Khảo sát bức bình phong ở đình làng Thạc Gián
Bạn đang xem tài liệu "Khảo sát bức bình phong ở đình làng Thạc Gián", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- khao_sat_buc_binh_phong_o_dinh_lang_thac_gian.pdf
Nội dung text: Khảo sát bức bình phong ở đình làng Thạc Gián
- 30 Trương Thị Thanh Thùy, Nguyễn Ngọc Chinh, Nguyễn Ngọc Nhật Minh KHẢO SÁT BỨC BÌNH PHONG Ở ĐÌNH LÀNG THẠC GIÁN INVESTIGATING THE SCREEN OF THAC GIAN COMMUNAL TEMPLE Trương Thị Thanh Thùy1, Nguyễn Ngọc Chinh2, Nguyễn Ngọc Nhật Minh2 1Lớp 14CNQTH03, Trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Đà Nẵng; thanhthuyy1112@gmail.com 2Trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Đà Nẵng; nnchinh@ufl.udn.vn Tóm tắt - Dọc theo dải đất hình chữ S của Việt Nam ta không khó Abstract - Along the S-shaped land of Vietnam, it is not difficult to để bắt gặp hình dáng của bức bình phong xuất hiện trong đình, see the screens that appear in temples, tombs, family temples, đền, lăng mộ, nhà thờ họ, nhà ở, Mỗi bức bình phong mang một dwelling houses Each screen has a unique design that has kiểu dáng riêng đã trở thành các tác phẩm nghệ thuật có giá trị cao become an art work of high value and contributes to the soul of và góp phần làm nên cái hồn cho mỗi công trình kiến trúc. Bình each architecture. The screen, although only a small element in the phong, tuy chỉ là một yếu tố nhỏ trong tổng thể công trình kiến trúc, overall architecture, has long become the traditional beauty of nhưng từ lâu đã trở thành nét đẹp truyền thống trong kiến trúc Việt Vietnamese architecture by the meaning, utility and value it brings. bởi những ý nghĩa, công dụng và cả giá trị mà nó mang lại. Bài báo The paper examines the screen of Thac Gian communal temple,Da khảo sát bức bình phong ở đình làng Thạc Gián, thành phố Đà Nang city - a work of artistic value, of special cultural values, of Nẵng - một tác phẩm mang giá trị nghệ thuật cùng với các giá trị spiritual significance, a historical mark for Thac Gian village .It also văn hóa đặc sắc, mang ý nghĩa về mặt tâm linh, là dấu ấn lịch sử expresses the philosophy of yin and yang through the code icon đối với đình làng Thạc Gián và thể hiện triết lý âm dương qua hình and the moon symbol. tượng long mã và biểu tượng nhật nguyệt. Từ khóa - bình phong; đình làng Thạc Gián; nét đẹp truyền thống; Key words - screen; Thac Gian communal house; traditional tác phẩm nghệ thuật; triết lý âm dương. beauty; art work; yin and yang philosophy. 1. Đặt vấn đề tác giả muốn làm rõ giá trị văn hóa cũng như giá trị nghệ Văn hóa là sản phẩm của loài người, hình thành và phát thuật và ứng dụng bức bình phong trong không gian nội - triển trong quan hệ qua lại giữa con người và xã hội. Mỗi ngoại thất đương đại. Ngoài ra, trong Tạp chí Văn hóa nghệ một cộng đồng người mang một bản sắc văn hóa riêng. Việt thuật số 360, tháng 6 năm 2014, tác giả Đặng Mai Anh đã Nam có 54 dân tộc anh em sinh sống trên cùng một lãnh thổ, có bài viết “Trang trí và ứng dụng bình phong trong cuộc mỗi dân tộc mang một bản sắc văn hóa riêng đã làm nên một sống”. Bên cạnh đó, còn nhiều bài viết và công trình nghiên nền văn hóa Việt Nam thống nhất trong đa dạng. Tuy nhiên, cứu khác như: “Bình phong trong kiến trúc truyền thống nền văn hóa cổ truyền này đang đứng trước những thách thức Việt” của nhà nghiên cứu Nguyễn Thừa Kế, được in trên Tạp của thời kì công nghiệp hóa – hiện đại hóa, hội nhập quốc tế. chí Di sản Văn hóa số 9 (năm 2004); bài viết “Bình phong Nhiều nét văn hóa đang bị mai một dần, biến mất hoặc biến và non bộ trong kiến trúc cung đình Huế” của Tiến sĩ Phan dạng. Trong đó, bức bình phong trong kiến trúc truyền thống Thanh Hải, Giám đốc Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế; Việt Nam cũng không nằm ngoài nguy cơ đó. Trong kiến bài viết “Đôi nét về bình phong ngoại án thời Nguyễn ở Huế” trúc xưa, bức bình phong dường như hiện diện ở mọi nơi từ được in trên Tạp chí Di sản Văn hóa, số 3(48), 2014, của tác cung đình, phủ đệ đến các đền chùa, am miếu, đình làng, nhà giả Đặng Mai Anh khái quát về chức năng và cách trang trí thờ họ, nhà thường dân. Bức bình phong vừa mang ý nghĩa các bức bình phong thời Nguyễn ở Huế. Mặt khác, các tác về mặt trang trí lẫn về mặt phong thủy theo ý niệm xuất phát giả Trần Thị Quỳnh Hương, Nguyễn Ngọc Tùng, Tâm An, từ Trung Quốc. Vì vậy, vấn đề đặt ra lúc này là cần bảo tồn Đinh Báo Hiếu trong bài viết “Kiến trúc bình phong trong những giá trị văn hóa ẩn chứa sau bức bình phong và phát nhà vườn truyền thống Huế” in trên Tạp chí Kiến trúc số 07, huy giá trị văn hóa truyền thống này. Bài báo trình bày nguồn 2015, đã nghiên cứu tổng quan về đặc điểm kiến trúc, cấu gốc, cấu tạo, ý nghĩa và giá trị văn hóa của bức bình phong tạo của các bức bình phong của nhà vườn truyền thống Huế. ở đình làng Thạc Gián. Từ đó, nhóm tác giả đề xuất một số Từ đó, các tác giả đã đưa ra định hướng bảo tồn và cải tạo biện pháp bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của đình làng bình phong ở nơi đây. Thạc Gián nói chung và bức bình phong ở đình làng Thạc Bức bình phong ở đình làng Thạc Gián cho đến nay vẫn Gián nói riêng. chưa có một công trình nào nghiên cứu chuyên sâu để làm rõ nguồn gốc, ý nghĩa, giá trị của bình phong ở đình làng 2. Tổng quan nghiên cứu và khái niệm Việt Nam nói chung và ở đình làng Thạc Gián nói riêng, từ 2.1. Tổng quan