Kinh tế tri thức - Kim chỉ nam cho ngành giáo dục bước sang thời đại mới
Bạn đang xem tài liệu "Kinh tế tri thức - Kim chỉ nam cho ngành giáo dục bước sang thời đại mới", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- kinh_te_tri_thuc_kim_chi_nam_cho_nganh_giao_duc_buoc_sang_th.pdf
Nội dung text: Kinh tế tri thức - Kim chỉ nam cho ngành giáo dục bước sang thời đại mới
- Trường CĐ VH-NT & DL SG Số 1 năm 2011 KINH TẾ TRI THỨC - KIM CHỈ NAM CHO NGÀNH GIÁO DỤC BƯỚC SANG THỜI ĐẠI MỚI NGUYỄN XUÂN TỚI* TÓM TẮT Kinh tế tri thức ra đời là một xu thế tất yếu của lịch sử nhân loại. Những đặc trưng cơ bản của kinh tế tri thức được các nhà khoa học nêu ra có tính chất dự báo, Sự ra đời của kinh tế tri thức được các chính trị gia tiên đoán là vào nửa cuối thế kỷ XXI. Thực tế thì kinh tế tri thức đã tác động đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có giáo dục. Một số quan điểm đổi mới về giáo dục đã được đưa ra trên diễn đàn công luận, trong đó có hai trường phái trái ngược nhau. Để có cách nhìn dựa trên nền tảng triết học thì phải đi từ thực tiễn để điều chỉnh lý luận. Đổi mới phương pháp dạy và học vẫn là cách tốt nhất để tiếp cận kinh tế tri thức, tiếp cận với nền giáo dục hiện đại. Người dạy, người học và người quản lý giáo dục cần phải làm gì để đổi mới quan điểm và phương pháp giáo dục? ABSTRACT The knowledge economy – guideline for a new era of education The existence of the knowledge economy is an inevitable tendency of human history. Its fundamental features have been forecast by the scientists. The politicians predicted that the knowledge economy would come into being in the last half of the 21st century. In fact, the knowledge economy does have great influence on many aspects of life, especially education. Some innovative viewpoints of education have been open to public debate in which there are two completely opposite opinions. In order to have a philosophical point of view, it is a good idea to start from reality to adjust theory. Innovating learning and teaching methods is always the best way to approach knowledge economy and modern education. The question has been raised is that what teachers, students and educational administrators can do to renovate educational viewpoints and methods. * TS, Khoa Cơ bản, Trường Cao đẳng Văn hóa, Nghệ thuật & Du lịch Sài Gòn. 120
- Tạp chí VĂN HÓA VÀ DU LỊCH Nguyễn Xuân Tới “ Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế Kinh tế tri thức là gì? mà ở đó lấy tri thức làm cơ sở” Từ những thập niên 60 – 70 của thế Như vậy trải qua một phần ba thể kỷ XX lại đây, khi những tiến bộ khoa kỷ khảo nghiệm, khái niệm kinh tế tri học dần dần trở thành nhân tố quyết định thức mới dần dần hiện ra rõ nét. sự phát triển kinh tế thì quan niệm về kinh tế tri thức bắt đầu ra đời. Ngày nay nhân loại đang sắp sửa bước vào thời đại kinh tế tri thức, ở đó Năm 1970, ông K.Brêdinxki - việc chiếm hữu nguồn tài nguyên trí lực, nguyên cố vấn an ninh quốc gia Mỹ, việc sử dụng, phân phối và sản xuất tri trong bài nói chuyện về nhiệm vụ của thức trở thành nhân tố quyết định đến sự nước Mỹ trong thời đại kỹ thuật điện tử, phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. đã