Kinh tế tư nhân đối với tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2015-2017

pdf 13 trang Gia Huy 18/05/2022 1910
Bạn đang xem tài liệu "Kinh tế tư nhân đối với tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2015-2017", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkinh_te_tu_nhan_doi_voi_tang_truong_kinh_te_giai_doan_2015_2.pdf

Nội dung text: Kinh tế tư nhân đối với tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2015-2017

  1. KINH TẾ TƯ NHÂN ĐỐI VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ GIAI ĐOẠN 2015-2017 ThS. Nguyễn Thị Liên Hương Trường Đại học Thương mại Tóm tắt Với một nền kinh tế đa thành phần cùng tồn tại và phát triển, không còn dừng lại ở khía cạnh xem xét để xóa bỏ hay ưu tiên thành phần kinh tế nào mà cần nhận thấy mỗi thành phần kinh tế có bản chất riêng, có quy luật kinh tế riêng, dựa trên một hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất. Vì vậy, điều quan trọng là phải nắm vững bản chất của từng thành phần kinh tế và sử dụng chúng một cách có hiệu quả nhất để đẩy nhanh quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế, chủ động mở cửa hội nhập sâu hơn nữa vào kinh tế quốc tế giúp cho nền kinh tế nước nhà ngày càng vững mạnh. Bài viết này tác giả chủ yếu phân tích vai trò của kinh tế tư nhân với tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn vừa qua về lý luận cũng như thực tiễn, đồng thời đưa ra kiến nghị giúp kinh tế tư nhân phát triển. Từ khóa: Kinh tế tư nhân (KTTN), tăng trưởng kinh tế. Đặt vấn đề Những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội to lớn trong hơn 30 năm đổi mới của đất nước ta có một phần đóng góp không nhỏ của khu vực kinh tế tư nhân. Từ những thực tiễn sinh động đó, Đại hội XII của Đảng đã kh ng định: “kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng”(1) của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là nguồn cổ vũ cho tinh thần khởi nghiệp, đổi mới và sáng tạo, tạo sức sống và đột phá phát triển mạnh mẽ đất nước ta trong giai đoạn tới. Trong thắng lợi to lớn có tính chiến lược của Việt Nam trong thời gian qua phải kể đến tác động của chính sách cơ cấu kinh tế nhiều thành phần nói chung và quan điểm, chính sách đối với kinh tế tư nhân (KTTN) nói riêng; từ đó tạo nền tảng và căn cứ để đổi mới cơ chế quản lý kinh tế cho phù hợp với cơ chế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Trong những năm đổi mới vừa qua, KTTN là một vấn đề gay cấn, lúng túng, gây tranh cãi nhiều nhất, đụng chạm đến những vấn đề chính trị - xã hội như định hướng XHCN, đảng viên làm kinh tế, phân hóa giàu nghèo, v.v. Tuy nhiên, với sự nhất quán trong đường lối đổi mới của Đảng, với phương châm nhìn th ng vào sự thật, tôn trọng sự thật, nói 129
  2. đúng sự thật, cùng với sự nỗ lực của các nhà lý luận, các nhà quản lý và sự hưởng ứng của toàn dân, cho tới nay, KTTN đã được hồi phục, phát triển và trở thành một lực lượng kinh tế lớn mạnh, góp phần vào công cuộc đổi mới nhằm xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Có thể nói, cho tới nay không còn một người nào, dù là bảo thủ nhất, còn nghi ngờ và phủ nhận vai trò của KTTN ở nước ta, đặc biệt là sự đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế trong thời gian qua. 1. Kinh tế tƣ nhân 1.1. Khái niệm kinh tế tư nhân Nghị quyết Trung ương 5, khóa IX của Ban Chấp hành Trung ương Đảng là văn bản có ý nghĩa quan trọng cho sự thúc đẩy phát triển của kinh tế tư nhân (KTTN) ở Việt Nam hiện nay. Cùng với quá trình phát triển với những bước thăng trầm, nhưng cho tới hiện nay ở nước ta vẫn chưa có một văn bản nào định nghĩa rõ ràng về KTTN, những quan niệm về KTTN vẫn chưa thống nhất và được hiểu theo nhiều cách khác nhau, tiêu thức phân loại vẫn chưa rõ ràng nhất quán. Tựu trung lại, KTTN chủ yếu vẫn được xem xét chủ yếu trên khía cạnh sở hữu - sở hữu tư