trào lưu triết học nhân bản phi duy lý. Xu hướng của trào lưu này là xóa bỏ lý tính, coi cơ sở của triết học là trực giác thể nghiệm trực tiếp và trình bày quá trình phát triển của tư nhiên, xã hội như cái gì vô lý, không quy luật và vô nghĩa. - Hình thức thể hiện là “triết học cuộc sống”, “triết học hiện sinh”, triết học Phơ-rớt”. c. Triết học tôn giáo - Chuyên suy luận triết học độc lập về Chúa và tôn giáo. Điển hình là chủ nghĩa Tô-mát mới. Dựa trên cơ sở triết học Tô-mát Đa-canh. Lấy Chúa làm nòng cốt, lấy đức tin là tiền đề, lấy thần học làm căn cứ. + Lấy Chúa làm nguyên tắc tối cao, nhưng vẫn thừa nhận nhất định vai trò của khoa học. Vấn đề là dung hòa giữa tri thức và đức tin, khoa học và thần học. 19
  20. CHƯƠNG IV: KHÁI LƯỢC LỊCH SỬ TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN I. Điều kiện ra đời triết học Mác 1. Điều kiện kinh tế- xã hội - Sự củng cố và phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong điều kiện cách mạng công nghiệp Cuộc cách mạng công nghiệp, LLSX phát triển, PTSX TBCN được củng cố vững chắc, : "Giai cấp tư sản, trong quá trình thống trị giai cấp chưa đầy một thế kỷ, đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn LLSX của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại".(C.Mác và Ph,Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà nội, 1995, t.4, tr.603.) Chủ bao mua và những người thợ kéo sợi Máy kéo sợi Gien ny G.Oát (1736 - 1819)- người hoàn thành việc phát minh ra máy hơi nước Xe lửa Xti phen xơ Máy móc trong nông nghiệp Một trong những hệ quả quan trọng nhất của cách mạng công nghiệp Anh là sự thay đổi căn bản trong cấu trúc giai cấp của dân cư Anh: Tư sản và vô sản trở thành hai giai cấp cơ bản trong xã hội. Tạo tiền đề cho sự phát triển về mọi mặt của xã hội: nó xóa bỏ chế độ quân chủ chuyên chế phong kiến, thiết lập thể chế cộng hòa, dân chủ tự do. Những mâu thuẫn xã hội bộc lộ ngày càng rõ rệt và gay gắt, xung đột giữa tư sản và vô sản đã trở thành những cuộc đấu tranh giai cấp. - Sự xuất hiện giai cấp vô sản trên vũ đài lịch sử với tính cách một lực lượng chính trị- xã hội độc lập Vào những năm 30- 40 của thế kỷ XIX phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân từ tự phát sang tính chất tự giác. Giai cấp tư sản không còn đóng vai trò là giai cấp cách mạng Giai cấp vô sản tiên phong trong cuộc đấu tranh cho nền dân chủ và tiến bộ xã hội. - Nhu cầu lý luận của thực tiễn cách mạng Thực tiễn xã hôi, đòi hỏi phải được soi sáng bằng lý luận nói chung và triết học nói riêng. Nhiều học thuyết, quan điểm lý luận về triết học, kinh tế và chính trị xã hội xuất hiện. Nhu cầu lý luận của thực tiễn cách mạng Sự xuất hiện giai cấp vô sản tạo cơ sở cho sự hình thành lý luận cách mạng. C.Mác và Ph.Ăngghen đã đáp ứng được yêu cầu, trong đó triết học đóng vai trò là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận. 2. Tiền đề lý luận 20
  21. C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa có phê phán Triết học cổ điển Đức,Kinh tế chính trị học Anh, Chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp. - Triết học cổ điển Đức + G. Hêghen (1770-1831) Là người đầu tiên xây dựng triết học thành một khoa học, trình bày các quy luật của phép biện chứng. Nhưng xuất phát từ lập trường duy tâm khách quan, nên phép biện chứng của ông là phép biện chứng duy tâm. Sự kế thừa của Mác và Ăngghen đối với hệ thống triết học Hêghen C.Mác và Ph.Ăngghen đã lọc bỏ những yếu tố duy tâm, thần bí, kế thừa, phát triển phép biện chứng của Hêghen, xây dựng PBCDV + Triết học Phơbách (1804- 1872) Là CNDV nhân bản, siêu hình. Duy tâm trong việc giải quyết các vấn đề xã hội. Sự kế thừa của Mác và Ăngghen đối với hệ thống triết học Phơbách Phê phán quan điểm siêu hình về tự nhiên, duy tâm trong quan niệm về xã hội của Phơbách, xây dựng nên CNDVBC cả về tự nhiên và xã hội. - Đại biểu của kinh tế chính trị họcAnh : Ricácđô (1772 - 1823), A.Xmith (1723 - 1790) Từ tư tưởng kinh tế của A. Xmith, Ricácđô, về học thuyết giá trị, C.Mác đã nhận ra rằng, kinh tế là yếu tố quy định quy luật vận động của lịch sử, từ đó hoàn thiện quan niệm duy vật lịch sử, xây dựng nên các học thuyết kinh tế. - CNXH không tưởng Pháp Tư tưởng của S. Phuriê (1772 - 1837) và Xanh Ximông (1769 - 1825) về hình mẫu xã hội cộng sản dựa trên chế độ công hữu và lao động tập thể. C.Mác và Ph.Ăngghen đã khắc phục tính không tưởng trong học thuyết của Xanh Xi mông và Phuriê, CNXH từ không tưởng trở thành khoa học. 3. Những tiền đề khoa học tự nhiên Sự phát triển của triết học nói chung, triết học duy vật nói riêng, không thể tách rời với sự phát triển của các khoa học cụ thể, đặc biệt là khoa học tự nhiên. Như Ph.Ăngghen đã chỉ rõ, mỗi khi KHTN có những phát minh mang tính chất vạch thời đại thì CNDV không thể không thay đổi hình thức của nó. Những tiền đề khoa học tự nhiên Ba phát minh trong KHTN vạch thời đại giữa thế kỷ XIX : 21
  22. Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng. Thuyết tế bào Thuyết tiến hóa của Đacuyn. Những phát minh đó đã vạch ra mối liên hệ thống nhất, các hình thức vận động vật chất của thế giới, tính biện chứng của sự vận động và phát triển của nó. Chứng tỏ rằng, sự ra đời của triết học Mác là một tất yếu lịch sử. Đòi hỏi vĩ nhân xuất hiện II. Những giai đoạn chủ yếu trong hình thành và phát triển triết học Mác-Lênin 1. Giai đoạn Mác-Ăngghen a. Quá trình chuyển biến tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen từ CNDT và dân chủ cách mạng sang CNDV và CSCN. Các-Mác (5.5.1818 – 14.3.1883) Bước đầu hoạt động chính trị Tác phẩm khoa học đầu tiên là luận án tiến sĩ, với đề tài “Sự khác nhau giữa triết học tự nhiên của Đêmôcrit và triết học tự nhiên của Êpiquya” bảo vệ năm 1841. Nội dung luận án mang màu sắc triết học và chính trị. Nội dung luận án đứng trên lập tr- ường duy tâm của Hêghen. Phri đrích Ăngghen (28.11.1820 – 5.8.1895) Năm 1839, Ăngghen xuất bản Những bức thư từ Vesphali, nội dung thư có thiện cảm sâu sắc với công nhân. Năm 1841, Ăngghen đi Béclin làm nghĩa vụ quân sự. Báo Sông Ranh (cuối 1842 đến đầu 1843) đánh dấu sự chuyển biến từ CNDT sang CNDVBC, từ CNDCCM sang CNXHKH của Mác và Ăngghen Chủ đề những bài báo của Mác là bảo vệ lợi ích của những người lao động. Chính phủ phản động Phổ đóng cửa tờ báo năm 1843, kết tội Mác tuyên truyền cách mạng và tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản. Tháng 11 năm 1843, Mác đến Pari xuất bản tạp chí Niên giám Pháp - Đức. 2 tác phẩm Góp phần vào vấn đề châu Âu và Góp phần phê phán triết học Pháp quyền của Hêghen. Lời nói đầu. Mác đoạn tuyệt với CNDT và chống lại phái Hêghen trẻ là Brunô Baue. Đến 1844 Mác và Ăngghen cùng viết trên tờ Niên giám Pháp - Đức, mở đầu tình bạn vĩ đại của 2 ông. b. Giai đoạn đề xuất những nguyên lý triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử - Năm 1844, Mác viết Bản thảo kinh tế - triết học, t.42 Sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản, xoá bỏ chế độ tư hữu, trả lại bản chất người đích thực cho con người. Khởi thảo những nguyên lý xuất phát của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy 22