nghiên cứu đó hiểu hơn về một nét đẹp trong kiến trúc truyền thống Với các giá trị mang lại thì đến nay bình phong vẫn là của Việt Nam. chủ đề mà các nhà nghiên cứu văn hóa - kiến trúc quan tâm 2.2. Các khái niệm liên quan và tìm cách bảo tồn. Khái niệm về bức bình phong Đầu tiên phải kể đến luận án “Nghệ thuật trang trí bình Từ xưa đến nay, cụm từ bức bình phong dường như phong ở Việt Nam” của Đặng Mai Anh. Đây được xem là không hề xa lạ đối với mọi người dân Việt Nam. Cách dùng công trình đầu tiên nghiên cứu toàn diện và hệ thống nguồn mà ta thường nghe là khi nói về “cái để ngụy trang, để che gốc xuất hiện và quá trình phát triển của bức bình phong đậy, nói chung”. Cụ thể là khi một người bị người khác lợi trong diễn trình văn hóa Việt Nam. Từ những nghiên cứu, dụng làm bình phong nhằm che đậy một bí mật hay điều gì
- ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 4(125).2018 31 xấu. Tuy nhiên, theo từ điển tiếng Việt, ngoài nghĩa trên, thần bí có từ đời Thượng cổ của Trung Quốc truyền tới ngày bình phong còn có nghĩa là “vật dùng để chắn gió, chắn tầm nay. Hình tượng long mã lại có phần đặc sắc hơn bởi nghệ nhìn hoặc để che cho đỡ trống trải, thường xây bằng gạch thuật khảm sành sứ. Long mã được đắp nổi và khảm ghép trước sân hay làm bằng khung gỗ có căng vải đặt trong các mảnh sành sứ lại với nhau bởi một hỗn hợp kết dính đặc phòng” [8, tr. 98]. Thực chất, từ “bình phong” được xuất biệt. Bằng sự tài hoa và bàn tay khéo léo, những nghệ nhân phát từ Trung Quốc và được cấu tạo bởi hai từ: bình (trong đã đắp thành hình tượng long mã uy nghi, hài hòa trong màu tiếng Trung được viết là 屏, mang nghĩa che chắn) và phong sắc. Long mã là linh vật báo hiệu điều tốt lành, là biểu tượng (được viết bằng tiếng Trung là 風, mang nghĩa là gió). Như của sự thông thái, trường thọ, sự nguy nga đường bệ, hạnh vậy, từ nghĩa gốc là che chắn gió thì bình phong đã đi vào phúc vô song. Phía trên long mã là hình ảnh biểu tượng cho cuộc sống đời thường của con người với một hàm ý tiêu cực. dương và nguyệt, được khảm bằng một đĩa sành; thể hiện cho sự hòa hợp âm dương. Ngoài ra, họa tiết mây được khảm Khái niệm về đình làng sành sứ trên bức bình phong còn tượng trưng cho dấu hiệu Đình là “nhà công cộng của làng thời trước, được xây tốt lành, hạnh phúc. Hơn nữa, mây gắn liền với mưa, tạo nên dựng để làm nơi thờ Thành hoàng và họp việc làng” [8, tr. khả năng tồn tại và sinh trưởng của cây trồng trong đời sống 437]. Đình làng là một thiết chế văn hóa cổ truyền và đóng cư dân nông nghiệp. Do vậy, hình tượng mây chính là ước vai trò quan trọng trong đời sống làng xã người Việt. Đình vọng mùa màng tươi tốt của ông cha ta. làng là trung tâm văn hóa, hội họp đồng thời cũng là nơi Hai bên bức bình phong là cặp họa tiết đối xứng nhau, dân làng gửi gắm niềm tin, ước vọng về một cuộc sống tốt mỗi bên là một nửa chữ Thọ được khảm sành sứ tỉ mỉ, có đẹp trong tương lai, thông qua các hình thức tín ngưỡng - hình dạng vuông cùng với các họa tiết hoa và lá cách điệu lễ hội đầy màu sắc, thấm đẫm tính nhân văn. Nhà văn Tô ở xung quanh. Vì đây là một chiếu thư đang mở nên khi Hoài có luận về “cái đình làng” trong Chuyện cũ Hà Nội đóng lại thì hai nửa chữ Thọ sẽ được ghép lại thành một rằng: “Cái đình là trung tâm của làng. Làng nào cũng có chữ Thọ hoàn chỉnh. Thời xưa, chữ Thọ xuất hiện nhiều đền thờ ông thần hoàng. Đình được cất cao ráo khang trang, trong kiến trúc như cung điện, tư gia của các bậc vương giả thế tất theo phong thủy, nơi phong quang nhất làng”. và cả nhà của thường dân; nó được xem là biểu tượng của 3. Nội dung nghiên cứu sự trường thọ, giúp tăng cường năng lượng cho ngôi nhà và bảo vệ người sống trong ngôi nhà. Mặt khác, theo Kinh thi, 3.1. Đặc điểm, vị trí của bức bình phong ở đình làng Thạc ban đầu chữ Thọ là lời chúc tụng cho sự nghiệp của vua Gián chúa, về sau là lời chúc dành cho tất cả mọi người. Do vậy, Đầu tiên nói về thời gian xây dựng của bức bình phong, hình tượng chữ Thọ trên bức bình phong ở đình làng Thạc vào thuở ban sơ, lúc ngôi đình mới xây dựng thì bức bình Gián thể hiện mong muốn một cuộc sống hạnh phúc, thanh phong như ngày nay chưa được tạo dựng bởi vào lúc này thản và đủ đầy sức khỏe. Ở phía ngoài cùng là các họa tiết thì nguyên liệu gạch, đá chưa được áp dụng vào trong kiến hình chữ Vạn (卍), biểu tượng cho sự may mắn. Theo Phật trúc xây dựng mà chỉ có các vật liệu có sức bền thấp như tre, nứa, Cho mãi đến đời vua Minh Mạng (1820 - 1840), giáo, chữ Vạn tượng trưng cho phúc lộc, an khang, thành “ ngôi đình được xây dựng lại bằng các vật liệu chủ yếu công, thịnh vượng và còn biểu thị cho công đức vô lượng là gạch và gỗ thì bình phong cùng lúc này mới được tạo của Phật. Chữ Vạn đã từng xuất hiện lần đầu vào khoảng dựng” [2, tr. 147 – 148]. từ 16.000 đến 14.000 năm trước Công nguyên và được lấy ý tưởng từ sự quan sát vũ trụ, hệ mặt trời; nó thể hiện nơi Bức bình phong của đình làng Thạc Gián thuộc loại bình phát sinh ra nguồn sống vô tận và sự vĩnh hằng. Ngoài ra, phong ngoại án và được xây dựng bằng gạch đá, vôi vữa. sành sứ còn được khảm viền trang trí xung quanh bức bình Nhìn tổng thể, bức bình phong có hình dạng của một chiếu phong một cách cẩn thận, tỉ mỉ. thư, chiếu thư là loại văn bản hành chính mà vua dùng để ban xuống cho dân chúng và có nguồn gốc từ Trung Hoa. Nói về kích thước, theo quy định về thước tấc của người Cấu tạo của bức