Hoạt động nghiên cứu khoa học giáo dục của sinh viên sư phạm
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Hoạt động nghiên cứu khoa học giáo dục của sinh viên sư phạm", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- hoat_dong_nghien_cuu_khoa_hoc_giao_duc_cua_sinh_vien_su_pham.pdf
Nội dung text: Hoạt động nghiên cứu khoa học giáo dục của sinh viên sư phạm
- HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC GIÁO DỤC CỦA SINH VIÊN SƯ PHẠM
- PHẠM HỒNG QUANG HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC GIÁO DỤC CỦA SINH VIÊN SƯ PHẠM NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
- LỜI GIỚI THIỆU Giúp cho sinh viên có nhận thức đúng và có kĩ năng nghiên cứu khoa học là một trong những nhiệm vụ trọng yếu của quá trình đào tạo đại học, bởi đặc điểm nổi bật trong hoạt động học tập của sinh viên là hoạt động học tập mang tính chất nghiên cứu. Tác giả Phạm Hồng Quang đã lựa chọn đúng đặc điểm cơ bản này, tập trung khai thác vấn đề vào khâu trọng yếu của quá trình đào tạo Sư phạm, đó là hình thành năng lực nghiên cứu khoa học cho sinh viên. Hiển nhiên là không phải bất cứ sinh viên nào sau khi tốt nghiệp về dạy học ở một địa phương nào đó đều làm công tác nghiên cứu khoa học, song quá trình tập dượt làm người nghiên cứu ở đại học sẽ là cơ sở tốt cho việc nhìn nhận, xem xét, đánh giá và tác động vào đối tượng giáo dục của họ sau này và hơn thế nữa, họ sẽ có cơ hội tham gia vào hoạt động nghiên cứu ở những cấp độ nhất định do thực tiễn đòi hỏi. Những cơ sở lí luận về hệ thống kì năng thực hành qua các bước của quá trình làm một đề tài khoa học giáo dục trong điều kiện học tập của sinh viên sư phạm đã được tác gia trình bày rõ ràng, khúc chiết, ngắn gọn. Chính điều này đáp ứng nhu cầu hiểu biết về nghiên cứu khoa học của sinh viên khi năng lực nhận thức khoa học của họ chưa cao. Kĩ năng nghiên cứu chưa thành thực, thời gian dành cho phần việc này chưa nhiều v.v Có thể nói, cuốn sánh do tác giả Phạm Hồng Quang biên soạn là một tài liệu hướng dẫn rất bổ ích cho sinh viên trong quá trình tập dượt làm nghiên cứu khoa học. Ở Việt Nam đã có không ít tác giả viết về phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu khoa học còn mang nặng tính hàn lâm rất có lợi cho những bạn đọc có trình độ cao về nghiên cứu khoa học, nhưng đối với sinh viên, để “tiêu hóa” khối lượng từ thức do những cuốn sách này mang lại là khá vất vả. Bởi vậy, việc cho ra đời cuốn sách "Hoạt động nghiên cứu khoa học giáo dục của sinh viên Sư phạm” vào thời điểm này là rất đúng lúc. Cuốn sách không chỉ là điểm tựa cho sinh viên sư phạm trong hoạt động nghiên cứu khoa học giáo dục mà còn hữu ích cho các bạn sinh viên thuộc các lĩnh vực khoa học chuyên ngành có liên quan và là tài liệu giúp ích thiết thực cho việc giảng dạy học phần Phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục trong chương thình dào tạo của các trường Đại học Sư phạm. GS. TSKH. Nguyễn Văn Hộ 2
- LỜI NÓI ĐẦU Năng lực sáng tạo của sinh viên là một trong những tiêu chí cơ bản của chất lượng giáo dục đại học. Hoạt động học tập - nghiên cứu khoa học của sinh viên là điều kiện quyết định đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách chuyên gia trong tương lai. Trong các trường khoa Sư phạm, nơi đào tạo các chuyên gia giáo dục có nhiệm vụ quan trọng là tạo lập môi trường khoa học, tổ chức đào tạo và phát triển năng lực nghiên cứu khoa học Sư phạm cho họ có đủ phẩm chất và năng lực tiếp cận chương trình giáo dục mới. Đã có nhiều tác giả đề cập đến vấn đề nghiên cứu khoa học giáo dục như Phạm Minh Hạc, Nguyễn Văn Hộ, Vũ Cao Đàm, Phạm Viết Vượng, Lưu Xuân Mới Tài liệu “hoạt động nghiên cứu khoa học giáo dục của sinh viên Su phạm” của chúng tôi trên cơ sở kế thừa các công trình của các tác giả trên, nhằm mục tiêu cung cấp những thông tin khái quát về hoạt động học tập ở đại học, hoạt động nghiên cứu khoa học giáo dục, các vấn đề cơ bản về quy trình nghiên cứu, các biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động nghiên cứu khoa học giáo dục của sinh viên Sư phạm. Hiện nay, trong các trường Sư phạm đang sử dụng giáo trình Phương pháp nghiên cửu khoa học giáo dục (gồm 2 đơn vị học trình) của PGS.TS. Phạm Viết Vượng trong chương trình dào tạo giáo viên. Cuốn sách nhỏ “hoạt động nghiên Cứu khoa học giáo dục của sinh viên Sư Phạm" dùng để giảng dạy chuyên đề cho sinh viên chuyên ngành Tâm lí - Giáo dục học, cao học giáo dục học và sinh viên trường đại học Sư phạm, cao đẳng Sư phạm. Ngoài ra, có thể dùng để giảng viên và sinh viên tham khảo, đọc thêm trong quá trình giảng dạy và học tập giáo trình trên. Trong quá trình biên soạn tài liệu này, chắc chắn chưa đầy đủ và không tránh khỏi sai sót, tác giả mong nhận dược góp ý của các nhà khoa học, các giảng viên và sinh viên. Tác giả 3
- Chương 1 HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP TRONG QUÁ TRÌNH ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN 1. Đặc điểm hoạt động học tập cửa sinh viên Trong quá trình tổ chức giáo dục đại học thường đề cập đến các khái niệm: quá trình đào tạo, quá trình sư phạm, quy trình đào tạo những khái niệm này đều tập trung vào nghĩa gốc: đó là quá trình giáo dục theo nghĩa rộng. Quá trình giáo dục đại học là đối tượng nghiên cứu của giáo dục học đại học. Nghiên cứu quá trình giáo dục đại học theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng đã cho chúng ta thấy rõ cấu trúc hệ thống của quá trình dạy học bao gồm nhiều nhân tố, trong đó hai nhân tố trung tâm của quá trình dạy học ở đại học là: hoạt động dạy của giảng viên và hoạt động học của sinh viên. Phân tích chức năng của hai nhân tố trong mối quan hệ biện chứng, đã xác định rõ bản chất của quá trình dạy học ở đại học là quá trình nhận thức có tính chất nghiên cứu của sinh viên. Bản chất của quá trình này đã giúp chúng ta nhận thức được một quan điểm quan trọng rằng: Vai trò quan trọng của người giảng viên ở đại học là tổ chức hoạt động dạy học có tính chất nghiên cứu, hướng dẫn sinh viên tự học, tự nghiên cứu. Đây là đặc điểm quan trọng để xác nhận chức năng giảng dạy của giảng viên ở đại học khác về cơ bản so với chức năng dạy học của giáo viên ở trường phổ thông. Do đó cũng đòi hỏi trình độ và năng lực giảng viên đại học phải cao hơn giáo viên dạy ở phổ thông, trong đó nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và bồi dưỡng chuyên môn phải được đặt ra và coi đó là nhiệm vụ hàng đầu. Đồng thời với hai nhiệm vụ trên, giảng viên đại học phải có trách nhiệm hướng dẫn sinh viên nghiên cứu khoa học. Hay nói cách khác, muốn giảng dạy có hiệu quả giảng viên phải nghiên cứu tốt, phải giúp đỡ sinh viên nghiên cứu khoa học có hiệu quả. Bản chất của hoạt động dạy học ở đại học cũng quy định các hình thức tổ chức dạy học phải phong phú, đa dạng. Tổ chức quá trình dạy học đại học phải đáp ứng các yêu cầu sau đây: dạy học có tính nghề nghiệp cao, bồi dưỡng và phát triển năng lực nghiên cứu khoa học, năng lực tự học, năng lực hoạt động trí tuệ sáng tạo cho sinh viên, hình thành lí tưởng, niềm tin, nhân sinh quan, thế giới quan khoa học, những phẩm chất tốt đẹp của một chuyên gia khoa học. Nhiệm vụ quan trọng của sinh viên là học Lập và nghiên cứu khoa học. Trong suốt quá trình đó, họ phải thấm nhuần quan điểm: Học ở đại học là tìm tòi, là khám phá, đặc. Điểm quan trọng của quá trình học tập ở đại học là quá trình học tập có tính 4
- chất nghiên cứu; Trong và bằng quá trình này đã đánh dấu sự thành đạt của sinh viên về mặt năng lực, phát triển trí sáng tạo, có đủ sức để giải quyết các vấn đề của khoa học và thực tiễn, có khả năng tiếp tục học lên. Theo Lí Quang Diệu (Singapore) và Tạ Quang Bửu (Việt Nam) thì năng lực tự học, khả năng tiếp tục học lên, năng lực hoạt động thực tiễn của sinh viên là một tiêu chuẩn quan trọng nhất để xác định trình độ của một người đã tốt nghiệp đại học. Năng lực tự học của sinh viên phải được đặt trong tiêu chuẩn có sự sáng tạo, có trí tưởng tượng cao. Chúng ta đều biết tri thức là quan trọng, nhưng theo Einstein, trí tưởng tượng còn quan trọng hơn bởi có trí tưởng tượng phong phú mới có thể có sáng tạo. Nhà vật lí học người Pháp F. Balibar đã nêu công thức mô phỏng từ công thức của Einstein: thiên tài = (ý thức đổi mới). + (năng lực trừu tượng)2. Jean Piaget (1896 - 1980) nhà tâm lí học nổi tiếng ở thế kỉ XX cho rằng: "Toàn bộ tâm lí học hiện đại dạy chúng ta rằng, trí thông minh có được là kết quả của hành động" và đây cũng chính là nhiệm vụ cơ bản của công tác nghiên cứu trong các chiến lược giáo dục. Tuy nhiên, nghiên cứu không được mang tính trừu tượng, bởi vì "hoạt động bao hàm việc nghiên cứu trước đó, và việc nghiên cứu chỉ có giá trị khi hướng tới hành động”1. Ngoài chức năng và nhiệm vụ chung như các sinh viên ở các trường khác, sinh viên các trường Sư phạm còn có một sứ mạng quan trọng là phấn đấu trở thành người giáo viên, nhà giáo dục, có trách nhiệm dẫn dắt thêm thế hệ trẻ đi vào con đường khoa học kĩ thuật. Những nội dung họ được học trong trường Sư phạm bao gồm tri thức khoa học và tri thức về phương pháp với mục đích để chuyển tải đến thế hệ đi sau, do đó bản thân người giáo viên cũng phải không ngừng tự hoàn thiện, đổi mới chính mình. Đặc biệt là quá trình hoàn thiện nhân cách giáo sinh sư phạm có những đòi hỏi cao hơn về phẩm chất và năng lực, trong đó năng lực nghiện cứu khoa học được xem là cốt yếu. Một lĩnh vực quan trọng của hoạt động giáo dục trong các trường sư phạm là hình thành năng lực nghiên cứu về khoa học giáo dục cho sinh viên Có được năng lực nghiên cứu khoa học, đặc biệt là năng lực nghiên cứu về khoa học giáo dục thì trong tương lai các giáo viên mới có thể đảm nhận được chức năng giáo dục của "nghề sáng tạo nhất trong các nghề sáng tạo". Trong các yêu cầu về năng lực và phẩm chất của người giáo viên theo mục tiêu đào tạo, đòi hỏi các sinh viên phải có năng lực hiểu biết về quá trình giáo dục. Quá trình giáo dục (hay còn gọi là quá trình sư phạm) được hiểu là một quá trình khoa học về giáo dục con người, trong đó có những quy luật, các phạm trù, các khái niệm riêng. Nhận thức đúng đắn bản chất về khoa học giáo dục cũng đồng thời là để xác lập các luận cứ khoa học nhằm giáo dục con người. Vì thế, muốn giáo dục con người thành công, trước hết phải am hiểu sâu sắc về khoa học giáo dục. Năng lực hiểu biết của sinh viên Sư phạm về lĩnh vực khoa học giáo dục còn có tác dụng giúp họ có được ngay 1. Chân dung những nhà cải cách giáo dục tiêu biểu trên thê giới. NXB Thế giới, H, 2005, tr.121- 122. 5
- cách học, cách nghiên cứu, có được phương pháp tư duy khoa học về quá trình nhận thức, về các nội dung liên quan đến giáo dục con người trong khi học ở trường sư phạm. Điều này không chỉ thực sự đem lại hiệu. quả to lớn cho sinh viên trong quá trình học tập mà trong cả quá trình hoàn thiện nghề nghiệp sau .này của họ. Trong quá trình học tập ở các trường Sư phạm, người sinh viên đã được rèn luyện các kĩ năng nghề nghiệp nhất định thông qua hoạt động thực tập, kiến tập, nghiên cứu thực tế Chính trong quá trình được luyện tập ở thực tiễn giáo dục, nhất là hoạt động giáo dục và dạy học, họ hiểu sâu sắc hơn về khoa học giáo dục. Những kiến thức tuy chỉ là ban đầu song rất quan trọng này đã làm nền tảng cho quá trình phát triển lâu dài của họ, dẫn đường cho họ trong quá trình giáo dục và giảng dạy. Tri thức khoa học cơ bản làm nền tảng cho tri thức khoa học giáo dục, sự kết hợp này tạo nên năng lực của các chuyên gia giáo dục. Trong các trường đào tạo giáo viên (Trung học Sư phạm, Cao đẳng Sư phạm và Đại học Sư phạm) không được xem nhẹ mối quan hệ trên. Có thể hiểu quan hệ này qua sơ đồ sau1: Các kết quả nghiên cứu về tâm lí học và giáo dục học đã khẳng định ở lứa tuổi sinh viên, năng lực sáng tạo là một đặc trưng quan trọng của nhân cách. Có thể nói: Nếu ở giai đoạn học tập đại học, các kết quả học tập thấp thì khó có thể học tốt ở các giai đoạn sau; Kết quả học tập tốt ở giai đoạn này sẽ tạo tiền đề cho phát triển năng lực chuyên gia, đặc biệt là năng lực tư duy sáng tạo đã được bộc lộ rõ khi còn học tập ở đại học. Sự thích ứng của sinh viên đối với quá trình hình thành nhân cách chuyên gia được các tác giả Nguyễn Thạc - Phạm Thành Nghị2 đề cập đến đầy đủ từ các phương diện sau: Ta có thể hình dung sự phát triển nhân cách của sinh viên trong quá trình học tập ở đại học như sau: Vào năm thứ nhất, phần lớn sinh viên chưa có được những phẩm chất nghề nghiệp của một ngành nhất định. Họ là con em của các dân tộc, các tầng lớp xã hội khác nhau, chủ yếu ở nông thôn và thành thị. Do đó các yếu tố bẩm sinh di truyền đã được biến đổi dưới ảnh hưởng của giáo dục gia đình, của trường phổ thông, của các phong tục tập quán địa phương và những điều kiện sống, sinh hoạt xã hội nói chung. Vào trường đại học, họ đã có một số phẩm chất tương đối ổn định tiêu biểu cho lối 1 . Tham khảo vấn đề này ở bài viết của tác giả Nguyễn Quang Uẩn. Phạm Văn Thỉnh (đăng trong tạp chí giáo dục , năm 2001) 2. Nguyễn Thạc, Phạm Thành Nghị. Tâm lí học sư phạm đại học. NXB giáo dục. 1989 6