  23. vật lịch sử, luận chứng cho thế giới quan cộng sản chủ nghĩa. - Năm 1845, Ăngghen xuất bản cuốn Tình cảnh của giai cấp lao động ở Anh, (Tập 2, tr317-398) Chỉ ra vai trò lịch sử của giai cấp vô sản trong việc thủ tiêu chủ nghĩa tư bản. Giai cấp vô sản không chỉ là giai cấp đau khổ mà địa vị kinh tế - xã hội của nó buộc nó phải đấu tranh giải phóng đến cùng. - Năm 1844 - 1846, Gia đình thần thánh Phê phán phái Hêghen trẻ - 1845: "Luận cương về Phoiơbắc" - chỉ ra những hạn chế của chủ nghĩa duy vật cũ và " khẳng định: Các nhà triết học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là cải tạo thế giới " (C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.3, tr.12). Từ "Sự khốn cùng của triết học" đến "Tuyên ngôn của Đảng cộng sản": sự kết thúc quá trình hình thành của chủ nghĩa Mác. Tác phẩm: Sự khốn cùng của triết học. Trả lời cuốn Triết học về sự khốn cùng của Pruđông (1847). Là tác phẩm đầu tiên chín muồi về chủ nghĩa xã hội khoa học. Tuyên ngôn của Đảng cộng sản. Là văn kiện có tính chất cương lĩnh của thế giới quan mác xít, hoàn thành chủ nghĩa Mác, là cương lĩnh của tổ chức "Đồng minh những người cộng sản" do Mác và Ăngghen soạn thảo từ tháng 12 năm 1847 đến tháng Giêng năm 1848 Từ 1848 - 1852, Mác và Ăngghen đã xuất bản một loạt tác phẩm, tổng kết kinh nghiệm của cách mạng phát triển các nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa xã hội khoa học: Cách mạng và phản cách mạng ở Đức Ăngghen 1852; Đấu tranh giai cấp ở Pháp. C.Mác 1850; Ngày mười tám tháng Sương mù của Lui Bônapáctơ C.Mác 1852; c. Giai đoạn Mác và Ăngghen bổ sung, phát triển những quan điểm triết học Sau "tuyên ngôn của Đảng cộng sản", các sự cách mạng 1848 - 1849 ở Đức, Pháp, áo, Công xã Pari (1871), thành lập Quốc tế I (1864 - 1872). Sau 1861, Nga bắt đầu phát triển chủ nghĩa tư bản. Đầu những năm 70, nước Đức được thống nhất. Các nước Đông Âu, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa thống trị. Chủ nghĩa tư bản ở Mỹ, Nhật phát triển. Các quan điểm triết học của Mác và Ăngghen được tiếp tục phát triển trong các tác phẩm tiếp theo. Chủ nghĩa Mác, trở thành hệ tư tưởng khoa học được thừa nhận trong phong trào công nhân của những nước lớn ở Tây Âu. Nhiều vấn đề triết học cần được giải quyết triệt để hơn nữa nhất là phải nghiên cứu kinh 23
  24. tế - chính trị học ở một trình độ cao hơn để phân tích phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa; điều đó sẽ làm cơ sở cho việc phát triển thế giới quan khoa học của giai cấp vô sản. Trong năm 1848 - 1852, Mác và Ăngghen tổng kết kinh nghiệm của cách mạng qua các tác phẩm: Cách mạng và phản cách mạng ở Đức (Ăngghen 1852) Đấu tranh giai cấp ở Pháp , (C.Mác 1848 - 1850) Ngày mười tám tháng Sương mù của Lui Bônapáctơ (C.Mác 1852) Trong các tác phẩm này, chủ yếu các ông phát triển các nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa xã hội khoa học, trong đó đặc biệt là học thuyết về chuyên chính vô sản và cách mạng. Những vấn đề cơ sở của chủ nghĩa duy vật lịch sử được phát triển trong bộ Tư bản. - Công xã Pari (1871) đánh dấu chủ nghĩa tư bản công nghiệp thành chủ nghĩa đế quốc. - Chủ nghĩa Mác đã hợp nhất được phong trào công nhân với chủ nghĩa xã hội. - Cuộc cách mạng vô sản nhằm giành Chính quyền về tay giai cấp công nhân và thiết lập chính quyền vô sản. Nội chiến ở Pháp (1871) Mác đã tổng kết kinh nghiệm của Công xã, hình thức Nhà nước của chuyên chính vô sản Phê phán Cương lĩnh Gôtha (1875), làm phong phú thêm học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, tính tất yếu từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản. chỉ rõ hai giai đoạn của hình thái xã hội cộng sản chủ nghĩa, cơ sở phân chia giai đoạn và những đặc điểm cơ bản của các giai đoạn. Chống Duyrinh (1878), Ăngghen đã hoàn thành tất cả những nguyên lý của triết học mác xít, các phạm trù, quy luật của triết học, chủ nghĩa duy vật lịch sử, bảo vệ nguyên tắc tính Đảng trong triết học, vấn đề cơ bản của triết học, định nghĩa về vận động. Mác là nhà toán học Ăngghen đã để nhiều năm nghiên cứu khoa học tự nhiên, đã khái quát lịch sử khoa học tự nhiên về mặt triết học trong tác phẩm nổi tiếng của mình phép biện chứng của tự nhiên. Trong tác phẩm này, Ăngghen đã luận chứng một tư tưởng là: sự phát triển của các khoa học tự nhiên, mở đầu từ thời đại Phục Hưng, diễn ra theo con đường mà đến giữa thế kỷ XIX, khoa học tự nó, tuy không nhận thức được điều đó, đã tiếp cận cách biểu hiện chứng về giới tự nhiên. Phép biện chứng của tự nhiên . Qua việc phan tích tính lịch sử khoa học tự nhiên, Ăngghen chỉ rõ phương pháp tư duy siêu hình được quy định bởi lịch sử và là tất yếu trong thời đại của nó. Vào thế kỷ XVIII, phương pháp siêu hình giúp cho khoa học tự nhiên hệ thống hoá các tài liệu đã tích luỹ được; đến cuói thế kỷ XVIII, phương pháp tư duy ấy bắt đầu bị loại bỏ, và vào giữa thế kỷ XIX thì nó hoàn toàn biến thành xiềng xích lớn nhất kìm hãm sự phát triển của khoa học tự nhiên. Đồng thời, nó lại được giai cấp tư sản củng cố vì lợi ích của giai cấp đó. Vì thế phương pháp siêu hình giữa thế kỷ 24
  25. XIX đưa các nhà khoa học tự nhiên đến với thần học. Trong tác phẩm này, Ăngghen phân loại các hình thức vận động của vật chất mà điều đó có một ý nghĩa lớn đối với sự phát triển của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Về thực chất, Ăngghen trình bày giả thuyết về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển của thế giới vật chất, và cố gắng phác hoạ một sơ đồ về bức tranh của giới tự nhiên Sự phát triển của khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX trong thế kỷ XX đem lại những cái mới mà những quan điểm của Ăngghen về các hình thức vận động vật chất đã lạc hậu. Nhưng, việc tiếp cận biện chứng chung đến chỗ hiểu được các kết quả phát triển khoa học, đến việc giải thích giới tự nhiên vẫn còn giữ nguyên ý nghĩa của chúng trong thời đại ngày nay. việc vận dụng và phát triển phép biện chứng duy vật được nghiên cứu trong các tác phẩm: Nội chiến ở Pháp (1871); Phê phán Cương lĩnh Gôta (1875) của Mác; Sự phát triển của chủ nghĩa xã hội từ không tưởng đến khoa học (1880); Nguồn gốc của gia đình, của sở hữu tư nhân và của Nhà nước (1884); Lútvích Phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức (1886) của Ăngghen. Như Mác viết trong "Lời tựa" cho tác phẩm Góp phần phê phán khoa học kinh tế - chính trị, lịch sử triết học Mác chứng tỏ toàn bộ quan điểm của Mác và Ăngghen là kết quả nghiên cứu trung thực của nhiều năm; tính chân lý và tính cách mạng của nó không có gì đáng nghi ngờ. Và triết học Mác, ngay từ khi mới ra đời, đã biểu hiện ra không phải là những điều cứng nhắc, mà là kim chỉ nam cho hành động. Đó là học thuyết triết học sinh động, luôn phát triển một cách sáng tạo trong mối liên hệ hữu cơ với thực tiễn và các khoa học khác. 2. V.I. Lênin (1870-1924) bảo vệ và phát triển triết học Mác a. Hoàn cảnh lịch sử - Cuối thế kỷ XIX chủ nghĩa tư bản chuyển sang đế quốc . Chủ nghĩa tư bản tiếp tục phát triển. Đấu tranh giai cấp giữa vô sản và tư sản ngày một tăng cường. Đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa phát triển mạnh. Trung tâm cách mạng chuyển từ Đức sang Nga. Giai cấp vô sản Nga trở thành đội tiên phong của phong trào công nhân quốc tế, cùng với giai cấp nông dân đã thực hiện cuộc cách mạng dân chủ tư sản, sau đó tiếp tục phát triển sang cách mạng xã hội chủ nghĩa. Thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga năm 1917 đã mở đầu cho một thời đại mới. - Khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX đòi hỏi sự khái quát về mặt triết học, trả lời những câu hỏi mà thời đại đặt ra. Các thứ chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật siêu hình đã không đưa ra được câu trả lời đúng đắn. 25