nói: Các ngành sản xuất chủ yếu như: “ Chúng ta đang đứng trước một công nghệ thông tin, công nghệ sinh học thời đại kỹ thuật điện tử” mới, công nghệ năng lượng mới, công Năm 1973, nhà xã hội học người nghệ vật liệu mới, khoa học công nghệ Mỹ Daniel Ben gọi cái xã hội mới mà không gian (hay còn gọi là khoa học công nhân loại sắp đi vào là “ Xã hội hậu công nghệ vũ trụ), khoa học kỹ thuật hải nghiệp”. dương, công nghệ phần mềm sẽ ra đời Năm 1980, nhà tương lai học Toffer và phát triển để dần dần trở thành những lần đầu tiên đưa ra khái niệm “Nền kinh ngành sản xuất chủ yếu trong thời đại tế siêu công nghiệp”. Tiếp đó vào năm kinh tế tri thức. 1982, nhà kinh tế học người Mỹ Trong thời đại kinh tế tri thức, việc J.Naisbitt đưa ra một cái tên gọi mới hơn, sử dụng sản phẩm tri thức có nghĩa là ông gọi nền kinh tế mà nhân loại sắp đi phải lợi dụng những tri thức mới để tạo ra tới là “Nền kinh tế thông tin”. nhiều của cải vật chất cho xã hội. Sản Năm 1986, các nhà kinh tế người phẩm hàng hóa trong nền kinh tế tri thức Anh gọi nền kinh tế thông tin là “Nền phải là những sản phẩm mang hàm lượng kinh tế kỹ thuật cao”. Tới năm 1990, tổ trí tuệ cao để đáp ứng cho việc thỏa mãn chức nghiên cứu liên hiệp quốc lần đầu rất cao của nhu cầu con người. Trong tiên đưa ra khái niệm Kinh tế tri thức. thời đại kinh tế tri thức, người ta sẽ được Năm 1996, tổ chức OECD (Ogranization ở trong các căn nhà thông minh, căn nhà for Economic Cooperation and tự động điều chỉnh nhiệt độ theo thể trạng Development) định nghĩa rõ ràng, rằng: con người. Con người cũng sẽ ăn những thức ăn thông minh, món ăn mà hàm lượng dưỡng chất phù hợp một cách tự 121
- Trường CĐ VH-NT & DL SG Số 1 năm 2011 giác với nhu cầu cơ thể con người. Người thường ở chỗ là hàng hóa tri thức khi ta sẽ đi lại trên những chiếc xe thông càng sử dụng thì giá trị của chúng càng minh, chiếc xe tự động tính toán độ dài gia tăng chứ không hao mòn giá trị như quãng đường để vận hành theo ý muốn hàng hóa. Thông thường, do vậy muốn sử của người sử dụng. Và ta sẽ được sử dụng được hàng hóa tri thức, người ta dụng những đồ dùng thông minh khác phải học tập không ngừng để chuyển hóa trong cuộc sống hàng ngày. Ở thời đại tri thức nhân loại thành kỹ năng của kinh tế tri thức, công nghệ Zen sẽ ra đời mình, vậy nên người giàu có trong kinh thay thế cho công nghệ truyền thống, tế tri thức phải là người có trình độ tri nguồn năng lượng cao sẽ ra đời thay thế thức rất cao. truy à d cho năng lượng ền thống (than v ầu Khi chuyển sang kinh tế tri thức, m , v ỏ) ật liệu nhân tạo sẽ ra đời thay thế giá trị xã hội sẽ thay đổi theo hướng ngày cho v ật liệu truyền thống có sẵn của tự càng tôn trọng trí thức, nhân tài giá trị nhiên. của con người trong kinh tế tri thức sẽ Trong kinh tế tri thức, cơ thể con được biểu hiện ở người nào sở hữu được người cũng phải được bảo trì giống như nguồn tài nguyên tri thức, trí lực, nhân tài người ta đã bảo trì động cơ máy bay, trong xã hội. Khi ấy đất đai, tiền của đừng để nó tắt máy khi đang bay trên không còn là tiêu chí để đánh giá sự giàu không trung, muốn vậy những cơ quan có của con người như trong kinh