- sống của tầng lớp, giai cấp và địa phương mình. Cho nên, trong tập thể sinh viên năm thứ nhất thường có những va chạm do tính độc đạo của nhân cách những người trẻ. Trong quá trình làm quen với cuộc sống tập thể đầu tiên, ở trường đại học, sinh viên thường có hành vi bắt chước lẫn nhau thể hiện bảo bước đầu sự đồng nhất xã hội. Ở đây, sinh viên chưa có quan điểm phân hoá đối với các vai trò của mình. Phương pháp học tập của phần lớn sinh viên năm thứ nhất về căn bản như cách học ở phổ thông. Lần đầu tiên họ được biết về cấu trúc chương trình đào tạo với số môn học, số đơn vị học trình cũng như kế hoạch dạy học. Cũng có thể nói là lần đầu tiên họ được tiếp xúc và làm quen với các khái niệm nghiên cứu khoa học với đầy đủ cơ sở của nó. Tuy nhiên, để có ngay sự thay đổi căn bản về phương pháp học tập theo yêu cầu của học tập ở đại học, trước hết phải khắc phục một số thói quen học tập chưa tích cực theo kiểu học ở trung học phổ thông. Mặc dầu ngay lập tức họ chưa thể dứt bỏ được các thói quen chưa tốt bởi nó đã in đậm vào họ. Do đó, chúng ta thường bắt gặp hiện tượng là: nhiều sinh viên có kết quả tốt khi học trung học phổ thông song có thể phải thi lại một số môn học nhất định khi học ở đại học. Từ thực tiễn trên, ở nhiều trường đại học, các khoa đào tạo thường tổ chức các hội nghị học tập cho sinh viên nhằm tăng cường sự trao đổi, giao lưu giữa các giáo viên cũ với sinh viên mới nhập học, giữa sinh viên mới với các sinh viên năm thứ hai, thứ ba, thứ tư về kinh nghiệm học tập. Do đó, không nên áp đặt lí thuyết về một cách học tập cho sinh viên năm thứ nhất mà điều quan trọng là tôn trọng và khích lệ sinh viên để họ bộc lộ các thói quen tốt như: đọc sách, ham thích các hoạt động khoa học, thường xuyên trao đổi, thắc mắc về chuyên môn Trên cơ sở đó, hướng dẫn họ rèn luyện các thói quen này để phát triển cao hơn, trở thành kĩ năng học tập như: đọc sách phải ghi chép, hệ thống hoá, tham gia các hoạt động khoa học, nêu các vấn đề trong học tập và nghiên cứu hướng đến hình thành và giải quyết các vấn đề chuyên môn. Một yếu tố quan trọng cần phải chú ý là: giảng viên đại học giao nhiệm vụ cho sinh viên thế nào, đánh giá ra sao, thì sinh viên sẽ học tập như vậy. Qua kết quả khảo sát chất lượng giáo viên mới ra trường đã cho thấy, phương pháp giảng dạy của họ ảnh hưởng khá mạnh từ các giảng viên đại học. Đến năm thứ hai, sinh viên đã làm quen với hầu hết các hình thức giảng dạy và giáo dục ở đại học. Quá trình thích ứng đối với hoạt động học tập ở đại học về cơ bản đã hoàn thành. Do tích luỹ được tri thức chung mà các nhu cầu văn hoá rộng rãi được hình thành. Sự giao tiếp chứa đựng nội dung học tập giữa sinh viên và giảng viên tăng lên. Đặc biệt là sinh viên đã hình thành được một phương pháp học tập có tính chất nghiên cứu; quy trình học tập đã được xác định với những yêu cầu cho bản thân có ý nghĩa thiết thực. Đến thời điểm này, những yêu cầu của giáo viên đối với sinh viên đã cao hơn năm thứ nhất; khối lượng công việc sinh viên phải hoàn thành ngày càng tăng và đòi hỏi càng cao về chất lượng. Ngoài hình thức học tập trên lớp, sinh viên có cơ hội tham gia các hình thức học tập đa dạng hơn như: hội nghị, hội thảo khoa học, báo 7
- cáo chuyên đề, tham gia các hoạt động dã ngoại, các nghiên cứu điền dã và nghiên cứu thực tế cũng như các hoạt động thực hành thí nghiệm được tăng cường. Tuy nhiên điều quan trọng là trong quá trình nghiên cứu tài liệu học tập, sinh viên đã biết cách tiếp cận theo hướng chọn lọc, bước đầu hình thành các kĩ năng phân loại tài liệu, hệ thống hoá và biết tổng hợp, khái quát hoá để phục vụ cho học tập. Do đó, cần tăng cường nhiều dạng bài tập bài tiểu luận để phát triển năng lực khái quát hoá tài liệu cho sinh viên là một trong những yêu cầu quan trọng của các hình thức tổ chức nghiên cứu khoa học cho sinh viên. Ở các trường đào tạo giáo viên, sinh viên năm thứ hai thường đã được tiếp xúc với trường phổ thông hoặc đi điền dã, nghiên cứu thực tế, thăm quan Những nội dung lĩnh hội được qua các hình thức trên đây có ý nghĩa quan trọng đối với sinh viên để hình thành hứng thú và lí tưởng nghề nghiệp. Bước sang năm thứ ba, hứng thú với hoạt động khoa học và học tập chuyên môn được phát triển theo chiều hẹp và sâu của nghề nghiệp đã chọn. Những phẩm chất có liên quan và phù hợp với nghề nghiệp tương lai được phát triển mạnh. Trong quá trình nhận thức (qua hình thức học trên lớp và tự nghiên cứu tài liệu) đã xuất hiện những tình huống, vấn đề hoặc các nội dung được sinh viên nêu ra như một lĩnh vực chủ chốt đang được quan tâm trong.giới chuyên môn. Đặc biệt là nhờ có thông tin mới từ mạng Internet, tạp chí khoa học, hoặc tham gia các hội nghị, hội thảo khoa học trong và ngoài trường, sinh viên đã được làm quen với các hình thức nghiên cứu khoa học. Những hình thức viết tiểu luận, bài tập nghiên cứu được tăng cường hơn, đặc biệt là các hoạt động kiến tập nghiên cứu thực tiễn đã đem lại cho sinh viên những ý tưởng khoa học. Đến năm cuối cùng, sinh viên thực sự làm quen với các công việc của người chuyên gia khi đi thực tập ở cơ sở thuộc lĩnh vực nghề nghiệp của mình. Họ thể nghiệm mình trong đời sống, đối chiếu, đánh giá lại các giá trị có liên quan tới nghề của mình; tích cực tìm tòi các thông tin nghề nghiệp và rèn luyện các kĩ năng cần thiết. Họ nghĩ đến viễn cảnh tốt nghiệp đại học và các giá trị có liên quan đến đời sống vật chất, gia đình, nơi công tác hiệu quả đào tạo thể hiện rõ ở người sinh viên sắp ra trường. Toàn bộ nhân cách của họ phát triển sát với mục tiêu đào tạo và gần với mẫu người chuyên gia thuộc một ngành nghề nhất định. Từ góc độ lí luận dạy học, có thể hiểu quá trình sinh viên học tập diễn biến qua các năm ở đại học như sau: 8
- Phương pháp học tập đang hình thành Làm quen với phương pháp học mới, đã tham gia vào thực tiễn nghề nghiệp Thực hiện các đề tài nghiên cứu, các ý tưởng nghiên cứu có cơ hội để thực hiện Hiểu rõ các đặc điểm môn học và có mong muốn nghiên cứu sâu và nhiều hơn Thực hiện các đề tài và đồ án tốt nghiệp Như vậy, việc xem xét các đặc điểm nhân cách của sinh viên có vai trò quan trọng trong việc xác định nội dung hình thức và phương pháp tác động đến họ theo hướng hình thành nhân cách người chuyên gia tương lai ngay từ trong các trường đại học. Thực tiễn giáo dục đại học đang tồn tại mâu thuẫn cơ bản giữa một bên là yêu cầu nâng cao chất lượng đào tạo với một bên là việc mở rộng quy mô để đáp ứng nhu cầu học tập của số đông trong khi điều kiện cho giáo dục đại học chưa đảm bảo. Riêng tỉ lệ giảng viên thấp trên số lượng lớn sinh viên và thời gian của giảng viên dành cho nhiệm vụ giảng dạy quá nhiều đã xuất hiện các khó khăn, ảnh hưởng xấu đến chất lượng. Thực trạng giảng viên đại học sử dụng các hình thức dạy học tích cực còn gặp nhiều khó khăn: nhận thức của giảng viên về việc thay đổi cách dạy còn chậm, thói quen học tập của sinh viên còn thụ động, điều kiện học tập còn hạn chế, cách đánh giá thiếu khách quan Đồng thời các khó khăn về chính sách, chế độ chung với giảng viên cũng như các quy định về giảng dạy, nghiên cứu khoa học cũng chưa thực sự khuyến khích giảng viên tích cực áp dụng các phương pháp dạy học mới. Hoạt động của sinh viên các trường Sư phạm trong môi trường đa dạng và phong phú, có thể kể đến các điều kiện cơ bản, đó là: môi trường học tập - nghiên cứu khoa học; môi trường văn hoá - xã hội Mục tiêu của các trường Sư phạm là đào tạo các chuyên gia giáo dục ở nhiều môn học khác nhau. Trong các trường đại học nói chung và các trường Sư phạm nói riêng, hoạt động cơ bản là hoạt động giáo dục - đào tạo. 9
- Đối với các đường sư phạm, những tính chất và đặc điểm của môi trường sư phạm, môi trường giáo dục có ý nghĩa các động quan trọng đối với sự hình thành và phát triển nhân cách sinh viên. Hình thành nhân cách người chuyên gia không thể nằm ngoài quy luật chung là: nhân cách được hình thành và phát triển trong hoạt động. Đây cũng là quy luật quan trọng của giáo dục học, do đó nếu tổ chức tốt quá trình học tập có tính chất nghiên cứu cho sinh viên, làm cho nó mang đậm màu sắc nghiên cứu khoa học. Để cho sinh viên được “tắm mình” trong môi trường đó, đánh giá và điều chỉnh nó trong phạm vi và cách nhìn của khoa học giáo dục thì sẽ đem lại hiệu quả đào tạo to lớn. Môi trường giáo dục trong các trường đại học và cao đẳng trước hết là môi trường khoa học với những đặc trưng của các dạng hoạt động: nghiên cứu, giảng dạy của giáo viên và các hoạt động của sinh viên được diễn ra thường xuyên liên tục và chiếm phần lớn quỹ thời gian của mọi hoạt động nhà trường. Phạm vi ảnh hưởng của môi trường ngày càng đa dạng và phức tạp đến sự hình thành và phát triển nhân cách con người. Môi trường nhỏ gồm các quan hệ thấy - trò, quan hệ sinh viên - sinh viên Ở lên lớp, thông qua hoạt động học tập. Môi trường lớn gồm các quan hệ giữa các nhân tố của quá trình đào tạo với các yếu tố bên ngoài như: điều kiện sống, văn hoá, lối sống xã hội, kể cả nhân tố tích cực và tiêu cực thông qua các hoạt độn ngoài giờ lên lớp của sinh viên. Một yếu tố tác động mạnh đến môi trường học tập - nghiên cứu của sinh viên là thông tin khoa học, các hoạt động khoa học, đặc biệt là qua các hội nghị, hội thảo khoa học, sinh viên được giao tiếp, được gợi mở các ý tưởng khoa học, chia sẻ các kinh nghiệm nghiên cứu và tạo niềm tin cho các nhà khoa học tương lai. Môi trường giáo dục tích cực trong trường học cần có những đặc trưng sau: Một là, toàn bộ hoạt động dạy học ở các bộ môn phải được quán triệt theo quan điểm dạy học mới, tăng cường vai trò tự lực của sinh viên, tạo điều kiện để sinh viên được tự học tốt nhất. Hai là, các hoạt động ngoại khoá của các tổ chức đoàn thể đều phải thấm 10
- nhuần quan điểm phục vụ cho hoạt động học tập, vì hoạt động học tập. Do đó, các hình thức dạ hội, ngoại khoá, sinh hoạt theo các chủ đề chuyên môn phái được coi trọng. Đối với các trường Sư phạm, các hoạt động thực tế chuyên môn, kiến tập, thực tập sư phạm cần được chuẩn bị kĩ lưỡng. việc thực hiện các bài tập tâm lí - giáo dục phải được hướng dẫn chu đáo và có đánh giá nghiêm túc với các yêu cầu sư phạm nhất định. Trong hàng loạt các yếu tố của môi trường giáo dục đã kể trên, vai trò của người giảng viên có ý nghĩa quyết định đối với việc nâng cao chất lượng đào tạo. 2. Phát triển tư duy khoa học cho sinh viên Nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong giáo dục đại học hiện nay là nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện nhân cách con người. Trong các giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục đại học, phải hướng trọng tâm vào nhiệm vụ nâng cao năng lực tư duy khoa học cho sinh viên. Muốn có được năng lực tư duy khoa học, sinh viên phải được rèn luyện thông qua các hoạt động, trong đó hoạt động học tập - nghiên cứu là cơ bản. Tuy nhiên, nếu chỉ hiểu hoạt động học tập như một dạng lao động trong phạm vi sách vở, kinh viện thì có thể sẽ tạo ra một năng lực không toàn diện. Khái niệm học tập cần được mở rộng mà trong đó, giá trị của nó được xác nhận và hình thành suốt một quá trình lâu dài, trong đó vai trò của thực tiễn rất quan trọng. Đó chính là năng lực hoạt động trong học tập, trong nghiên cứu khoa học của sinh viên. Có thể đánh giá năng lực tư duy khoa học của sinh viên ở các khâu cơ bản: phát hiện vấn đề, giải quyết vấn đề và ứng dụng nó vào thực tiễn đời sống xã hội. Một trong những khiếm khuyết của quá trình đào tạo sinh viên hiện nay là khi họ ra trường, năng lực hoạt động thực tế, kĩ năng nghề nghiệp còn yếu. Đây cũng là hệ quả của lối đào tạo tách rời thực tiễn, không tổ chức cho sinh viên nghiên cứu khoa học có hiệu quả. Việc tổ chức cho sinh viên nghiên cứu khoa học với các hình thức đa dạng và phong phú trong quá trình đào tạo là một trong những điều kiện đảm bảo cho họ gia nhập vào thực tiễn một cách có hiệu quả. Chẳng hạn, khi các doanh nghiệp có ý kiến về chất lượng giáo dục đại học, nếu suy nghĩ một cách có trách nhiệm, chúng ta thấy các ý kiến tập trung vào vấn đề: các sinh viên thiếu tri thức mới, các kĩ năng nghề nghiệp lạc hậu, sinh viên chưa năng động trong hoạt động do đó, các doanh nghiệp phải đào tạo lại. Từ vấn đề "phải đào tạo lại" của các doanh nghiệp, chúng ta đặt ra hướng suy nghĩ: Tại sao các trường đại học lại không nghiên cứu một cách kịp thời những nội dung phải đào tạo lại của các doanh nghiệp để đưa vào dạy học ở đại học. Do đó, xuất hiện các nghiên cứu về đánh giá chất lượng sinh viên tốt nghiệp cần phải bổ sung các tiêu chí nào, hoặc xếp thứ bậc ưu tiên, hoặc xuất hiện các vấn đề về xây dựng và cải tiến chương trình và phương thức đào tạo, sự phối hợp đào tạo giữa nhà trường với cơ quan sản xuất sử dụng nhân lực đào tạo như thế nào? Hàng loạt các vấn đề quan trọng trên đây đang đặt ra cho chúng ta cách tư duy mới theo hướng vì thực tiễn, từ thực tiễn, tránh quan liêu và lãng phí trong nghiên cứu và quản lí giáo dục. 11
