Hiệp định chống bán phá giá của WTO: Những thách thức, khó khăn trong xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam khi tham gia các hiệp định tự do thế hệ mới FTA

pdf 8 trang Gia Huy 18/05/2022 2320
Bạn đang xem tài liệu "Hiệp định chống bán phá giá của WTO: Những thách thức, khó khăn trong xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam khi tham gia các hiệp định tự do thế hệ mới FTA", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfhiep_dinh_chong_ban_pha_gia_cua_wto_nhung_thach_thuc_kho_kha.pdf

Nội dung text: Hiệp định chống bán phá giá của WTO: Những thách thức, khó khăn trong xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam khi tham gia các hiệp định tự do thế hệ mới FTA

  1. HIỆP ĐỊNH CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ CỦA WTO: NHỮNG THÁCH THỨC, KHÓ KHĂN TRONG XUẤT KHẨU HÀNG HÓA CỦA VIỆT NAM KHI THAM GIA CÁC HIỆP ĐỊNH TỰ DO THẾ HỆ MỚI FTA TS. Trần Thành Thọ Trƣờng Đại học Thƣơng mại Tóm lược: Trong khi các quốc gia thành viên WTO đang dần b các rào cản thuế quan và phi thuế quan thì các biện pháp tự vệ, thuế chống phá giá và thuế đối kháng vẫn ngày càng được nhiều quốc gia phát triển áp dụng một cách triệt để. Nhiều nước đang phát triển và kém phát triển phải đối mặt với tình trạng hàng hóa nhập khẩu bán phá giá tại thị trường của mình và gánh chịu những thiệt hại cho sản xuất trong nước. Hàng hóa của Việt Nam c ng đã gặp phải những biện pháp chống bán phá giá mà nước sở tại áp dụng. Sự việc đó đã làm ảnh hưởng đến xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam. Bài viết phân tích hiệp định chống bán phá giá của WTO khi Việt Nam tham gia ký kết FTA, với những thách thức, khó khăn trong xuất khẩu của Việt Nam. Từ khóa: Chống bán phá giá, WTO, xuất khẩu, nhập khẩu, hội nhập quốc tế, FTA. 1. Đặt vấn đề. Việt Nam đã ký kết các FTA thế hệ mới, gồm: Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA), Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Liên minh Kinh tế Á - Âu (VEAEU FTA), Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – Hàn Quốc (VKFTA), Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và đang đàm phán ASEAN+6 (RCEP), Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Khối EFTA (VEFTA) và FTA giữa khối ASEAN với Hồng Kông. Đây là các Hiệp định ―FTA thế hệ mới‖ toàn diện, bao gồm: Thương mại hàng hóa, dịch vụ, điện tử; Phòng vệ thương mại; Đầu tư; Quy tắc xuất xứ; Các biện pháp vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật (SPS); Thuận lợi hóa hải quan; Hàng rào kỹ thuật thương mại (TBT); Sở hữu trí tuệ; Cạnh tranh; Mua sắm công; Phát triển bền vững; Thể chế và Pháp lý FTA được coi là đòn bẩy khi các nước có quan hệ thương mại đáng kể có xu thế tạo lập với nhau một thị trường tự do hơn thông qua các FTA, với các cam kết mở cửa thị trường cho các nước tham gia cao hơn. Cụ thể: - Đối với EVFTA: EU là nền kinh tế lớn gồm 27 quốc gia thành viên, chiếm 20% GDP của toàn cầu; trình độ phát triển kinh tế xã hội cao, sức mua lớn, đa dạng và hiện tại EU là bạn hàng lớn thứ 2 của Việt Nam về xuất khẩu, thứ 5 về nhập khẩu. Sau khi ký Hiệp định sẽ có 90% hàng hóa của Việt Nam vào thị trường EU được hưởng mức thuế suất 0%. Khi EVFTA được ký kết, sẽ bổ sung 7% - 8% tăng trưởng trung bình của Việt Nam, có tới 90% hàng hóa vào thị trường EU được hưởng thuế suất 0%, tạo ra lợi thế về lượng xuất khẩu và phần giá trị gia tăng thu được. Xuất khẩu của Việt Nam sang EU sẽ tăng khoảng 10% đến năm 2025. 1031