  26. - Các khuynh hướng duy tâm chủ nghĩa phản động như chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán, chủ nghĩa thực dụng Chủ nghĩa xét lại đội lốt "đổi mới" chủ nghĩa Mác hòng thay thế chủ nghĩa duy vật biện chứng của Mác bằng các biến dạng của chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo. Với tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán và nhiều tác phẩm khác, V.I. Lênin đã chống lại tất cả các trào lưu thù địch đó. Triết học của Lênin là sự phát triển triệt để triết học của Mác và Ăngghen trong những điều kiện mới. b. Nội dung cơ bản của quá trình V.I.Leenin phát triển triết học Mác - Giai đoạn 1893 - 1907 Những năm 80 của thế kỷ XIX, chủ nghĩa Mác đã được nhóm "giải phóng lao động" do Plêkhanốp đứng đầu truyền bá vào nước Nga. Nhóm này đã dịch ra tiếng Nga những tác phẩm : Sự khốn cùng của triết học, Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, Lútvích Phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức, .v.v Plêkhanốp đã chống lại phái dân tuý tự do chủ nghĩa, đặc biệt là các tác phẩm như: Chủ nghĩa xã hội và đấu tranh chính trị, Những sự bất đồng giữa chúng ta, Bàn về sự phát triển của quan điểm nhất nguyên về lịch sử, Khái luận về lịch sử của chủ nghĩa duy vật. Nhóm "Giải phóng lao động" đã có những đóng góp nhất định trong cuộc đấu tranh chống phái dân tuý tự do chủ nghĩa và bước đầu truyền bá chủ nghĩa Mác vào nước Nga. Plêkhanốp không đứng trên lập trường mác xít để xác định động lực của cuộc cách mạng dân chủ tư sản đang chín muồi ở nước Nga; không thấy được vai trò cách mạng của giai cấp công nhân; mơ hồ và cơ hội chủ nghĩa đối với vai trò của giai cấp tư sản thời đó. Giữa những năm 90 của thế kỷ XIX, người bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác, lãnh đạo phong trào cách mạng Nga là V.I.Lênin. Lênin đã viết các tác phẩm triết học như Những "người bạn dân" là thế nào và họ đấu tranh chống những người dân chủ - xã hội ra sao ? (1894), Nội dung kinh tế của chủ nghĩa dân tuý và sự phê phán trong cuốn sách của ông Xtơruvê về nội dung đó (1894), Chúng ta từ bỏ di sản nào ? (1897), Làm gì ? (1902). v.v Trong tác phẩm Làm gì Lênin phát triển chủ nghĩa duy vật lịch sử ở thời kỳ này. Ông đã phát triển tư tưởng của chủ nghĩa Mác về các hình thức đấu tranh của giai cấp vô sản trước khi có chính quyền: đấu tranh kinh tế, đấu tranh chính trị, đấu tranh tư tưởng. Đấu tranh kinh tế có vai trò quan trọng vì nó thu hút, lôi cuốn giai cấp công nhân vào cuộc đấu tranh cho lợi ích giai cấp. Nhưng đấu tranh chính trị mới là quyết định, vì mục đích của nó là tiến đến lật đổ giai cấp thống trị bóc lột, giành lấy chính quyền về tay giai cấp công nhân. Tác phẩm Hai sách lược của Đảng dân chủ - xã hội trong cách mạng dân chủ được Lênin viết vào năm 1905 đã, đặt mình trong nhiệm vụ nghiên cứu, phát triển những vấn đề quan 26
  27. trọng của lý luận cách mạng trong thời đại mới - thời đại đế quốc chủ nghĩa như: vấn đề lực lượng cách mạng, vấn đề xác lập quyền lãnh đạo của giai cấp công nhân và chính Đảng của nó trong cuộc cách mạng dân chủ tư sản như là điều kiện tiên quyết để chuyển trực tiếp cuộc cách mạng đó sang cách mạng xã hội chủ nghĩa, vấn đề khả năng thắng lợi của cách mạng vô sản trong một nước riêng biệt .v.v Lênin phân tích cuộc khủng hoảng vật lý học làm sâu sắc thêm lý luận nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Cuối thế ký XIX đầu thế ký XX những phát minh lớn trong vật lý học hỏi thay đổi các kết luận cũ của vật lý về kết cấu vật chất. Sự phát minh ra điện tử và cấu tạo hạt nhân mở đầu "cuộc cách mạng mới trong khoa học tự nhiên", dẫn tới thay đổi những khái niệm vật lý cũ. một số nhà vật lý hoc đã rút ra những kết luận duy tâm và bất khả thi, chứng tỏ không hiểu biết về lý luận nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng Lênin viết: "Vật lý học mới sở dĩ đi chệch sang phía chủ nghĩa duy tâm, chủ yếu là vì các nhà vật lý học không hiểu được phép biện chứng"[1] Từ sự phát hiện của vật lý học, các nhà duy tâm đã rút ra kết luận sai lầm về vật chất "biến mất", "vật chất đã tiêu tan". Kết quả sự nghi ngờ của nhà vật lý học đã dẫn đến cuộc khủng hoảng. - Giai đoạn từ sau 1907 đến Cách mạng tháng Mười Nga 1917 Sau thất bại của cuộc cách mạng 1905 - 1907, nước Nga bước vào thời kỳ thống trị của các lực lượng phản động.Trong triết học, một số ngả theo chủ nghĩa duy tâm, thần bí, xuất hiện trào lưu "tìm thần" và "tạo thần" trong giới trí thức. Những người theo chủ nghĩa Makhơ ở Nga muốn làm sống lại triết học duy tâm của Béccơli và Hium. Năm 1908 Lênin viết tác phẩm: Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán (xuất bản tháng 5-1909). khái quát về mặt triết học những thành tựu khoa học tự nhiên, phê phán toàn diện triết học duy tâm và chủ nghĩa xét lại trong triết học. Lênin viết: "Thực chất của cuộc khủng hoảng của vật lý học hiện đại là ở sự đảo lộn của những quy luật cũ và những nguyên lý cơ bản, ở sự gạt bỏ thực tại khách quan ở bên ngoài ý thức, tức là ở sự thay thế chủ nghĩa duy vật bằng chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa bất khả tri"[2]. Con đường thoát khoải cuộc khủng hoảng vật lý là phải thay thế chủ nghĩa duy vật siêu hình bằng chủ nghĩa duy vật biện chứng. Sự phân nhỏ của nguyên tử, sự biến đổi của mọi hình thức vật chất cũng như sự vận động của nó là điều khẳng định hùng hồn tính đúng đắn của chủ nghĩa duy vật biện chứng, khẳng định mọi giới hạn trong tự nhiên đều chỉ là tương đối, có điều kiện, đều vận động, cũng giống như thế giới khách quan, tri thức của chúng ta về nó luôn luôn biến đổi, phát triển. [1] Sđd, t.322. 27
  28. [2] Sđd, t.318. Trong thời kỳ 1905-1907 đến (1914-1918), V.I.Lênin viết nhiều tác phẩm bảo vệ và phát triển triết học Mác và chủ nghĩa Mác nói chung. Trong đó, đặc biệt làm nổi bật ý nghĩa to lớn cải tạo thế giới của triết học Mác. Đó là những tác phẩm: Ba nguồn gốc và ba bộ phận cấu thành của chủ nghĩa Mác; Số phận lịch sử của học thuyết Mác; Các Mác. Tư tưởng của chúng ngày nay còn giữ đầy đủ giá trị. Sự phát triển phép biện chứng mác xít được Lênin trình bày trong tác phẩm Bút ký triết học (viết từ khoảng năm 1914 đến năm1916). Trong Bút ký triết học là mẫu mực tuyệt vời về sự nghiên cứu các quy luật và phạm trù của phép biện chứng duy vật; nguyên tắc về sự thống nhất giữa phép biện chứng, lôgíc học và lý luận nhận thức, về nguồn gốc nhận thức của chủ nghĩa duy tâm, về tính mâu thuẫn của sự phản ánh trong trừu tượng khoa học .v.v Đó là những cống hiến vô giá vào kho tàng triết học Mác. Trong thời kỳ Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất, Lênin tiếp tục phát triển sáng tạo phép biện chứng mác xít, áp dụng nó vào việc phân tích thời đại lịch sử mới. Những vấn đề trên được Lênin trình bày chủ yếu trong các tác phẩm : Chủ nghĩa đế quốc, giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản (viết năm 1916 xuất bản năm 1917) Nhà nước và cách mạng (viết tháng Chín năm 1917, xuất bản tháng 5 năm 1918), Bàn về khẩu hiệu Liên bang Châu Âu (viết năm 1915). Tác phẩm Chủ nghĩa đế quốc - giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản (viết năm 1916) chứa đựng sự phân tích biện chứng sâu sắc thời đại mới, vạch ra những quy luật và khuynh hướng phát triển của chủ nghĩa tư bản độc quyền. kết luận đối với phong trào cách mạng của giai cấp công nhân, đối với hoạt động của Đảng cộng sản về khả năng thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa trong một số nước, thậm chí trong một nước. Tác phẩm Nhà nước và cách mạng của Lênin (viết vào tháng chín năm 1917 xuất bản tháng 5. 1918) Người viết: "Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà được" Còn về bản chất thì " Nhà nước là một cơ quan thống trị giai cấp, là một cơ quan áp bức của một giai cấp này đối với một giai cấp khác". Sau 1917. Lênin đấu tranh chống phép siêu hình, chủ nghĩa chiết trung và thuyết nguỵ biện. Trong các tác phẩm: Bệnh ấu trĩ "tả khuynh" trong phong trào cộng sản (viết năm 1920); Lại bàn về công đoàn, về tình hình trước mắt và về những sai lầm của các đồng chí Tơrốtxky và Bukhanrin (viết nbăm 1921); Về chính sách kinh tế mới (viết năm 1921). Sự phát triển biện chứng mác xít được Lênin 28