nhân. Từ đó có thể hiểu khái niệm KTTN qua hai cấp độ khác nhau. Theo cấp độ khái quát, được xem xét trên góc độ khu vực nhà nước và khu vực ngoài quốc doanh. KTTN là khu vực kinh tế nằm ngoài quốc doanh (ngoài khu vực kinh tế nhà nước), bao gồm các doanh nghiệp trong và ngoài nước, trong đó tư nhân nắm trên 50% vốn đầu tư. KTTN cần được hiểu là tất cả các cơ sở sản xuất kinh doanh không dựa trên sở hữu nhà nước về các yếu tố của quá trình sản xuất. Đặc trưng mang tính bản chất của những doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN là họ sử dụng nguồn vốn của chính họ và có quyền được hưởng thành quả lao động mà họ làm ra. “DNTN hoạt động bằng tiền túi và cho chính cái túi tiền mình”. Đó là điểm khác biệt quan trọng giữa khu vực KTTN và khu vực KTNN trong các nền kinh tế. Nguyên tắc hoạt động của các loại hình DNTN đã được khái quát thành nguyên tắc “bốn tự”. Đó là tự bỏ vốn, tự tổ chức, tự chủ trong kinh doanh và tự bù lỗ. Đây là cơ chế gắn kết quả hoạt động (lợi ích) với năng lực hoạt động của người lao động, một cơ chế hoạt động tối ưu hướng tới kết quả cao. Việc chỉ ra đặc trưng cốt lõi của KTTN sẽ hướng sự chú ý của chúng ta tới bản chất chứ không dừng lại ở hình thức của vấn đề. Theo cấp độ hẹp hơn, KTTN gồm có kinh tế cá thể, tiểu chủ; và kinh tế tư bản tư nhân. Thông qua cách hiểu trên, chúng ta có thể đi đến nhận thức mang tính cụ thể và rõ ràng về KTTN: KTTN là khu vực kinh tế gắn liền với loại hình sở hữu 130
  3. tư nhân, bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất (TLSX) tồn tại dưới các hình thức DNTN, công ty TNHH, CTCP và các hộ kinh doanh cá thể. 1.2. Phân loại kinh tế tư nhân Hiện nay, vẫn chưa có một khái niệm rõ ràng về KTTN, vì vậy, việc phân loại KTTN rất khó khăn song lại hết sức cần thiết cho việc tìm hiểu nghiên cứu và vận dụng vào thực tế. Ở nước ta hiện nay, khái niệm KTTN chủ yếu được hiểu theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5, khóa IX: KTTN không phải là một thành phần kinh tế, mà là một khu vực kinh tế bao gồm 2 thành phần kinh tế: thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ và thành phần kinh tế tư bản tư nhân. Mới nhất, theo Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam thì “KTTN gồm cả kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân”. Khu vực KTTN có thể hiểu là một thuật ngữ phản ánh một bộ phận kinh tế của các chủ thể trong xã hội hoạt động dựa trên quyền sở hữu tư nhân về các điều kiện cơ bản của sản xuất. Khái niệm khu vực kinh tế nhằm phân biệt khu vực kinh tế nhà nước và khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Do nhà nước Việt Nam là nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa đi theo định hướng XHCN, vì vậy thành phần kinh tế là khái niệm thể hiện cấu trúc của một xã hội, trong đó bao gồm nhiều mảng đại diện cho các phương thức sản xuất (PTSX) khác nhau cùng tồn tại. Trong đó, khu vực kinh tế có thể bao hàm các loại hình kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế khác nhau như: thuộc về KTTN có các cơ sở sản xuất thuộc thành phần kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân về TLSX; thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ và thành phần kinh tế tư bản tư nhân. Xét về mặt quan hệ sở hữu, kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân đều thuộc loại hình KTTN, nhưng nếu xét về phương diện thành phần kinh tế thì kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân là hai thành phần kinh tế khác nhau, khác về trình độ phát triển lực lượng sản xuất và về bản chất quan hệ sản xuất. Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã ra Nghị quyết số 14-NQ/TW ngày 18/3/2002 về tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển KTTN, nêu ra: “KTTN gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân hoạt động dưới hình thức hộ kinh doanh cá thể và các loại hình DNTN đã phát triển rộng khắp trong cả nước ” Như vậy, KTTN tồn tại dưới nhiều hình thức tổ chức kinh doanh khác nhau, đó là hộ kinh doanh cá thể, tiểu chủ và các loại hình doanh nghiệp như: công ty cổ phần, công ty TNHH, công ty hợp danh. 131