  2. - Đối với VKFTA: Quan hệ đầu tư, thương mại, du lịch giữa Việt Nam và Hàn Quốc sẽ được cải thiện. FTA giữa Việt Nam - Hàn Quốc mở ra cơ hội thu hút dòng vốn đầu tư rất lớn từ Hàn Quốc vào Việt Nam, đặc biệt là có thể kỳ vọng dòng vốn chảy vào các lĩnh vực, như công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp điện tử, nông nghiệp chế biến Đặc biệt, Việt Nam là đối tác FTA đầu tiên được Hàn Quốc mở cửa thị trường, xóa bỏ thuế quan có lộ trình đối với những sản phẩm hết sức nhạy cảm trong nước, như hoa quả tươi, chế biến (thuế suất khoảng 30% - 50%); một số rau quả nhiệt đới và nhất là những mặt hàng như tỏi, gừng, mật ong, khoai lang, đỗ đỏ (thuế suất những mặt hàng này rất cao, từ 241% đến 420%, do đây là hàng hóa đặc biệt nhạy cảm với Hàn Quốc). - Đối với CPTPP: các nước cam kết xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với 65-95% số dòng thuế và xóa bỏ hoàn toàn từ 97-100% số dòng thuế ngay khi hiệp định có hiệu lực, các mặt hàng còn lại sẽ có lộ trình xóa bỏ thuế quan trong vòng 5-10 năm. Trong CPTPP Việt Nam cam kết xóa bỏ dòng thuế ở mức cao, theo đó 68% số dòng thuế có thuế suất 0% vào năm thứ 11 khi hiệp định có hiệu lực, đối với thuế xuất khẩu Việt Nam cam kết xóa bỏ phần lớn các mặt hàng hiện đang áp dụng thuế xuất khẩu theo lộ trình 5-15 năm sau khi hiệp định có hiệu lực. - Hiệp định EVFTA: các nội dung của hiệp định bao gồm: thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, quy tắc xuất xứ, hải quan và thuận lợi hàng hóa thương mại các biện pháp an toàn thực phẩm Trong EVFTA, Việt Nam và EU cam kết sẽ xóa bỏ đối với 99% số dòng thuế trong khoảng thời gian 7 năm đối với EU và 10 năm đối với Việt Nam. Đối với thuế xuất khẩu, Việt Nam cam kết xóa bỏ phần lớn thuế xuất khẩu sang EU và lộ trình lên đến 15 năm. - Đối với VEAEU FTA: Việt Nam nối lại quan hệ buôn bán, đầu tư đã có từ rất lâu với quy mô lớn giữa Việt Nam với các nước trong khối, đặc biệt là Nga, Bêlarút và Cadắcxtan. Quan hệ thương mại hai chiều giữa Việt Nam và 3 nước này được dự kiến cao gấp 3 lần hiện nay, sẽ tăng với tốc độ 18% - 20%/năm và quy mô đến năm 2020 sẽ đạt khoảng từ 7,2 tỷ USD đến 8 tỷ USD. Khi Việt Nam trở thành thành viên trong các hiệp định thế hệ mới FTA các nước tham gia hiệp định sẽ áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại bao gồm 3 nhóm biện pháp: biện pháp chống bán phá giá(i); biện pháp chống trợ cấp(ii) và biện pháp tự vệ thương mại(iii). Trong các biện pháp phòng vệ thương mại thì biện pháp chống bán phá giá được các quốc gia sử dụng phổ biến nhất trong quan hệ thương mại hiện nay. - Trong hiệp định CPTPP các nước thành viên CPTPP phải tuân thủ các quy định nêu trong hiệp định chống bán phá giá của WTO. Ngoài ra, các nước thống nhất phụ lục về thông lệ tốt nhất liên quan đến thủ tục áp dụng các biện pháp chống bán phá giá. Do đó, nội dung của CPTPP không bổ sung thêm bất kỳ quyền lợi và nghĩa vụ theo quy định của WTO liên quan đến chống bán phá giá (Điều 6.8). CPTPP là hiệp định tăng cường tính minh bạch và thực thi đúng trình tự thủ tục trong các vụ kiện. 1032