tế nông nội tạng trong cơ thể con người cũng phải nghiệp và công nghiệp mà nhân loại từng được bảo trì theo định kỳ và kịp thời thay đi qua. th ế trước khi nó “quá đát”. Như vậy đời Cơ chế vận hành của thị trường s ì ống con người có thể chủ động duy tr trong kinh tế tri thức linh hoạt hơn nhiều ài li đến thời điểm thích hợp, một t ệu so với thị trường thời kinh tế công đáng tin cậy cho biết trung tâm công nghiệp, đặc trưng cơ bản của kinh tế tri ngh ệ cao của Mỹ (thung lũng Silicon) thức là kinh tế mạng ra đời cùng với hi ã ch ện người ta đ ế tạo được hầu hết các thương mại điện tử phát triển nhanh cơ quan nội tạng trong cơ thể con người chóng sẽ làm thay đổi diện mạo thị (tr ão), nh ày ừ bộ n ững nội tạng nhân tạo n trường, cạnh tranh trong kinh tế tri thức có kh ì ả năng duy tr đời sống con người sẽ chuyển sang cục diện mới. Khi thị đến 400 tuổi nếu cần. trường chuyển sang cục diện mới sẽ làm Trong nền kinh tế tri thức thì tri cho hình thức tổ chức xã hội cũng thay thức là hàng hóa, hàng hóa tri thức được đổi theo. Các khu công nghiệp khai thác sử dụng ngày càng phổ biến, nhưng hàng kỹ thuật cao ra đời sẽ tập trung nguồn tài hóa tri thức khác với hàng hóa thông nguyên trí lực tạo ra năng suất lao động 122
- Tạp chí VĂN HÓA VÀ DU LỊCH Nguyễn Xuân Tới xã hội vượt trội so với kinh tế công đứng trước một nhiệm vụ vô cùng quan nghiệp. Bộ máy quản lý xã hội sẽ chuyển trọng là cung ứng nguồn tài nguyên con từ quản lý tản mạn sang quản lý tập trung người cho sự nghiệp xây dựng đất nước phục vụ cho nghiên cứu chuyên sâu trong thời kỳ mới. nh ằm tạo ra những sản phầm tri thức Tuy nhiên hiện nay trong xã hội m ành ới, khi ấy lao động sáng tạo trở th vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm trái linh h èm th ồn của nền kinh tế, k eo đó ngược nhau về quan điểm giáo dục trong nh àm cho th ững cơn “lốc chính trị” sẽ l ể cơ chế thị trường. chế nhà nước thay đổi theo. Có ý kiến thì cho rằng không thể Kinh tế tri thức sẽ ra đời như thế coi giáo dục là thị trường, trường phải ra nào? trường, chợ phải ra chợ, không thể biến trường thành chợ được, không thể thương Kinh tế tri thức có thể nảy sinh ra ở mại hóa giáo dục, nếu vậy thì sẽ đi ngược bất kỳ nơi đâu, miễn là nơi đó có tư với đạo lý truyền thống của dân tộc Việt tưởng đón đầu kinh tế tri thức, không hẳn Nam. là kinh tế tri thức tuần tự xảy ra ở các quốc gia phát triển sau mới lan đến các Cũng có ý kiến lại cho rằng, kinh tế quốc gia chậm phát triển. đã chuyển sang cơ chế thị trường thì giáo dục cũng phải chuyển sang cơ chế thị Một số chính trị gia mẫn cảm cho trường, trong giáo dục cũng phải cạnh rằng từ năm 2010 trở đi thì sản phẩm tri tranh quyết liệt để tồn tại. thức sẽ dần dần vượt sản phẩm truyền thống, khoảng từ năm 2030 thì những Trong thực tế hiện nay thì các ngành công nghệ cao sẽ chiếm ưu thế và trường (trừ công lập) muốn tồn tại phải nó làm cho bộ mặt thế giới thay đổi hẳn, chạy đua theo số lượng một cách quyết nửa cuối thế kỷ XXI, loài người sẽ chính liệt, việc tuyển sinh đang xảy ra muôn thức bước vào kinh tế tri thức. hình muôn vẻ không khác gì việc cạnh tranh để giành giật “ nguồn hàng” trên Giáo dục phải tiên phong