  29. gắn liền với việc nghiên cứu các vấn đề cách mạng, phong trào công nhân, xây dựng chủ nghĩa xã hội, chiến lược, sách lược của Đảng cộng sản .v.v Như vậy, triết học Lênin không phải là "sự giải thích" triết học Mác. Trên thực tế, nó là sự khái quát kinh nghiệm và thực tiễn đấu tranh của nhân dân lao động toàn thế giới, là sự phát triển duy nhất đúng đắn và triệt để triết học Mác trong thời đại đế quốc chủ nghĩa và cách mạng vô sản. 3. Thực chất bước ngoặt cách mạng trong triết học do C.Mác và Ph.Ăng ghen thực hiện, Lênin phát triển a. Sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng Trước Mác, CNDV và PBC tách rời nhau. Nhìn chung, lịch sử triết học trước Mác thể hiện thế giới quan duy vật trong mối quan hệ với phương pháp nhận thức siêu hình, hoặc thế giới quan duy tâm trong mối quan hệ với phương pháp nhận thức biện chứng. Triết học Mác ra đời đã chứng minh tính thống nhất giữa thế giới quan và phương pháp luận: thế giới quan duy vật biện chứng thống nhất hữu có với phương pháp biện chứng duy vật. b. Sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử Cuộc cách mạng trong triết học là mở rộng CNDV sang lĩnh vực lịch sử xã hội loài người, hình thành nên CNDVLS. Chỉ ra quy luật vận động lịch sử xã hội loại người. c. Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Không chỉ là lý luận khoa học phản ánh bản chất, quy luật vận động và phát triển của thế giới, mà quan trọng hơn, đó là học thuyết nhằm mục đích cải tạo thế giới. Thế giới quan mới của Mác và Ăngghen xuất phát từ một luận đề nổi tiếng của Mác nói rằng, các nhà triết học trước kia chỉ giải thích thế giới, nhưng vấn đề là ở chỗ cải tạo thế giới. Điều đó cũng có nghĩa là đã làm biến đổi một cách căn bản tính chất vai trò xã hội của triết học, và do đó làm biến đổi căn bản địa vị của triết học trong hệ thống tri thức khoa học tự nhiên và xã hội. Điều đó cũng có nghĩa rằng, triết học tham gia cải tạo thực tiễn, chấm dứt tình trạng đối lập giữa triết học và thực tiễn , đối lập giữa triết học và các khoa học cụ thể, đối lập giữa thế giới quan và khoa học. d. Thống nhất giữa tính cách mạng và tính khoa học Thế giới quan mới của Mác và Ăngghen là thế giới quan duy vật biện chứng, không điều hoà với chủ nghĩa duy tâm và phép siêu hình . Chính Mác và Ăngghen đã giải phóng chủ nghĩa duy vật cũ khỏi phép siêu hình và giải phóng phép biện chứng khỏi sự thần bí hoá duy tâm chủ nghĩa. Cả chủ nghĩa duy vật, cả phép biện chứng đều được nâng lên một trình độ cao hơn, được thống nhất thành một chỉnh thể thống nhất như là một thế giới quan khoa học hoàn chỉnh về thế giới nói chung, về tự nhiên, về xã hội và về tư duy. 29
  30. e. Xác định đúng đắn mối quan hệ giữa triết học và các khoa học cụ thể Trên cơ sở những thành tựu của khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Ăngghen đã vạch ra rằng, mỗi lần có phát minh vạch thời đại, ngay cả trong lĩnh vực khoa học tự nhiên, thì chủ nghĩa duy vật không tránh khỏi sự thay đổi hình thức của nó. Đến lượt mình, triết học Mác ra đời đã trở thành thế giới quan khoa học và phương pháp luận chung cần thiết cho sự phát triển của khoa học. Triết học Mác ra đời đã làm thay đổi quan niệm về đối tượng của triết học là "khoa học của tất cả các khoa học", đứng trên khoa học CHƯƠNG V: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG - CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA THẾ GIỚI QUAN KHOA HỌC I. Thế giới quan và thế giới quan khoa học 1. Thế giới quan và những hình thức cơ bản của thế giới quan a. Khái niệm “thế giới quan” - TGQ là toàn bộ những quan điểm, quan niệm của con người về thế giới, về vị trí, cuộc sống của con người trong thế giới. - Các yếu tố: Tri thức, Xúc cảm, Niềm tin, Ý chí - Các cấp độ TGQ: + TGQ thông thường: Hình thành trực tiếp, tự phát từ cuộc sống thường ngày; có tính quần chúng rộng rãi; gắn với cộng đồng dân tộc, với đặc điểm của từng địa phương và tôn giáo; biểu hiện qua ca dao, tục ngữ, thói quen, truyền thống, v.v + TGQ lý luận: Mang tính tự giác; được luận chứng bằng các quan điểm lý luận; có tính khái quát, hệ thống. b. Những hình thức cơ bản của thế giới quan - Huyền thoại: Là hình thức thế giới quan đặc trưng cho trình độ nhận thức còn thấp của người nguyên thủy trong giai đoạn sơ khai của lịch sử loài người. Các yếu tố hiện thực và tưởng tượng, cái có thật và cái hoang đường, lý trí và tín ngưỡng, tư duy và xúc cảm hòa quyện vào nhau. - Tôn giáo: Tôn giáo là sự phản ánh hư ảo thế giới hiện thực. Tôn giáo ra đời trong điều kiện trình độ nhận thức và thực tiễn còn thấp, khi mà con người bất lực trước lực lượng tự nhiên cho nên đẫ gán cho nó một bản chất siêu tự nhiên, 30
  31. một thế mạnh siêu thế gian. Đặc trưng chủ yếu của TGQ tôn giáo là niềm tin vào sức mạnh của lực lượng siêu nhiên đối với thế giới, đối với con người, cũng như niềm tin vào một thế giới khác hoàn thiện, hoàn mỹ sau khi chết. - Triết học: Triết học chỉ xuất hiện khi sự phát triển của tư duy loài người đạt tới một trình độ nhất định. Triết học không chỉ nêu lên các quan điểm mà còn giải thích, chứng minh các quan điểm đó. Triết học phản ánh thế giới bằng hệ thống các khái niệm, phạm trù lý luận. Nếu trong huyền thoại yếu tố biểu tượng cảm tính đóng vai trò chủ đạo thì trong triết học tư duy lý luận lại là yếu tố chủ đạo. Các quan điểm triết học là cơ lý luận, chi phối các quan điểm chính trị, kinh tế, đạo đức, thẩm mỹ, v.v Triết học là "hạt nhân" lý luận của TGQ. 2. Thế giới quan duy vật và lịch sử phát triển của thế giới quan duy vật a. Thế giới quan duy tâm và thế giới quan duy vật Vấn đề cơ bản của triết học và sự phân chia TGQ duy vật, TGQ duy tâm. "Vấn đề cơ bản của toàn bộ triết học, nhất là của triết học hiện đại là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại". (C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.21, tr. 403). - TGQ duy tâm: là TGQ thừa nhận bản chất của thế giới là tinh thần và thừa nhận vai trò quyết định của các yếu tố tinh thần đối với thế giới vật chất nói chung, đối với con người, xã hội loài người nói riêng. - TGQ duy vật: là TGQ thừa nhận bản chất của thế giới là vật chất, thừa nhận vai trò quyết định của vật chất đối với các biểu hiện của đời sống tinh thần và thừa nhận vị trí, vai trò của con người trong cuộc sống hiện thực. b. Lịch sử phát triển của thế giới quan duy vật TGQ duy vật chất phác TGQ duy vật siêu hình TGQ duy vật biện chứng c. Vai trò của thế giới quan TGQ như là "lăng kính", thông qua đó con người tìm hiểu, khám phá thế giới. TGQ giúp con người thấy được vị trí, vai trò con người trong thế giới, cũng như mục đích, ý nghĩa cuộc sống, từ đó định hướng về mặt thái độ, cũng như hoạt động sống của con người. TGQ duy vật ảnh hưởng tích cực đến thái độ, hành vi của con người, đem lại cho họ một 31
  32. niềm tin khoa học, giúp họ chủ động cải tạo tự nhiên, xã hội để tự định đoạt lấy số phận của mình. II. Nội dung, bản chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng với tư cách là hạt nhân của thế giới quan khoa học 1. Nội dung của CNDVBC a. Quan điểm duy vật về thế giới Bản chất của thế giới là vật chất; thế giới thống nhất ở tính vật chất. b. Quan điểm duy vật về xã hội - Xã hội là một bộ phận đặc thù của tự nhiên - Sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội; phương thức sản xuất quyết định quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung; tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội - Sự phát triển của xã hội là một quá trình lịch sử-tự nhiên - Quần chúng nhân dân là chủ thể chân chính sáng tạo ra lịch sử 2. Bản chất của CNDVBC - Giải quyết đúng đắn vấn đề cơ bản của triết học từ quan điểm thực tiễn - Sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật với phép biện chứng - Chủ nghĩa duy vật triệt để, quan niệm duy vật lịch sử Chủ nghĩa duy vật lịch sử là kết quả của sự kế thừa có chọn lọc, phê phán lịch sử tư tuởng, sự nghiên cứu, tổng kết thực tiễn lịch sử xã hội. CNDVLS là một cống hiến vĩ đại của C.Mác và Ph.ăngghen vào kho tàng lý luận của nhân loại. Quan niệm duy vật về lịch sử của C.Mác đã đem đến cho loài người tiến bộ một công cụ vĩ đại để nhận thức và cải tạo thế giới. Các tác phẩm: Hệ tư tưởng Đức, Tư bản, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, v.v - - - Tính thực tiễn - cách mạng Triết học Mác gắn bó khăng khít với thực tiễn đấu tranh và sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản. C.Mác viết: "Các nhà triết học trước đây chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, vấn đề là cải tạo thế giới". V.I.Lênin viết: "Triết học Mác đã tìm thấy ở giai cấp vô sản lực lượng vật chất và giai cấp vô sản đã tìm thấy ở triết học Mác lực lượng tinh thần". "Triết học của Mác là một chủ nghĩa duy vật triết học hoàn bị, nó cung cấp cho loài người, nhất là cho giai cấp công nhân công cụ nhận thức vĩ đại". III. Những nguyên tắc phương pháp luận của CNDVBC và việc vận dụng nó vào sự 32