  3. - Hiệp định EVFTA các bên cũng khẳng định rằng quyền và nghĩa vụ của mình phát sinh theo quy định của WTO công nhận rằng các biện pháp chống bán phá giá có thể bị lạm dụng để cản trở thương mại, thỏa thuận rằng các biện pháp phòng vệ thương mại nên được sử dụng tuân thủ hoàn toàn theo các yêu cầu tương ứng của WTO và nên dựa trên một hệ thống công bằng và minh bạch. Nên cân nhắc một cách kỹ lưỡng lợi ích của bên kia nếu một bên đang cân nhắc áp dụng những biện pháp này. Các bên phải đảm bảo rằng ngay sau khi bất kỳ biện pháp tạm thời nào được áp dụng và trong mọi trường hợp trước khi quyết định cuối cùng được ban hành sẽ công bố một cách đầy đủ và có ý nghĩa toàn bộ các dữ liệu thực tế chủ yếu và các cân nhắc làm cơ sở để đưa ra quyết định áp dụng các biện pháp. Việc công bố này phải thực hiện bằng văn bản và cho phép các bên liên quan có đủ thời gian để bình luận. Một bên không được áp dụng các biện pháp chống bán phá giá khi dựa trên các thông tin có sẵn trong quá trình điều tra, có thể kết luận rõ ràng việc áp dụng các biện pháp này sẽ không phù hợp với lợi ích công cộng, thuế chống bán phá giá áp dụng bởi một bên không được vượt quá biên độ bán phá giá và bên đó sẽ nỗ lực đảm bảo rằng mức thuế này thấp hơn biên độ đó nếu mức thuế thấp hơn này là đủ để loại bỏ thiệt hại đối với ngành sản xuất trong nước. Như vậy, hiệp định EVFTA trên cơ sở các quy định của WTO về chống bán phá giá, hiệp định còn có bổ sung thêm một số quy định để bảo đảm công bằng. Yêu cầu các bên phải xem xét đến lợi ích công cộng dựa trên hoàn cảnh của ngành sản xuất trong nước, các nhà nhập khẩu và các hiệp hội đại diện, người sử dụng đại diện và các tổ chức đại diện cho người tiêu dùng. Vì vậy, trong bài viết tác giả trình bày hiệp định chống bán phá giá của WTO liên quan trực tiếp đến biện pháp chống bán phá giá mà các quốc gia là thành viên của hiệp định thế hệ mới FTA áp dụng. 2. Hiệp định chống bán phá giá của WTO 2.1. Các cách hiểu về phá giá Mặc dù hiện tại phá giá và chống phá giá đã được WTO thống nhất và đưa ra các tiêu chí và thủ tục để đánh giá, song khi nói đến phá giá, giới kinh doanh vẫn có nhiều cách hiểu khác nhau: -Phá giá là giảm giá để cạnh tranh thị trường hoặc tiêu diệt đối thủ cạnh tranh - Phá giá là bán dưới giá thành - Phá giá là bán dưới mức giá bình thường. Định nghĩa về phá giá và cách xác định phá giá của WTO đã được quy định tại Điều 6 của GATT: ― Phá giá là hành vi mà sản phẩm của một quốc gia được bán ở quốc gia khác tại mức thấp hơn giá trị thông thường và làm thiệt hại hay đe dọa làm thiệt hại về mặt vật chất của một ngành của quốc gia khác hoặc làm chậm trễ sự thiết lập một ngành ở quốc gia khác‖. Hai khái niệm quan trọng trong quy định này là giá trị thông thường và thiệt hại về vật chất. Một quốc gia bị cho là đã bán sản phẩm của mình ở một quốc gia khác tại mức thấp hơn giá trị thông thường nếu: 1033
  4. - Giá đó thấp hơn mức giá tương đối trong điều kiện thương mại thông thường đối với sản phẩm tương tự tại nước xuất khẩu. - Nếu không thể xác định mức giá nội địa đó thì: + Mức giá đó thấp hơn mức giá tương đối cao nhất được xuất khẩu tới một nước thứ ba trong điều kiện thương mại thông thường. + Mức giá đó thấp hơn chi phí sản xuất tại nước xuất khẩu cộng với một tỉ lệ hợp lí chi phí và lợi nhuận bán hàng. 2.2. Biện pháp chống bán phá giá trong thương mại quốc tế Trong thương mại quốc tế, khi hàng hóa bị xem là bán phá giá thì chúng có