đi vào kinh thương trường, chỉ có điều khác là nguồn tế tri thức hàng ở lĩnh vực giáo dục là con người, là số lượng sinh viên đầu vào của các Đảng ta từng khẳng định: trường mà thôi. Mặt khác, khách hàng “ Con người là nguyên nhân của tiêu thụ sản phẩm của giáo dục hiện nay mọi nguyên nhân, là động lực của mọi ở nước ta chưa thực sự được tôn làm nguồn động lực” “thượng đế”, và thực cũng chưa có ai Điều đó cũng có nghĩa là Đảng ta kiểm tra chất lượng sản phẩm giáo dục. đặt ngành Giáo dục và Đào tạo nước nhà Bộ giáo dục đào tạo dù có quan tâm chất 123
- Trường CĐ VH-NT & DL SG Số 1 năm 2011 lượng giáo dục cũng chỉ với tư cách là để tạo ra sản phẩm dịch vụ giáo dục. Do người quản lý về mặt nhà nước, chứ chưa vậy khi kinh tế chuyển sang cơ chế thị thực sự là khách hàng trực tiếp sử dụng trường thì cũng phải coi giáo dục là thị sản phẩm giáo dục của các trường đào trường, mà đã là thị trường thì sản phẩm tạo ra. Hơn nữa do kinh tế phát triển tri thức cũng trao đổi ngang giá theo quy nhanh, đầu tư nước ngoài tăng mạnh dẫn luật thị trường. Dù chúng ta có cố tình né đến sự thiếu hụt nguồn nhân lực trình độ tránh về ngôn ngữ như thế nào đi chăng cao, trong khi đó chúng ta lại thừa lao nữa thì sự thật trước sau vẫn là sự thật. động phổ thông đến mức ồ ạt xuất khẩu Như vậy giữa thực tiễn và lý luận còn có đi lao động nước ngoài cũng không hết độ vênh nhất định, mà theo Einstein thì Xuất phát từ những lỗ hổng này dẫn khi lý luận và thực tiễn xuất hiện độ vênh đến việc thời gian qua chúng ta đã tung ra nhau thì phải điều chỉnh lại lý luận, nếu thị trường nhiều “hàng hóa” kém chất vậy chẳng lẽ trong trường hợp này chúng lượng mà vẫn được xã hội chấp nhận, chỉ ta phải điều chỉnh lại đạo lý truyền thống có điều là nhà trường đào tạo kỹ sư thì dân tộc Việt Nam hay sao? doanh nghi àm công nhân k ệp sử dụng l ỹ Để giải quyết mâu thuẫn này, thu ào t ật, nhà trường đ ạo công nhân kỹ không còn cách nào khác là chúng ta phải thu ì b ghi ật th ị doanh n ệp sử dụng giống đối diện với thực tiễn, phải đổi mới quan ào như lao động phổ thông, nhà trường đ điểm giáo dục, đổi mới phương pháp dạy t ì khi ra ạo cử nhân quản trị kinh doanh th và học sao cho phù hợp với tình hình àm trường được doanh nghiệp sử dụng l thực tiễn, đáp ứng được nhu cầu mà xã nhân viên ti ào t ếp thị, nhà trường đ ạo cán hội đặt ra trong thời kỳ mới. bộ trung cấp văn thư thì ra trường được doanh nghiệp sử dụng làm nhân viên trực Về việc đổi mới phương pháp dạy và điện thoại .rõ ràng sản phẩm giáo dục học của chúng ta đã bị hạ chuẩn một cách tự phát. Việc dạy và học có đạt được kết quả cao hay không, phụ thuộc rất lớn vào V c ề mặt lý luận, C. Mác ũng từng năng lực dạy học của đội ngũ giảng viên đưa ra định nghĩa về thương mại như sau: trong các trường. Điều đáng tiếc là không “Thương mại là sự trao đổi giữa ít người trong số các giảng viên dạy cao những vật ngang giá” đẳng và đại học không được trang bị những kiến thức và kỹ năng dạy học ở Khi đã là thị trường thì không ai bậc đại học. Hiện nay tình trạng “Cơm dùng lao động của mình để cung ứng sản chấm cơm” còn xảy ra phổ biến ở nhiều phẩm không công cho ai, bởi lẽ đơn giản trường. một số trường hợp còn không đạt là không ai có thể sống bằng không khí 124