  4. 2. Tăng trƣởng kinh tế Tăng trưởng kinh tế (TTKT) là một trong những chủ đề lớn của lý thuyết kinh tế trong nhiều thập niên qua. Việc nghiên cứu và nhận thức đúng đắn về TTKT để hoạch định được chính sách tăng trưởng và gắn kết tăng trưởng với phát triển kinh tế (PTKT) có hiệu quả, có chất lượng là một trong những yêu cầu rất quan trọng trong quá trình phát triển của mỗi quốc gia. Đối với nước ta, TTKT được Đảng và Nhà nước xem là trọng tâm của mọi nỗ lực nhằm đẩy nhanh tốc độ PTKT - xã hội, tránh tụt hậu xa hơn nữa về kinh tế. Khái niệm TTKT (Economic growth) lần đầu tiên xuất hiện trong tác phẩm “Của cải của các dân tộc” của Adam Smith xuất bản năm 1776, và đến năm 1956 trong bài viết “Một đóng góp cho lý thuyết TTKT” nhà kinh tế học Robert Solow mới lý giải đầy đủ khái niệm này. Đến nay, khái niệm TTKT đã được phát triển và ngày càng hoàn thiện hơn, hầu hết các nhà kinh tế đều thống nhất quan điểm: TTKT là sự gia tăng tổng sản phẩm quốc dân trong một thời kỳ nhất định, là kết quả của tất cả các hoạt động sản xuất và dịch vụ do nền kinh tế tạo ra, không kể các hoạt động ấy được thực hiện trong nước hay nước ngoài. Với quan niệm này có thể hiểu, TTKT là sự tăng thêm về quy mô, sản lượng sản phẩm vật chất và dịch vụ được sáng tạo ra trong một thời gian nhất định thường là một năm) và không phân biệt chủ sở hữu. Sự gia tăng của yếu tố TTKT được thể hiện thông qua quy mô và tốc độ. Trong đó, quy mô của sự tăng trưởng phản ánh sự gia tăng nhiều hay ít; tốc độ tăng trưởng dùng để so sánh tương đối giữa các kỳ, hay còn dùng để phản ánh sự tăng trưởng nhanh hay chậm giữa các thời kỳ. Trong phân tích kinh tế, để phản ánh tốc độ mở rộng quy mô của nền kinh tế người ta thường sử dụng khái niệm tốc độ TTKT: là tỷ lệ phần trăm giữa sản lượng tăng thêm của thời kỳ nghiên cứu so với mức sản lượng của thời kỳ trước đó, hoặc thời kỳ gốc. Do đó, TTKT có thể biểu thị bằng số tuyệt đối (quy mô tăng trưởng) hoặc số tương đối (tỷ lệ tăng trưởng). Như vậy, nội hàm của tăng trưởng là phản ánh sự thay đổi về lượng của nền kinh tế. Ngày nay, trong xu hướng phát triển mới đã đặt vấn đề TTKT đi liền với tính chất bền vững của quá trình tăng trưởng và phát triển (thể hiện thông qua sự tăng liên tục, có hiệu quả chỉ tiêu quy mô, và tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu người); bên cạnh đó, yêu cầu TTKT còn gắn với việc bảo đảm chất lượng tăng trưởng (CLTT) ngày càng cao. 132
  5. 3. Vai trò của kinh tế tƣ nhân đối với tăng trƣởng kinh tế Việc phát triển KTTN ở nước ta là vấn đề chiến lược trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Bộ phận kinh tế này được Đảng, Nhà nước coi trọng và chỉ đạo để phát triển đúng hướng, góp phần vào việc phát triển kinh tế, xã hội trong thời kỳ đổi mới, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Có một thời kỳ dài người ta đánh giá không đúng vai trò của khu vực KTTN. Do e ngại KTTN dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về TLSX hàng ngày hàng giờ đẻ ra chủ nghĩa tư bản (CNTB), nên đã tìm mọi cách để triệt tiêu khu vực này và chỉ tạo điều kiện để kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể phát triển. Hậu quả là nền kinh tế trì trệ, chậm phát triển, đời sống nhân dân vô cùng khó khăn. Hiện nay ở hầu hết các nước, KTTN đóng góp vai trò rất quan trọng chi phối rất lớn đến công cuộc phát triển kinh tế - xã hội. Vai trò của khu vực KTTN được thể hiện ở những điểm sau: Một là, khu vực KTTN góp phần khơi dậy một bộ phận quan trọng tiềm năng của đất nước, tăng nguồn nội lực, tham gia phát triển nền kinh