thể bị áp đặt các biện pháp chống bán phá giá (antiduming) như thuế chống phá giá, đặt cọc hoặc thế chấp, can thiệp hạn chế định lượng hoặc điều chỉnh mức giá của nhà xuất khẩu nhằm triệt tiêu nguy cơ gây thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước nhập khẩu, trong đó thuế chống bán phá giá là biện pháp phổ biến nhất hiện nay. Về thực chất, thuế chống bán phá giá là một loại thuế nhập khẩu bổ sung đánh vào những hàng hóa bị bán phá giá ở nước nhập khẩu, nhằm hạn chế những thiệt hại do việc bán phá giá đưa đến cho ngành sản xuất của nước đó, bảo đảm sự công bằng trong thương mại ( nói chính xác đó là một sự bảo hộ hợp lí cho sản xuất trong nước). Thuế này đánh vào các nhà sản xuất riêng lẻ chứ không phải là thuế áp đặt chung cho hàng hóa của một quốc gia. Nguyên tắc chung nêu ra trong hiệp định của WTO là không được phân biệt đối xử khi áp dụng thuế chống bán phá giá, tức là nếu hàng hóa bị bán phá giá được xuất khẩu từ những quốc gia khác nhau với cùng biên độ phá giá như nhau thì sẽ áp đặt các biện pháp chống bán phá giá. Theo quy định của WTO và luật pháp của rất nhiều nước thì thuế chống bán phá giá chỉ được áp đặt khi hàng hóa được bán phá giá gây thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất ở nước nhập khẩu. Như vậy, nếu một hàng hóa được xác định là có hiện tượng bán phá giá nhưng không gây thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất mặt hàng đó ở nước nhập khẩu thì sẽ không bị áp đặt thuế chống bán phá gia và các biện pháp chống bán phá giá khác. Thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước được hiểu là tình trạng suy giảm đáng kể về số lượng, mức tiêu thụ trong nước, lợi nhuận sản xuất, tốc độ phát triển sản xuất, việc làm cho người lao động, đầu tư tới các chỉ tiêu khác của ngành sản xuất trong nước hoặc dẫn đến khó khăn cho việc hình thành sản xuất trong nước. Bán phá giá được xác định dựa vào 2 yếu tố cơ bản là: Một là biên độ phá giá từ 2% trở lên; hai là số lượng , trị giá hàng hóa bán phá giá từ một nước vượt quá 3% tổng khối lượng hàng nhập khẩu ( ngoại trừ trường hợp số lượng nhập khẩu của các hàng hóa tương tự với nước có khối lượng dưới 3%, nhưng tổng số các hàng hóa tương tự của các nước khác nhau được xuất khẩu vào nước bị bán phá giá chiếm trên 7%). 1034
  5. Để xác định hàng hóa có bị bán phá giá hay không, việc bán phá giá có thể gây thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong nước hay không để áp đặt các biện pháp chống phá giá thì điều quan trọng nhất và phức tạp nhất ở quá trình điều tra về bán phá giá. 3. Những thách thức và khó khăn có liên quan trong việc xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam 3.1. Nhìn lại một số vụ kiện chống bán phá giá Việc bán phá giá đang diễn ra ngày càng nhiều ở hầu hết các quốc gia kể cả các quốc gia phát triển và đang phát triển.Mặc dù là nước đang phát triển ở trình độ thấp, nhưng vài năm trở lại đây hàng hóa của Việt Nam đã dần thâm nhập vào các thị trường khác nhau và các doanh nghiệp Việt Nam cũng đã bị nước ngoài tiến hành điều tra bán phá giá tới 8 lần ( tính từ 1994-2002). Theo thống kê của bộ Công thương đến hết năm 2018 đã có 144 vụ việc phòng vệ thương mại do nước ngoài khởi xướng điều tra, áp dụng đối với hàng hóa xuất khẩu Việt Nam (trong đó, năm 2018 có 19 vụ việc mới được khởi xướng) hiện nay Hoa