- Tạp chí VĂN HÓA VÀ DU LỊCH Nguyễn Xuân Tới được tiêu chuẩn “Cơm chấm cơm”. Ví dụ ham thích môn học được, và khi người ta như trong bộ môn lý luận chính trị, các đã không say mê ham thích với môn học trường đào tạo cử nhân triết học, khi sinh thì hoạt động dạy học chỉ là sự nhồi nhét viên ra trường được về một trường đại kiến thức và sẽ trở nên đơn điệu, nhàm học để giảng dạy môn triết học, trường chán ( Học vẹt, dạy suông). Do đó có thể hợp này tạm chấp nhận là để “ cơm chấm nói sự say mê ham thích môn học của cơm”. Nhưng cũng có trường hợp sinh người Thầy và nghệ thuật kích thích viên đào tạo cử nhân triết học khi ra người học say mê ham thích môn học là trường về một trường đại học kinh tế để yếu tố hết sức cần thiết trong hoạt động giảng dạy cả môn kinh tế chính trị, mà dạy học. Tagore nói: g à (nguyên lý c ần đây ta gọi chung l ơ bản “Nhà giáo phải là ngọn đuốc, ngọn c Lênin h , ủa chủ nghĩa Mác – ọc phần 2) đuốc không cháy sáng thì làm sao mồi ày rõ ràng ch trong trường hợp n ưa có được lửa cho những ngọn đuốc khác”. bằng cử nhân kinh tế chính trị mà lên lớp Chúng tôi t giảng dạy môn kinh tế chính trị cho sinh ừng dự một tiết học Lịch s à c ình viên chuyên ngành kinh tế, thì có còn là ử Đảng m ảm như m đang được s “Cơm chấm cơm nữa” hay không? ống trong khí thế hừng hực của cái thời khắc lịch sử hào hùng, còn vẫn môn học M êu c ào t ục ti ủa giáo dục đ ạo bậc ấy, vẫn với nội dung ấy dự ở một lớp đại học là làm thay đổi tri thức và tăng khác thì sự truyền đạt khuôn sáo, rời rạc, cường kỹ năng thực hành cho người học, nhàm chán Rõ ràng chất lửa trong tim mu õ ốn vậy phải làm cho người học hiểu r nhà giáo kết hợp với nghệ thuật truyền giá tr ị thực tiễn của các môn học trong đạt là yếu tố quan trọng làm cho một tiết c ình à nh hương tr đào tạo v ờ đó tạo cho giảng sống động hẳn lên. họ có xúc cảm với các môn học. Dạy học muốn thành công phải tạo ra được động Riêng đối với những môn Lý Luận Chính Tr ì nguyên lý khoa h òn cơ thúc đẩy từ cả hai phía Người dạy và ị th ọc c ph òa quy ình c Người học, trong đó phía Người dạy là ải h ện vào tư tưởng, t ảm, c , điều kiện tiên quyết nâng cao chất lượng tâm lý, nhân cách, đạo đức ủa ông thầy vì v th ph rong sáng dạy học. Do vậy yêu cầu đối với người ậy cái tâm ông ầy ải t giá tr Thầy trước tiên phải là người yêu ngành, hơn ai hết. Hiện nay ị con người ì v yêu nghề và yêu người hơn ai hết. Thầy chưa có thước đo lường xác thực, v ậy ch phải là người thực sự say mê ham thích theo chúng tôi tư ất cần thiết đối với d với môn học mà mình phụ trách, phải có người thầy ạy các môn Lý luận chính trị ên ph chất lửa trong tim nhà giáo. Nếu Thầy trước ti ải là người có tư cách đạo à lòng nhân ái cao c không say mê ham thích môn học thì đức v ả, phải dạy đạo không thể nào làm cho người học say mê đức bằng cách noi gương đạo đức. 125