  33. nghiệp cách mạng ở Việt Nam giai đoạn hiện nay 1. Tôn trọng khách quan Theo V.I.Lênin, "tính khách quan của sự xem xét" là nguyên tắc phương pháp luận hàng đầu của CNDVBC và là căn cứ xuất phát cho mọi hoạt động nhận thức, thực tiễn. Yêu cầu của nguyên tắc khách quan: - Trong nhận thức phải xuất phát từ chính bản thân các sự vật, hiện tượng, từ những thuộc tính và mối liên hệ vốn có của nó, từ những quy luật vận động và phát triển của bản thân nó; Xem xét sự vật đúng như nó vốn có trong thực tế, không ghán ghép, bóp méo, không xuyên tạc sự thật. Phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Phải có tính khách quan, trung thực trong nhận thức, đánh giá. Không vì những lý do cá nhân, lợi ích cá nhân, cục bộ mà bóp méo, xuyên tạc sự thật, dẫn đến những thông tin không chính xác, làm ảnh hưởng đến quá trình tổ chức và quản lý xã hội. 2. Phát huy tính năng động chủ quan, phát huy nhân tố con người NTKQ không những không loại trừ mà còn đòi hỏi phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức, tính tiên phong của tư tưởng khoa học. Nói tới vai trò của ý thức, về thực chất là nói tới vai trò của con người trong nhận thức và thực tiễn. NTKQ khác hẳn với CNKQ (tuyệt đối hóa yếu tố khách quan, coi ý thức của con người hoàn toàn thụ động trước điều kiện, hoàn cảnh khách quan). Cần phân biệt giữa nguyên tắc KQ với chủ nghĩa KQ. - Phải tôn trọng tri thức khoa học - Phải làm chủ và truyền bá tri thức khoa học để trở thành tri thức, niềm tin cho quần chúng 3. Khắc phục và ngăn ngừa bệnh chủ quan duy ý chí, xa rời thực tiễn Nguồn gốc của bệnh chủ quan duy ý chí Nguồn gốc nhận thức Nguồn gốc xã hội Biểu hiện của bệnh chủ quan duy ý chí trong quá trình xây dựng CNXH ở các nước XHCN Đông Âu ở Việt Nam Biện pháp khắc phục và ngăn ngừa bệnh chủ quan duy ý chí Nâng cao trình độ nhận thức 33
  34. Đổi mới cơ chế quản lý xã hội, quản lý kinh tế Phát huy dân chủ. CHƯƠNG VI: PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT – PHƯƠNG PHÁP NHẬN THỨC KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN I. Khái quát lịch sử phát triển của phép biện chứng và nội dung cơ bản của phép biện chứng duy vật 1. Siêu hình và biện chứng; khái quát lịch sử phát triển của phép biện chứng a. Siêu hình và biện chứng - Thuật ngữ "biện chứng" cũng được hình thành từ thời Hy Lạp cổ đại với chữ "dialectic", nghĩa là tranh luận có căn cứ. Khi đó, PBC được hiểu là nghệ thuật tranh luận nhằm tìm ra chân lý bằng cách phát hiện ra mâu thuẫn trong cách lập luận của đối phương và bảo vệ quan điểm của mình. Về sau, khái niệm biện chứng dùng để chỉ những mối liên hệ, chuyển hóa, sự vận động, phát triển theo quy luật của các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Biện chứng bao gồm: biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan. - Quan điểm siêu hình "chỉ nhìn thấy những sự vật riêng biệt mà không nhìn thấy mối liên hệ qua lại giữa những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy sự tồn tại của những sự vật mà không nhìn thấy sự phát sinh và sự tiêu vong của những sự ấy, chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh của những sự vật ấy mà quyên mất đi sự vận động của những sự ấy, chỉ nhìn thấy cây mà không thấy rừng" (Ph.Ănghen). Ngược lại, quan điểm biện chứng không chỉ thấy những sự vật cá biệt mà còn thấy cả mối liên hệ qua lại giữa chúng, không chỉ thấy sự tồn tại của sự mà còn thấy cả sự sinh thành và sự tiêu vong của sự vật, không chỉ thấy trạng thái tĩnh của sự vật mà còn thấy trạng thái động của sự vật , không chỉ "thấy cây" mà còn "thấy cả rừng". Phép biện chứng là học thuyết nghiên cứu, khái quát biện chứng của thế giới thành hệ thống các nguyên lý, quy luật nhằm xây dựng hệ thống các nguyên tắc phương pháp luận của nhận thức và thực tiễn. b. Khái quát lịch sử phát triển của phép biện chứng - Phép biện chứng mộc mạc, chất phác thời cổ đại + Đạo Phật: thuyết nhân duyên, vô ngã, luân hồi, nhân quả + Thuyết Âm – Dương, Ngũ hành tương sinh tương khắc + Lão Tử: vạn vật bị chi phối bởi hai quy luật phổ biến là quân bình và phản phục. + Triết học Hy-La: Hê-ra-cơ-lit với học thuyết về dòng chảy 34
  35. - Phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức + Can tơ: tư tưởng về sự thống nhất giữa các mặt đối lập là động lực của sự vận động và phát triển. Động lực đó có trước vật chất và vận động tách rời vật chất. + Heghen: PBC duy tâm được phát triển đến đỉnh cao với hình thức và nội dung phong phú. - Phép biện chứng duy vật: + Ph.Ăngghen viết: " Phép biện chứng là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy" C.Mác và Ph.ăngghen: Toàn tập,Nxb CTQG Hà Nội, 2004, t.20, tr.201. + Đối tượng nghiên cứu của phép biện chứng duy vật: là các quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. 2. Nội dung cơ bản của PBCDV a. Hai nguyên lý của PBCDV - Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến Khái niệm về mối liên hệ, mối liên hệ phổ biến + Theo quan điểm siêu hình: các sự vật, hiện tượng tồn tại biệt lập, tách rời nhau, cái này tồn tại bên cạnh cái kia. + Theo quan điểm biện chứng: các sự vật, hiện tượng, các quá trình trong thế giới vật chất vừa tồn tại độc lập, vừa quy định, tác động qua l?i lẫn nhau. Mối liên hệ đó là phổ biến, hiện thực, là cái vốn có của mọi sự vật, hiện tượng, thể hiện tính thống nhất vật chất của thế giới. + Khái niệm mối liên hệ phổ biến chỉ sự quy định, tác động qua lại, chuyển hoá lẫn nhau giữa các mặt, các yếu tố trong một sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng trong thế giới. Tính chất của mối liên hệ phổ biến: - Tính khách quan - Tính phổ biến - mối liên hệ phổ biến - Tính đa dạng, phong phú: Sự phân loại các mối liên hệ chỉ mang tính tương đối, vì mỗi loại mối liên hệ chỉ là một hình thức, một bộ phận, một mắt xích của mối liên hệ phổ biến. - Nguyên lý về sự phát triển: Quan điểm BC và quan điểm SH về sự phát triển. Khái niệm phát triển + Quan điểm siêu hình: Hoặc phủ nhận sự phát triển họăc nếu thừa nhận thì cho rằng: Phát triển chỉ là sự tăng thêm về lượng, không có sự thay đổi về chất. Phát triển như một quá trình tiến lên giản đơn, liên tục, không có những bước quanh co phức tạp, nhảy vọt. 35