- Tiếp cận ở phương diện khoa học giáo dục tức là phải tác động một cách đồng thời lên con người để phát triển tư duy, kĩ năng, tình cảm thái độ. Ở Singapore, từ năm 1996 đã xây dựng kế hoạch để chống lại sự cứng nhắc, nhằm chuẩn bị cho thế hệ trẻ một thói quen thường trực là biết thay đổi bằng ba nội dung: Một là, đưa "chương trình tư duy" vào giảng dạy để giúp cho sinh viên phát triển kĩ năng tư duy; Hai là trang bị máy tính cho sinh viên; Ba là định hướng giáo dục yêu nước thông qua 4 C: commitment (biết giữ lời hứa), cohesion (biết đoàn kết), community (tính cộng đồng) và confidence in country (trung thành với Tổ quốc)1. Đi sâu vào năng lực hoạt động trí tuệ, theo Antoine de la Garanderie daniel arquié, bao gồm các thao tác: sự chú ý, sụ ghi nhớ, sự thông hiểu, sự suy nghĩ, tưởng tượng và sáng tạo. Những thao tác trên đây có thể mô tả được. Để thực hiện được người ta phải tuân theo những quy luật chính xác và để làm chủ hoàn toàn phải luyện tập đều đặn. Tư duy khoa học được hình thành theo quy luật nào? Tâm lí học hoạt động đã chỉ ra một quy luật quan trọng: nhận thức là một quả trình được hình thành, được phát triển trong hoạt động và bằng hoạt động. Khả năng nhận thức, năng lực tư duy được hình thành trong quá trình học tập, nghiên cứu sẽ đem lại những điều kiện thuận lợi cho con người. Đối với hoạt động học tập của sinh viên, do đặc trưng tính chất nghiên cứu của nó, nên trong quá trình nhận thức mang đậm dấu ấn tìm tòi, sáng tạo, chủ yếu là phát hiện, cho dù có lặp lại cũng là sự tái hiện sáng tạo; hoặc những phát hiện mới trong quá trình nghiên cứu. Tư duy khoa học chỉ xuất hiện trước tình huống có vấn đề. Tính có vấn đề của nội dung học tập phải được kiến tạo trong và bằng quá trình học tập, được giáo viên thúc đẩy bằng các biện pháp sư phạm và được người học tiếp nhận như một sự chuyển hoá tự nguyện bởi nhu cầu nhận thức. Tư duy khoa học được thể hiện từ khâu đề xuất và lựa chọn vấn đề nghiên cứu, cách giải quyết vấn đề, cách sử dụng phương pháp nghiên cứu, cách trình bày công trình khoa học và bảo vệ các luận điểm khoa học. Hình thành và phát triển năng lực tư duy sáng tạo cho sinh viên là một nhiệm vụ quan trọng không những đáp ứng yêu cầu chuyên môn nghề nghiệp tương lai của họ mà quan trọng hơn là tạo ra một năng lực mới cho một thế hệ đang tiếp cận nền kinh tế tri thức. Tiếp cận theo quan điểm hệ thống, việc đổi mới giáo dục đại học hiện nay phải đồng bộ: từ nhiệm vụ xây dựng nội dung chương trình, đổi mới phương pháp giảng dạy, các điều kiện đảm bảo, đến cải tiến đánh giá nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên đại học Những vấn đề lớn lao này sinh viên phải được tiếp cận sớm và tiếp sau đó, chính họ sẽ làm thay đổi chất lượng giáo dục phổ thông. Một vấn đề đang được khoa học giáo dục quan tâm là thúc đẩy năng lực tư duy sáng tạo, linh hoạt, phát triển kĩ năng sống cho sinh viên. Trong tổ chức học tập, cần 1. Theo Tạp chí Thông tin lí luận. số 3/1998. tr.35. 12
- xây dựng hệ thống các tình huống: các bài tập sáng tạo, đòi hỏi cách đặt vấn đề mới, giải bài toán theo lối mòn sẽ không có kết quả, cần phải “phá vỡ khuôn mẫu” mới có thể thực hiện được bài tập nhận thức. Điều này rất quan trọng, bởi theo Carl Rogers thì: "Mục tiêu của giáo dục phải là phát triển những cá nhân biết cởi mở đối với sự thay đổi. Chỉ có những người như thế mới có thể đáp ứng một cách xây dựng những phức tạp của một thế giới trong đó các vấn đề được nảy sinh nhanh hơn các giải pháp", hoặc: "Trong thế giới tương lai, khả năng đối phó với cái mới một cách thích đáng quan trọng hơn khả năng biết và lặp lại cái cũ ”1. Phát triển năng lực và phẩm chất hoạt động trí tuệ của sinh viên là nhiệm vụ quan trọng của công tác giáo dục đại học nói chung và giảng dạy ở đại học nói riêng. Hình thức quan trọng nhất để hình thành và phát triển năng lực tư duy sáng tạo cho sinh viên là tổ chức cho họ tham gia nghiên cứu khoa học. Phẩm chất trong hoạt động trí tuệ của sinh viên thể hiện ở các đặc tính căn bản sau: Tính đinh hướng: Biểu hiện năng lực tư duy phát hiện nhanh chóng đối tượng nhận thức, xác định rõ mục đích của hoạt động và con đường để đạt đến mục đích. Ngay từ khâu nghe giảng, tư duy định hướng chính là ở chỗ phát hiện ra các vấn đề cơ bản, mấu chốt của bài giảng; khi làm bài tập biết khai thác các nội dung cốt lõi để giải bài tập; khi làm bài thi, biết phát hiện yêu cầu chính của đề bài. Đặc biệt là cấu trúc giáo trình ở đại học thường đi từ tổng luận (đại cương về khoa học đó) đến các nội dung cụ thể. Do đó đòi hỏi sinh viên phải có năng lực tư duy khái quát, định hướng cao mới có thể tiếp nhận được toàn bộ giáo trình. Những sinh viên thiếu năng lực định hướng sẽ rơi vào tình trạng "thấy cây mà không thấy rừng". Hoặc trong phạm vi hạn định về thời gian, nhiều sinh viên không thể hoàn thành tốt được bài thi, mặc dầu có thể có được nhiều thông tin để làm bài thi. Một số sinh viên năm thứ nhất do còn thói quen học từ trung học phổ thông, nên khi đứng trước vấn đề bài học đưa ra đòi hỏi phải có năng lực định hướng cao, khái quát hoá vấn đề thì sẽ gặp khó khăn trong học tập. Đồng thời, năng lực định hướng còn chi phối cách ghi chép, cách đọc sách, cách thu thập tư liệu trong học tập và nghiên cứu của sinh viên. Thực tiễn khi hướng dẫn sinh viên nghiên cứu khoa học ta thường bắt gặp cách trình bày “sống” các tư liệu tổng thuật chưa được chuyển hoá vào công trình nghiên cứu, hoặc thiếu sự đánh giá nhận xét các tài liệu tổng hợp đó là các biểu hiện tính định hướng trong học tập và nghiên cứu của sinh viên còn hạn chế. Ngay cả một số luận văn của cao học cũng rơi vào tình trạng này, mặc dầu các học viên đã được học chuyên đề Phương pháp luận nghiên cứu khoa học. Bề rộng của hoạt động trí tuệ thể hiện ở các khía cạnh: tầm hiểu biết của sinh 1. Carl Rogcgrs. Phương pháp dạy và học hiệu quả. Cao Đình Quát dịch: NXB Trẻ: tr.165. 13
- viên về nội dung khoa học đang nghiêm cứu. đó là cơ sở lí luận của vấn đề, các nội dung liên quan, các luận điểm khác nhau; đồng thời là sự liên quan của các khoa học khác có liên quan đến vấn đề sinh viên đang học tập. đang nghiên cứu. Đây là đòi hỏi rất khác biệt về năng lực hoạt động trí tuệ của học sinh phô thông với sinh viên. Trong tiêu chí đánh giá các sản phẩm trí tuệ của sinh viên, tầm hiểu biết sâu và rộng được coi là tiêu chí quan trọng để đánh giá điểm cao hay thấp. Điều này còn đòi hỏi sinh viên phải đọc nhiều, biết tổng hợp các tài liệu và sử dụng vào mục đích học tập, nghiên cứu có hiệu quả: Chiều sâu của hoạt động từ tuệ thể hiện ở mức độ sinh viên nắm được bản chất của sự vật hiện tượng. Để đạt được mức độ này, sinh viên phải trải qua một quá trình học tập và nghiên cứu lâu dài, có hệ thống, quá trình nhận thức đã phát hiện ra các quy luật chi phối sự vận động phát triển của hệ thống. Chẳng hạn trong nghiên cứu khoa học giáo dục, sinh viên phải tìm ra quy luật tác động đến sự phát triển của quá trình giáo dục, xác định các mâu thuẫn cơ bản, tìm các con đường để giải quyết. Đó là việc nghiên cứu các quy luật nhận thức, động lực của quá trình, lôgic của quá trình giáo dục Tuy nhiên, khi đánh giá kết quả các công trình nghiên cứu khoa học giáo dục của sinh viên, cần quan tâm đến mức độ hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu đã đạt được ở trình độ nhận thức sâu sắc, bản chất về đối tượng nghiên cứu hay chỉ đạt mức độ mô tả thống kê Để thực hiện yêu cầu trên, đòi hỏi sinh viên phải trải qua một quá trình nghiên cứu, thử nghiệm tìm tòi sáng tạo. Tính linh hoạt trong hoạt động trí tuệ thể hiện ở khả năng di chuyển tri thức, kĩ năng từ tình huống này sang tình huống khác một cách nhanh chóng. Ví dụ, vận dụng tri thức giáo dục học trong quá trình nghiên cứu, sinh viên có thể giải thích được khá đầy đủ về các hiện tượng không chú ý trong quá trình học tập của sinh viên là do các yếu tố bên trong chi phối. Tuy nhiên, ở góc độ y học - sức khoẻ thì nguyên nhân có thể khác, do đó nếu chỉ sử dụng kiến thức giáo dục để ứng xử tình huống trên thì kết quả chưa chắc đã thành công. Do đó, cần hướng cho sinh viên có khả năng huy động tri thức nghiên cứu tổng hợp, luôn có suy nghĩ về khả năng vận dụng, ứng dụng của tri thức khoa học vào giải quyết các vấn đề của thực tiễn. Ví dụ, trong khi có xu hướng ứng dụng tri thức mới về phương pháp, phương tiện kĩ thuật dạy học vào nghiên cứu đổi mới cải tiến dạy học theo hướng hiện đại hoá, với yêu cầu phải trang bị các phương tiện hiện đại, tốn kém, thì đã có sinh viên suy nghĩ sử dụng ngay các vật liệu phế thải bỏ đi để cải tiến thành đồ dùng dạy học và đã có hiệu quả cao. Tính độc lập cửa hoạt động trí tuệ thể hiện ở mức độ phát hiện, nhận biết, đề xuất cách giải quyết các vấn đề của sinh viên một cách độc lập. Năng lực này chỉ được hình thành thông qua một quá trình học tập của những sinh viên có ý thức học tập nghiêm túc, có ý chí và khả năng tự lập cao. Nhìn chung, những sinh viên có tính độc lập trong hoạt động trí tuệ sẽ trưởng thành nhanh chóng, các đề tài nghiên cứu của họ có những 14
- đề xuất mới, sáng tạo, độc lập và chính điều này đã giúp họ có được uy tín khoa học cao. Theo các kết quả nghiên cứu, ngay từ khi là sinh viên các nhà khoa học có trình độ cao đã có năng lực độc lập, năng lực sáng tạo. Ngoài các phẩm chất của hoạt động từ tuệ trên đây, còn có các tính nhất quán, tính phê phán, tính khái quát của hoạt động trí tuệ. Những phẩm chất này cực kì quan trọng trong quá trình nhận thức và hoạt động trí tuệ của sinh viên. Nghiên cứu các sản phẩm khoa học của sinh viên, người ta thường chú ý đến lôgic của hệ thống vấn đề tiếp cận, sự thống nhất cả nội dung và phương pháp nghiên cứu từ đầu đến cuối; hoặc sự diễn đạt mạch lạc, thống nhất. Đó chính là tính nhất quán trong phẩm chất của hoạt động trí tuệ. Đặc biệt, trong học tập nghiên cứu khoa học ở trường đại học, những ý kiến riêng có tính chất phê phán khoa học, hoài nghi khoa học, biết kế thừa thành quả hoặc mạnh dạn phê phán cái lạc hậu, cái phản khoa học là những yếu tố mới trong nhận thức khoa học. Tuy nhiên, vấn đề cốt lõi của những người có tư duy phê phán không phải là tìm cách đối lập hoặc phủ định quan điểm của người khác. Robert Ennis cho rằng có 13 đặc điểm của người có tư duy phê phán: cởi mở, giữ quan điểm hoặc thay đối quan điểm khi chứng cớ đòi hỏi; xem xét toàn bộ tinh hình; tìm kiếm thông tin; tìm kiếm sự chính xác trong thông tin; xử lí từng phần của tổng thể phức tạp theo trật tư, tìm các sự lựa chọn khác; tìm kiếm các lí do; tìm kiếm sự khẳng đinh rõ ràng của vấn đề, giữ trong đầu vấn đề cơ bản; sử dụng các nguồn có uy tín; phù hợp với điểm đang nói; nhạy cảm với tình cảm và trình độ kiến thức của những người khác.1 Các quan điểm của Mathew Lipman, Robert Sternberg và Robert Ennis xác định tư duy có phê phán là một hình thức của trí thông minh và có thể dạy được, nó khác căn bản so với tư duy phổ thông ở chỗ nó phức tạp hơn và được dựa vào các tiêu chuẩn khách quan và tính nhất quán. Đây cũng là một trong những phẩm chất cần rèn luyện cho sinh viên, bởi chính họ là những người có chức năng giáo dục, phát triển và phê phán và đây là những phẩm chất quan trọng của người ta thức trong tương lai. Tuy nhiên, trong các buổi bảo vệ luận văn tất nghiệp đại học, cao học, thậm chí trong buổi bảo vệ luận án tiến sĩ, cũng ít gặp các ý kiến tranh luận khoa học giữa người học với các thành viên hội đồng. Đây cũng là yếu điểm của sinh viên trong quá trình nghiên cứu khoa học, sinh viên ít quan tâm đến yếu tố tranh luận, phản biện khoa học, hoài nghi trong khoa học. Về phương diện quản lí, chúng ta còn thiếu các tiêu chí khoa học trong đánh giá, hoặc nếu có thì chưa rõ ràng hoặc không công bố trước đối với người học. Năng lực hoạt động trí tuệ thể hiện ở khả năng tư duy trừu tượng và tư duy độc lập, có khả năng tiên đoán, suy luận tốt. Đây cũng là yếu tố cốt lõi, tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá, thẩm định các sản phẩm khoa học của sinh viên. 1. How can we teach illtelligcllce. EducatiDnal leadership, Sep. 1980. 15