- Trường CĐ VH-NT & DL SG Số 1 năm 2011 Có một câu danh ngôn rằng: “Trẻ cuộc hội thảo về giảng dạy lớp đông con không nghe người lớn nói mà chúng nhưng theo tôi vẫn không thể thay thế mở to mắt nhìn những việc người lớn được cái “ Nghệ thuật kết thân ” nêu trên, làm” máy móc hiện đại đến mấy cũng không th Bác Hồ cũng nói: “Một tấm gương ể thay thế được tính nhân bản của nghề d sống có giá trị hơn một trăm bài diễn ạy học. thuyết” Dạy học là cung cấp những cơ hội õ nh Mọi sai lầm trong sản xuất kinh đặc biệt để người học nhận thức r ững giá tr à th doanh đều có thể rút kinh nghiệm để sửa ị quan trọng v ực chất trong cuộc s êu c ên chữa để lần sau làm tốt hơn, nhưng sai ống. Do đó, y ầu đối với giảng vi ph ình lầm trong giáo dục, ông thầy chỉ một lần ải không ngừng nâng cao tr độ hiểu bi th là th cư xử mất đạo đức trước con mắt học trò ết. Thế giới của người ầy ế giới h t ành cho s thì không thể sửa chữa, do đó trong giáo ọc ập, là cơ hội d ự tự giáo d ãn ham hi dục không thể có thứ phẩm. ục. Sự thoả m ểu biết của nghề thầy giáo thì không nghề nào có thể sánh Mu ì ốn cảm hóa được người học th được. Trong khi giáo dục những người th ph à g người ầy ải chủ động kết thân v ần khác, người thầy nhận ra những điểm yếu g ì ũi với người học, ta có gần gũi chúng th và tiềm năng thế mạnh của chính bản chúng m ới gần gũi ta, có gần gũi chúng thân mình để tự điều chỉnh cho ngày càng thì ta m ới có thể giáo dục cảm hóa chúng đạt đến mức hoàn thiện, do vậy: “Dạy tức à k được, do đó gần gũi v ết thân với học là học, học tức là dạy”. trò có thể coi là một nghệ thuật độc đáo Bác H của hoạt động dạy học. Thực tế hiện nay ồ từng nói: “Người đi giáo d à v nhiều trường bố trí những lớp học quá ục cũng phải được giáo dục” l ậy đông học viên, tôi đã từng dạy một lớp có Trong thời đại bùng nổ thông tin, đến 600 sinh viên, trong giờ học mà kẻ ra vai trò của người thầy không hề giảm đi người vào tấp nập, thầy trò không nhìn rõ mà ngược lại ngày càng trở nên quan mặt nhau thì làm thế nào để kết thân và trọng. Xưa kia chúng ta từng nghĩ về cảm hóa được con người? người thầy như là người chế biến thông tin, ngày nay nh ò ng Gần đây do khó khăn về cơ sở vật ận thức về vai tr ười th không ph ò chất, để khắc phục hạn chế lớp đông, một ầy ải dừng lại ở đó, vai tr th không ch số trường đã nảy sinh sáng kiến tận dụng người ầy ỉ pha trộn chế biến t à sinh viên s thế mạnh của công nghệ thông tin như ất cả những kiến thức m ẽ c h dạy học trực tuyến qua mạng, sử dụng ần cho cuộc đời ọ sau khi ra trường, mà gi ên ph ên bi nhiều màn hình, sao in bài giảng của thầy ảng vi ải dạy cho sinh vi ết cách h ào? Sinh viên c ra đĩa phát cho sinh viên và mở những ọc như thế n ần phải 126
- Tạp chí VĂN HÓA VÀ DU LỊCH Nguyễn Xuân Tới học cách học ở người thầy như thế nào? sống, giúp cho sinh viên có được các Các cụ ta xưa kia đã nói: “ Cho cần câu năng lực tự giáo dục suốt đời. hơn cho xâu cá” - đây cũng chính là tư tưởng cốt yếu của nền giáo dục hiện đại. Phải sử dụng tốt công cụ hỗ trợ dạy học Cuối cùng, đã là giảng viên đại học là phải nghiên cứu, nghiên cứu có tầm Để cho một bài giảng hấp dẫn cần quan trọng đặc biệt đối với giảng viên đại phải sử dụng linh hoạt nhiều phương học bởi các lẽ sau: pháp giảng dạy trong từng hoàn cảnh cụ thể một cách thích hợp, trong đó có các - Thứ nhất, không nghiên cứu sẽ bị phương pháp chủ yếu như: Thuyết trình, tụt hậu về kiến thức. Kết quả của nghiên