bình phong chỉ có hai phần là phần thân và xưa, diện tích của bức bình phong (xét về bình phong ngoại phần đế mà không có phần đỉnh. Trong đó, phần đế chỉ được án với chất liệu gạch, đá) phải luôn lớn hơn so với diện tích xây dựng thành khối chữ nhật đơn giản, không có họa tiết cửa giữa của đình và theo tỉ lệ lớn gấp rưỡi trở lên để hai trang trí. Xét về phần thân, mặt trước của bức bình phong là cái không có sự đối nghịch với nhau, tạo nên sự hài hòa hình ảnh chúa sơn lâm vừa hung tợn vừa uy nghi trong tư trong kiến trúc. Do vậy, bức bình phong ở đình làng Thạc thế vồ mồi, cùng hòa vào trong khung cảnh núi non trùng Gián có chiều cao là 1,75m và bề ngang rộng 3,9m; trong trùng điệp điệp. Hình tượng con hổ được đắp nổi bằng xi khi chiều cao và bề ngang của cửa giữa lần lượt là là măng, quét sơn màu vàng và có các vằn đỏ trên thân. Với 1,835m và 2,29m; tức là diện tích bức bình phong gấp những đặc tính của con hổ, người xưa đã chọn hình ảnh con khoảng 1,62 lần so với diện tích cửa giữa. hổ trong việc xây dựng bức bình phong nhằm trấn giữ cõi Còn xét về vị trí, giống như hầu hết các đình làng khác, đất thiêng liêng đang thờ phụng những bậc hiền tài có công bức bình phong ở đình làng Thạc Gián cũng được đặt theo với đất nước. Đằng sau sự hung tợn của chúa tể sơn lâm là nguyên tắc đơn tuyến, ngoài cùng là nghi môn (cổng ngõ) rồi linh vật rất đặc biệt chỉ có trong truyền thuyết - long mã. tiếp đến là bình phong án ngữ, đi qua một khoảng sân rộng Long mã có đầu rồng và thân ngựa; sừng và bờm của rồng, rồi mới đến công trình chính của đình làng. Tuy nhiên, vào thân có vảy của kỳ lân, chân và móng của ngựa; đang trong năm 2009, phía trước bình phong còn được xây dựng thêm tư thế bay lượn giữa bầu trời, đầu quay nhìn về phía sau thân hồ bán nguyệt nhằm mục đích lưu giữ lại một hồ lớn ngay mình. Ngoài ra, long mã còn đang chở trên lưng là Lạc thư phía trước đình làng. Xưa kia sân đình tiếp giáp với một bàu và dưới là Hà đồ. Hà đồ và Lạc thư đều là những hình vẽ làng rộng 10 đến 12 hecta, nhưng sau này bàu làng bị quy
- 32 Trương Thị Thanh Thùy, Nguyễn Ngọc Chinh, Nguyễn Ngọc Nhật Minh hoạch để xây dựng khu dân cư; vậy nên dân làng đã xây dựng làng và một việc tối quan trọng khi dựng đình là chọn hồ bán nguyệt biểu tượng cho bàu làng cũ cùng với mong ước hướng đình. Hướng đình đóng vai trò rất quan trọng, chẳng thịnh vượng, phát triển và biểu tượng cho tình yêu đôi lứa. những ảnh hưởng đến sự thịnh vượng về cuộc sống mà còn Mặt khác, theo phong thủy, “ khoảng cách đặt bình phong ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe người ở trong đình cũng cũng khá linh động nhưng đều căn cứ vào kích thước công như dân chúng sống trong làng. Ca dao cũ có câu: “Toét trình. Phần lớn các thầy địa lí cho rằng khoảng cách từ bức mắt là tại hướng đình. Cả làng cùng toét riêng mình em bình phong đến công trình (phong thủy gọi là tiểu minh đâu”. Vào thế kỷ XVI và XVII, người ta thường gặp những đường) thường lấy tương đương với kích thước bề ngang của ngôi đình quay về hướng Nam hoặc một số quay về hướng công trình, được xem là hợp lí” [7, tr. 82]. Trong khi bề ngang Tây và là hai hướng rất được ưa chuộng. Tuy nhiên, đình của đình làng Thạc Gián là 14,2m và khoảng cách từ bình Thạc Gián lại hướng về phía Bắc. Theo như khí hậu của phong đến công trình là khoảng 18m, được coi là không quá Việt Nam thì đây là hướng giá rét vào mùa đông và nóng xa so với công trình chính của đình làng và là khoảng cách về hè. Hơn nữa, về mặt tín ngưỡng thì đây là hướng mang phù hợp đủ để che chắn cho ngôi đình, đáp ứng yêu cầu của nhiều sự hắc ám, ít nhiều gắn với quỷ dữ. Vì thế, kiến trúc phong thủy và mang tính thẩm mỹ. của người Việt ít quay về hướng này. Theo Giáo sư Trần Tóm lại, kích thước và vị trí đặt bức bình phong đều Lâm Biền nhận xét trong cuốn sách “Đình làng Việt (Châu dựa theo một quy tắc chuẩn mực để làm sao bức bình phong thổ Bắc Bộ)” thì “vẫn có những ngôi chùa hoặc một di tích được phù hợp với ngôi đình và mang tính thẩm mỹ cao. nào đó được chủ động nhìn về hướng Bắc. Về cơ bản, Hơn nữa, các họa tiết trên bức bình phong được trang trí những di tích này ít gắn với thế gian mà thường liên quan rất cẩn thận, tỉ mỉ đã làm nên sự đặc sắc và hài hòa cho bức đến các kiếp đời đã qua, như một số chùa ở nghĩa trang để bình phong, cùng với đó là các ý nghĩa sâu xa được gửi cầu siêu độ cho những linh hồn ở thế giới bên dưới” [3]. gắm trên từng họa tiết, từng hình tượng linh vật. Trái lại, đình làng Thạc Gián hướng nhìn về phía Bắc bởi vì đình làng được tạo lập bởi đoàn người từ Bắc vào khai canh, lập nghiệp vào giai đoạn khởi thủy của vùng đất Chiêm Thành chuyển giao cho đất nước Đại Việt. Các bậc tiền nhân lần đầu tiên vào đây nên chưa có định hướng về phong thủy hay hướng gió ở đây như thế nào mà chỉ xây dựng đình với mục đích là đem các phong tục, đạo lí từ cội nguồn phương Bắc vào phương Nam. Do vậy, đình làng chủ động hướng nhìn về phía Bắc là để ngưỡng vọng về quê cha đất tổ ở phương Bắc, là để nhớ ơn, tri ân những người có công với đất nước bằng tất cả lòng thành của người dân nơi đây. Cũng chính bởi ngôi đình không theo phương hướng của lối kiến trúc truyền thống nên ông cha ta đã có những biện pháp để khắc phục nhằm hài hòa âm dương, đem lại sự yên bình cho ngôi đình. Họ đã xây dựng hồ bán nguyệt trước sân đình, tiếp đến là bức bình phong với hình ảnh chúa sơn