tế quốc dân. Vai trò này của khu vực KTTN được thể hiện thông qua một số điểm: - Khu vực KTTN đã góp phần xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp thúc đẩy LLSX phát triển. Khu vực KTTN phát triển làm cho các quan hệ sở hữu của nền kinh tế nước ta trở nên đa dạng hơn. Sự biến đổi của quan hệ sản xuất đã kéo theo sự biến đổi của quan hệ quản lý và phân phối làm cho quan hệ sản xuất trở nên linh hoạt, phù hợp với trình độ phát triển của LLSX vốn còn thấp và phát triển không đều giữa các vùng, các ngành trong cả nước. Nhờ vậy đã khơi dậy và phát huy tiềm năng về vốn, đất đai, lao động, kinh nghiệm sản xuất của các tầng lớp nhân dân, các dân tộc vào công cuộc CNH - HĐH. Thông qua việc phát triển KTTN mà quyền làm chủ của nhân dân, trước hết là quyền làm chủ về kinh tế được phát huy, đó là cơ sở để mở rộng quyền làm chủ của nhân dân về chính trị, văn hóa, xã hội. - Khu vực KTTN góp phần quan trọng thu hút vốn nhàn rỗi của xã hội và sử dụng tối ưu các nguồn lực của địa phương. Việc thành lập các doanh nghiệp thuộc KTTN không đòi hỏi quá nhiều vốn, nhất là với doanh nghiệp quy mô nhỏ. Điều đó sẽ tạo cơ hội cho đông đảo dân cư có thể tham gia đầu tư. Mặt khác trong quá trình hoạt động, các loại hình DNTN có thể dễ dàng huy động vốn vay dựa trên quan hệ họ hàng, bạn bè Chính vì vậy, việc đẩy mạnh các loại hình DNTN được coi là phương tiện có hiệu quả trong việc huy động vốn, sử dụng 133
  6. các khoản tiền đang phân tán, nằm im trong dân cư thành các khoản vốn đầu tư riêng. Các doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN thường có quy mô vừa và nhỏ, lại được phân tán ở hầu hết các địa phương, các vùng lãnh thổ nên chúng có khả năng sử dụng các tiềm năng về nguyên vật liệu, lao động và kinh nghiệm sản xuất các ngành nghề truyền thống của địa phương. - Khu vực KTTN đã đóng góp đáng kể vào nguồn thu ngân sách nhà nước. Theo thống kê cho thấy, hiện nay đóng góp vào ngân sách của khu vực KTTN tuy còn nhỏ (chưa tới 10%) nhưng đang có xu hướng tăng lên. So với đóng góp vào ngân sách Trung ương thì đóng góp của khu vực KTTN vào nguồn thu ngân sách địa phương còn lớn hơn nhiều. Ngoài đóng góp vào nguồn thu ngân sách, các doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN còn có sự đóng góp đáng kể vào việc xây dựng các công trình văn hóa, trường học, thể dục thể thao, đường sá, cầu cống, nhà tình nghĩa và các công trình phúc lợi khác. Hai là, khu vực KTTN đã có những đóng góp quan trọng vào việc thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế quốc dân. - Nhìn chung tốc độ tăng trưởng GDP của khu vực KTTN đều đặn và xấp xỉ với tốc độ tăng GDP của toàn bộ nền kinh tế, trong đó riêng kinh tế tư bản tư nhân bao giờ cũng thuộc bộ phận có tốc độ tăng trưởng cao nhất. Sự phát triển nhanh của KTTN đã góp phần không nhỏ vào việc thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế của cả nước. - Trên thế giới cũng như ở Việt Nam, các doanh nghiệp nhà nước thường được ưu tiên xây dựng thành các khu cụm công nghiệp, dịch vụ tổng hợp và các vùng đô thị, nơi có cơ sở hạ tầng phát triển. Điều đó sẽ dẫn đến tình trạng mất cân đối nghiêm trọng về trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng của một quốc gia. Chính sự phát triển của KTTN góp phần quan trọng vào việc tạo lập sự cân đối trong phát triển giữa các vùng. Nó sẽ giúp cho vùng sâu, vùng xa, các vùng nông thôn có thể khai thác được tiềm năng, thế mạnh của mình để phát triển nhanh các ngành sản xuất và dịch vụ tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và rút ngắn khoảng cách chênh lệch về trình độ kinh tế, văn hóa giữa các vùng, miền. Ba là, KTTN phát triển góp phần thu hút một bộ phận lớn lực lượng lao động và đào tạo nguồn nhân lực mới cho thị trường lao động. Hiện nay ở nước ta, khu vực KTNN chỉ giải quyết việc làm được cho khoảng trên 3 triệu lao động, trong khi đó chỉ tính riêng các loại hình doanh 134