- Đồng thời, có thể coi là tiêu chí cơ bản để phát hiện ra những sinh viên có năng lực nghiên cứu để đào tạo, bồi dưỡng tiếp trở thành giảng viên đại học hoặc các nhà khoa học. Đềcác đã nói: "Điều thứ nhất là không bao giờ chấp nhận một điều gì mà đúng đắn nếu tôi không biết rằng hiến nhiên nó là thế”;”Điều thứ hai là phải chia mỗi một khó khăn mà tôi cần xem xét thành bao nhiêu phần nhỏ có thể được và cần phải có để giải quyết nó tốt hơn”, "Điều thứ ba là phải dẫn dắt ý nghĩ của tôi theo trình tự, bắt đầu bằng những sự vật đơn giản nhất, đến dần dần đi lên, như bậc thang một, đến sự hiểu biết những sự vật phức tạp hơn, bằng cách thậm chí giả định trật tự giữa những sự vật không kế nhau tự nhiên”, “Và điều cuối cùng là tiến hành khắp nơi những sự kiểm kê đầy đủ và những sự duyệt lại bao quát đến mức tôi phải chắc chắn là không bỏ quên cái gì hết”1. Đây là quy tắc của một tri thức khoa học (theo ý muốn của Đềcác), cho đến ngày nay, nó vẫn còn gợi cho chúng ta nhiều suy nghĩ khi bàn đến tư duy khoa học. Thuật ngữ tính sáng tạo (creativity) được hiểu là khả năng của con người ở các phương diện: quá trình qua đó một lĩnh vực tượng trưng được thay đổi; có khả năng giải quyết vấn đề theo cách mới; cách thể hiện của cá nhân thông qua nghệ thuật. Trong giáo dục, các bài kiểm tra thường không đo được tính sáng tạo một cách chính xác. Các nhà giáo dục thường đánh giá sự thông minh của người học qua khả năng ngôn ngữ và toán học. Tuy nhiên vấn đề không phải là chúng ta đánh giá người học thông minh như thế nào mà điều quan trọng là phải khám phá người học thông minh theo cách nào và dùng cách đó để hướng dẫn họ học tập. Theo GS Rohert J. Sternberg (GS Tâm lí học và Giáo dục học trường ĐH Yale) thì có 6 đặc điểm liên quan đến tính sáng tạo: không theo quy ước; thông minh; trí tưởng tượng và đầu óc thấm mĩ; mềm dẻo và các kĩ năng ra quyết đinh; mạch lạc trong khi chất vấn các chuẩn xã hội; khả năng hoàn thành và công nhận2. Nhìn chung, để khuyến khích tư duy sáng tạo ở người học, giáo viên phải tăng cường các biện pháp kích thích người học suy diễn, tư duy trực cảm, sử dụng các biện pháp dạy học tìm kiếm và khám phá. Đối với giáo dục đại học, tổ chức cho sinh viên nghiên cứu khoa học với nhiều hình thức khác nhau là con đường chủ đạo để thực hiện mục tiêu nâng cao chất lượng giáo dục đại học. Quy trình tổ chức cho sinh viên nghiên cứu khoa học được thực hiện theo các bước tổng quát cơ bản sau đây: lựa chọn vấn đề nghiên cứu, hoặc viết các báo cáo nêu vấn đề, viết các chủ đề xêmina; xác định tên đề tài và làm đề cương nghiên cứu dưới 1. Theo Gilles - Gaston Glanger. Khoa học và các khoa học. NXB Thế giới. H. 1995; tr.57-58. 2. Allan C. Ornstein và Thomas J. Lasley, II. Các chiến lược để dạy học có hiệu quả. Ban Đào tạo Đại học Quốc gia biên dịch, H, 2001. tr.26. 16
- sự hướng dẫn của giảng viên; triển khai nghiên cứu; nghiệm thu, công bố kết quả nghiên cứu. Ở bất cứ khâu nào cũng phải tập trung phát triển năng lực tư duy sáng tạo cho sinh viên. Nội dung nghiên cứu được lựa chọn từ các vấn đề từ nội dung môn học phù hợp với quá trình đào tạo, mục đích là nhằm định hướng cho sinh viên gắn kết hoạt động học tập với hoạt động nghiên cứu. Do đó, về tính thực tiễn của yêu cầu trên đây là có thể thực hiện được. Hình thức nghiên cứu khoa học của sinh viên rất phong phú: thông qua quá trình học tập và nghiên cứu môn Tâm lí bọc, Giáo dục học, nghiên cứu thực tiễn giáo dục phổ thông, hoặc đo đạc, phân tích các diễn biến tâm lí của học sinh; nghiên cứu các bài tập để vận dụng các phương pháp: quan sát, điều tra, phân tích, tổng hợp, so sánh để làm sáng tỏ bản chất của vấn đề nghiên cứu. Trong quá trình học tập, sinh viên được các giáo viên bộ môn Phương pháp giảng dạy gợi mở các vấn đề nghiên cứu về giảng dạy ở một bài, chương, mục cụ thể. Đây là cơ hội tốt để sinh viên bước đầu tham gia vào nghiên cứu khoa học giáo dục. Trong quá trình công tác sau này, họ được trang bị lí luận và thực tiễn giáo dục phong phú để tiếp tục đóng góp vào công tác quản lí giáo dục, chỉ đạo công tác chuyên môn cũng như tham gia nghiên cứu, chỉ đạo, tư vấn các vấn đề giáo dục hoặc các vấn đề xã hội khác. Tư duy khoa học và sự phát triển nhân cách của sinh viên Mục tiêu giáo dục toàn diện con người đang trở thành vấn đề quan tâm của cả xã hội. Sinh viên, ngoài quá trình học tập tích cực và nặng nhọc ở đại học, còn phải tích cực hoạt động rèn luyện tu dưỡng mọi mặt để có được năng lực và phẩm chất, nhân cách người chuyên gia trong tương lai. Do đó, đặc trưng tư duy khoa học và nhận thức lí tính đã có ảnh hướng tích cực đến lối sống, thói quen, kể cả các dạng hoạt động khác nhau của sinh viên. Điều quan trọng là trải qua quá trình học tập và rèn luyện, đã hình thành cho họ phong cách của nhà khoa học, tích cực chủ động, sáng tạo trong các hoạt động. Đặc biệt là khi nhìn nhận các vấn đề xã hội, họ có nhãn quan khoa học, có tri thức khoa học để lí giải nó cũng như khi đánh giá, bình phẩm các hiện tượng, các quá trình đang diễn ra. Đối với sinh viên sư phạm, hình thành được một lối sống khoa học, tích cực của nhà giáo dục là một đặc điểm quan trọng của nhân cách nhà giáo - nhà sư phạm. Chính là sông chuẩn mực của giáo viên là một tấm gương về nhân cách cho học sinh. Sinh viên Sư phạm khi ra trường được trang bị hệ thống tri thức khoa học và phương pháp luận, phương pháp cụ thể, cũng như các kĩ năng giáo dục chuyên biệt về khoa học giáo dục, khi tiếp cận các vấn đề thực tiễn họ sẽ có năng lực phân tích, đánh giá, đề xuất các giải pháp chuyên môn đúng đắn hơn. Điều đáng quan tâm là trong hoạt động thực tiễn, trọng tâm của giáo viên không chỉ là nhà nghiên cứu toán học hay là nghiên cứu văn học mà họ còn là chuyên gia giáo dục ở các trường phổ thông. Xét về chức năng nghề nghiệp, các nhà khoa học giáo dục nhấn mạnh chức năng giáo dục đối với toàn bộ các hoạt động của các giáo viên. Do đó, hình thành một lối sống tích cực, khoa học ứng xử có văn hoá trong giáo dục nhà trường hay trong hoạt động thực 17
- tiến chính là yểu tố quan trọng để sinh viên thích ứng với cuộc sống hiện đại. Tư duy khoa học đòi hỏi sự chính xác, sự phát hiện, tích dự báo trong suy nghĩ và hành động của con người, song cũng rất uyển chuyển, linh hoạt. Do đó, trong lối sống sinh viên, một mặt chúng ta cần rèn luyện phong cách khoa học cho họ, mặt khác cũng cần tôn trọng, khuyến khích một lối sống năng động, tích cực, sẵn sàng thích ứng với sự biến đổi nhanh của thực tiễn xã hội. 3. Nhận thức của sinh viên về nhiệm vụ học tập ở đại học Nhiệm vụ học tập ở đại học với tính chất và đặc điểm như đã nêu thực sự là một nhiệm vụ quan trọng nhưng rất khó khăn. Vì nhiều nguyên nhân, nhận thức của sinh viên về vấn đề này cũng ở nhiều mức độ khác nhau. Phần lớn sinh viên có nhận thức đúng đắn về nhiệm vụ học tập là một công việc quan trọng nhất trong các năm học ở đại học. Tuy nhiên, khi xác định các nhiệm vụ cụ thể thì họ còn lúng túng. Nội dung các nhiệm vụ học tập cơ bản tập trung vào các vấn đề: tiếp thu hệ thống tri thức, kĩ năng kĩ xảo gắn với nghề nghiệp; rèn luyện, phát triển năng lực tư duy nghề nghiệp; hình thành thế giới quan khoa học, phẩm chất đạo đức, tác phong người chuyên gia, người cán bộ khoa học kĩ thuật. Có thể trong thực tế học tập, họ phấn đấu thực hiện các nhiệm vụ trên, song để có được nhận thức đúng đắn, có tác dụng định hình cho quá trình học tập thì nhiều sinh viên chưa nhận thức được đầy đủ. Mặt khác, có sinh viên xem nhẹ nhiệm vụ này hay nhiệm vụ khác, thậm chí có sinh viên chưa xác định được đầy đủ các nhiệm vụ theo từng năm học để phấn đấu. Những nhận thức lệch lạc hoặc sai lầm như trên phản ánh sự đa dạng và phức tạp trong việc xác định các động cơ học tập của sinh viên. Tác dụng của việc học tập đạt kết quả tốt trong trường đại học được nhiều sinh viên coi là quyết định để có việc làm sau này. Kết quả nghiên cứu đã cho thấy nhiều sinh viên tự đánh giá tầm quan trọng và ý nghĩa của nhiệm vụ học tập ở đại học là chủ đạo, là trọng tâm của mọi hoạt động ở lứa tuổi sinh viên. Tuy nhiên nếu phân tích sâu, có thể thấy nhận thức của sinh viên về ý nghĩa của việc học còn chưa gắn với các định hướng mang tính xã hội như: học để làm, để phát triển, để phục vụ xã hội. Nhận thức của sinh viên về đặc điểm của hoạt động học tập ở đại học có khác nhau. Có thể kể đến các mức độ nhận thức sau đây: học ở đại học khó hơn học ở trung học phổ thông bởi khối lượng và thời gian học tập khác nhau; học ở đại học chỉ cần học theo lĩnh vực chuyên môn, chuyên ngành; học ở đại học là nghiên cứu, là tự học; học ở đại học là học tự do sáng tạo Có sinh viên còn nhận thức khá phiến diện và sai lầm về tính chất học tập ở đại học, điều này thể hiện trong quan niệm của họ tại các hội nghị học tốt, hội nghị trao đổi về phương pháp học tập. Nhận thức sai lầm về học tập ở đại học sẽ dẫn đến phương pháp học tập không đúng, thiếu động cơ học tập; đồng thời, tạo thói quen ỉ lại, chây lười, thiếu năng động trong học tập. Những sinh viên có nhận thức sai lầm trong học tập thường có lối sống thiếu tự tin, không tự chủ. 18
- Động cơ học tập đúng đắn của sinh viên sẽ thúc đẩy hành vi học tập tích cực của họ. Ngược lại, những sinh viên chưa có động cơ học tập đúng đắn thường thiếu tính tích cực học tập, hoặc xác định nhiệm vụ học tập mơ hồ, họ xác định chỉ cần đạt điểm trung bình ở các môn học. Sự hoà nhập của sinh viên với môi trường đại học phụ thuộc vào các yếu tố: về mặt tâm lí (sự cân bằng); về mặt sư phạm (hiệu quả của việc giảng dạy): về mặt kinh tế (phí tổn của một năm học). Khi nhập học sinh viên có thể hoà nhập được ngay hoặc có thể phải bỏ học. Theo De Ketele, điều này phụ thuộc vào bốn yếu tố: khả năng học tập của họ; sự thiết tha với việc học; sự quyết định của cá nhân trong việc lựa chọn ngành học; khả năng tự xác định các mục tiêu. Trong đó, yếu tố 1 chiếm 25%; nếu gộp cả 4 yếu tố trên ta có thể dự tính được tới 80% về số thành công.1 Deci (1975) và Bouchard (1992) đã đưa ra đường thẳng của một lí thuyết nhận thức về động cơ và lí thuyết về cách ứng xử xã hội. Mô hình trên đã đặt ra các vấn đề sau: các động cơ khác nhau đưa đến sự lựa chọn khác nhau của sinh viên; quan niệm của họ về môn học đã chọn và cường độ nhập cuộc của sinh viên vào dự định. Ngay cả khi học một nội dung học phần cụ thể cũng nhận thấy các yếu tố trên. Hoạt động học tập có tính chất độc đáo về mục đích và kết quả hoạt động. Khác với hoạt động lao động, hoạt động học tập không chỉ làm biến đổi đối tượng mà còn làm thay đổi chính chủ thể của hoạt động. Sinh viên học tập để tiếp thu các tri thức khoa học, hình thành những kĩ năng, kĩ xảo nghề nghiệp, phát triển những phẩm chất nhân cách người chuyên gia tương lai. Hoạt động học tập có tính chất nghiên cứu, do đó mục tiêu đặt ra phải cụ thể, xác định. Vì thế, khi chấm các công trình nghiên cứu khoa học của sinh viên phải quan tâm đồng thời cả kết quả đạt được và bằng cách nào họ đạt được kết quả đó. + Hoạt động học tập của sinh viên diễn ra trong điều kiện có kế hoạch, nội dung, 1 . Decetele – Pol Dupont Marcelo ossandon. Nền sư phạm đ ại học. NXB Thế giới. 1999: tr.35 19
- chương trình, mục tiêu, phương thức và thời hạn đào tạo nhất định. Chương trình đào tạo được công bố trước khi sinh viên học tập; đặc biệt với yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học, tăng cường tính tích cực nhận thức cho sinh viên. Vì thế, từ đề cương bài giảng của giảng viên, các câu hỏi, các vấn đề cần nghiên cứu thảo luận cần phải được giảng viên công bố trước, công khai. Hình thức soạn các đề cương bài giảng, giáo trình trên mạng có hướng dẫn tự học, hướng dẫn thi (học từ xa) là ví dụ điển hình cho tính mục tiêu và tính kế hoạch của học tập ở đại học. + Phương tiện học tập là nguồn thông tin từ thư viện, sách vở, phòng thực nghiệm với các thiết bị bộ môn. Ngày nay, với sự phát triển nhanh của khoa học công nghệ, với thành tựu mới của công nghệ thông tin, sinh viên có cơ hội truy cập Internet, các nguồn thông tin phong phú và đa dạng và có ưu điểm là mới, nhanh, dễ xử lí. + Quá trình học tập diễn ra liên tục với khối lượng lớn, do đó tâm lí diễn ra trong hoạt động học tập của sinh viên với nhịp độ căng thẳng mạnh mẽ về trí tuệ. Họ phải chịu một sự quá tải và điều đó thể hiện rất rõ trong các kì kiểm tra, thi, bảo vệ khoá luận, luận văn. Tốc độ và cường độ học tập luôn được đẩy lên không ngừng. Theo các nhà nghiên cứu, cường độ học tập của sinh viên Việt Nam chưa phải là quá lớn so với sinh viên các nước, mặc dù có hiện tượng quá tải. Sinh viên phải học khối lượng tri thức lí thuyết lớn, nội dung thực hành ít, hoặc thực hiện đề tài nghiên cứu với điều kiện chưa đảm bảo. Do đó, các doanh nghiệp thường phải đào tạo, bồi dưỡng lại số sinh viên ra trường để có thể đáp ứng các yêu cầu của doanh nghiệp. Từ đây đặt ra vấn đề: mối quan hệ giữa trường đại học với doanh nghiệp thế nào (xem xét vấn đề từ nội dung, phương pháp dạy học, liệu có thể nhanh chóng đưa các nội dung đặt hàng của doanh nghiệp vào chương trình đào tạo hay không). Chính trong văn bản Điều lệ trường Đại học do Chính phủ ban hành (2003) đã xác định thành phần Hội đồng trường phải bao gồm các cơ sở sử dụng nhân lực do các trường đại học đào tạo. Đối với các giảng viên trường sư phạm nói chung và sinh viên sư phạm nói riêng, việc am hiểu giáo dục phổ thông là một yêu cầu rất quan trọng. Từ nội dung chương trình, phương pháp dạy học, đánh giá ở trường đại học phải gắn với các vấn đề thực tiễn ở trường phổ thông. Ngược lại, giáo dục phổ thông cần phải được tiếp cận với thành tựu mới của khoa học giáo dục nhanh hơn, thiết thực hơn. Do đó, nhiệm vụ đào tạo - bồi dưỡng giáo viên cần được thực hiện thường xuyên và có hiệu quả thiết thực. + Hoạt động học tập của sinh viên mang tính độc lập trí tuệ cao. Đây là một đặc trưng quan trọng quy định các nội dung, hình thức tổ chức học tập cho sinh viên nhằm duy trì và phát triển tính độc lập trí tuệ cho họ. Các hình thức dạy học sau đây cần được tăng cường: dạy học nêu vấn đề, dạy học theo nhóm, dạy học kiến tạo, theo tình huống Trong mỗi bài giáo án dạy cua giảng viên đại học cần dành tỉ lệ thích hợp cho sinh viên tự học có hướng dẫn, thảo luận, báo cáo chuyên đề Một trong những hình thức cơ bản để phát triển tính độc lập sáng tạo cho sinh viên là thông qua hoạt động nghiên cứu khoa học. 20