lâm oai vệ để đảm bảo cân bằng âm Hình 1. Mặt trước của bức bình phong (Nguồn: Tác giả) dương và giúp ngôi đình cũng như người dân sống trong làng tránh được những yếu tố xấu trong cuộc sống, hưởng cuộc sống bình yên, thanh thản, hạnh phúc. Mặt khác, theo thuyết Ngũ hành, phía trước công trình kiến trúc thuộc hành Hỏa còn chủ nhân lại thuộc hành Kim, theo nguyên lý Ngũ hành tương khắc thì Hỏa khắc Kim, Hỏa quá vượng dễ gây tổn hại cho gia chủ. Vậy nên, “ cần phải có bức bình phong án ngữ phía trước nhằm cản bớt Hỏa khí, đem lại sự bình yên cho người ở bên trong đình” [1, tr. 44]. Hơn nữa, cũng như các bức bình phong khác, bình phong ở đình làng Thạc Gián còn có công dụng là ngăn cản các luồng khí độc, khí xấu, tà khí xâm nhập vào chốn linh thiêng. Do vậy, bức bình phong đóng một vai trò không thể thiếu trong tổng thể kiến trúc đình làng Thạc Gián. 3.3. Triết lý âm dương thể hiện trong bức bình phong ở Hình 2. Mặt sau của bức bình phong (Nguồn: Tác giả) đình làng Thạc Gián 3.2. Vai trò của bức bình phong đối với đình làng Thạc Nói về triết lý âm dương, hai thái cực âm và dương đã Gián trở thành cái hồn, cái thiêng trong đời sống văn hóa Việt. Trong các làng xã Việt Nam, đình là một kiến trúc có Đặc biệt trong thời xưa, triết lý âm dương này dường như quy mô to nhất và theo quan niệm của người xưa, có tầm đã thấm nhuần trong tư tưởng của người Việt. Con người quan trọng ảnh hưởng tới sự thịnh vượng và sức khoẻ của biết vận dụng triết lý âm dương trong nhiều khía cạnh và tất cả dân làng. Do vậy, dựng đình là việc chung của cả điều chỉnh hai thái cực âm dương ở trạng thái cân bằng, hài
- ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 4(125).2018 33 hòa trong trời đất. Di tích lịch sử văn hóa đình làng Thạc dương, ông cha ta đã gửi gắm ước vọng một cuộc sống Gián là một trong những công trình kiến trúc truyền thống hạnh phúc, yên ấm, phát triển và bền vững. biểu hiện đậm nét triết lý âm dương. Triết lý âm dương góp 3.4. Giá trị cơ bản của bức bình phong ở đình làng Thạc phần tăng tính bền vững cho ngôi đình và qua đó thể hiện Gián những giá trị, phẩm chất tốt đẹp của con người. Triết lý âm 3.4.1. Bức bình phong mang dấu ấn lịch sử dương được thể hiện rõ trong kiến trúc ngôi đình với các chi tiết: cổng tam quan, lối kết cấu rường chồng ở phần mái Trong kiến trúc xưa, ngoài những công năng, ý nghĩa và bức bình phong. mà bức bình phong mang lại thì mỗi bức bình phong đều mang đậm dấu ấn lịch sử đối với một công trình kiến trúc, Trong đó, hình tượng long mã trên bức bình phong là thể hiện quá trình phát triển của bình phong nói chung và điểm biểu hiện rõ nét của triết lý âm dương. Long mã là sự hơn nữa gợi nhắc đến một giai đoạn lịch sử nước nhà. Bức kết hợp giữa thân mình là mã (nghĩa là ngựa) - loài vật sống bình phong ở đình làng Thạc Gián cũng vậy, đã ghi dấu lại trên mặt đất, biểu tượng cho tính âm với phần đầu là rồng thời kì lịch sử của đình làng Thạc Gián và là dấu ấn trong - loài vật trong truyền thuyết sống trên trời, biểu tượng cho lòng mỗi người dân nơi đây. Đình làng Thạc Gián ban đầu tính dương. Rồng thường ở trên cao, khi ẩn khi hiện trong được xây dựng chỉ bằng các vật liệu đơn giản như tranh, mây, vùng vẫy khắp không gian, biểu trưng cho những gì tre, nứa nên bình phong lúc ấy chưa được tạo dựng và mãi có tính chất cao thượng, mạnh mẽ, linh hoạt, thuộc tiên đến đời vua Minh Mạng (1820 - 1840) thì đình được xây thiên (nghĩa là tung) tượng trưng cho kinh tuyến, thời gian. dựng lại bằng gạch, gỗ và bình phong được cho rằng tạo Còn mã tuy không thuộc linh vật, nhưng là con vật rất hữu dựng vào lúc ấy. Tuy nhiên, để có được bức bình phong dụng trong nhân gian, di chuyển nhanh trên mặt đất theo như ngày hôm nay, bao lớp thế hệ cha ông đã đồng lòng đường thẳng ngang, có thể chở nặng, có sức bền bỉ, có khai cư, khai canh, lập nghiệp mà nên. Do vậy, bức bình nghĩa khí, thuộc hậu thiên (nghĩa là hoành) tượng trưng cho phong đã ghi dấu ấn trong lòng của bao lớp thế hệ người vĩ tuyến, không gian. Như vậy, hình tượng long mã tượng dân nơi đây rằng phải luôn nhớ về công lao của bậc cha trưng cho sự tung hoành của nam nhi, cho thời gian và ông đã có công khai khẩn đất hoang tạo dựng nên làng Thạc không gian, hình ảnh long mã chạy là biểu hiện cho sự vận Gián. Cùng với đó là sự hình thành nên các sinh hoạt văn động của vũ trụ, đồng thời tượng trưng cho thánh nhân. Do hóa đa dạng, các phong tục, tập quán đẹp, thuần hậu, tích vậy, có thể nói “Long mã mang đầy đủ các yếu tố Âm cực mà còn được lưu truyền mãi cho đến ngày hôm nay. Dương, Vũ trụ, sự kết hợp của Tiên thiên và Hậu thiên” Trong quá khứ, đình là nơi tổ chức và duy trì nhiều lễ hội [10]. Hơn nữa, có điều đặc biệt là đầu rồng ngoái nhìn về truyền thống như lễ tế Xuân Thu nhị kỳ, lễ hội vào tiết phía sau thay vì hướng tới trước thể hiện sự quan tâm, nâng Thanh Minh, Ngoài ra, theo nguồn tư liệu Hán Nôm còn đỡ phía trước dành cho phía sau. Giống như sự quan tâm, lại hiện nay ở địa phương còn cho biết một cách rõ ràng lo lắng, chia sẻ của người chồng dành cho người vợ của rằng mảnh đất này đã đào tạo nên nhiều nhân tài cho đất mình. Từ đó, sự kết hợp hài hòa âm dương trong một con nước. Từ giữa thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX, ở Thạc vật không có thật đã tạo nên nét đẹp văn hóa Việt Nam nói Gián có nhiều người có thực tài, được các vua chúa Nguyễn chung và triết