  7. nghiệp tư nhân và hộ kinh doanh cá thể phi nông nghiệp đã tạo việc làm cho khoảng 6 triệu lao động. Khu vực KTTN có ưu thế hơn h n về khả năng tạo việc làm. Nhìn chung lợi thế nổi bật của KTTN là có thể thu hút một lực lượng, lao động đông đảo, đa dạng, phong phú cả về mặt số lượng cũng như chất lượng từ lao động thủ công đến lao động chất lượng cao ở tất cả mọi vùng, miền của đất nước, ở tất cả mọi tầng lớp dân cư Như vậy, KTTN góp phần quan trọng trong việc giải quyết việc làm cho một bộ phận lao động. Ngoài việc tạo công ăn việc làm, do những đòi hỏi để đứng vững trong cạnh tranh, các DNTN phải luôn tìm những biện pháp tổ chức lao động, quản lý có hiệu quả nhất, vì vậy kỹ thuật lao động được thực hiện rất nghiêm ngặt. Chính điều này đã góp phần vào việc đào tạo nên đội ngũ lao động có kỹ năng và tác phong công nghiệp. Đồng thời thông qua quá trình này, khu vực KTTN cũng được xem là nơi đào tạo, rèn luyện các chủ doanh nghiệp lớn trong tương lai và là cơ sở kinh tế ban đầu để phát triển các doanh nghiệp lớn. Bốn là, khu vực KTTN góp phần thúc đẩy đất nước hội nhập kinh tế quốc tế. Việt Nam muốn phát triển nhanh cần phải hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, thu hút vốn và công nghệ vào nền kinh tế của mình. Hội nhập kinh tế quốc tế là xu hướng tất yếu đối với Việt Nam trong quá trình CNH - HĐH đất nước. Quá tr.nh hội nhập có thể thực hiện bằng nhiều con đường như: nhà nước liên doanh với nước ngoài, nhà nước cho nhóm đầu tư nước ngoài thuê đất hay các tổ chức kinh tế và KTTN liên doanh, liên kết với nước ngoài. Trong những hình thức này, hiện nay nổi bật nhất vẫn là con đường thứ ba, sự liên kết thông qua khu vực KTTN. Cũng thông qua quá trình đó, KTTN với những đặc tính của mình là chủ động đổi mới và lựa chọn công nghệ thích hợp để giảm chi phí sản xuất, mở rộng thị trường, tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm Từ đó, KTTN góp phần thúc đẩy chuyển giao công nghệ, hợp tác đào tạo nguồn nhân lực và kinh nghiệm quản lý. Đồng thời nó góp phần thúc đẩy thương mại Việt Nam phát triển và hội nhập nhanh vào nền kinh tế thế giới. Thông qua những vấn đề phân tích trên có thể thấy, tính chất nhiều thành phần là đặc trưng của nền kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Các thành phần kinh tế luôn vận động và phát triển trong mối quan hệ, tác động qua lại và đan xen với nhau. Vấn đề hiện nay, không còn dừng lại ở khía cạnh xem xét để xóa bỏ hay ưu tiên thành phần kinh tế nào mà cần nhận thấy mỗi thành phần kinh tế có bản chất riêng, có quy luật kinh tế riêng, dựa trên một hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất. Vì vậy, điều quan trọng là phải 135
  8. nắm vững bản chất của từng thành phần kinh tế và sử dụng chúng một cách có hiệu quả nhất để đẩy nhanh quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế, chủ động mở cửa hội nhập sâu hơn nữa vào kinh tế quốc tế giúp cho nền kinh tế nước nhà ngày càng vững mạnh. 4. Thực trạng và môi trƣờng chính sách phát triển kinh tế tƣ nhân ở nƣớc ta thời gian qua Nhìn lại chặng đường hơn 30 năm đổi mới, từ tâm lý thụ động, ỷ lại vào Nhà nước và tập thể, tất cả các tầng lớp nhân dân đã chuyển sang ý thức chủ động và tích cực trong phát triển kinh tế - xã hội. Những thay đổi về tư duy và nhận thức quan trọng đó đã tạo điều kiện giúp khu vực KTTN ở nước ta từng bước phát triển cả về lượng và chất. Từ chỗ chủ yếu chỉ có các hộ kinh doanh cá thể, nước ta đã có những tập đoàn kinh tế lớn. Từ chỗ chủ yếu hoạt động trong khu vực phi chính thức, KTTN đã chuyển đổi mạnh mẽ sang hoạt động trong khu vực chính thức của nền kinh tế, phạm vi kinh doanh đã rộng khắp ở những ngành mà pháp luật không cấm. Đặc biệt, trong những năm qua một làn sóng khởi nghiệp đã và đang diễn