- Từ những đắc điểm trên đây đã cho thấy nét đặc trưng trong hoạt động học tập của sinh viên là sự căng thẳng mạnh mẽ về trí tuệ trong đó bao gồm việc thực hiện các quá trình tâm lí cao (tư duy, cảm xúc, ý chí) với các động cơ khác nhau. Hoạt động học tập của sinh viên có kết quả ở nhiều mức độ khác nhau: học tập ở mức độ thấp, cảm tính (tri giác, quan sát ) học tập ở mức độ cao, lí tính (có sự suy nghĩ tìm tòi, độc lập sáng tạo ). Thông thường, chỉ những sinh viên tham gia nghiên cứu khoa học ở các hình thức khác nhau mới có thể đạt đến mức độ nhận thức lí tính, nhận thức được bản chất khoa học của đối tượng nghiên cứu và qua đó, họ có khả năng ứng dụng tri thức vào cuộc sống. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi trong 5 năm (1999 - 2004) đã cho thấy: Những sinh viên tích cực tham gia nghiên cứu khoa học từ những năm thứ hai, thứ ba thì đến năm thứ tư khi làm luận văn tốt nghiệp có kết quả chắc chắn hơn. Do đó, hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên phải thực hiện trong suốt quá trình đào tạo một cách thường xuyên và liên tục. Hoạt động học tập của sinh viên diễn ra trong nhà trường đại học cũng rất khác so với hoạt động học tập của học sinh ở trường phổ thông. Có thể xác định các yếu tố cơ bản như sau: Học ở đại học Học ở phổ thông Học tri thức của một khoa học nhất đỉnh Tri thức đã được sư phạm hoá cao Tài liệu học tập luôn thay đổi, mới Tài liệu ổn định cơ bản, ít thay đổi Phương pháp tự học là chính Phương pháp học tập dưới sự hường Tham gia nghiên cứu khoa học dẫn trực tiếp của giáo viên Môi trường nghề nghiệp rõ nét, được Môi trướng học tập phổ thông, ở từng học tập trung gia đình Như đã trình bày, sự hoà nhập thích ứng của sinh viên với môi trường phụ thuộc vào nhiều yếu tố, các mặt biểu hiện của nó ở các dạng sau: về trí tuệ, theo các kết quả nghiên cứu thì nếu thiếu khả năng tò mò, năng lực sử dụng tiếng mẹ đẻ kém, khó khăn khi hiểu ý nghĩa của một văn bản, thích sử dụng trí nhớ hơn là sự phân tích có phê phán, không có phương pháp làm việc có hiệu quả, là các trở ngại đầu tiên về sự thích ứng. Cụ thể ở hoạt động học tập, nếu phương pháp dạy những năm đầu tiên ở đại học đi theo đường thẳng: trình bày - tiếp thu - trả bài, thì dẫn đến tình trạng què quặt, thiếu sáng tạo, không có sự mạo hiểm của sinh viên. Theo đề xuất của nhóm nghiên cứu (MEN, 1998), cần áp dụng các hoạt động sau đây: học quan sát (quan sát tình huống, phân tích, phân biệt thông tin chính và phụ, sơ đồ hóa những yếu tố của một vấn đề): học nắm thông tin (rút thông tin từ một tài liệu, ghi chép từ một thông báo miệng); học tổng hợp vấn đề (phát triển khả năng tổng hợp, cấu trúc cách giải quyết vấn đề, sắp xếp những thông tin về một đề tài); học cách khái 21
- quát hoá (quy nạp ý kiến từ những sự kiện, xây dựng và kiểm tra giả thuyết); học phán đoán (dựa vào những nguyên lí để rút ra những hệ quả); học thông báo thể hiện thông tin bằng sơ đồ, đồ thị, ngôn ngữ tượng trưng hay kĩ thuật ); hoặc quyết định và hành động (chân những phương pháp và thuật toán, lập chương trình hành động); học phán đoán và đánh giá (phát biểu ra các tiêu chuẩn đánh giá, đánh giá theo tiêu chuẩn, hiệu chỉnh một hành động hay một phương pháp). Tuy nhiên, một yếu tố quan trọng cần phải quan tâm là đánh giá đúng động cơ học tập của sinh viên. Đây cũng là một nhiệm vụ rất phức tạp, đòi hỏi giáo dục học đại học phải nghiên cứu, có thể kể đến những dạng động cơ sau đây: - Học vì lập nghiệp. Nghiên cứu động cơ học tập của sinh viên những năm gần đây đã xuất hiện xu hướng mục tiêu thực dụng rất rõ. Nhu cầu tìm được việc làm đã được sinh viên xác định trong quá trình học tập, nhu cầu này lại cấp thiết hơn sau khi ra trường. Vế phương diện thực tiễn, nhu cầu tìm việc làm, có việc làm sau khi tốt nghiệp là mối quan tâm lớn nhất của sinh viên. "Một cuộc điều tra mới nhất (theo phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên về động cơ học đại học của sinh viên hiện nay cho thấy 52% trong số sinh viên này học kê dễ kiếm việc làm, trongkhi chỉ 18%, số sinh viên có động cơ học tập đê phục vụ cho nhu cầu phát triển của đất nước, và chỉ 3% học để có nghề nghiệp chuyên môn cao ( ). Khoa Giáo dục học thuộc Đại học Quốc gia Thành phô Hồ Chí Minh đã đưa ra năm đề mục trong công trình điều tra, nghiên cứu về động cơ học đại học của sinh viên gồm: một là nâng cao kiên thức, phát triển nhân cách; hai là phục vụ yêu cầu phát triển của đất nước; ba là có nghề nghiệp cao; bốn là dễ kiếm việc làm đê đảm bảo cho cuộc sống tương lai; năm là không muốn thua kém bạn bè. Kết quả, trong tổng số hơn 1.200 sinh viên Trường Đại học Quốc gia Thành phô Hồ Chí Minh được hỏi về động cơ học tập của mình, thì số sinh viên trả lời học để sau này dễ kiêm việc làm, đảm bảo cho cuộc sống chiếm tỉ lệ cao nhất, là 52%. Trong khi những sinh viên có mong ước học để nâng cao kiến thức, phát triển nhân cách chỉ đạt 26%. Kế đến là động cơ học đại học để phục vụ yêu cầu phát triển đất nước chiếm 18%. Còn tỉ vệ sinh viên học đại học để có nghề nghiệp chuyên môn cao lại quá ít ỏi, chỉ chiếm 3%. Riêng mục đích học vì không muốn thua kém bạn bè" hầu như không được sinh viên đề cập đến (chiếm tỉ lệ 1%). Trong khi đó, theo thứ tự vị trí chọn lựa trong bảng xếp hạng của công trình điều tra nghiên cứu này thì học vấn và nghề nghiệp là những yếu tố được sinh viên đánh giá có vai trò quan trọng trong cuộc sống con người. Hai yếu tố này được sinh viên chọn lựa với giá trị cao tương đương nhau (cùng xếp ở vị trí thứ ba), sau hai yếu tố “có sức khỏe" (xếp thứ nhất) và "gia đình ổn đinh" (xếp thứ hai). Các yếu tố khác thể hiện mối quan hệ của cá nhân với xã hội như: "quan hệ cá nhân tốt” (xếp thứ tư), "được mọi người tôn trọng" (thứ năm) và "có ích cho người khác" (thứ sáu) đều có ý nghĩa quan trọng trong cuộc sống của họ. Ngoài ra, những yếu tố thiên về cuộc sống 22
- cá nhan (như đề cao tự do cá nhân tình yêu trong cuộc sống, địa vị cao trong xã hội, có nhiều tiền ) mặc dù tương đối quan trọng song vẫn ở thứ bậc thấp hơn các yếu tố trên. Hiện nay, khi cơ chế thị trường đi vào các hoạt động của đời sống kinh tế - xã hội, thì sinh viên với sự nhạy cảm và năng động sẵn có đã cảm nhận được sự đòi hỏi của thị trường đối với lao động có trình độ học vấn, văn hóa nghề nghiệp cao. Do vậy việc lựa chọn con đường vào đại học để được trang bị những kiến thức khoa học kĩ thuật hiện đại, không chỉ đơn thuần về mặt chuyên môn, mà còn là sự định hướng giá trị đúng đắn đối với thanh niên hiện nay. Kết quả nghiên cứu cũng nêu lên tính đa dạng và phức tạp trong động cơ học đại học của sinh viên Thành phô Hồ Chí Minh: 59% số sinh viên xuất thân từ thành phố xác đinh động cơ học tập là để dễ kiếm việc làm, đảm bảo cuộc sống trong tương lai. Đây là tỉ lệ cao nhất, vì cũng với động cơ này, sinh viên ở thị xã, thị trấn chỉ chiếm 53%, còn sinh viên nông thông 46%. Trái lại, động cơ học nhằm áp ứng những yêu cầu phát trên cua đất nước trong giai đoạn công nghiệp, hiện đại hóa, thi sinh niên nông thôn chiếm tỉ lệ cao nhất 23%. Kế đến là sinh viên xuất thân từ thị xã, thị trấn 17%; và tỉ lệ này giải xuống thấp nhất ở khối sinh viên thành phố (chỉ 12%). Như vậy, một điều dễ nhận thấy là càng ở những nơi có trình độ đô thị hóa cao thì sinh viên càng thể hiện động cơ cá nhân rõ nét hơn. Nêu như động cơ học đại học của sinh viên nổi bật hơn cả là hướng đến lợt ích của bản thân, thì động cơ phục vụ yêu cầu phát triển của xã hội còn mờ nhạt (chỉ chiêu tỉ lệ 18%). Phải chăng đó là mối lo cho xã hội? Theo ý kiến của nhóm nghiên cứu, nếu sinh viên trang bị cho mình kiến thức, đồng thời bồi dưỡng nhân cách để có điều kiện đảm bảo cuộc sống cá nhân, thì họ càng có khả năng cống hiến cho xã hội nhiều hơn. Và như vậy lợi ích quốc gia vẫn được đảm bảo trong khi lợi ích cá nhân cũng được củng cố. Xét tổng quát có thể thấy, SV ngày nay đã đề cao giá trị học vấn và nghề nghiệp trong cuộc sống. Có học vấn, nghề nghiệp và sức khỏe là điều kiện cơ bản nhất để lập thân, lập nghiệp, đóng góp cho sự phát triển bền vững của bản thân, gia đình và đất nước. Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu đề tài nhận định rằng “nhìn chung động cơ học đại học của sinh viên còn quá thực tế, thiết thực, nặng mục đích gần, thiếu ước mơ, kì vọng có tính lãng mạn của sinh viên”1. - Học vì hiểu biết. Xã hội ngày càng phát triển, càng đòi hỏi con người phải có trình độ học vấn cao. Những năm gần đây, do tính chất "đại chúng" của giáo dục đại học, nhiều người đi học đại học không chỉ để có việc làm, mà do mục tiêu nhằm phát triển nhận thức của cá nhân, hiểu biết để được coi trọng. Mục tiêu tự thân của những 1. Theo VietNamNet - 2003. 23
- sinh viên có động cơ học tập vì hiểu biết đã chi phối cách học tập của họ. Nhìn chung số sinh viên này đều ham học, tích cực tìm tòi những cách thức học tập mới. Nội dung giao tiếp của họ đối với giáo viên chủ yếu là các vấn đề học tập, họ quan tâm đến các vấn đề mới của chuyên môn, các thông tin mới trên tạp chí, các ý kiến đang tranh luận trong giới chuyên môn. Những sinh viên này thường ít quan tâm đến điểm số, kết quả học tập chủ yếu là trung bình khá hoặc xuất sắc. - Học vì yêu cầu của gia đình. Động cơ này xuất hiện từ bên ngoài, rơi vào số sinh viên có điều kiện khá giả, họ không phải quan tâm đến việc làm sau khi ra trường. Việc lựa chọn ngành học do gia đình quyết định, quá trình học có sự trợ giúp to lớn từ phía gia đình về tài chính. Đối với những sinh viên này, có thái độ coi thường việc học, học chểnh mảng, chỉ ham chơi hoặc tham gia các hoạt động chung theo sở thích. Tuy số lượng các “cậu ấm cô chiêu” này không nhiều song cũng là hiện tượng đáng quan tâm của giáo dục đại học, đặc biệt là trong xu thế các loại hình tại chức, từ xa, dân lập đang phát triển mạnh hiện nay. 4. Một số quan điểm mới về học tập ở đại học Không phải mọi giảng viên đại học đều hiểu một cách đầy đủ về bản chất của quá trình dạy và học ở đại học. Có giảng viên còn quan niệm chưa đúng đắn về cách giảng dạy và học tập ở đại học, do đó xem nhẹ hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên. Mặt khác, có giảng viên quan niệm hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên là phải đáp ứng những yêu cầu, chuẩn mực rất khắt khe của khoa học, do đó có hiện tượng đánh giá theo kiểu loại bỏ, sàng lọc như các đề tài triển khai ứng dụng, dẫn đến có thể làm nhụt chí nhiều sinh viên. Như đã trình bày ở phần đặt vấn đề, hoạt động nghiên cữu khoa học của sinh viên phải xuất phát từ đặc trưng của hoạt động dạy và học ở đại học, đặc biệt là phải thống nhất các quan điểm cơ bản của lí luận dạy học đại học để tổ chức các hoạt động trong các trường đại học. Dưới đây là một số vấn đề cần quan tâm của giáo dục học đại học. Đặc biệt là vấn đề phương pháp luận và phương pháp giảng dạy đại học: a. Sự chuyển hoá phương pháp nghiên cứu khoa học thành phương pháp dạy học. Đây là tư tưởng cơ bản, quan trọng của lí luận dạy học hiện đại, đặc biệt đối với giao dục đại học thì hai nhiệm vụ giảng dạy và nghiên cứu được gắn bó mật thiết. Giáo sư Nguyễn Ngọc Quang (1989) đã miêu tả quá trình chuyển hoá sư phạm qua sơ đồ tổng quát sau: 24
- Để xác định khái niệm khoa học, cần phải khách quan hoá tri thức, bằng cách: loại bỏ yếu tố cá nhân, loại bỏ yếu tố thời gian khi làm ra tri thức: loại bỏ yếu tố hoàn cảnh. Nhờ thao tác này mà tri thức khoa học là của chung nhân loại khi sử dụng, nó khách quan, trường tồn không thuộc sở hữu của cá nhân (tuy nhiên bản quyền tác giả, xuất xứ của kết quả vẫn được xác định rõ trong Lịch sử khoa học). Trong quá trình dạy học, thông thường điều chúng ta quan tâm trước hết là dạy cái gì (khái niệm khoa học) và dạy bằng cách nào để người học nắm được khái niệm khoa học đó. Nhưng nếu chỉ dừng ở mức độ đó thì không có sự thay đổi mang tính chiến lược trong dạy học. Ta phải làm ngược lại quá trình trên, tức là phải thời gian hoá, cá nhân hoá, hoàn cảnh hoá quá trình "làm ra" khái niệm khoa học. Điều này rất quan trọng bởi thời gian hoá, tức là yêu cầu người học suy nghĩ, tìm tòi quy trình, bước đi, trải nghiệm để đi đến nhận thức, lĩnh hội, chiếm lĩnh; cá nhân hoá tức là người học phải cố gắng đi theo phương pháp tư duy khoa học của nhà khoa học, các thao tác nghiên cứu, các hoạt động của nhà nghiên cứu cần được người học lặp lại; hoàn cảnh hoá tức là đưa người học vào tình huống có vấn đề, thử nghiệm các phương án giải quyết và kết luận. Tất nhiên không phải tri thức nào cũng dạy theo định hướng trên đây, song có một điểm đáng lưu ý là trong thời đại bùng nổ thông tin thì dạy cái gì không quan trọng bằng dạy cách nào, tức là dạy sinh viên tư duy, dạy sinh viên sáng tạo mà các hình thức căn bản nhất là dạy đọc sách, nêu vấn đề, hướng dẫn nghiên cứu, dạy tự học Chúng ta đều thấy rằng, để hoàn thành khâu chuyển hoá sư phạm một nội dung hay một chương trình để dạy học, phải mất thời gian nhất định, do đó rút ngắn được khoảng thời gian đó càng sớm càng tốt. Đối với người giáo viên, phải thường xuyên cập nhật tri thức mới để rút ngắn khoảng cách đó. Chiến lược của vấn đề là giảng viên đại học phải nghiên cứu khoa học, và theo quan điểm của chúng tôi, giảng viên đại học chỉ nên giảng dạy những gì mình nghiên cứu được, đây là yếu tố then chốt để 25