dẫn dắt người học thông qua các câu hỏi cứu sẽ đưa ra những cái mới, kết quả gợi mở, thảo luận nhóm, làm bài tập, trả nghiên cứu của giáo viên hoặc những lời câu hỏi trắc nghiệm, học bằng cách người khác trong cùng lĩnh vực sẽ tạo ra sắm vai đồng thời phải sử dụng tối đa những cơ sở để cập nhật nội dung của bài các công cụ hỗ trợ giảng dạy. giảng và thực hành. Theo một thống kê tin cậy, nếu chỉ - Thứ hai, có nghiên cứu thì giảng nghe bằng tai, người học chỉ có thể cảm viên mới có khả năng hướng dẫn việc thụ tại chỗ 30% lượng tri thức, nghe kết nghiên cứu của sinh viên. Những thay đổi hợp với nhìn, người học có thể cảm thụ trong phương pháp nghiên cứu, đối 50% lượng tri thức, kết hợp nghe, nhìn, tượng, nội dung, các thủ tục phân tích và giải bài tập tình huống, người học có thể tài liệu tham khảo hiện hành chỉ có thể cảm thụ đến 80% lượng tri thức. được biết bởi những giảng viên nào có khả năng cập nhật hàng ngày nhờ nghiên Do vậy, kết hợp giữa ngôn ngữ nói, cứu. viết và minh họa bằng âm thanh, hình ảnh chắc chắn sẽ làm cho hoạt động nhận Vì thế, công việc của giảng viên và thức đạt hiệu quả cao hơn. Vì vậy việc của sinh viên mà ta đang hướng dẫn sẽ ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng rất thuận lợi nếu như chúng ta tham gia dạy có ưu thế hơn hẳn so với lối dạy học tích cực vào nghiên cứu. cổ truyền dùng bảng đen, phấn trắng . Tóm lại, vai trò của người thầy Trước khi lên lớp giảng bài, theo phải trở thành nhân tố kích thích trí tò mò chúng tôi thì thầy cần cho trước sinh viên của sinh viên, mài sắc thêm năng lực nội dung bài đọc, trang bài đọc chia làm nghiên cứu độc lập, tăng cường khả năng hai phần, một phần ghi vắn tắt đề cương tổ chức và sử dụng kiến thức vào cuộc chi tiết bài giảng (hay gọi là bài đọc), phần còn lại để trống cho sinh viên ghi 127
- Trường CĐ VH-NT & DL SG Số 1 năm 2011 lời giảng của thầy, như vậy sinh viên đã Thứ ba, người học cần tự quản lý có sẵn đề cương chi tiết bài giảng, trên về thời gian cũng như làm việc một cách lớp không phải ghi lại đề mục mà chỉ ghi độc lập (tiến hành những nghiên cứu những gì thật cần thiết để minh họa, cách trong chương trình đào tạo của mình). h ày t ên ít ọc n ạo điều kiện cho sinh vi Thứ tư, người học phải có quan ph ải ghi và có điều kiện suy ngẫm hiểu điểm học tập thực sự, đó là tập trung vào bài ngay t ại lớp. việc hình thành kiến thức, óc sáng tạo, Trong khi giảng, thầy nên lật ngược cách giải quyết vấn đề và những kinh lật xuôi vấn đề, đặt ra nhiều câu hỏi khêu nghiệm học tập ở phổ thông, mà đặc gợi óc suy luận của người học. Kinh trưng là chịu sự kiểm soát từ bên ngoài. nghi ệm cho thấy một tiết giảng nên đưa Cách thức dạy và học truyền thống ra kho ảng 5 đến 6 câu hỏi gợi mở, câu (đặc biệt là học vẹt) sẽ không đem lại h ão m ỏi sẽ có tác động công n ạnh mẽ. hiệu quả mong muốn, hoạt động dạy và C vi ần phải biến ệc cho điểm phát biểu học chỉ đạt hiệu quả cao khi đối tượng xây d ài tr ành công c ựng b ở th ụ hữu hiệu đứng trước “Hoàn cảnh có vấn đề”. Vậy khuy ào sâu suy ngh ến khích sự đ ĩ của bản thân người học phải nhận thức được sinh viên, t ạo cho sinh viên được đối vai trò quan trọng của môn học