ra, đem lại một sức sống mới cho nền kinh tế. Có thể thấy, khu vực KTTN đang đóng vai trò ngày càng quan trọng hơn trong nền KTTT định hướng XHCN, góp phần giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội của đất nước. Đa số các doanh nghiệp tư nhân (DNTN) là các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ. Tuy nhiên, tỷ trọng của các doanh nghiệp siêu nhỏ đã tăng mạnh trong những năm gần đây. Do quy mô vốn nhỏ, năng lực tài chính yếu kém nên khả năng cạnh tranh của các DNTN thường thấp hơn các doanh nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Nhiều DNTN còn kinh doanh theo hình thức ngắn hạn, chưa có tầm nhìn, chiến lược kinh doanh dài hạn; ý thức tự giác chấp hành pháp luật của Nhà nước còn hạn chế. Đội ngũ doanh nhân của khu vực tư nhân chưa thực sự lớn mạnh, còn thiếu kinh nghiệm trên thương trường quốc tế và chưa được đào tạo sâu về quản lý sản xuất, kinh doanh. Một số doanh nhân còn thiếu trách nhiệm với xã hội, vì lợi ích cục bộ, lợi ích nhóm, làm tăng thêm các tiêu cực xã hội, môi trường. Năng lực công nghiệp của khu vực KTTN trên thực tế là rất nhỏ và yếu, mới chỉ đang ở giai đoạn đầu của thời kỳ phát triển. Phần lớn sản xuất công nghiệp của các DNTN là gia công lắp ráp, chủ yếu sử dụng máy móc, thiết bị và 136
  9. nguyên liệu nhập khẩu. Các công đoạn sản xuất đưa lại giá trị gia tăng cao, như thiết kế, tạo kiểu dáng, ma-két-ting đều được thực hiện bởi đối tác nước ngoài. Sự phân tầng trình độ công nghệ đang diễn ra trong từng ngành và trong nhiều doanh nghiệp; công nghệ lạc hậu, trung bình và tiên tiến cùng đan xen tồn tại; công nghệ tiên tiến, hiện đại chỉ tập trung vào một số ít DNTN, ở một số ít lĩnh vực. Chênh lệch về trình độ công nghệ bộc lộ rõ: trình độ các DNTN thấp hơn khu vực doanh nghiệp nhà nước và thua xa doanh nghiệp FDI. Do trình độ công nghệ thấp, các DNTN không có khả năng kết nối cũng như tham gia ngành công nghiệp hỗ trợ cho các doanh nghiệp lớn, nhất là không thể tận dụng được hiệu ứng lan tỏa từ các doanh nghiệp FDI đang tăng trưởng nhanh. Các DNTN phần lớn vẫn hoạt động ở thị trường trong nước, chỉ rất ít DNTN lớn vươn được ra thị trường nước ngoài. Ngay cả ở thị trường trong nước, dưới sức ép cạnh tranh gay gắt các DNTN lớn cũng bắt đầu có xu hướng rút khỏi các ngành sản xuất công nghiệp, nhường lại sân chơi cho các doanh nghiệp nước ngoài. Sự rút lui này cũng diễn ra trong một số lĩnh vực dịch vụ như phân phối và bán lẻ được ưu tiên và có nhiều tiềm năng của nền kinh tế. Số lượng DNTN hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp còn rất ít. Trong khi đó, nhiều chính sách “cởi trói” giúp nông nghiệp, nông thôn phát triển trong thời kỳ sau đổi mới đã tới giới hạn. Mô hình kinh tế hộ truyền thống tồn tại lâu nay ở nông thôn không còn phù hợp với điều kiện mới; yêu cầu tích tụ, tập trung ruộng đất đang được đặt ra cho việc triển khai những mô hình hiện đại như kinh tế trang trại quy mô lớn. Việc giải quyết lao động trong ngành nông nghiệp chưa đạt hiệu quả mong muốn có nguyên nhân chủ yếu là sự phát triển của lực lượng doanh nghiệp ở nông thôn không đủ mạnh nên chưa thúc đẩy chuyển dịch nhanh lao động nông nghiệp sang lao động phi nông nghiệp. Trong những năm qua, môi trường kinh doanh ở nước ta đã được cải thiện nhiều, song vẫn chưa thực sự tạo điều kiện thuận lợi cho khu vực KTTN phát triển mạnh. Báo cáo Môi trường kinh doanh năm 2017 của Ngân hàng Thế giới (WB) xếp Việt Nam đứng thứ 82 trong tổng số 190 nền kinh tế (về môi trường kinh doanh), tốt hơn một số nước trong khu vực châu Á (như In-đô-nê-xi-a, Phi- líp-pin, Ấn Độ) và cải thiện so với thứ hạng trong Báo cáo Môi trường kinh doanh năm 2016 (Việt Nam đứng thứ 91). Tuy nhiên, thứ hạng đối với một số chỉ số của Việt Nam còn khá thấp, như khởi sự kinh doanh (đứng thứ 121), trả thuế (đứng thứ 167), và phá sản (đứng thứ 125) (2). 137