- nâng cao chất lượng đào tạo. Quan điểm này khác với việc thực hiện nghiên cứu khoa học ở đại học chỉ để có phong trào, mục đích "hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu khoa học" mà ít quan tâm đến ứng dụng, đến chất lượng thực, đến sản phẩm. Hiện tại vẫn có một cách nhìn phiến diện, được một số người (kể cả một số giảng viên đại học có uy tín ủng hộ) là không có cái gọi là phương pháp giảng dạy đại học. Trong phạm vi tài liệu này, chúng ta không bàn sâu đến tầm quan trọng của vấn đề này, tuy nhiên nếu chỉ xét ở phạm vi thông tin về khoa học giáo dục đại học, lĩnh vực phương pháp giảng dạy, chúng ta đã khó thống kê nổi khối lượng khổng lồ tri thức khoa học giáo dục của các nước có nền giáo dục đại học phát triển ở châu Âu, Mĩ, Nhật Bản, Autraylia, Singapore Điều đó chứng tỏ khoa học giáo dục là một lĩnh vực rất đáng được quan tâm. b. Alvin Tofner đã dự đoán từ cách đây 30 năm: "Tình trạng mù chữ của năm 2000 sẽ không phải là vì người ta không biết đọc và viết, mà bởi vì họ không thể học và học mãi". Trong một hội thảo lớn, ông khẳng định: "không đổi mới nhận thức cũng bị coi là mù chữ". Như vậy, người học trong kỉ nguyên mới cần có khả năng tiếp cận đến nguồn thông tin vô hạn và xử lí chúng để không ngừng hoàn thiện mình. Học tập bây giờ là một quá trình bên trong của cá thể và có tính chủ quan. Người học sẽ được học thông qua thao tác, giao tiếp và các giác quan (không phải chỉ có nghe và nhìn). Họ được nhận thông tin phản hồi để tự đánh giá, và có cơ hội để tự phát triển tri thức mới dựa trên hiểu biết của họ. Sự phát triển bên trong này rất tích cực, chắc chắn có giá trị lâu dài đối với nhân cách. Ngay từ những năm 60 của thế kỉ XX, Earl Kelli đã viết: "Người được giáo dục là người được học làm thế nào để học, biết làm thế nào để thích nghi và thay đổi, nhận thức được rằng không có tri thức nào là vĩnh cửu, và là người hiểu rằng nắm được cách tìm ra tri thức là chìa khoá của sự thành công.1" c. Theo Hiệp hội Tâm lí học Hoa Kì (APA), có 14 nguyên tắc của lí luận dậy học lấy học sinh làm trung tâm: 1. Việc học những vấn đề phức tạp sẽ đạt được hiệu quả cao nhất nếu nó được tiến hành trên cơ sở những thông tin và kinh nghiệm mà người học đã tích luỹ được. 2. Người học thành công là người có thể diễn đạt tri thức đã học một cách có ý nghĩa và chặt chẽ. 3. Người học thành công là người có thể liên kết cái mới biết với cái đã biết một cách có ý nghĩa. 4. Người học thành công là người có thể tạo ra hoặc sử dụng những phương pháp khác nhau để đạt đến mục tiêu học tập. 1. Curriculum Devolopment aguide to Pratice (Người dịch: TS. Nguyên Kim Dung). Lưu hành nội bộ. ĐHSPTPHCM, 2004, tr.38. 26
- 5. Những chiến lược nhằm tuyển chọn và theo dõi các hoạt động trí tuệ có thể hỗ trợ cho tư duy khoa học hoặc sáng tạo. 6. Hoạt động học tập chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố môi trường chẳng hạn như văn hoá, trình độ công nghệ và phương pháp giảng dạy. 7. Học được những gì và bao nhiêu phụ thuộc vào động cơ học tập của người học. Động cơ này phụ thuộc vào trạng thái tình cảm, sở thích và mục đích học tập, thói quen suy nghĩ của người học. 8. Khả năng sáng tạo, thói quen tìm tòi suy nghĩ, óc tò mò có vai trò quan trọng đối với động cơ học tập, phù hợp với sở thích, và sự cho phép lựa chọn cũng như làm chủ của người học. 9. Sự tiếp thu những kiến thức và kĩ năng phức tạp đòi hỏi nỗ lực của người học và cần có sự hướng dẫn. Nếu người học không có động cơ học tập đúng đắn thì họ sẽ không nỗ lực trừ khi bị ép buộc. 10 Người học càng lớn thì cơ hội và những khó khăn trong học tập càng khác nhau. Sự học sẽ đạt hiệu quả nếu nó diễn ra phù hợp với điều kiện thể chất, trí tuệ, tình cảm, và bối cảnh xã hội của người học. 11. Học tập là một hoạt động chịu sự chi phối bởi quan hệ xã hội, bởi giao tiếp với những người khác. 12. Mỗi người học có phương pháp và khả năng học tập riêng, phụ thuộc vào kinh nghiệm của mỗi người học và cả yếu tố đi truyền nữa. 13. Học tập có thể đạt hiệu quả cao nếu người học được quan tâm đầy đủ đến ngôn ngữ, văn hoá, và hoàn cảnh xã hội của họ. 14. Đặt ra những tiêu chuẩn cao một cách hợp lí để đánh giá người học và quá trình học của họ là điều không thể thiếu trong hoạt động dạy học. d. Quan điểm học tập như một quá trình. Có ba cách tiếp cận chính trong học tập: + Cách tiếp cận hành vi. Trong đó coi trọng điều chỉnh hành vi, gồm các bước: xác định vấn đề, thu thập dữ liệu, xây dựng các điều kiện để điều chỉnh hành vi, đánh giá hành vi mới. + Cách tiếp cận quan tâm đến nhu cầu người học. Từ chỗ giáo viên nắm được nhu cầu và động cơ của người học, để xác định được các hoạt động nhằm phát huy các năng lực học tập của họ, giáo viên đi đến phân tích sự thích thú và nhu cầu của người học như là cơ sở cho hoạt động giảng dạy. + Cách tiếp cận dựa trên môi trường quan tâm đến việc tái xây dựng môi trường học tập hoặc nhận thức của học sinh. Cách này thừa nhận sự khác biệt giữa các cá nhân, tin tưởng vào tiềm năng của các cơ thể, đề cao sự sáng tạo của con người. 27
- Các cách tiếp cận trên đây có thể được gán với các tên: đẩy (pull) kéo (push), và cấu trúc lại (restructure)1. Một số quan điểm mới về học tập trên đây xuất phát từ chính thực tiễn của một xã hội hết sức năng động, thông tin đa dạng và xu thế hội nhập quốc tế đang trực tiếp tác động đến giáo dục. Có thể nhận thấy ngay từ những năm đầu của thế kỉ XXI, chúng ta đã phải quan tâm nhiều hơn đến các vấn đề sau: đó là vai trò tác động mạnh của công nghệ mới đối với học tập; các nguồn lực được phân bố lại; có sự khác nhau giữa giáo dục và đào tạo; năng lực thông tin liên lạc trong nhà trường Chỉ lấy một ví dụ giản đơn rằng: giả sử trong một trường đại học ở thế kỉ XXI không có mạng Internet và các phương tiện thông tin để dạy học thì tình trạng học tập của sinh viên sẽ như thế nào? Các giảng viên đại học không sử dụng được máy tính và ngoại ngữ trong dạy học thì chất lượng bài giảng thế nào? Cần trích lời của Steven Wozniak (người đồng sáng lập ra hãng máy tính Appel) từ năm 1981 đã nói: Học các khái niệm cơ bản như đại số và lôgic là cần thiết, nhưng sẽ không có ý nghĩa nên chỉ để giải quyết các vấn đề lập đi lập lại hàng ngày. Điều đó làm lãng phí thời gian. Máy móc có thể làm điều đó để cho chúng ta có thể suy nghĩ về những điều quan trọng hơn. Máy tính cá nhân sẽ giúp con người được giải phóng khỏi những công việc đơn giản để hướng đến những công việc đòi hỏi tư duy trí tuệ cao2. Quan điểm mới về học tập ở các phương diện trên đây còn được thể hiện ở các việc: xác định mục đích (mục tiêu) dạy học, học tập, nội dung, phương pháp, đánh giá, môi trường học tập. Sự thể hiện của nó rất phong phú và phức tạp, trong phạm vi tài liệu này, chỉ nêu vắn tắt các ý chính. Về mục tiêu dạy học, học tập, đã có sự thay đổi căn bản trật tự bộ ba: từ tri thức - kĩ năng - thái độ chuyển sang trật tự thái độ - tri thức - kì năng, Về nội dung: từ sự cứng nhắc chương trình tiếp cận theo nội dung chuyển sang cách tiếp cận phát triển, cách tiếp cận mục tiêu; Về Phương pháp dạy học và phương pháp học: từ cách dạy, học thụ động, thiếu sáng tạo chuyển sang cách dạy sáng tạo, học chủ động; Về đánh giá: chuyển từ đánh giá kết quả sang đánh giá quá trình, đánh giá khách quan bằng các công cụ chính xác. Đặc biệt, yếu tố môi trường học tập có sự thay đổi căn bản từ quan niệm đến không gian kiến trúc trong nhà trường. 1 Xây dựng chương trình học. Sđd. Tr.7-9: tr.38. 2 Xây dưng chương trình học. Sđd, tr.7-9. tr.35. 28
- Quan niệm cũ, nhà trường là: Quan niệm mới, nhà trường là: Môi trường đơn độc, tĩnh lặng, trật tự Môi trường mở rộng hơn, ồn ào hơn. Do áp lực: theo định nghĩa của giáo Do áp lực: nhu cầu học tập của dục chính quy người học Cấu tạo cửa vào Cho ít người Cấu tạo cửa vào cho nhiều người Phong cách giáo huấn, mô phạm (nói Phong cách tự do hơn, bình đẳng - nghe) đối với việc học tập giữa người dạy và người học. Có ba tiêu chuẩn để đánh giá môi trường học tập của nhà trường là: * Mối liên hệ giữa nhà trường với cộng đồng xung quanh; * Cấu trúc và cách sử dụng các toà nhà và sân bãi; * Cách tổ chức không gian học tập trong các toà nhà. Ngay từ năm 1957, khi Liên Xô phóng thành công vệ tinh nhân tạo, giáo dục Hoa Kì đã có sự chuyển đổi căn bản, chỉ xét về nội dung sách giáo khoa môn Khoa học, đã có các thay đổi như sau: Từ Đến 1 . SGK như là một nguồn thông 1. Dữ liệu thực hành là nguồn tin độc lập. kiến thức đầu tiên. 2. Công nghệ hàng ngày được 2. Khoa học thuần tuý được trình bày như một khoa học. nhấn mạnh. 3. Nhiều chủ đề khoa học được 3. Học sâu một số chủ đề. học một cách tóm tắt. 4. Hoạt động thực hành được sử 4. Hoạt động thực hành được dụng để xác nhận, kiểm tra sử dụng để thu nhập dữ liệu, những khái niệm trong sách từ đó hình thành khái niệm. giáo khoa. 5. Tư duy diễn dịch được nhấn 5. Tư duy quy nạp được nhấn mạnh để đi đến câu trả lời mạnh để đi đến câu trả lời đúng. mang tính dự đoán về nguyên nhân. 6. Việc học mang tính chất học 6. Việc học mang tính chất vẹt và tiếp nhận. khám phá và tìm tòi. 29
- Như vậy, yếu tố làm động lực thúc đẩy sự thay đổi sách giáo khoa của Mĩ như trên chính là sự vượt lên của nền giáo dục Xô viết. Phải có yếu tố để làm cho các nhà quản lí giáo dục, các nhà giáo "bàng hoàng", "giật mình" như sự kiện đã từng xảy ra trong lịch sử. Ngày nay, yếu tố tạo nên sự thay đổi thì ai cũng phát biểu được và hiểu được, đại thể là xu thế toàn cầu hóa, sự cạnh tranh các nền kinh tế trong đó cạnh tranh nguồn nhân lực đang đòi hỏi giáo dục phải thay đổi. Tuy nhiên, tính cấp bách của vấn đề trên đây thường được xác định rõ hơn trong các hội nghị về giáo dục, còn nhìn chung mọi người đều không vội. Hình như đang có sự trông đợi giữa nhà quản lí giáo dục đòi hỏi ở các giáo viên phải thay đổi cách dạy, còn giáo viên thì đang trông đợi ở chiến lược vĩ mô (về chính sách, về chương trình, về lương giáo viên ). Như vậy, người đang thực hiện cái cụ thể phải chờ cơ chế vĩ mô, còn người ở vị trí chiến lược đòi hỏi yếu tố vi mô phải thực hiện trước. Đây có thể là nguyên nhân của hiện tượng giáo dục đang "giẫm chân tại chỗ" Trong tài liệu của UNESCO "Hội nghị thế giới về giáo dục đại học thế kỉ XXI, quan điểm và hành động, Paris, l0/1998", một trong những nghịch lí và thách thức của một xã hội đang biến động là phần lớn công nghệ mới về thông tin và viễn thông thế hệ mới (NTIC) bắt nguồn từ nghiên cứu khoa học cơ bản ở các trường đại học và phát triển được cũng nhờ vào nghiên cứu thực hiện tại các trường đại học hoặc kết hợp với các doanh nghiệp. Tuy nhiên, NTIC vẫn còn rất ít được sử dụng, trong giảng dạy vẫn còn giữ những truyền thống cũ kĩ, đó là phụ thuộc hoàn toàn vào thầy, sinh viên chỉ thụ động tiếp nhận. Sự mất cân bằng vẫn tồn tại giữa giảng dạy và nghiên cứu cũng là một nguy cơ đang cảnh báo cho chất lượng giáo dục đại học Việt Nam. Ví dụ điển hình nhất là so sánh khả năng ứng dụng công nghệ thông tin của trường đại học với các cơ sở kinh doanh. Học sinh Trung học phổ thông ở Việt Nam thi vào đại học rất khó bởi người thi đông, song số lượng tuyển rất ít. Tuy nhiên, điều đáng nói ở đây là khi họ đã đỗ vào trường đại học thì có một tỉ lệ khá lớn không chăm học, không có phương pháp học tự giác, nảy sinh thói quen ỷ lại, trông chờ vào gia đình và nhà trường, bởi tỉ lệ đỗ tốt nghiệp ra trường khoảng trên 80%. Sự cạnh tranh chất lượng trong giáo dục đại học Việt Nam về lí thuyết đã được đặt ra, song trên thực tế chưa trở thành động lực thúc đẩy người học. Hình thành và phát triển yếu tố nội lực từ chính người học để thúc đẩy quá trình học tập - nghiên cứu khoa học trong trường đại học phải thành yêu cầu bắt buộc của chương trình đào tạo, phương thức đào tạo cũng như các hoạt động khác ở các trường đại học. Những vấn đề trên đây đang đặt ra cho giáo dục đại học Việt Nam, trong đó có hệ thống các trường (khoa) đào tạo giáo viên một yêu cầu cấp bách là thúc đẩy sinh viên học tập có chất lượng hơn, đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên, tạo ra một thế hệ mới có năng lực sáng tạo, tư duy linh hoạt, biết thích ứng với sự thay đổi và có được phẩm chất nhân cách của người nghiên cứu khoa học. 30