  36. Nguồn gốc của sự phát triển ở các lực lượng siêu tự nhiên hay ở ý thức con người. + Quan điểm biện chứng Phát triển là tất yếu khách quan, là khuynh hướng chung của thế giới vật chất. Phát triển là sự thay đổi về chất từ những biến đổi về lượng. Phát triển là quá trình quanh co, phức tạp, trong đó có thể có bước thụt lùi tương đối; sự phát triển diễn ra theo đường xoáy ốc. Nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay trong sự vật, là mâu thuẫn của sự vật + Tính chất của sự phát triển: Tính khách quan (độc lập với ý thức con người) Tính phổ biến (tự nhiên, xã hội và tư duy) Tính kế thừa (tất yếu, chọn lọc, phê phán, phát triển) Tính đa dạng, phong phú (ở những thời điểm, không gian và điều kiện khác nhau thì nội dung, khuynh hướng và tốc độ phát triển thể hiện khác nhau) Phát triển là một phạm trù triết học dùng để khái quát quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Phát triển là một trường hợp đặc biệt của sự vận động. b. Các cặp phạm trù cơ bản của PBCDV - Khái niệm và phạm trù + Khái niệm là hình ảnh bản chất, phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ cơ bản, tất yếu, bên trong của các sự vật và hiện tượng. + Phạm trù là những khái niệm rộng nhất phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ chung, cơ bản nhất của các sự vật và hiện tượng thuộc một lĩnh vực nhất định. Phạm trù các khoa học cụ thể và phạm trù triết học + Mỗi bộ môn khoa học đề có một hệ thống phạm trù riêng của mình, phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mỗi liên hệ cơ bản và phổ biến thuộc phạm vi khoa học đó nghiên cứu. + Phạm trù triết học là những khái niệm chung nhất phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ cơ bản và phổ biến nhất của toàn bộ thế giới hiện thực, bao gồm cả tự nhiên, xã hội và tư duy. + Giữa phạm trù triết học và phạm trù của các khoa học cụ thể có mối quan hệ biện chứng với nhau. Đó là mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng. - Cái riêng và cái chung Phạm trù cái riêng, cái chung "Cái riêng" là phạm trù được dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình riêng lẻ nhất định. "Cái chung" là phạm trù được dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính giống nhau ở nhiều sự vật, hiện tượng, quá trình riêng lẻ. 36
  37. "Cái đơn nhất" là phạm trù được dùng để chỉ những nét, những mặt, những thuộc tính chỉ có ở một kết cấu vật chất nhất định và không được lặp lại ở bất cứ một kết cấu vật chất nào khác. Mối quan hệ biện chứng giữa cái chung, cái riêng - Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng. - Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa đến cái chung. - Cái chung là một bộ phận của cái riêng, còn cái riêng không gia nhập hết vào cái chung. Cái riêng phong phú hơn cái chung, cái chung (bản chất) là cái sâu sắc, chi phối sự tồn tại, phát triển của sự vật. - Trong quá trình phát triển của sự vật, trong những điều kiện nhất định, cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hóa lẫn nhau. - Nguyên nhân và kết quả Phạm trù nguyên nhân và kết quả Nguyên nhân là một phạm trù dùng để chỉ sự tương tác giữa các mặt trong một sự vật hoặc giữa các vật với nhau gây ra những biến đổi nhất định. Kết quả là những biến đổi xuất hiện do sự tác động lẫn nhau của các mặt trong một sự vật hoặc giữa các vật với nhau. Một số tính chất của mối liên hệ nhân quả: + Tính khách quan + Tính phổ biến + Tính tất yếu Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả - Nguyên nhân sinh ra kết quả: + Nguyên nhân sinh ra kết quả, nên nguyên nhân có trước kết quả. + Một nguyên nhân có thể gây ra nhiều kết quả khác nhau tuỳ thuộc vào từng hoàn cảnh cụ thể. Ngược lại, một kết quả có thể được gây nên bởi những nguyên nhân khác nhau tác động riêng lẻ hay tác động cùng một lúc. Nguyên nhân có nhiều loại: + Nguyên nhân chủ yếu và nguyên nhân thứ yếu + Nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài + Nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan + Nguyên nhân trực tiếp và nguyên nhân gián tiếp - Sự tác động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân: + Kết quả do nguyên nhân sinh ra, nhưng sau khi xuất hiện, kết quả lại ảnh hưởng trở lại đối với nguyên nhân. + Sự ảnh hưởng đó có thể diễn ra theo hai hướng: thúc đẩy hoặc cản trở sự hoạt động của nguyên nhân 37
  38. - Sự thay đổi vị trí giữa nguyên nhân và kết quả: + Một hiện tượng nào đấy được coi là nguyên hay kết quả bao giờ cũng ở trong một quan hệ xác định cụ thể. + Trong tính vô tận của thế giới vật chất, không có hiện tượng nào được coi là nguyên nhân đầu tiên và cũng không có hiện tượng nào được coi là kết quả cuối cùng. - Tất nhiên và ngẫu nhiên + Phạm trù tất nhiên và ngẫu nhiên Tất nhiên dùng để chỉ cái do những nguyên nhân cơ bản, bên trong của kết cấu vật chất quyết định và trong những điều kiện nhất định phải xẩy ra đúng như thế chứ không thể khác. Ngẫu nhiên dùng để chỉ cái do những nguyên nhân bên ngoài quyết định; do đó, nó có thể xuất hiện, có thể không xuất hiện, có thể xuất hiện thế này, cũng có thể xuất hiện như thế khác. + Mối quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên Tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại một cách khách quan. Tất nhiên có tác dụng chi phối sự phát triển của sự vật, và ngẫu nhiên có ảnh hưởng đến sự phát triển ấy, có thể làm cho sự phát triển ấy diễn ra nhanh hoặc chậm. Tất nhiên và ngẫu nhiên tồn tại trong sự thống nhất: tất nhiên vạch đường đi cho mình thường xuyên qua vô số và ngẫu nhiên, còn ngẫu nhiên là hình thức biểu hiện của tất nhiên, đồng thời là cái bổ sung cho tất nhiên. Trong những điều kiện nhất định, tất nhiên và ngẫu nhiên có thể chuyển hoá lẫn nhau; ranh giới giữa tất nhiên và ngẫu nhiên chỉ có tính tương đối. - Nội dung và hình thức + Phạm trù nội dung và hình thức Nội dung là một phạm trù dùng để chỉ những mặt, những yếu tố, những quá trình tạo nên sự vật. Hình thức là phương thức tồn tại và phát triển của sự vật ấy, là hệ thống các mối liên hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố của nó. + Mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức Sự thống nhất và gắn bó khăng khít giữa nội dung và hình thức: Nội dung tồn tại trong những hình thức nhất định, hình thức chứa đựng một nội dung nào đó. Cùng một nội dung có thể biểu hiện qua nhiều hình thức, cùng một hình thức có thể biểu hiện những nội dung khác nhau. Nội dung quyết định hình thức trong quá trình vận động, phát triển của sự vật: Nội dung có khuynh hướng chủ đạo là biến đổi, còn hình thức cái tương đối bền vững. Khi nội dung biến đổi thì hình thức cũng biến đổi theo cho phù hợp với nội dung. 38
  39. + Sự tác động trở lại của hình thức đối với nội dung: Hình thức luôn có tính độc lập tương đối, tác động trở lại nội dung. Khi phù hợp với nội dung thì hình thức sẽ tạo điều kiện, thúc đẩy sự phát triển của nội dung; và nếu không phù hợp thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển của nội dung. - Bản chất và hiện tượng + Phạm trù bản chất và hiện tượng Bản chất là tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên tương đối ổn định ở bên trong, quy định sự vận động và phát triển của sự vật. Hiện tượng là sự biểu hiện của những mặt, những mối liên hệ đó ra bên ngoài. Phạm trù bản chất liên quan tới phạm trù cái chung và phạm trù quy luật + Quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng Bản chất và hiện tượng đều tồn tại khách quan, là hai mặt vừa thống nhất, vừa đối lập nhau. + Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng: Bản chất bao giờ cũng bộc lộ qua hiện tượng tương ứng, còn hiện tượng bao giờ cũng là sự bộc lộ của một bản chất nhất định. Không có bản chất tồn tại thuần túy tách rời hiện tượng, cũng như không có hiện tượng thuần túy, không biểu hiện một bản chất nào đó. Bản chất khác nhau sẽ bộc lộ ra những hiện tượng khác nhau. Khi bản chất thay đổi thì hiện tượng cũng thay đổi và khi bản chất biến mất thì hiện tượng cũng mất theo. + Sự đối lập giữa bản chất và hiện tượng: Bản chất là cái bên trong (những mặt, những mối liên hệ trong), còn hiện tượng là cái biểu hiện ra bên ngoài. Bản chất tương đối ổn định, biến đổi chậm, còn hiện tượng luôn luôn biến đổi. Bản chất phản ánh chung tất yếu, cái chung quyết định sự tồn tại và phát triển của sự vật, còn hiện tượng phản ánh cái cá biệt. Cùng một bản chất có thể biểu hiện ra ở nhiều hiện tượng khác nhau. Vì vậy, hiện tượng phong phú hơn bản chất, ngược lại bản chất sâu sắc hơn hiện tượng. - Khả năng và hiện thực + Phạm trù khả năng và hiện thực Khả năng là phạm trù dùng để chỉ xu hướng biến đổi, cái chưa có, chưa tới, nhưng sẽ xuất hiện khi có các điều kiện tương ứng. Còn hiện thực là khả năng đã được thực hiện, là cái hiện đang tồn tại thực sự. Phân biệt khả năng với điều kiện, tiền đề; khả năng với ngẫu nhiên; khả năng với xác suất. Phân biệt hiện thực với hiện thực khách quan. + Phân loại khả năng: Khả năng tất nhiên và khả năng ngẫu nhiên 39