  10. Bảng 1. Tỷ lệ đầu tƣ trong lĩnh vực kinh tế tƣ nhân giai đoạn 2015-2017 Năm 2015 Năm 2016 Năm 2017 Tỷ lệ đầu tư của khu vực tư nhân 38,70% 38,90% 40,60% trên tổng vốn đầu tư toàn xã hội Tỷ trọng giá trị tăng thêm của khu 43,22% 42,56% 41,80% vực kinh tế tư nhân Nguồn: Tổng cục Thống kê 5. Một số quan điểm và kiến nghị chính sách * Củng cố nền tảng và hoàn thiện thể chế KTTT Điều này đã được nhấn mạnh trong Văn kiện Đại hội XII 2016 (1) như là vấn đề căn cốt của quá trình cải cách thể chế kinh tế, giúp đem lại động lực phát triển mới của nước ta trong giai đoạn tới. Việt Nam đã cam kết thực hiện và đáp ứng các tiêu chí để được công nhận là nền KTTT đầy đủ; trong số đó, có những tiêu chí phổ biến của một nền KTTT hiện đại, như không phân biệt đối xử; bảo đảm cạnh tranh lành mạnh; thực hiện minh bạch trong chính sách là những điều kiện nền tảng để khu vực KTTN phát triển. Tiến trình cải cách kinh tế trong nước phải nhằm bảo đảm những tiêu chí này để đồng bộ với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Trong hơn 30 năm đổi mới, việc hình thành và đa dạng hóa các hình thức sở hữu đã quy định các thành phần kinh tế tương ứng. Tuy nhiên, cần phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ hơn nữa để có một nền kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại. Phải thực sự xác lập, thực thi phổ biến và bảo vệ hữu hiệu quyền sở hữu tư nhân về tài sản. Chỉ khi quyền sở hữu tư nhân được tôn trọng và bảo vệ, các cá nhân mới có thể phát huy được các tiềm năng của mình, mới có thể tự do và độc lập trong việc tiến hành các hoạt động sản xuất, trao đổi nhằm tối đa hóa các lợi ích cá nhân. * Thực hiện Nhà nước liêm chính, kiến tạo và phục vụ nhân dân Nhà nước liêm chính là nhà nước nói không với tham nhũng; có các quy định thưởng phạt nghiêm minh và đề cao ý thức thượng tôn pháp luật cho tất cả mọi người; từ đó thực sự tạo được niềm tin của người dân, của doanh nghiệp vào vai trò của Chính phủ trong điều hành đất nước. Cần ngăn chặn lợi ích nhóm, lợi ích cục bộ ngay từ khi khởi xướng; cần xử lý một cách quyết liệt nạn tham nhũng, quan liêu - rào cản và gánh nặng chi phí đối với phát triển của khu vực KTTN; củng cố, xây dựng bộ máy, tuyển dụng người tài, rà soát lại chức năng, 138
  11. nhiệm vụ của từng cơ quan để tránh chồng chéo, mâu thuẫn và gắn với cải cách hành chính. Cần áp dụng mạnh mẽ Chính phủ điện tử và Chính phủ số ở mọi lĩnh vực để giảm thiểu và hiện đại hóa thủ tục hành chính, hạn chế tham nhũng, tăng cường tính minh bạch trong quá trình xây dựng và thực hiện chính sách. Đây cũng là những biện pháp góp phần đẩy nhanh quá trình chính thức hóa nền kinh tế và thị trường lao động. Cần duy trì và nhân rộng các nỗ lực đó trên toàn quốc, đặc biệt ở những tỉnh nằm ngoài “cực tăng trưởng” và giúp trung hòa xu hướng doanh nghiệp thường tập trung ở những vùng trọng điểm. Định hướng cải cách thời gian tới là Chính phủ phải chuyển mạnh từ vai trò can thiệp trực tiếp sang quản lý và phục vụ phát triển (3), trong đó chú trọng bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, tạo lập các cơ hội kinh doanh và khởi nghiệp; thiết lập khuôn khổ pháp luật, chính sách và bộ máy thực thi nhằm bảo đảm các loại thị trường liên tục được hoàn thiện; bảo đảm sự minh bạch và có hiệu quả; dứt khoát với cơ chế “xin - cho”. * Xây dựng và thực hiện chính sách công nghiệp quốc gia đặt trọng tâm vào phát triển KTTN Các doanh nghiệp tư nhân, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa đáp ứng được các điều kiện khắt khe để tham gia các chuỗi giá trị toàn cầu. Do thiếu mối liên kết chặt chẽ nên hiệu ứng lan tỏa, nhất là lan tỏa về công nghệ, từ khu vực FDI sang khu vực trong nước rất hạn chế. Vì vậy, cần có các chính sách giúp tăng cường liên kết giữa các DNTN trong nước và khu vực nước ngoài sử dụng