- 5. Một số đặc điểm tâm tí của sinh viên trong hoạt động nghiên cứu khoa học Nghiên cứu khoa học là một hình thức đào tạo quan trọng ở đại học, là một hoạt động cơ bản trong quá trình học tập của sinh viên. Thông qua hoạt động nghiên cứu khoa học, các nhân tố tiến bộ xã hội phản ánh vào trường đại học một cách trực tiếp hơn, đặc biệt là trong thời kì cách mạng khoa học kĩ thuật. Công tác nghiên cứu khoa học phụ thuộc rất nhiều vào sự phát triển về số lượng và chất lượng đào tạo trong các trường đại học và phụ thuộc vào việc phát triển của đội ngũ cán bộ giảng dạy (giáo sư, tiến sĩ, thạc sĩ ). Việc phát triển nghiên cứu khoa học của sinh viên được xuất phát từ mục tiêu đào tạo người cán bộ khoa học kĩ thuật trong tương lai đáp ứng với yêu cầu cách mạng của đất nước. Người sinh viên tốt nghiệp đại học phải được trang bị về tri thức lí luận, tri thức khoa học và kinh nghiệm thực tiễn. Nhà trường đại học cần hình thành ở họ những chức năng mới của người chuyên gia như sau: a) Phát triển tính sáng tạo trong mọi hoạt động của sinh viên. Đây là một yêu cầu quan trọng, cá tính chất bao trùm các hoạt động khác như: học tập, nghiên cứu, tham gia hoạt động xã hội, văn hoá nghệ thuật của sinh viên, phải khuyến khích họ là chủ thể của hoạt động sáng tạo. Môi trường tạo lập khả năng sáng tạo của sinh viên không có nơi nào khác chính là môi trường khoa học, môi trường học thuật - yếu tố quan trọng và quyết định đến sự hình thành nhân cách chuyên gia giáo dục. b) Người chuyên gia ngày nay phải nắm vững phương pháp luận khoa học và phương pháp nhận thúc các hiện tượng mới, nghĩa là hoạt động sáng tạo nghề nghiệp được gắn liền với hoạt động sáng tạo khoa học. Với tư cách là chuyên gia giáo dục, các sinh viên sư phạm có nhiệm vụ quan trọng trong giảng dạy, nghiên cứu về khoa học giáo dục, truyền tải những tri thức mới, phương pháp mới trong giảng dạy nhằm phát triển trí sáng tạo cho học sinh. Mức độ thông hiểu và nhuần nhuyễn của sinh viên về phương pháp luận khoa học giáo dục và các phương pháp cụ thể phụ thuộc vào quá trình và chất lượng các công trình nghiên cứu khoa học giáo dục của họ. c) Thường xuyên mong muốn mở rộng lao động nhãn quan khoa học bằng cách khai thác các tri thức khoa học thuộc các lĩnh vực tiếp cận. Đối với sinh viên sư phạm, họ không chỉ am hiểu tri thức, phương pháp về môn học mình sẽ đảm nhận mà còn phải có kiến thức sâu rộng về các lĩnh vực: tâm lí học, giáo dục học, sinh lí học, triết học, xã hội học, đạo đức học và nhiều lĩnh vực khoa học khác. d) Nắm vững một cách sáng tạo những thành tựu mới nhất của khoa học và kĩ thuật, luôn luôn hoàn thiện và tích luỹ tri thức. Các nguồn thông tin mới nhất hiện nay được cập nhật ở Internet, ở các tạp chí khoa học, ở các nguồn khác nhau hết sức đa dạng và phong phú, nếu người giáo viên không đầu tư trang bị cho mình để khai thác thông tin, thì sẽ bị lạc hậu nhanh chóng trước học sinh. đ) Có khả năng thích ứng nhanh chóng khi giải quyết các vấn đề khoa học mới thường hay nằm ở phần "giáp ranh" của các khoa học. Đây cũng là xu hướng mới của 31
- hoạt động nghiên cứu khoa học, đặc biệt là khoa học giáo dục cần sử dụng cách tiếp cận liên ngành. Nét đặc trưng trong hoạt động học tập của sinh viên thể hiện ở chỗ: có tính độc đáo về mục đích và kết quả hoạt động; hoạt động diễn ra trong điều kiện có kế hoạch và phụ thuộc vào nội dung, phương thức đào tạo, thời hạn đào tạo; phương tiện hoạt động phong phú; nhịp độ học tập căng thẳng, mạnh mẽ, đòi hỏi sinh viên phải huy động cao về trí lực trong suốt quá trình đào tạo và đặc biệt là qua các hình thức kiểm tra, thi, bảo vệ luận văn, nghiên cứu khoa học Trong hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên, tính độc lập trí tuệ được coi là nét phẩm chất điển hình và quan trọng của tâm lí sinh viên. Trên nền tảng này, sẽ hình thành năng lực tự học, tự nghiên cứu cho sinh viên - yếu tố được coi là tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá người có trình độ đại học. Động cơ học tập của sinh viên, theo Abraham Maslow, gồm các thứ bậc các nhu cầu: nhu cầu cơ bản (sinh học), nhu cầu về sự an toàn, nhu cầu về sự thừa nhận hay quý mến, nhu cầu được tôn trọng, nhu cầu mong muốn hiểu biết, nhu cầu thẩm mĩ. Với các thứ bậc trong thuyết thoả mãn của Abraham Maslow, chúng ta xác định lược đồ sau: Về phương diện thế giới quan, trong quá trình tham gia nghiên cứu khoa học, sinh viên dần dần hiểu được các vấn đề phương pháp luận khoa học, các phương pháp và kĩ thuật nghiên cứu. Sự trải nghiệm thực tế sẽ giúp sinh viên có khả năng tự tin, thái độ tích cực trong chuyên môn cũng như trong cuộc sống. Đặc biệt là phẩm chất khoa học - yếu tố quan trọng cấu thành nhân cách chuyên gia được định hình ngày càng rõ nét hơn. 32
- Chương 2 HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 1. Khái niệm nghiên cứu khoa học Theo định nghĩa của UNESCO, hoạt động khoa học và công nghệ (scientific and technological activities) là: các hoạt động có hệ thống liên quan chặt chẽ với việc sản xuất, nâng cao, truyền bá và ứng dụng các tri thức khoa học và kĩ thuật trong mọi lĩnh vực của khoa học và công nghệ, là các khoa học tự nhiên, engineering và công nghệ, các khoa học y học và nông nghiệp, cũng như các khoa học xã hội và nhân văn. Những nhân tố cơ bản đặc trưng cho hoạt động nghiên cứu khoa học công nghệ là: tính sáng tạo; tính mới hoặc đổi mới; sử dụng các phương pháp, cơ sở khoa học; sản xuất ra các kiến thức, giải pháp công nghệ, sản phẩm mới. Các quan điểm tiếp cận trong nghiên cứu khoa học gồm: quan điểm hệ thống, quan điểm phát triển, quan điểm thực tiễn và quan điểm khách quan. Theo Trần Khánh Đức thì 13 tiêu chí cần có sau đây để đánh giá chất lượng công trình nghiên cứu khoa học: (l) giá trị ứng dụng; (2) giá trị khoa học và công nghệ; (3) tính mới; (4) mức độ đạt được của mục tiêu nghiên cứu; (5) đóng góp vào công tác giảng dạy (đối với đề tài của sinh viên là đóng góp vào hoạt động học tập); (6) cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu; (7) thông tin khoa học; (8) hiệu quả sử dụng kinh phí đầu tư nghiên cứu khoa học: (9) đóng góp vào công tác đào tạo nhân lực khoa học. (10) triển vọng phát triển của công trình nghiên cứu; (11) đảm bảo thời gian và kế hoạch nghiên cứu; (12) hình thức trình bày báo cáo kết quả nghiên cứu; (l3) tính độc đáo của công trình nghiên cứu1. Mức độ cao hay thấp của các tiêu chí trên đây tuỳ theo yêu cầu của từng loại đề tài, nhưng theo chúng tôi, đối với đề tài nghiên cứu khoa học của sinh viên, trước hết cần coi trọng các tiêu chí 2, 3, 5, 6, 12, 13. Như các hình thái ý thức xã hội khác, sự hình thành, phát triển của khoa học (science) chủ yếu và trước hết bởi các yếu tố tồn tại của xã hội. Ngược lại, khoa học có tác động mạnh mẽ trở lại đối với sự phát triển của đời sống kinh tế xã hội, của tồn tại xã hội nói chung. Khoa học có mối quan hệ biện chứng với tồn tại xã hội và các hình thái ý thức xã hội khác. Các hình thái ý thức xã hội khác lại có tác động quan trọng và mức độ khác nhau đối với việc khám phá, truyền báo ứng dụng các tri thức xã hội. Khoa học là một lĩnh vực hoạt động nghề nghiệp đặc thù. Khoa học ngày càng trở thành nhu cầu không thể thiếu trong sản xuất, trong đời sống xã hội nói chung của nhân loại Do đó, việc đào tạo và sử dụng đội ngũ khoa học sáng tạo hiện nay là quốc sách hàng đầu đối với mọi quốc gia. 1. Trần Khánh Đức. Nghiên cứu khoa học gắn với đào tạo trong hệ thống sư phạm kĩ thuật. Kỉ yếu hội thảo quốc gia. H. 2004. 33
- Phẩm chất của người làm khoa học là sự hội tụ của các yếu tố: sự hiểu biết sâu rộng, có sáng tạo, có sự phê phán khoa học, luôn tham gia vào quá trình phổ biến khoa học và hoạt động khoa học, có lương tri và đức độ. Đặc trưng hoạt động của lĩnh vực nghề nghiệp này là: Chủ thể hoạt động là các nhà khoa học hoạt động độc lập đặc trưng của hoạt động này là khám phá, tìm tòi. Kết quả nghiên cứu có thể là thành công hoặc thất bại. Do đó, đòi hỏi chủ thể nghiên cứu phải có ý chí, phẩm chất cao về sự say mê, kiên trì, sáng tạo, dám phiêu lưu mạo hiểm Nhận thức của chủ thể về thế giới hiện thực rất khách quan, trung thực. Đối với sinh viên, cần rèn luyện cho họ những phẩm chất trung thực, tự tin, sáng tạo ngay từ trong quá trình học tập, qua các hoạt động, đặc biệt là quá trình tham gia nghiên cứu khoa học. Đối tượng hoạt động của lĩnh vực này rất phong phú, đa dạng và phức tạp, đòi hỏi nhà khoa học phải huy động toàn bộ trí tuệ và sức lực (thậm chí cả cuộc đời, hoặc nhiều thế hệ) để giải quyết các vấn đề khoa học. Do đó, ít nhất là trong khoảng từ ba đến bốn năm học tập, sinh viên tham gia nghiên cứu, theo đuổi vấn đề mà họ say mê là cơ hội tốt để rèn luyện các phẩm chất trí tuệ cho họ. Công cụ lao động phục vụ cho hoạt động khoa học là hệ thống tri thức khoa học, kĩ năng nhận thức và kĩ năng chuyên biệt, gồm các phương tiện kĩ thuật phục vụ quá trình nghiên cứu, các kênh thông tin Một trong những kết quả nghiên cứu trong các đề tài nghiên cứu khoa học của sinh viên là làm sáng tỏ các khái niệm khoa học ở các mức độ khác nhau. Sản phẩm của hoạt động khoa học cũng đa dạng và hết sức phong phú, nó có thể phục vụ trực tiếp hay gián tiếp cho đời sống xã hội. Nét đặc trưng của sản phẩm này là có đóng góp mới cho nhân loại dù ở các mức độ khác nhau. Đó là hệ thống tri thức mới, phương pháp mới, cách làm mới có tác dụng định hướng cho các lĩnh vực nghề nghiệp khác nhau, góp phần đổi mới hoặc cải tạo thực tiễn. Đối với các trường đại học, nhiệm vụ chuyển giao công nghệ, các thành tựu khoa học để áp dụng vào thực tiễn là yếu tố sống còn của các trường. Sản phẩm nghiên cứu khoa học có thể là các ý tưởng khoa học, các kết quả nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng, nghiên cứu quy trình công nghệ. Khoa học là một hệ thống tri thức của nhân loại về tự nhiên, xã hội và con người, được tích luỹ trong quá trình lịch sử Tri thức (dưới dạng kinh nghiệm) được khái quát thành tập hợp các tri thức thành một hệ thống tri thức khoa học với tư cách là một hệ thống chỉnh thể các trí thức của nhân loại. * Hoạt động nghiên cứu khoa học có các đặc trưng cơ bản sau đây: Là hoạt động luôn hướng tới cái mới Nghiên cứu khoa học (scientific research) là quá trình khám phá tri thức mới, 34
- kiến giải khoa học mới, không chấp nhận sự trùng lặp. Tính mới mẻ thể hiện ở các phương diện: từ quan điểm tiếp cận, cách đặt vấn đề, phương pháp triển khai, phương pháp thực nghiệm đến quá trình nhận thức để cải tạo thế giới. Kết quả sáng tạo trong nghiên cứu còn là quá trình phát triển tư duy khoa học một cách mới mẻ, đối lập với sáo mòn, hình thức, bảo thủ và giáo điều kinh viện. Sản phẩm khoa học chứa đựng yếu tố mới, có thể là giải pháp, quy trình mới, có khả năng ứng dụng cao. Đối với sinh viên, những đặc trưng trên thể hiện ở các phương diện nào? Tiêu chí nào là căn bản để đánh giá chất lượng hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên là có yếu tố mới? Đây là những vấn đề đang được quan tâm về lí luận cũng như thực tiễn để tổ chức cho sinh viên nghiên cứu khoa học có hiệu quả, có chất lượng. Trong nghiên cứu đề tài khoa học giáo dục, kết quả nghiên cứu mới của sinh viên thể hiện ở những mức độ từ thấp đến cao. Ở mức độ thấp cũng phải hệ thống hoá được tri thức cơ bản về khoa học giáo dục để làm sáng tỏ thêm các vấn đề cơ bản, các khái niệm phạm trù, các quy luật mà sinh viên kiến giải ở phạm vi thực tiễn rõ nét hơn và ứng dụng vào các hiện tượng giáo dục cụ thể. Mức độ cao hơn là các kết quả nghiên cứu đã phát hiện ra vấn đề cơ bản, quan trọng, mấu chốt để tìm phương án giải quyết, hoặc cách tiếp cận mới ngay cả trên đối tượng nghiên cứu giáo dục đã có nhiều đề tài tiếp cận. Ở mức độ sáng tạo, có đóng góp mới chính là nội dung tri thức mới được phát hiện, được chứng minh bằng các thực nghiệm tâm lí, giáo dục. Hoạt động mang đặc trưng thông tin. Sản phẩm khoa học nào cũng đều là kết quả tua quá trình khai thác và xử lí thông tin. Điều quan trọng là biết phân loại và xử lí chúng; nguồn thông tin do nghiên cứu đem lại phải khách quan và có độ tin cậy cao. Những yêu cầu của đặc trưng thông tin trong nghiên cứu khoa học của sinh viên cũng đòi hỏi phải có tính chất khái quát cao, thông tin mới, có giá trị phục vụ cho học tập, có thể phổ biến rộng rãi Ví dụ thông tin khoa học giáo dục có giá trị to lớn đối với khoa học giáo dục. Tuy nhiên, thông tin phải là thông tin được xử lí, được kiểm định thì mới trở thành thông tin khoa học. Các số liệu, thông tin được kiểm định sẽ được công bố trên các tạp chí khoa học giáo dục, hội nghị khoa học, hoặc trong các công trình nghiên cứu khoa học là nguồn thông tin về khoa học giáo dục rất quan trọng để lưu trữ, sử dụng, phổ biến áp dụng vào học tập, nghiên cứu và giảng dạy. đồng thời, nguồn thông tin khoa học giáo dục còn giúp các nhà quản lí giáo dục trong việc hoạch định chính sách giáo dục, ra các quyết định quản lí giáo dục kịp thời. Có thể nói rằng, không có thông tin chính xác về giáo dục (do kết quả nghiên cứu của đề tài khoa học giáo dục đem lại) thì các quyết định trong trong quản lí giáo dục không có hiệu quả. Khi thông tin về giáo dục với số khái quát về phương diện lí luận khoa học giáo dục được xác định thì nó có tác dụng định hướng đúng đắn cho xã hội. Ngược lại, thông tin thiếu luận cứ sẽ gây sự hiểu nhầm, thậm chí làm lệch hướng dư luận xã hội đối với các vấn đề của giáo dục. Thông tin khoa học giáo dục hiện nay được hỗ trợ xử lí bằng các 35