  40. Khả năng gần và khả năng xa Khả năng tốt và khả năng xấu + Mối quan hệ biện chứng giữa khả năng và hiện thực Khả năng và hiện thực tồn tại trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau, không tách rời nhau, luôn chuyển hóa lẫn nhau. Hiện thực được chuẩn bị bởi khả năng, còn khả năng khi có điều kiện sẽ biến thành hiện thực. Cùng trong những điều kiện nhất định, ở cùng một sự vật, có thể tồn tại một số khả năng chứ không phải chỉ một khả năng. Ngoài một số khả năng sẵn có, trong những điều kiện mới sẽ xuất hiện những khả năng mới, đồng thời bản thân mỗi khả năng cũng thay đổi theo sự thay đổi của điều kiện. Để khả năng biến thành hiện thực, thường cần không phải chỉ một điều kiện mà là một tập hợp điều kiện. c. Các quy luật cơ bản của PBCDV - Quy luật là mối liện hệ bản chất, tất nhiên, phổ biến và lặp lại giữa các sự vật, hiện tượng; giữa các đối tượng, các yếu tố tạo thành đối tượng; giữa các thuộc tính của các sự vật cũng như giữa các thuộc tính của cùng một sự vật. - Phân loại quy luật: + Căn cứ vào tính phổ biến + Căn cứ vào lĩnh vực tác động - Với tính cách là một khoa học, phép biện chứng duy vật nghiên cứu những quy luật phổ biến tác động trong tất cả các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy con người. - Các quy luật cơ bản của PBCDV gồm: + Quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất và ngược lại (chỉ ra phương thức của sự vận động và phát triển). + Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập (chỉ ra nguồn gốc của sự vận động và phát triển). + Quy luật phủ định của phủ định (chỉ ra khuynh hướng của quá trình phát triển). Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại Khái niệm chất, lượng - Chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật và hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính làm cho nó là nó mà không phải là cái khác. - Quan hệ giữa chất và thuộc tính của sự vật: + Chất của sự vật được tạo thành bởi các thuộc tính của nó. Thuộc tính của sự vật bộc lộ ra thông qua sự tác động qua lại của sự vật đó với các sự vật khác. Chẳng hạn, kim loại có các thuộc tính như: 40
  41. - Dẫn nhiệt: bộc lộ khi có sự chênh lệch nhiệt độ trên thanh kim loại. - Dẫn điện: bộc lộ khi thanh kim loại được đặt trong sự chênh lệch về điện áp. - Khả năng dát mỏng, kéo thành sợi. + Mỗi sự vật có rất nhiều thuộc tính; mỗi thuộc tính lại biểu hiện một chất của sự vật, do đó, mỗi sự vật có rất nhiều chất. + Tổng hợp những thuộc tính cơ bản tạo thành chất căn bản của sự vật. + Chất của sự vật không những được xác định bởi chất của các yếu tố cấu thành mà còn bởi cấu trúc của sự vật, bởi phương thức liên kết giữa các yếu tố cấu thành sự vật đó. Ví dụ: Than chì và kim cương. - Khái niệm lượng: Lượng là một phạm trù triết học chỉ tính quy định vốn có của sự vật về các phương diện: số lượng các yếu tố cấu thành, quy mô của sự tồn tại, trình độ, nhịp điệu của quá trình vận động và phát triển của sự vật. Tính tương đối giữa lượng và chất: Sự phân biệt chất và lượng của sự vật chỉ mang tính tương đối, phụ thuộc vào từng mối quan hệ xác định. Có những tính quy định, trong mối quan hệ này là chất, nhưng trong mối quan hệ khác lại biểu thị lượng. Mối quan hệ biện chứng giữa sự thay đổi về lượng và sự thay đổi về chất - Sự thay đổi về lượng làm cho chất biến đổi theo, nhưng không phải bất cứ sự thay đổi nào về lượng cũng ngay lập tức làm thay đổi căn bản chất của sự vật. Chất chỉ thay đổi khi lượng tăng lên hay giảm đi tới một giới hạn nhất định. + Độ: là phạm trù dùng để chỉ sự thống nhất giữa lượng và chất, nó là khoảng giới hạn, mà trong đó, sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản về chất của sự vật. Bất kỳ độ nào cũng được giới hạn bởi hai điểm nút. + Điểm nút: là giới hạn mà khi lượng thay đổi đến đó sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất của sự vật. + Bước nhảy: là phạm trù chỉ sự chuyển hóa về chất của sự vật do những thay đổi về lượng trước đó tạo ra. Các hình thức cơ bản của bước nhảy Xét theo quy mô: Xét theo nhịp điệu: Ví dụ: Nước đá Nước lỏng Hơi - Trạng thái nước đá, nước lỏng, hơi: chất - Nhiệt độ: lượng - Sự thay đổi về chất dẫn tới sự thay đổi về lượng. Chất mới xuất hiện sẽ làm thay đổi kết, cấu quy mô tồn tại của sự vật, làm thay đổi nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật. 41
  42. Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập Khái niệm mặt đối lập, mâu thuẫn; sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập - Mặt đối lập là những mặt, những thuộc tính, những quá trình, những khuynh hướng vận động trái ngược nhau nhưng là điều kiện, tiền đề tồn tại của nhau. Các mặt đối lập liên hệ, tác động qua lại với nhau tạo thành mâu thuẫn. CY: Cần phân biệt mâu thuẫn biện chứng với mâu thuẫn lôgíc (do sai lầm trong tư duy). - Tính chất của mâu thuẫn: + Tính khách quan và tính phổ biến + Tính đa dạng, phong phú: Sự thống nhất của các mặt đối lập: + Sự quy định lẫn nhau, nương tựa vào nhau, đòi hỏi có nhau của các mặt đối lập, mặt này lấy mặt kia làm tiền đề tồn tại. + "Sự thống nhất của các mặt đối lập" còn bao hàm sự "đồng nhất" của các mặt đó. + Sự thống nhất của các mặt đối lập còn biểu hiện ở sự tác động ngang nhau giữa chúng. Nhưng đó chỉ là trạng thái vận động của mâu thuẫn ở một giai đoạn phát triển khi diễn ra sự cân bằng của các mặt đối lập. Sự đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ, phủ định lẫn nhau giữa các mặt đó. Quá trình đấu tranh của các mặt đối lập tất yếu dẫn đến sự chuyển hóa giữa chúng. Sự chuyển hóa này diễn ra rất phong phú, đa dạng, tùy thuộc vào tính chất của các mặt đối lập cũng như những điều kiện cụ thể. Mối quan hệ giữa thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập: + Sự thống nhất của các mặt đối lập là tương đối, tạm thời, gắn liền với sự đứng im, với sự ổn định tương đối của sự vật. + Sự đấu tranh của các mặt đối lập là tuyệt đối, gắn liền với tính tuyệt đối của sự vận động và phát triển. Quy luật phủ định của phủ định Khái niệm phủ định, phủ định biện chứng - Phủ định là sự thay thế sự vật, hiện tượng, quá trình này bằng sự vật, hiện tượng, quá trình thái khác trong quá trình vận động và phát triển. - Phủ định biện chứng là sự phủ định, sự phát triển tự thân; là mắt khâu trong quá trình dẫn tới sự ra đời cái mới, tiến bộ hơn so với cái cũ. Các đặc trưng cơ bản của phủ định biện chứng: Tính khách quan: tự thân phủ định, do mâu thuẫn vốn có của sự vật Tính kế thừa: kế thừa một cách có chọn lọc, "lọc bỏ", đồng thời phải cải tạo, phát triển 42
  43. cho phù hợp với điều kiện mới. Phủ định của phủ định Trong quá trình phát triển, một sự vật A nào đó tất yếu sẽ bị sự vật mới B thay thế. Và sự vật B này sớm muộn cũng bị thay thế bởi sự vật C mới hơn. Sau hai lần phủ định, sự vật hoàn thành một chu kỳ phát triển; sự vật dường như quay trở về cái ban đầu, nhưng trên cơ sở cao hơn (đây là đặc điểm quan trọng nhất của phủ định biện chứng). Ví dụ: Thực tiễn - Lý luận - Thực tiễn - Lý luận. - Sơ đồ cụ thể: Chính đề - phản đề - hợp đề (Hêghen) Cái ban đầu - cái đối lập - trở về cái ban đầu (trên cơ sở cao hơn) Khẳng định - phủ định - phủ định (khẳng định trên cơ sở mới) lần 1 lần 2 * Trên thực tế, có những sự vật trải qua không phải 2 mà 3, 4, 5. lần phủ định mới hoàn thành một chu kỳ phát triển. Ví dụ: trứng - tằm - nhộng - ngài - trứng (vòng đời của con tằm) - Quy luật phủ định của phủ định khái quát xu hướng phát triển theo đường "xoáy ốc"của sự vật. Đường "xoáy ốc" thể hiện tính biện chứng của sự phát triển: + Tính kế thừa + Tính lặp lại (nhưng không quay trở lại) + Tính tiến lên + Tính vô tận * Khái quát nội dung cơ bản của quy luật: Quy luật PĐCPĐ nói lên mối liên hệ, sự kế thừa giữa cái bị phủ định và cái phủ định, do đó, phủ định biện chứng là điều kiện cho sự phát triển; nó duy trì nội dung tích cực của các giai đoạn trước, bổ sung thêm những yếu tố mới, lặp lại một số đặc điểm cơ bản của cái xuất phát, nhưng trên cơ sở mới cao hơn làm cho sự phát triển đi theo đường "xoáy ốc". II. Phương pháp và phương pháp luận. Các nguyên tắc phương pháp luận cơ bản của phép biện chứng duy vật 1. Phương pháp và phương pháp luận a. Phương pháp Khái niệm phương pháp: Thuật "phương pháp" bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp "methodos", có nghĩa là con đường, cách thức nhận thức và hành động. 43