lý sống của người Việt nói riêng. Kết hợp bổ dụng và ban cho các chức phẩm, trong đó có nhiều vị với long mã là hình ảnh tượng trưng cho dương và nguyệt có chức tước cao như Chánh Ngự y Viện Thái y Kế Đức đã càng phản ánh rõ tính âm dương, là biểu tượng đẹp cho Hầu Nguyễn Kim Châu (1707 - 1785), Hiệp trấn Thái sự yên ấm, hạnh phúc giữa đất trời. Cuộc sống chỉ hạnh Nguyên Chương Ngọc Hầu Nguyễn Kim Phương (1771 - phúc, bình yên khi hai thái cực âm dương hài hòa nhau, hài 1821). Bức bình phong đã “ trường tồn cùng với cuộc hòa giữa dương và nguyệt, hài hòa với đất trời. Bên cạnh sống của bao lớp thế hệ dân làng nơi đây từ thuở dân làng đó, thông qua hình ảnh long mã, ông cha ta muốn nhắn nhủ mới an cư lạc nghiệp đến nay, cùng trải qua các dấu mốc với người đời rằng, để có cuộc sống ấm no, hòa thuận, yên quan trọng của ngôi đình như: ngày 01 tháng 04 năm Ất bình như rồng và ngựa hòa nhập trong một thực thể long Hợi (03/5/1935), đình làng được triều đình Huế ban tặng mã kia thì ắt phải có những đấu tranh, những hi sinh âm sắc phong; nhận sắc phong của vua Bảo Đại thứ 10 (1935), thầm của bậc cha ông, bậc anh hùng đã xả thân mình vì và là niềm vinh dự lớn lao của dân làng” [6, tr. 59 – 64]. cuộc sống hòa bình cho muôn thế hệ đời sau. Tóm lại, bức bình phong chính là dấu ấn của giai đoạn mà Như vậy, bức bình phong, thoạt nhìn chẳng có gì quan đình làng Thạc Gián được xây dựng lại bằng các chất liệu trọng trong tổng thể kiến trúc của ngôi đình nhưng ý nghĩa gạch, gỗ trang khang hơn, đẹp hơn dưới thời vua Minh sâu xa của nó lại mang tầm quan trọng đặc biệt. Bức bình Mạng và đánh dấu sự phát triển của làng Thạc Gián. Hơn phong của đình làng Thạc Gián đã biểu hiện rõ sự kết hợp nữa, bức bình phong còn đóng vai trò như một di vật của hài hòa giữa hai thái cực âm và dương. Nếu mặt trước bình ông bà xưa để lại, nhắc nhở các thế hệ con cháu đời sau phong là hình ảnh chúa sơn lâm thì mặt sau là hình ảnh phải luôn ghi nhớ công ơn của người đi trước; cùng với ước long mã hòa quyện giữa đất trời. Một lần nữa, hình ảnh vọng cuộc sống ấm no, hạnh phúc, bình ổn cho các thế hệ long mã lại phảng phất trong tâm thức người đời sự hòa dân làng nơi đây. hợp giữa âm và dương, rằng âm chẳng thể thiếu dương, và Mặt khác, bức bình phong ở đình làng Thạc Gián còn ngược lại. Do đó, để vững bền, “ một thực thể chẳng thể cho thấy sự tồn tại và đánh dấu sự phát triển của bức bình nào toàn vẹn nếu thiếu đi âm hoặc dương” [5]. Qua đó, có phong qua từng thời kỳ, từng vùng miền của đất nước. thể thấy rằng từ xa xưa, triết lý âm dương đã thấm nhuần Thuở ban đầu, từ những tấm bình phong dưới dạng tấm trong tư tưởng, tư duy của người Việt Nam ta. Tóm lại, phên chắn ở hiên nhà bằng chất liệu tre, nứa đan với tên gọi thông qua hình tượng long mã với ý nghĩa hòa hợp âm “dại” hoặc “giại” tùy vào từng vùng miền, về sau phát triển
- 34 Trương Thị Thanh Thùy, Nguyễn Ngọc Chinh, Nguyễn Ngọc Nhật Minh nên nhiều thể loại như bình phong gỗ khảm xà cừ, bình những loại gốm cổ và có niên đại xa xưa. Vì vậy, nguồn phong gạch đá, đến các loại bình phong hiện đại như ngày nguyên liệu cho các nghệ nhân khảm sành sứ luôn khan nay: bình phong làm từ chất liệu sợi, bình phong gương đa hiếm. Tuy nhiên, nguồn gốm cổ đó từ đâu mà có?. Như tất năng, Bức bình phong của đình làng Thạc Gián thuộc giai cả đều biết, Huế là nơi đóng đô của vương triều Nguyễn đoạn của sự sáng tạo nên bức bình phong bằng gạch đá là trong 140 năm (từ 1805 đến 1945). Trong suốt thời kỳ này minh chứng cho quá trình phát triển của bức bình phong. và cả trước đó, Huế là nơi giao thương buôn bán rất sầm uất Tóm lại, bức bình phong ở đình làng Thạc Gián gợi với các nước láng giềng. Hàng ngày, lượng tàu thuyền đi lại nhắc ta về một thời kì hưng thịnh của đất nước, là dấu ấn cập bến ở sông Hương nhiều vô kể. Chính vì vậy mà dưới của sự phát triển làng Thạc Gián nói chung và đình làng lòng sông Hương đã lưu giữ một lớp trầm tích văn hóa vô Thạc Gián nói riêng; cùng với đó là lịch sử phát triển của cùng phong phú mà ít ai biết đến chính là những mảnh sành bức bình phong nói chung ở Việt Nam ta. sứ, mảnh gốm có khi cả nghìn năm tuổi. Các nhà nghiên cứu cho rằng “Nhờ lượng lớn gốm sứ này mà nghệ thuật trong 3.4.2. Bức bình phong mang giá trị nghệ thuật cao cung điện, lăng tẩm, đền đài, nơi thờ cúng ở Huế đã trở thành Ngoài chức năng phong thủy, bức bình phong còn được nét văn hóa không thể thiếu ở cố đô Huế” [11]. coi là những tác phẩm mang giá trị nghệ thuật cao. Đặc biệt là các bức bình phong bằng gạch đá, thường được trang trí Công việc khó và cầu kì nhất chính là khảm ghép các mảnh sành sứ lại với nhau, do vậy bằng con mắt thẩm mỹ, rất công phu, tỉ mỉ bằng cách chạm trổ, ghép sành sứ với trí óc và bàn tay khéo léo của nghệ nhân mới có thể thổi hồn các biểu tượng và mô típ đa dạng như: phúc, lộc, thọ, hỷ vào các mảnh sứ. Tùy từng chất liệu mà nghệ nhân có thể hay các linh vật long, lân, quy phụng, long mã, Riêng bức sắp đồng chất hoặc đối liệu về chất theo màu men, chất men, bình phong ở đình làng Thạc Gián với hình tượng long mã đã được chính nghệ thuật khảm sành sứ này làm nên giá trị và cường độ tiếp sáng để tạo nên một họa tiết hài hòa về màu mỹ thuật của nó. sắc. Các màu đỏ tía, đỏ cánh sen hồng thuộc gam màu nóng, chủ đạo trong các bức tranh; màu đen chỉ sử dụng cho một Nói về nghệ thuật khảm sành sứ, theo một số nhà số họa tiết nhất