- phần mềm máy tính đã làm tăng độ chính xác cũng như tốc độ xử lí rất nhanh hơn so với trước đây. Hoạt động mang đặc trưng mạo hiểm Trong hoạt động nghiên cứu khoa học, đặc trưng mạo hiểm thể hiện ở cách đặt vấn đề, cách xử lí và giải quyết các vấn đề phải có cách nhìn, cách xử lí mới. Mạo hiểm ở khâu tìm tòi phát hiện, giải quyết mang tính chất thử nghiệm mạnh dạn, không lệ thuộc vào sự ổn định của kết quả đã có. Sự mạo hiểm ở chỗ là nhà khoa học phải dấn thân vào nghiên cứu với những giả thuyết mới, có luận cứ và sẵn sàng chấp nhận sự thất bại. Trong nghiên cứu khoa học giáo dục, tính chất mạo hiểm ít khi thể hiện trực tiếp đến tính mạng con người, hay sự thất bại cũng có thể không đem lại hậu quả rõ nét, nghiêm trọng như trong lĩnh vực khác. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là sự thất bại trong thể nghiệm giáo dục là vô can, bởi trên thực tế có nhiều dự án, thực nghiệm giáo dục đã gây hậu quả xấu về chất lượng giáo dục và thiệt hại đáng kể về kinh tế, về chất lượng con người. Thể hiện sự mạo hiểm chính là ở chỗ chủ thể nghiên cứu dám đi sâu vào nghiên cứu ở những lĩnh vực khó khăn, hoặc ít người quan tâm; Sự mạo hiểm còn thể hiện ở các đề xuất, các ý kiến mạnh dạn, thẳng thắn, thậm chí động chạm đến các “vùng cấm” lâu nay không ai dám đặt vấn đề. Tuy nhiên, các ý tưởng sáng tạo, mạo hiểm về giáo dục cần phải có luận cứ khoa học, vì mục đích và động cơ tốt đẹp. Hoạt động mang đặc trưng phi kinh tế Trong nghiên cứu cơ bản, có thể cần sự đầu tư kinh phí rất lớn nhưng sản phẩm có thể không được nhìn thấy một cách rõ ràng. Sự đóng góp to lớn của khoa học nhiều khi rất khó hạch toán về phương diện kinh tế. Như vậy, nếu chỉ tính toán về phương diện tài chính, hoặc xem xét kết quả trực tiếp, trước mắt sẽ rất khó xác định về giá trị khoa học. Hoạt động mang đặc trưng có tính cá nhân độc đáo kết hợp với vai trò của tập thể Một đặc điểm cơ bản của nghiên cứu khoa học là tính hợp tác1. Đứng trên vai của nhân loại, đòi hỏi tính quyết đoán của nhà khoa học, nhưng sự hợp tác trong nghiên cứu rất quan trọng, đặc biệt là trong xu thế hội nhập quốc tế hiện nay. Khả năng hợp tác giữa những người học với nhau và giữa các giáo viên với nhau là một xu thế tích cực của hoạt động chuyên môn trong trường học. Chỉ xét ở phạm vi các sản phẩm khoa học trong một cơ quan nghiên cứu hay trường đại học, chúng ta thường bắt gặp hiện tượng mỗi sản phẩm như một thanh bê tông chắc chắn, hoàn chỉnh, nhưng khi lắp vào để xây nên ngôi nhà thì hết sức khó khăn. Điều này chứng tổ có sự rời rạc 1. L.Therese Baker. Thực hành nghiên cứu xã hội. NXB Chính trị Quốc gia. H. 1998.Tr.12. 36
- thiếu gắn kết giữa các nhà khoa học, giũa các chuyên ngành nghiên cứu với nhau và đây cũng là sự lãng phí rất lớn trong nghiên cứu khoa học. Năng lực hợp tác là điều kiện tiên quyết để tổ chức dạy học hợp tác, dạy học theo nhóm, dạy học nêu vấn đề, dạy học theo phương pháp dự án Có thể nói các phương pháp dạy học tích cực trên đây khi triển khai ở các trường đại học Việt Nam ít có hiệu quả bởi sinh viên chưa có năng lực hợp tác. Thậm chí, các đề tài của các giảng viên trong trường đại học ở cấp cơ sở, cấp bộ, cấp quốc gia, luận văn sinh viên, luận văn cao học, luận án của nghiên cứu sinh chưa trở thành một hệ thống đề tài để giải quyết mục tiêu chung cho từng giai đoạn cụ thể. 2. Nghiên cứu khoa học giáo dục Có thể ví vị trí của khoa học giáo dục trong nền giáo dục quốc dân cũng như y học trong y tế. Hoạt động giáo dục sẽ đi lệch hướng nếu thiếu cơ sở khoa học, các quan điểm phát triển giáo dục không có luận cứ chắc chắn, hoặc số phát triển của nó không tuân theo một quy luật khách quan. Hiện trạng giáo dục nước ta đang được đánh giá từ nhiều quan điểm khác nhau, khiến cho ngay cả những người làm giáo dục cũng hoang mang về chất lượng giáo dục, về chương trình - sách giáo khoa, đổi mới phương pháp giảng dạy Những vấn đề trên đã phản ánh một thực tế là nhiều người có thể chưa hiểu đầy đủ về khoa học giáo dục cũng có thể đánh giá, nhận xét về giáo dục từ các góc nhìn khác. Đối với các nhà quản lí giáo dục (quản lí trường học, cơ quan nghiên cứu giáo dục ) cần hiểu được các quy luật của khoa học giáo dục để quản lí, điều hành và thực chất cần có tri thức cơ bản về khoa học quản lí giáo dục - một chuyên ngành đang được quan tâm trong đào tạo và nghiên cứu hiện nay. Khoa học giáo dục nghiên cứu các lĩnh vực giáo dục rất đa dạng, phạm vi rất khác nhau từ giáo dục gia đình, nhà trường, xã hội. Về cấp độ từ thấp đến cao, ở các cấp học, trình độ khác nhau; các lĩnh vực chuyên ngành hẹp hoặc liên ngành. Nghiên cứu khoa học giáo dục chính là sự phát hiện ra các quy luật hay tính quy luật của hoạt động giáo dục ở nhiều mức độ khác nhau. Tri thức khoa học giáo dục, kĩ năng khoa học giáo dục có tầm quan trọng đặc biệt đối với nhũng người 1àm công tác giáo dục trong ngành và ngoài ngành. Có thể nói từ việc hoạch định chính sách vĩ mô, các kế hoạch chiến lược giáo dục của các nhà nghiên cứu ở tầm quốc gia đến việc thực hiện các thao tác dạy học cụ thể đều cần thiết phải sử dụng tri thức khoa học giáo dục. Khoa học giáo dục có vai trò quan trọng trong việc cung cấp luận cứ khoa học cho các quyết định, chính sách của Đảng và Nhà nước về vấn đề giáo dục, là căn cứ định hướng chỉ đạo cho mọi hoạt động giáo dục. Khoa học giáo dục có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc định hướng cơ sở lí luận cho việc xây dựng, tổ chức hoạt động và đánh giá hàng loạt các yếu tố trong hệ thống các nhân tố của quá trình giáo dục. Đó là các yếu tố: mục đích, mục tiêu giáo dục, nguyên lí, nguyên tắc giáo dục nội dung - chương trình, phương thức và phương pháp dạy học, phương tiện dạy học, đánh giá trong giáo dục Các yếu tố trên đây lại được xem xét nghiên cứu trong sự vận động 37
- phát triển theo các quy luật riêng của hệ thống giáo dục thông qua hoạt động tổ chức giáo dục với hai nhân tố trung tâm là người giáo dục và người được giáo dục. Mặt khác, khoa học giáo dục còn luận cứ cho các mối quan hệ giữa các yếu tố bên trong của quá trình giáo dục (như đã nêu ở trên) với hệ thống các yếu tố môi trường bên ngoài, đó là môi trường kinh tế - xã hội, môi trường văn hoá, môi trường khoa học kĩ thuật đang tác động mạnh mẽ và quyết định đến sự hình thành và phát triển nhân cách con người. Trong xu hướng tích hợp và phân kì của các khoa học đang diễn ra, khoa học giáo dục còn có nhiệm vụ quan trọng trong việc nghiên cứu các lĩnh vực liên ngành, chẳng hạn như: sinh lí học, triết học, xã hội học, kinh tế học, văn hoá học, tin học trong các mối quan hệ với giáo dục học. Đối tượng của khoa học giáo dục là quá trình giáo dục con người, quá trình này diễn ra vô cùng phức tạp bởi bản chất của nó là quá tình hình thành và phát triển nhân cách. Do đó, nhiệm vụ phát hiện ra các quy luật của quá trình này để điều chỉnh nó, để thúc đẩy sự phát triển nhanh hơn là một việc rất khó khăn đòi hỏi phải huy động nhiều công sức, trí tuệ, thời gian. Sản phẩm của khoa học giáo dục cũng hết sức phong phú và đa dạng, có thể từ bản kế hoạch chiến lược giáo dục của quốc gia, ví dụ như Chiến lược giáo dục của quốc gia, cho đến bản đề cương bài giảng của giáo viên để giảng dạy một bài cụ thể. Lịch sử phát triển các nền văn mình đã chứng minh rằng: thực tiễn cuộc sống, nền sản xuất và kĩ thuật luôn luôn làm nảy sinh những nhu cầu, những ý tưởng, những dữ kiện mới đòi hỏi khoa học phải khám phá, nhận biết và giải đáp. Bản thân thực tiễn sản xuất cũng tạo ra những phương tiện, thiết bị mới cung cấp ngày càng đầy đủ hơn những nguồn lực vật chất, tài chính, thông tin và bản thân đội ngũ các nhà khoa học có đủ khả năng luận giải, thực hiện nhũng yêu cầu và nhiệm vụ mới đó. Đối với khoa học giáo dục cũng chịu sự tác động theo quy luật ở trên. Những tiến bộ về phương diện xã hội qua các thời đại đã tạo ra một môi trường ngày càng dân chủ hơn. Những cơ chế, chính sách ngày càng có tác dụng tích cực hơn thúc đẩy sự tiến triển của hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ. Đối với khoa học giáo dục, môi trường đã khá thuận lợi từ khi chúng ta xây dựng hệ thống giáo dục mới. Thực tiễn giáo dục hiện nay đang đòi hỏi các nhà nghiên cứu giáo dục phải giải quyết hàng loạt vấn đề chất lượng giáo dục, các biện pháp nghiên cứu cải tiến nội dung, phương pháp giảng dạy, hình thức tổ chức dạy học, kiểm tra đánh giá; các vấn đề chiến lược, quan hệ giữa quy mô và chất lượng. Nghiên cứu theo hệ thống giáo dục từ mầm non đến đại học, đều xuất hiện các vấn đề bức xúc cần quan tâm nghiên cứu giải quyết. Thực tiễn giáo dục hết sức phong phú và đa dạng, nó vừa là cơ sở, nguồn gốc của các đề tài khoa học giáo dục đồng thời lại là nơi đánh giá, kiểm định tính đúng đắn của các giả thuyết khoa học. Do tính chất quan trọng của thực tiễn giáo dục nên trong quá trình đào tạo giáo viên cần tăng cường cho sinh viên tham gia nghiên cứu thực tế nhiều hơn nữa. Mục 38
- đích để họ trực tiếp tham gia vào quá trình giáo dục, dạy học ở các trường phổ thông. Các học phần Phương pháp giảng dạy bộ môn cần phân định rõ thời lượng nghiên cứu lí thuyết theo xu hướng giảm mạnh, dành thời gian đáng kể để sinh viên đi nghiên cứu thực tế giáo dục. Thông qua quá trình quan sát, dự giờ, tiếp xúc, nghiên cứu thực tế các hoạt động giáo dục tại các trường phổ thông, sinh viên sẽ hiểu sâu sắc về lí luận giáo dục, đồng thời, thực tiễn giáo dục còn là nguồn gợi mở các vấn đề để họ nghiên cứu. Quan điểm trên đây được nhiều nhà khoa học giáo dục thừa nhận là hợp lí, nó "cởi trói" cho sinh viên và người giảng viên đại học, giúp họ không sa đà vào lí luận suông, xa rời thực tiễn giáo dục phổ thông - vốn là một khiếm khuyết đang cần khắc phục ở các trường sư phạm của Việt Nam. Nghiên cứu giáo dục hiện nay đang tập trung vào giải quyết các mâu thuẫn sau đây: mâu thuẫn giữa tính lâu dài, ổn định của giáo dục với tính chất nhanh chóng, luôn phải điều chỉnh của nền kinh tế hiện nay; mâu thuẫn giữa đảm bảo tính hiệu quả kinh tế trong giáo dục đào tạo với việc phải đảm bảo công bằng trong giáo dục cộng đồng dân cư có thu nhập chênh lệch nhau; mâu thuẫn giữa tính chuẩn mực của giáo dục nhà trường với nhiều biểu hiện thiếu chuẩn mực trong đời sống xã hội Trong hệ thống các nhân tố của quá trình giáo dục cũng xuất hiện hàng loạt các mâu thuẫn cơ bản, bên trong. Đó là mâu thuẫn giữa sự kì vọng lớn của xã hội (phụ n ánh ở mục tiêu giáo dục) với diều kiện để thực hiện mục tiêu giáo dục còn hết sức hạn chế; mâu thuẫn giữa nội dung - chương trình giáo dục đang đổi mới với đội ngũ giáo viên chưa được chuẩn bị tốt; giữa quan điểm đánh giá sàng lọc với quan điểm "tháo khoán" trong giáo dục 1 Cần chú ý nghiên cứu quy luật sau đây của sự phát triển khoa học giáo dục: Sự phát triển của khoa học giáo dục có những nguyên nhân nội tại nằm trong cơ chế tác động qua lại giữa khoa học giáo dục với các ngành khoa học khác. Những thành tựu khoa học khác như: sinh học, triết học, toán học, điều khiển học, lôgic học ngày càng có tác động mạnh đến quá trình phát triển của khoa học giáo dục. Mặt khác, sự vận động phát triển đó gắn bó chặt chẽ và phụ thuộc vào sự tiến bộ xã hội và tiến bộ của khoa học công nghệ. Các thành tựu của kinh tế, văn hoá, xã hội, các sản phẩm của công nghệ thông tin, các thiết bị mới, công nghệ mới đang trở thành phương tiện nghiên cứu có hiệu quả đối với khoa học giáo dục. Đồng thời khoa học giáo dục đang nghiên cứu các nguyên tắc, quy trình, biện pháp sử dụng, ứng dụng các yếu tố trên để ứng dụng vào giáo dục, dạy học có hiệu quả. Do đó, nhiệm vụ của khoa học giáo dục là phải phát hiện ra các quy luật chi phối, tác động đến quá trình giáo dục. Nghiên cứu khoa học giáo dục dù ở cấp độ nào cũng phải nhận thức đầy đủ các quy luật sau: tính quy định của xã hội đối với giáo dục, trong đó ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường với quy luật cạnh tranh, chi phí - giá thành - hiệu quả - lợi ích ; Ở quy luật này, các yếu tố kinh tế, văn hoá xã hội, khoa học, công nghệ đang ảnh hưởng mạnh mẽ đến 1. Dẫn theo PGS.TS Trần Kiều - Viện Chiến lược và Chương trình Giáo dục. 39