Kỳ vẫn là quốc gia điều tra phòng vệ thương mại nhiều nhất với hàng hóa xuất khẩu Việt Nam (27 vụ việc), tiếp đến là Thổ Nhĩ Kỳ (21 vụ việc) Ấn Độ (17 vụ việc) và EU (14 vụ việc). Trong số 144 vụ việc điều tra phòng vệ thương mại, có 81 vụ việc về chống bán phá giá, 30 vụ việc tự vệ có liên quan đến hàng hóa Việt Nam, 14 vụ việc trợ cấp và 19 vụ việc chống lẫn tránh thuế. Trong số các vụ việc doanh nghiệp Việt Nam bị áp đặt thuế chống phá giá. Vụ kiện bán phá giá cá tra, cá ba-sa của Việt Nam tại Mỹ ( năm 2002) được coi là một vụ kiện có quy mô lớn và có rất nhiều áp đặt bất công từ phía Mỹ. Các ngành đã từng bị kiện phá giá của Việt Nam là tỏi, giày dép, bột ngọt, cá tra, cá basa, bật lửa gas. Canada kiện Việt Nam hai vụ liên quan đến giày dép và tỏi. Thuế chống phá giá áp dụng cho tỏi của Việt Nam là 1,48CAD/kg. EU kiện Việt Nam hai vụ liên quan đến giày dép và bột ngọt. Mức thuế chống phá giá đối với bột ngọt là 16,8%. Riêng đối với mặt hàng giày dép, EU đã không đánh thuế chống phá giá đối với Việt Nam vì tốc độ tăng trưởng của Việt Nam thấp hơn các quốc gia khác là Trung Quốc, Inđônê xia và Thái Lan. Ba Lan kiện Việt Nam một vụ về bật lửa gas.Thuế chống phá giá là 0,09EUR/chiếc. Mỹ kiện Việt Nam một vụ về cá tra, cá basa. Thuế chống phá giá áp đặt cho Việt Nam từ 38% đến 64%. Phương thức mà Hiệp hội cá tra, cá basa (CFA) của Mỹ đã thực hiện trong vụ tranh chấp với Việt Nam có thể tóm tắt như sau: CFA đã gây sức ép bắt các nhà xuất khẩu Việt Nam phải thay đổi tem dán để phân biệt cá của Việt Nam với cá của Mỹ. Sau đó, CFA kiện Việt Nam đã phá giá cá tra, cá basa trên thị trường Mỹ. Gạo của Việt Nam từng bị Columbia kiện vào năm 1994 với biên phá giá là 9,7% nhưng sau đó Columbia quyết định rằng Việt Nam đã không gây thiệt hại về vật chất với việc sản xuất gạo của Columbia nên không áp dụng thuế chống bán phá giá. 1035
  6. 3.2. Bài học kinh nghiệm đối các doanh nghiệp Việt Nam khi xuất khẩu hàng hóa Việt Nam còn rất ít kinh nghiệm trong việc đương đầu với các vụ kiện phá giá và vận dụng cơ chế chống bán phá giá. Qua các vụ kiện phá giá, chúng ta có cơ hội nhìn nhận rõ hơn thực trang thương mại quốc tế hiện nay.EU đã bác bỏ vụ kiện doanh nghiệp Việt Nam bán phá giá bật lửa gas vào thị trường này với lí lẽ, doanh nghiệp Việt Nam hoạt động trong nền kinh tế thị trường. Trong khi đó Hoa Kỳ lại kết luận Việt Nam có nền kinh tế phi thị trường. Việc xem xét Việt Nam là nền kinh tế thị trường hay phi thị trường hoàn toàn mang tính chính trị, không phụ thuộc vào yếu tố kỹ thuật, mặc dù phía Mỹ có đưa ra 5 yếu tố kỹ thuật để xem xét. Như vậy, kinh tế thị trường chỉ là cái cớ mà nguyên nhân sâu xa chính là giá bán. Với mức giá 1kg cá basa khoảng 3USD thì các DN Hoa Kỳ cạnh tranh nổi, khi đó hình thức kiện phá giá được sử dụng nhiều nhất. ― Bán phá giá‖ gợi lên hình ảnh Công ty nước ngoài theo đuổi chiến lược có chủ ý, có sự phối hợp nhằm cản trở DN trong nước bằng hàng nhập khẩu giá rẻ tràn ngập thị trường. Khi toàn cầu hóa gây ra làn sóng đổ vỡ xuyên suốt nền kinh tế Mỹ, thương mại quốc tế đã trở thành vấn đề chính trị tại Lousiana, cũng như với nhiều bang khác phải chống trọi với nguy cơ mất việc làm do sự cạnh tranh từ nước ngoài. Luật chống phá giá mở ra phương thức giúp các ngành công nghiệp gặp khó khăn có được khoản trợ cấp kinh tế tạm thời. Luật