định như khảm mắt rồng, mắt phượng; còn nghiên cứu thì nghệ thuật này đã bắt đầu hình thành vào màu xanh phổ biến là xanh lục, xanh lam, xanh tím. khoảng thời nhà Lý (thế kỷ XI - XII) nhưng có lẽ phải đến tận nhà Nguyễn (thế kỷ XVII) mới được xem là thời kì Ngoài ra, để các vật liệu bám chắc thì cần dùng chất kết manh nha phát triển của nghệ thuật khảm sành sứ. Ban đầu dính làm từ hàu trộn với vôi, cùng với mật mía đường, vốn là nghệ thuật dân gian, sau đó trải qua thăng trầm của những phụ gia kết nhuyễn (giấy dó, nhựa bông cẩn, dây tơ lịch sử, nghệ thuật khảm sành sứ đã được nhiều người biết hồng); tạo thành một hợp chất vừa quánh dẻo vừa bền chắc, đến và trở thành nghệ thuật trong cung đình. Ngay từ ban chịu được nắng mưa lâu dài. Tỉ lệ thành phần nguyên liệu đầu những nghệ nhân đã rất sáng tạo bằng cách ghép các của loại hợp chất đặc biệt này tùy thuộc vào chất lượng và mảnh sành sứ hay mảnh gốm vỡ để tạo thành sản phẩm loại chất liệu sử dụng, tuy nhiên vôi là thành phần chính, trang trí. Dần dần nghệ thuật này được ứng dụng vào trang vì vậy mà việc làm vôi, lọc vôi là công thức bí truyền của trí cho đền đài, miếu mạo các đời chúa Nguyễn. Bên cạnh các phường, thợ. Bên cạnh đó, kỹ thuật cắt gọt cũng cầu đó, trong sách “Phủ Biên Tạp Lục”, Lê Quý Đôn cũng đã kỳ, người thợ phải cắt tỉa sao để các mảnh sành sứ gắn lên mô tả Phú Xuân vào đầu thế kỷ XVIII và cho biết nghệ khít nhau, không bị lộ mạch vữa; vậy nên công đoạn này thuật khảm sành sứ đã được sử dụng trong cung đình như thường được giao cho những nghệ nhân có tay nghề cao. sau: “Vườn sau thì núi giả đá quí, ao vuông hò quanh, cầu Qua đây, ta có thể thấy được để làm nên hình tượng long vòng thủy tạ, tường trong tường ngoài đều xây dày mấy mã hài hòa, sinh động như trên bức bình phong ở đình làng thước, lấy vôi và mảnh sứ đắp thành hình rồng phượng, lân Thạc Gián là không hề dễ dàng. Nó đòi hỏi sự công phu, tỉ hổ, cỏ hoa” [6, tr. 145-146]. mỉ, cùng với sự tài hoa, óc sáng tạo của những nghệ nhân Bắt đầu từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX được xưa, đã biến những vật liệu thô cứng bỗng trở nên thanh nhã, xem là giai đoạn phát triển rộng rãi và lên đến đỉnh cao của mềm mại, sang trọng và lung linh kỳ ảo. Cũng chính nhờ vậy nghệ thuật khảm sành sứ. Hầu như các kiến trúc của thời mới làm nên được bức bình phong vừa mang giá trị nghệ này đều được khảm sành sứ và được xem là nghệ thuật kiến thuật cao vừa bền chắc suốt gần 200 năm. Ngoài ra, nghệ trúc đặc sắc. Hơn nữa, nghệ thuật khảm sành sứ còn được thuật khảm sành sứ còn được áp dụng để trang trí cho các đánh giá rất cao. Nghệ thuật trang trí này còn được dùng chi tiết như chữ thọ, vân mây, sóng nước, hoa lá cách điệu trang trí ở cổng chùa hoặc đình làng, nóc mái, cửa sổ, đặc và được khảm viền xung quanh bức bình phong. biệt là bình phong. Để làm nên được hình tượng Long, 3.4.3. Bức bình phong mang ý nghĩa tâm linh Ly/lân, Quy, Phụng/phượng, hay Long mã trên các bức Tại các đình làng, các am miếu dân gian, đề tài trang trí bình phong, các nghệ nhân đã sử dụng mảnh sành sứ, chén, trên các bức bình phong ngoại án rất đa dạng, phong phú, cắt tỉa theo hình dáng và màu sắc, sau này có thêm những chứa đựng những ý nghĩa về tâm linh, ước nguyện của con vật liệu khác như thủy tinh màu, thủy tinh trong suốt, ốp người. Riêng bức bình phong ở đình làng Thạc Gián với trên bề mặt. Từ những chất liệu đơn giản, dân dã, bình dị mặt trước là hình ảnh một con hổ đang trong tư thế vồ mồi nhưng vẫn tạo nên nét cao sang, lộng lẫy. và mặt sau là hình tượng của con vật có trong truyền thuyết Mặt khác, ở mỗi địa điểm hay khu vực khác nhau sẽ có - long mã. Hai biểu tượng con vật này được trang trí rất phổ nghệ thuật trang trí khác nhau. Ở các đình chùa thì hoa văn biến trên các bức bình phong. Thứ nhất, người ta chuộng họa tiết thường sẽ đơn giản, còn ở cung đình thì cầu kỳ hơn dùng hình tượng chúa sơn lâm trên bình phong bởi con vật với chất men có độ bóng, độ bền cao. Các loại vật liệu khảm này tượng trưng cho sự hùng cường và sức mạnh vô song. sành sứ được lựa chọn khá kỹ lưỡng từ các mảnh vỡ của Hình ảnh con hổ dường như đã ăn sâu vào trong đời sống
- ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 4(125).2018 35 của người dân Việt. Những đặc tính của con hổ được ví với màu xanh, vằn đỏ, trên lưng có mang bức đồ gồm 55 đốm những gì cho là tốt, mạnh mẽ trong đời sống thường ngày cùng với một cây bửu kiếm. Vua Phục Hy đã vẽ lại các như: “ăn như hổ”, “hùng hùng hổ hổ”, “rồng cuộn, hổ đốm ấy tạo nên bức đồ, đặt lên là Hà đồ, là sách trời ban ngồi”, “chơi với vua như chơi với hổ”, Trong 12 con giáp cho vua trị nước. Sau này, Hà đồ còn trở thành nền tảng thì hổ là loài vật hội tụ các đặc chất: dũng mãnh, can cho nhà vua vẽ nên bát quái đồ, cơ sở của thuyết âm dương. trường, hiên ngang, dám tấn công cả những con thú to khỏe Ngoài ra, long mã còn là linh vật của Phật giáo bởi vì nó hơn nó. Cũng chính nhờ những đặc chất ấy mà hổ được đưa thường cõng trên lưng Luật tạng, một trong ba phần cốt lõi vào cả văn hóa và nghệ thuật. Hình tượng con hổ có mặt của kinh sách nhà Phật. Bên cạnh đó, theo nhà nghiên cứu trên các phù điêu bằng gỗ, đá, đồng, ở các đền đài, lăng Trần Đại Vinh, từ lâu Nho giáo đã xem hình tượng long mã miếu, trong dòng tranh Đông Hồ và Hàng Trống từ xa xưa. như biểu tượng của ước vọng thái bình, an cư lạc nghiệp, Nổi tiếng