đối với tho ên l àm cho khí th ào ại tr ớp l ế lớp lúc n chương trình đào tạo và tương lai cuộc c Nên có nhi ình ũng sôi động. ều h ảnh, sống sau này, từ đó tạo động cơ để người âm thanh, video, bi ểu đồ, đồ thị, số học chủ động tìm hiểu kiến thức một li ệu để dẫn chứng minh họa đúng nơi, cách tự giác dưới sự hướng dẫn của thầy. đúng chỗ càng làm cho bài giảng sinh Nh à bi động và có sức thuyết phục cao. ư vậy học có nghĩa l ến quá trình đào tạo của nhà trường thành quá Yêu cầu đối với người học trình tự đào tạo của sinh viên. Muốn vậy người học phải có thái độ tích cực trong Thứ nhất, cần phải có đủ phương học tập như: Tự giác tìm hiểu, không thụ tiện để sẵn sàng học tập như: Giáo trình, động, trong giờ giảng phải tích cực tham tài liệu nghiên cứu, tài liệu tham khảo gia phát biểu xây dựng bài, không ngại cùng các phương tiện hỗ trợ khác. tranh luận, tìm hiểu những tài liệu có liên Thứ hai, phải dự giờ đầy đủ, lắng quan tới môn học, có tinh thần phê phán nghe, ghi chép nói chung là phải có trong học tập đừng nghĩ rằng tri thức tinh thần chăm chỉ và cầu thị vì thành sách vở đều đúng 100% , đừng nghĩ rằng công trong học tập không bao giờ đến với thầy nói là đúng 100%, phải hoài nghi, kẻ thờ ơ và lười biếng. phải phản biện, thậm chí phải bác bỏ nếu có chứng cứ. 128
- Tạp chí VĂN HÓA VÀ DU LỊCH Nguyễn Xuân Tới Yêu cầu đối với nhà quản lý giáo dục động trong nhà trường phải hướng tất cả vào phục vụ cho việc dạy và học. Dạy học là dạy cách học, học tập là học cách học. Do đó nhà quản lý phải Cần tạo cơ chế lành mạnh để sinh tạo cho sinh viên được tiếp cận một môi viên đánh giá giảng viên. Đảm bảo cho trường giáo dục tốt nhất, cụ thể là: toàn bộ cộng đồng nhà trường, kể cả sinh viên cảm thấy hứng thú với những điều - Môi trường quản lý thân thiện và kiện sống và làm việc thuận lợi. Thành thu hút được những người thầy tuyệt vời. lập các thể chế để giám sát và đánh giá - Âm thanh, ánh sáng, thiết bị chất lượng của các dịch vụ mà nhà phòng học tốt, có thư viện phong phú tư trường phải cung cấp cho người học. liệu Bài viết này xuất phát từ những tư - Có phần mềm đào tạo trực tuyến tưởng mang tính mô phỏng, các tài liệu và các trang Web cần thiết cho sinh viên tham khảo như: Kinh tế tri thức của giáo tham khảo. sư Trung Quốc Ngô Quỹ Tùng, bàn về Nếu điều kiện cho phép, nên cho giáo dục của Giáo sư Trần Phương đều sinh viên đi nghiên cứu thực tế, hoặc mô là những tài liệu còn mang tính bàn luận, phỏng sắm vai Cần phải đặt người học gợi mở để ngỏ vấn đề, do đó chắc chắn vào vị trí trung tâm, họ là đối tượng phục còn nhiều thiếu sót, mong nhận được ý vụ chính trong nhà trường, nếu không đóng góp của quý bạn đọc để cho vấn đề muốn nói là “Thượng đế”. Vì vậy hoạt ngày càng hoàn thiện hơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ngô Quỹ Tùng. Kinh tế tri thức. Nhà xuất bản Bắc kinh. 2. Trần Phương. Bàn về giáo dục. Tạp chí người quản lý. 3. Hoàng Trinh. Văn hóa thị trường. 4. Man Tấn Hải. Sổ tay nhà giáo. Đại học Bách khoa Tp. Hồ Chí Minh. 5. Trần Đình Nghiêm. Tham luận về nâng cao chất lượng giảng dạy. ĐHKHTN Tp. Hồ Chí Minh. 6. Các bài báo đăng về kinh tế tri thức & công nghệ hiện đại. 129