này cũng được xem xét là một chiếc van an toàn về chính trị. Mục tiêu của luật này là để cân bằng thương mại bất công. Khái niệm luật chống phá giá cũng tương tự như luật chống độc quyền, nó có tác dụng sắp xếp lại thị trường nhằm duy trì khả năng cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng về lâu dài. Nhìn chung chính phủ Mỹ thường có xu hướng đứng về phía các ngành công nghiệp Mỹ. Theo nhà kinh tế Bruce Blonigen của đại học tổng hợp bang Oregon, một chuyên gia lĩnh vực chống phá giá, có tới 80% vụ kiện có kết luận là xảy ra tình trạng bán phá giá, khoảng 60% vụ kiện kết luận rằng các doanh nghiệp nội địa bị ảnh hưởng bởi hàng nhập khẩu. Nhưng trong hầu hết các vụ kiện chống phá giá, phương thức xác định không đơn giản như vậy: trong số 6 nước bị kiện, SSA nói rằng chỉ duy nhất Braxin có thị trường nội địa đáng kể về mặt hàng tôm, các nước khác hoặc không có thị trường lớn về mặt hàng này hoặc là những nước bị quy vào diện không có nên kinh tế thị trường. Trong những trường hợp như vậy DOC có khá nhiều lựa chọn phụ, lập danh sách giá tôm tại một nước thứ 3 mà DOC cho rằng có thể so sánh với nước xuất khẩu. DOC cũng quyết định xem xét liệu các công ty nước ngoài có bán tôm dưới mức chi phí sản xuất cộng thêm tỷ lệ lợi tức được quy định. Đây là lý lẽ được viện dẫn chống lại tôm nhập khẩu từ Việt Nam và Trung Quốc. Chính phủ Mỹ sẽ tiến hành điều tra và thu thập số liệu theo cách của mình như lý lẽ mà các luật của nguyên đơn đưa ra không phải lý lẽ cuối cùng. Nhưng lý lẽ này phần nào cho thấy cách thức tiến hành vụ kiện. 1036
  7. Để đưa ra các lý lẽ rằng các công ty Trung Quốc bán phá giá tôm tại Mỹ, các luật sư của các nguyên đơn đã đặt ra một mô hình kinh tế phức tạp để xác định chi phí sản xuất tôm tại Trung Quốc và Việt Nam. Nhưng Trung Quốc và Việt Nam bị xếp vào diện các nước không có nền kinh tế thị trường, do vậy họ nói rằng số liệu cơ bản, xác thực về chi phí sản xuất có thể có là không có hiệu lực. Thay vào đó, các luật sư nguyên đơn lấy mức giá và chi phí tại Mỹ và Ấn Độ làm thị trường phụ để xác định số liệu. Trên thị trường từ năm 1995-2002 các nước và vùng lãnh thổ bị điều tra bán phá giá nhiều nhất trong thương mại quốc tế là Trung Quốc: 308 vụ, Hàn Quốc: 160 vụ, Mỹ: 115 vụ, Đài Loan: 109 vụ, Indonesia: 91 vụ Như vậy so với các nước khác thì số vụ mà các doanh nghiệp Việt Nam bị điều tra là con số rất nhỏ. Mặc dù Việt Nam đã bị kiện phá giá từ cách đây 10 năm, xong chúng ta đã không có một kế hoạch cụ thể để đương đầu với các vấn đề về giá cả và chống bán phá giá. Khi vụ kiện cá tra, cá basa tạo được sự chú ý của dư luận và các doanh nghiệp thủy sản Việt Nam cũng như những người nông dân Việt Nam gánh chịu phần thua, lúc này các bộ ngành và các hiệp hội liên quan mới thực sự lo ngại về khả năng Việt Nam bị kiện phá giá ở những mặt hàng khác. Việt Nam không thể tránh khỏi việc tiếp tục bị kiện phá giá. Lý do có thể nêu ra như chống bán phá giá được sử dụng như một công cụ bảo hộ mới, Việt Nam có điều kiện để xuất khẩu những mặt hàng giá rẻ và Việt Nam được cho là một nền kinh tế phi thị trường. Những hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam thông thường có lợi thế cạnh tranh do giá nhân công rẻ dẫn đến giá thành thấp so với các quốc gia khác và xu thế ngày càng nhiều của hàng hóa Việt Nam thâm nhập vào thị