là bức tranh “Ngũ hổ”, còn được gọi là tranh phát triển. Do vậy, tại các đình chùa, điện thờ, miếu mạo, “Ông Năm dinh”, tượng trưng cho năm vị thần tướng ngự long mã thường được khắc họa hay đúc tượng trên các vật trị năm phương trời. Bên cạnh đó, trong tín ngưỡng dân thể như bình phong, hoành phi để vừa trang trí chốn tôn gian Việt Nam, hổ (cọp) là con vật được tôn thờ từ lâu, tên nghiêm, vừa có công dụng phong thủy trừ tà, khử trược, của nó được thần hóa và được gọi là “Ngài”, “Ông Ba cũng vừa cầu mong sự thái bình. Đặc biệt, hình tượng long Mươi”. Ở nước ta, trước kia các cụ còn không dám kêu mã đã trở thành đề tài trang trí phổ biến ở Huế và nhiều đích danh con hổ mà chỉ dám gọi chệch đi: “ông kễnh”, nhất vẫn là trên các bức bình phong. Trong đó, nổi tiếng “ông hùm” vì sợ “ngài” giận. Hầu hết các ngôi đình đền nhất là bức bình phong long mã tại Trường Quốc học Huế, nào cũng có đắp tượng hổ ở cửa vào, coi như “thần tướng được xây dựng vào đời vua Thành Thái năm 1896. Ngoài gác đền” và thần tướng này cũng được khách đi lễ thắp ra, long mã còn được trang trí cho một số đồ dùng bằng hương, khấn vái. Người dân đã thần thánh hóa hổ, cho nó bạc, gỗ, đồ sứ và trang phục của một số quan lại triều một sức mạnh thiêng liêng diệt trừ được ma quỷ. Có hình Nguyễn. Tóm lại, từ xa xưa long mã đã được xem là con hổ trấn giữ ở ngưỡng cửa là tà ma không dám xâm nhập. vật linh thiêng, đem lại sự may mắn, điều tốt đẹp, hạnh Mặt khác, trong quan niệm của người phương Đông còn phúc và lạc nghiệp cho con người, vừa có công dụng phong cho rằng hổ thuộc sứ giả của nhà trời xuống hạ giới ban thủy, ngăn chặn khí xấu và các yếu tố bất lợi cho gia chủ. phúc cho người lành, giáng họa cho kẻ ác, hướng con người Vậy nên ông cha ta đã chọn hình tượng long mã để trang đi đến chân, thiện, mỹ. Vậy nên, từ xa xưa nước ta đã hình trí cho bức bình phong ở đình làng Thạc Gián với ước vọng thành tín ngưỡng thờ cúng thần Hổ. Thần Hổ được thờ cuộc sống thanh bình và yên ấm. trong các đình, đền, điện, chùa, nhà ở. Điển hình như tục Mặt khác, đặt bức bình phong ngay trước đình làng còn thờ hổ trong đền Bà Chúa hay còn gọi là miếu Ông Hổ, thể hiện sự kính ngưỡng tuyệt đối của con người với thế giới đình Tân Lập Phú, đền Trần Hưng Đạo, ở Bình Phước. thần linh bên trong ngôi đình. Không chỉ riêng đình làng Thạc Cũng theo nhận xét của Giáo sư Trần Lâm Biền: “Bình Gián mà hầu hết các đình làng khác đều có nghi môn (cổng phong đặt ở trong hay ngoài nghi môn lệ thuộc vào sự tích ngõ) ngoài cùng rồi tiếp đến là bình phong án ngữ, đi qua một của thần. Mặt ngoài phải của bình phong phải có hổ (phía khoảng sân rộng rồi mới đến công trình chính của đình làng. Nam là long mã) với khả năng trừ tà, sát quỷ, giữ yên cõi Tất cả đều nằm trên trục dũng đạo tạo thành một chiều sâu thiêng” [3, tr. 65]. Do vậy, cũng không lạ gì khi hình tượng không gian và tăng thêm sự uy nghiêm của chốn linh thiêng. hổ lại xuất hiện trên bức bình phong ở đình làng Thạc Gián. Nhà nghiên cứu Hồ Tấn Tuấn đã có một nhận xét khá độc đáo Hình tượng hổ trên bức bình phong thể hiện sự mạnh mẽ, về bức bình phong trong các ngôi đình ở Đà Nẵng: “Sự xuất uy nghiêm, giữ vai trò trấn giữ, che chắn, bảo hộ cho ngôi hiện của tấm bình phong ở vị trí này đã thể hiện sự kính đình tránh những điều xấu. Bất cứ ai bước vào nơi linh ngưỡng tuyệt đối của người trần đối với thế giới thần linh. Bởi thiêng này với tâm đồ xấu xa thì sẽ cảm thấy sợ hãi trước lẽ, bước vào đây người ta buộc phải rẽ sang hai bên mà không hình tượng hung tợn và quyền uy của chúa sơn lâm. thể bước tiếp nếu muốn vào chính điện. Mặt khác, đứng ở Mặt khác, ông cha ta chọn hình tượng long mã để trang ngoài không ai có thể nhìn thấu xuyên suốt vào điện thờ trong trí mặt trong của bức bình phong ở đình làng Thạc Gián đình do sự che khuất của tấm bình phong” [9]. Bức bình cũng xuất phát từ văn hóa tâm linh của người Việt Nam và phong dường như đóng vai trò là vách ngăn giữa thế giới thần đây cũng là hình tượng phổ biến trên các bức bình phong. linh bên trong với thế giới người trần bên ngoài. Thực chất, long mã là sự hóa thân của kỳ lân, là sự kết hợp giữa rồng, lân và ngựa; là linh vật có sừng và bờm của rồng, 4. Giải pháp bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa ở mình của con hươu xạ với chiếc đuôi bò, trán sói, thân có đình làng Thạc Gián nói chung, bức bình phong nói vảy của kỳ lân, chân và móng của ngựa. Nhưng dù xuất riêng hiện dưới bất kì hình dạng gì thì trong trí tưởng tượng của Nói về riêng bức bình phong, trải qua thời gian,, bức bình tín ngưỡng dân gian phương Đông, kỳ lân cũng là con vật phong rơi vào tình trạng xuống cấp, các lớp vôi vữa bị bong báo hiệu điều tốt lành, biểu tượng cho sự trường thọ, nguy tróc lộ ra các lớp gạch, khiến cho các mảnh sành sứ được nga đường bệ và sự hạnh phúc lớn lao. Kỳ lân mang trong khảm trên bức bình phong cũng bị bong tróc và rơi rớt. Do mình tất cả đặc tính của một con vật hiền lành, nhân từ, nó đó, cùng với đình làng, bức bình phong được tôn tạo lại vào tránh giẫm lên các loại côn trùng, không phá hoại cỏ mềm năm 2009 với tổng kinh phí hơn 4 tỷ đồng cho cả dự án trùng dưới chân, không ăn thịt cũng như làm hại bất kì con vật tu đình làng Thạc Gián. Theo như người quản đình là chú nào. Do vậy, long mã cũng được xem là con vật linh thiêng Nguyễn Ngọc Mạnh cho biết năm 2009 đã mời các nghệ nhân để tôn thờ. Theo truyền thuyết Trung Hoa, long mã đã từng từ xã Điện Phương, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam đến xuất hiện dưới thời Phục Hy, trên sông Hoàng Hà, mình trùng tu lại bức bình phong. Bức bình phong được phục dựng