nhiều công nghệ. Để kết nối được với các tập đoàn đa quốc gia (TNC), trước mắt Việt Nam cần thúc đẩy các hoạt động phát triển công nghệ tầm trung phù hợp với trình độ phát triển hiện tại, như thiết lập các cụm liên kết ngành sản xuất linh kiện đòi hỏi quy mô đầu tư vốn vừa phải và độ tinh vi công nghệ ở mức trung bình. Việt Nam cũng cần nắm bắt được làn sóng khởi nghiệp của các doanh nghiệp công nghệ và thúc đẩy các hệ sinh thái khởi nghiệp nhằm giúp các doanh nhân vượt qua rào cản về vốn, rủi ro, nguồn nhân lực để hiện thực hóa các ý tưởng của mình liên quan đến công nghệ và đổi mới sáng tạo (4). * Phát triển mạnh lực lượng doanh nghiệp trong nông nghiệp và ở nông thôn Tầm quan trọng và tính nhạy cảm của khu vực nông nghiệp, nông thôn khiến vấn đề này tiếp tục chiếm vị trí trung tâm trong phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam giai đoạn tới. Muốn tạo đột phá phát triển, phải thoát ra khỏi tư 139
  12. duy của nền kinh tế nông nghiệp truyền thống, chuyển mạnh từ chỗ sản xuất lấy số lượng làm mục tiêu sang chú trọng chất lượng, giá trị và hiệu quả, chuyển từ mô hình sản xuất nông nghiệp khép kín, nhỏ lẻ, thiếu liên kết, chủ yếu ở quy mô hộ gia đình sang mô hình sản xuất nông nghiệp quy mô lớn, dựa vào doanh nghiệp và trang trại, hoạt động theo cơ chế thị trường và đủ sức cạnh tranh trong hội nhập quốc tế. Đặc biệt, cần chú trọng vai trò của công nghệ, nhất là công nghệ thông tin, công nghệ xanh và công nghệ sạch trong việc nâng cao chất lượng và giá trị của các sản phẩm nông nghiệp. Cần giải quyết một số “điểm nghẽn”, như các vấn đề về kết cấu hạ tầng, tích tụ, tập trung đất đai, phát triển nguồn nhân lực, hợp đồng sản xuất thông qua những thay đổi chính sách để thu hút được nhiều đầu tư hơn từ khu vực KTTN vào khu vực nông nghiệp và nông thôn. Để làm được điều này, cần có sự tham gia tích cực của Nhà nước, đặc biệt là chính quyền địa phương, với vai trò điều phối, bảo lãnh trong mối quan hệ giữa doanh nghiệp với người nông dân để giúp tháo gỡ, xử lý những khó khăn mà cả hai bên khó vượt qua được. * Phát triển nguồn nhân lực cho đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp Trong thời gian qua, giáo dục đại học ở Việt Nam quá chú trọng đến các ngành, như kinh tế, tài chính, ngân hàng khiến nhu cầu học những ngành này rất cao và học sinh rời xa các ngành khoa học và công nghệ. Tuy nhiên, nhu cầu tuyển dụng lao động đối với một số ngành thuộc nhóm công nghệ, kỹ thuật, cơ khí và các ngành liên quan đến toán học (STEM) ngày càng lớn, đặc biệt trong làn sóng khởi nghiệp ở lĩnh vực công nghệ hiện nay. Bởi vậy, cần đổi mới căn bản hệ thống giáo dục và đào tạo, trong đó gắn giáo dục - đào tạo với hoạt động thực tiễn, đề cao tinh thần làm chủ, thúc đẩy văn hóa khởi nghiệp, có định hướng rõ rệt ưu tiên về chính sách và các nguồn lực cho các ngành STEM. Kinh nghiệm của các quốc gia đi trước cho thấy, cần tạo dựng văn hóa sáng tạo và tinh thần khởi nghiệp cho giới trẻ ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, hình thành ý chí tự thân lập nghiệp để sẵn sàng cho tương lai. 140
  13. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 103. 2. Theo điều tra của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam và Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ về chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) trong năm 2015, chỉ có 3% số doanh nghiệp siêu nhỏ, 4% số doanh nghiệp nhỏ và gần 9% số doanh nghiệp quy mô vừa có khách hàng là các cá nhân, doanh nghiệp từ nước ngoài. 3. Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam: Báo cáo Kinh tế thế giới và Việt Nam 2016 - 2017, Hà Nội, 2017. 4. Nghị quyết số 05-NQ/TW, ngày 1/11/2016, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về một số chủ trương, chính sách lớn nhằm tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế. 141