trường quốc tế, chắc rằng các cuộc điều tra chống phá giá đối với các doanh nghiệp Việt Nam sẽ không dừng lại ở đó và một khi đã bị áp đặt thuế chống bán phá giá thì khả năng xuất khẩu mặt hàng đó sẽ bị giảm đi rất nhiều. Vì vậy, vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp và các nhà quản lý của Việt Nam là làm thế nào để có thể hạn chế được những tác động bất lợi để ―đồng hành‖ cùng các công cụ chống bán phá giá. 4. Một số đề xuất, kiến nghị Các doanh nghiệp Việt Nam khi là thành viên các hiệp định FTA khi xuất khẩu hàng hóa trước hết cần trang bị những kiến thức pháp luật về chống bán phá giá trong thương mại quốc tế. Bên cạnh đó, cần lưu ý một số vấn đề cụ thể sau: Một là, sẵn sàng đương đầu với các vụ kiện phá giá khác. Việt Nam cần chủ động giảm thiểu tiêu cực của việc chống bán phá giá từ các nước khác, cụ thể là cần: Xây dựng một hệ thống thông tin về phá giá và chống bán phá giá; Xây dựng cơ chế cảnh báo về kiện phá giá và chống bán phá giá (trực thuộc Bộ Công thương), dự kiến những mặt hàng có khả năng bị kiện phá giá; Tích cực tham gia vào các diễn đàn cùng với các nước đang phát triển để xây 1037
  8. dựng một cơ chế chống bán phá giá chặt chẽ hơn trong khuôn khổ WTO. Đây được xem là cơ hội để các doanh nghiệp thu thập thông tin về vấn đề chống bán phá giá và chứng minh tính hợp lý của giá xuất khẩu hàng hóa. Hai là, xây dựng cơ sở dữ liệu thông tin về phá giá, chống bán phá giá: Các tình huống kiện phá giá, các vấn đề lien quan cần được chi theo ngành và ưu tiên theo đặc thù của nên ngoại thương Việt Nam. Chính phủ và các doanh nghiệp Việt Nam cần lưu ý rằng việc nắm bắt và có đầy đủ thông tin về các vụ kiện trong cùng ngành, cũng như những lập luận của các bên trong vụ kiện là sự chuẩn bị cần thiết để sẵn sàng đương đầu với các vụ kiện phá giá trong thời gian tới. Ba là, tổ chức tìm hiểu các vụ kiện về chống bán phá giá của một số ngành và một số quốc gia lựa chọn: Việt Nam cần thiết phải tìm hiểu các vụ kiện về bán phá giá trong một số ngành và một số quốc gia Việt Nam quan tâm mà các nước bị kiện khác đang sử dụng để phản bác lại nước đi kiện. Bốn là, chứng minh ―Việt Nam có nền kinh tế thị trường‖. Trong vụ kiện giữa Việt Nam và Mỹ về cá tra, cá basa, Việt Nam bị coi là ―nền kinh tế phi thị trường‖ dẫn đến những tham chiếu bất lợi khác như phải chọn một nước thứ ba để so sánh chi phí và tính giá trị thông thường của sản phẩm. Năm là, thuế chống phá giá sẽ áp đặt cho tất cả các doanh nghiệp có hàng hóa xuất khẩu, vì thế khi bị kiện, rất cần có sự tham gia và ủng hộ của tất cả các doanh nghiệp. Nếu đứng ngoài cuộc sẽ luôn bị áp đặt mức thuế suất cao nhất. Sáu là, cần có những chứng cứ xác đáng để chứng minh việc bán giá thấp (nếu có) để không gây thiệt hại cho nền sản xuất cả nước nhập khẩu (lượng hàng xuất khẩu chiếm dưới 3% tổng khối lượng nhập khẩu mặt hàng đó của nước có hàng bán giá thấp) và nếu có thì biên độ bị coi là phá giá là không đáng kể (dưới 2%). TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Mutrap (2010,2011), Đánh giá tác động của FTA đối với nền kinh tế Việt Nam 2. Tạp chí Công thương số 9 tháng 5/2004 3. Tạp chí Công thương số 2 tháng 2/2018 4. Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới số 2,3,4 năm 2004 5. Tạp chí Thương mại số 10 tháng 3/2005 6. Thời báo Kinh tế tháng 1,2,3 năm 2005 1038