- 36 Trương Thị Thanh Thùy, Nguyễn Ngọc Chinh, Nguyễn Ngọc Nhật Minh lại từng hoa văn, hình dáng dựa trên cái nền tảng của bức bình hảo tâm của các tổ chức trong và ngoài nước trong việc bảo phong cũ. Tuy nhiên đáng tiếc thay, vì trải qua thời gian rất tồn và phát triển đình làng, Hơn nữa, cần duy trì việc tổ lâu nên các mảnh sành sứ có niên đại từ xa xưa bị bong tróc chức lễ hội tại đình làng để giáo dục mọi người về các giá nên phải thay mới gần như toàn bộ. Sau khi được tôn tạo, bức trị tốt đẹp của đình làng, đặc biệt là tổ chức các cuộc thi bình phong đã lấy lại vẻ đẹp vốn có của mình và còn nguyên dành cho các thanh thiếu niên để thế hệ trẻ biết yêu quý và vẹn đến nay. Còn về đình làng Thạc Gián, hiện nay đình làng trân trọng giá trị của di tích. rộng hơn 2.000 m2, nằm lọt thỏm giữa khu dân cư đông đúc trong một con hẻm nhỏ và đến năm 2016 thì có dấu hiệu 5. Kết luận xuống cấp kể từ sau đợt trùng tu, trong khi chưa phát huy hết Bức bình phong ở đình làng Thạc Gián không chỉ đơn được giá trị vốn có. Do vậy, kế hoạch trùng tu nhỏ cho di tích giản mang giá trị về mặt trang trí mà còn ẩn chứa nhiều ý đã được thực hiện vào năm 2016 và đồng thời ông Hồ Tấn nghĩa về mặt tâm linh, phong thủy và là dấu ấn lịch sử một Tuấn – Giám đốc Trung tâm Bảo tồn Di sản thuộc Sở Văn thời đất nước hưng thịnh dưới đời vị vua Minh Mạng. Bức hóa Thể thao và Du lịch thành phố Đà Nẵng, nhiều lần bình phong đã trở thành một nét đẹp không thể thiếu trong khuyến nghị chính quyền địa phương, dân làng cần có ý thức tổng thể kiến trúc đình làng Thạc Gián và làm nên cái hồn, trong việc giữ gìn di tích đình làng và các cấp, ngành liên cái linh thiêng cho ngôi đình hàng trăm năm tuổi này. Do quan nên đưa đình làng Thạc Gián thành điểm tham quan du vậy, mọi người cần chung tay bảo tồn bức bình phong nói lịch, bởi như thế mới phát huy hết vẻ đẹp văn hóa đình làng. riêng và đình làng Thạc Gián nói chung, bởi nếu mất đi thì Mặt khác, đình làng Thạc Gián còn tổ chức lễ hội cứ hai năm không chỉ là mất mát về mặt vật chất mà còn là sự thiếu một lần nhằm ngày mùng 10 tháng 3 Âm lịch để tưởng nhớ vắng trong tinh thần của mỗi người dân nơi đây. Hơn nữa, ông bà tổ tiên, tri ân các bậc tiền hiền đã có công khai khẩn đình làng Thạc Gián là di tích cấp Quốc gia nên còn được lập nên làng Thạc Gián. Hơn nữa, đây cũng là dịp để bà con xem là báu vật vô giá của đất nước, là nơi lưu giữ lịch sử làng xóm, họ hàng anh em tập trung về để thắp nén hương tri và văn hóa truyền thống của con người Việt Nam. ân các bậc cha ông và gắn kết tình đoàn kết của mọi người lại với nhau. Ngoài ra, đây cũng là dịp để giáo dục các thế hệ trẻ TÀI LIỆU THAM KHẢO luôn nhớ về cội nguồn của mình, biết ơn tổ tiên và trân trọng [1] Đặng Mai Anh, “Đôi nét về bình phong ngoại án thời Nguyễn ở các giá trị văn hóa truyền thống của đình làng Thạc Gián. Huế”, Tạp chí Di sản Văn hóa, Số 3(48), 2014, trang 44-48. Đình làng Thạc Gián được xem là một trong số ít các [2] Bảo tàng Đà Nẵng, Đà Nẵng - Di tích và danh thắng, NXB Đà Nẵng, đình làng tại Đà Nẵng còn lưu giữ gần như các nét đẹp văn 2009. hóa truyền thống của dân tộc, do vậy việc cấp thiết bây giờ [3] Trần Lâm Biền, Đình làng Việt (châu thổ Bắc Bộ), NXB Hồng Đức, là cần chung tay bảo tồn và phát huy các giá trị tốt đẹp ấy. 2017. [4] Nguyễn Ngọc Chinh, Nguyễn Thanh Trường, Nguyễn Ngọc Nhật Đặc biệt, các cấp, ban ngành có liên quan cần can thiệp vào Minh, Bảo tồn, phát triển di tích lịch sử, văn hóa Quảng Nam-Đà việc bảo tồn di tích để nhanh chóng đạt được hiệu quả. Thứ Nẵng: Mô hình và giải pháp, NXB Đà Nẵng, 2016. nhất, cần phải tuyên truyền rộng rãi tầm quan trọng của [5] Phan Hồ Điệp, Nguyễn Ngọc Chinh, Các biểu hiện của triết lý âm việc bảo tồn di tích lịch sử - văn hóa nói chung, di tích đình dương trong kiến trúc đình làng Thạc Gián, Hội thảo Khoa học làng Thạc Gián nói riêng và kêu gọi mọi người cùng chung Quốc gia, Trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Đà Nẵng, 7/2017. tay bảo tồn đình làng theo tinh thần Luật Di sản văn hóa và [6] Lê Quý Đôn, Phủ biên tạp lục, NXB Văn hóa - Thông tin, 2007. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hoá [7] Nguyễn Thừa Kế, “Bình phong trong kiến trúc truyền thống Việt”, Tạp chí Di sản Văn hóa, Số 9, 2004. đã ban hành và có hiệu lực năm 2009, đây là “ cơ sở pháp [8] Hoàng Phê, Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, 2005. lý vô cùng quan trọng cho công tác bảo tồn và phát huy di [9] Hồ Tấn Tuấn, Lê Xuân Thông, Đinh Thị Toan, Đình làng Đà Nẵng, sản văn hoá trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất NXB Đà Nẵng, 2012. nước” [6, tr.139]. Thứ hai, tăng cường quản lý của lãnh đạo [10] các cấp. Thứ ba, xã hội hóa việc quản lý và giữ gìn giá trị ngua-hoa-rong-o-hue-a19915.html (ngày truy cập 11/03/2018). văn hóa đình, trong đó có bình phong. Thứ tư, quảng bá [11] rộng rãi hình ảnh của đình làng Thạc Gián trên các phương ti%E1%BA%BFt?pid=329&cid=109&Kham-sanh-su-Hue-Nghe- tiện thông tin, đại chúng. Thứ năm, tranh thủ sự đóng góp thuat-dac-sac-trieu-Nguyen.html (ngày truy cập 09/12/2017). (BBT nhận bài: 01/4/2018, hoàn tất thủ tục phản biện: 23/4/2018)