  44. Theo nghĩa thông thường, phương pháp là cách thức mà chủ thể sử dụng nhằm thực hiện mục đích đề ra. Theo nghĩa khoa học, phương pháp là hệ thống những nguyên tắc được rút ra từ những tri thức về các quy luật khách quan để điều chỉnh hoạt động nhận thức và hoạt thực tiễn nhằm thực hiện mục đích nhất định. Hêghen: phương pháp là ý thức về cách thức của sự vận động bên trong của nội dung Vai trò của phương pháp: Ph.Bêcơn: phương pháp như chiếc đèn soi đường cho khánh lữ hành trong đêm tối. R.Đêcáctơ cũng rất chú trọng vai trò của phương pháp. Chính ông là người đã nêu lên các nguyên tắc phương pháp luận nhận thức khoa học. Phân loại phương pháp: Xét về loại hình hoạt động: Phương pháp nhận thức: cách thức, những thao tác của tư duy nhằm nhận thức chân lý. Phương pháp thực tiễn: biện pháp, những phương thức hoạt động thực tiễn cụ thể cảm tính của con người nhằm tác động vào thế giới khách quan. Xét theo mức độ phổ biến và phạm vi ứng dụng: Phương pháp riêng: chỉ áp dụng cho từng bộ môn khoa học cụ thể (phương pháp vật lý học, phương pháp toán học, phương pháp xã hội học, v.v ). Phương pháp chung: áp dụng cho nhiều ngành khoa học khác nhau (các phương pháp quan sát, thí nghiệm, mô hình hóa.). Phương pháp phổ biến: phương pháp của triết học Mác - Lênin, áp dụng cho mọi lĩnh vực khoa học và hoạt động thực tiễn. Mỗi phương pháp đều có vị trí nhất định, đồng thời giữa chúng lại có quan hệ biện chứng với nhau. Do đó, không nên coi phương pháp là ngang bằng nhau hoặc thay thế phương pháp này bằng phương pháp khác một cách tùy tiện, không nên đề cao phương pháp này và hạ thấp phương pháp kia. b. Phương pháp luận PPL là một hệ thống những quan điểm lý luận, những nguyên tắc xuất phát có căn cứ khoa học và thực tiễn để chỉ đạo chủ thể trong việc lựa chọn phương pháp cũng như xác định phạm vi, khả năng ứng dụng phương pháp một cách hợp lí, đạt kết quả cao. Phương pháp luận có tính chất thuần túy về mặt lý luận, những vấn đề đặt ra trong đó nặng về tư duy lý tính; còn phương pháp lại bao hàm cả lý luận và thực tiễn, trong đó vừa có tư duy lý tính vừa là kinh nghiệm cảm tính. Các cấp độ của PPL: PPL bộ môn: PPL của các bộ môn khoa học cụ thể (toán, vật lý, sinh, lịch sử ). 44
  45. PPL khoa học chung: là những quan điểm, những nguyên tắc chung, định hướng cho một nhóm nghành khoa học nhất định. PPL chung nhất: phương pháp luận triết học, khái quát những quan điểm, những nguyên tắc chung nhất làm căn cứ xuất phát cho việc xác định phương pháp luận chung, phương pháp luận bộ môn, cũng như các phương pháp nhận thức, thực tiễn. Các loại PPL vừa có tính độc lập tương đối, vừa xâm nhập vào nhau, bổ sung cho nhau, tuy nhiên, chúng không thể thay thế chức năng, vai trò của nhau. Phép biện chứng duy vật với tính cách là lý luận và phương pháp Sự thống nhất giữa lý luận và phương pháp của PBCDV C.Mác và Ph.Ăngghen đã giải phóng chủ nghĩa duy vật cũ khỏi tính chất siêu hình, máy móc, đồng thời đưa phép biện chứng thoát ra khỏi vỏ bọc duy tâm, thần bí. Cải tạo một cách triệt để chủ nghĩa duy vật cũ và phép biện chứng của Hêghen, C.Mác và Ph.Ăngghen đã xây dựng thế giới quan duy vật biện chứng. Trong triết học Mác, PBC không chỉ là phương pháp biện chứng mà còn là lý luận duy vật, CNDV không chỉ là lý luận duy vật mà còn là phương pháp biện chứng. Lý luận và phương pháp, thế giới quan và phương pháp luận thống nhất với nhau trong một chỉnh thể và trở thành một học thuyết phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan, đồng thời định hướng cho con người trong nhận thức và thực tiễn. Vai trò của PBCDV với tính cách là lý luận và phương pháp Khác với các khoa học cụ thể, PBCDV vạch ra những mối liên hệ phổ biến nhất, những quy luật vận động và phát triển chung nhất của tồn tại và nhận thức, do đó chức năng của nó cũng được thể hiện ở cấp độ chung nhất, vai trò thế giới quan và phương pháp luận của nó bao quát tất cả mọi lĩnh vực của hoạt động nhận thức và hoạt động cải tạo thế giới. Phép biện chứng thống nhất với lý luận nhận thức và lôgíc học. Đó là một hệ thống các quan điểm về thế giới quan thể hiện tư tưởng duy vật triệt để, đồng thời cũng là hệ thống phương pháp luận khoa học, định hướng đúng đắn cho mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn. PBCDV giúp con người vạch rõ bản chất, quy luật, xu hướng vận động, phát triển của các quá trình tự nhiên và xã hội. Phép biện chứng duy vật đóng vai trò gợi mở, định hướng và góp phần thúc đẩy sự phát triển của khoa học chuyên ngành. 2. Các nguyên tắc phương pháp luận cơ bản của PBCDV a. Nguyên tắc toàn diện Từ tính khách quan và phổ biến của các mối liên hệ trong hoạt động nhận thức và thực tiễn cần nắm vững và vận dụng nguyên tắc toàn diện. Nguyên tắc toàn diện yêu cầu: Phải nhận thức sự vật trong mối liên hệ, sự tác động qua lại giữa các bộ phận, giữa các 45
  46. yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật và trong sự tác động qua lại giữa sự vật đó với các sự vật khác, chống lại cách xem xét phiến diện, một chiều, siêu hình, "chỉ thấy cây mà không thấy rừng". Phải biết phân loại từng mối liên hệ, cần chú trọng các mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản chất, mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ tất nhiên, v.v Nguyên tắc toàn diện khác về nguyên tắc với CN chiết trung và thuật ngụy biện. b. Nguyên tắc phát triển Cơ sở lý luận của nguyên tắc phát triển: nguyên lý về sự phát triển của PBCDV. Nguyên tắc này yêu cầu: Phải phát hiện ra các xu hướng biến đổi, chuyển hoá của các sự vật, hiện tượng. Phải nhận thức sự vật trong tính biện chứng mâu thuẫn của nó. Phải chủ động, tích cực và có thái độ đúng đắn đối với cái mới. c. Nguyên tắc lịch sử - cụ thể Cơ sở lý luận của nguyên tắc lịch sử - cụ thể: các nguyên lý cơ bản của PBCDV. Nguyên tắc này yêu cầu: Phải chú ý đúng mức điều kiện, hoàn cảch lịch sử - cụ thể trong đó sự vật sinh ra, tồn tại và phát triển. Phải gắn những luận thuyết, những quan điểm với hoàn cảch lịch sử - cụ thể. Phải xem xét các điều kiện, hoàn cảnh lịch sử - cụ thể khi vận dụng các học thuyết, các chủ trương, chính sách, phương pháp Chương VII: NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN I. Phạm trù thực tiễn và phạm trù lý luận 1. Phạm trù thực tiễn Thực tiễn là hoạt động vật chất “cảm tính”, có mục đích, có tính lịch sử xã hội, nhằm cải tạo tự nhiện và xã hội. a. Thực tiễn là một hoạt động vật chất - Trong hoạt động vật chất, con người sử dụng các phương tiện, công cụ, sức mạnh vật chất của mình để tác động vào tự nhiên, xã hội nhằm cải tại, biến đổi chúng phù hợp với nhu cầu của mình. Đây là một quá trình tương tác giữa chủ thể và khách thể. Trong đó, chủ thể hướng vào việc cải tạo khách thể. Cho nên thực tiễn trở thành khâu trung gian nối liền ý thức con người với thế giới bên ngoài. b. Hoạt động thực tiễn có mục đích - Hoạt động thực tiễn là bản chất của con người. 46