Kinh tế xanh và phát triển bền vững

pdf 12 trang Gia Huy 18/05/2022 2370
Bạn đang xem tài liệu "Kinh tế xanh và phát triển bền vững", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkinh_te_xanh_va_phat_trien_ben_vung.pdf

Nội dung text: Kinh tế xanh và phát triển bền vững

  1. HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA 343 KINH TẾ XANH VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Phạm Thái Hà* TÓM TẮT: Nghiên cứu tập trung mô tả khái niệm cốt lõi về kinh tế xanh và phát triển bền vững và ứng phó biến đổi khí hậu. Đây sẽ là cơ sở để các nhà hoạch định chính sách đề xuất các giải pháp và công cụ chính sách xanh trong quá trình xây dựng và thực hiện chính sách công để đạt được mục tiêu phát triển bền vững. Xu thế kinh tế xanh là tất yếu với không chỉ Việt Nam mà mọi quốc gia trên thế giới, tuy nhiên với Việt Nam, bên cạnh những cơ hội vẫn còn nhiều thách thức ABSTRACT: The study focuses on describing the core concepts of green economy and sustainable development and climate change response. This will be the basis for policy makers to propose green policy solutions and tools in the process of developing and implementing public policies to achieve the sustainable development goals. The trend of green economy is indispensable for not only Vietnam but every country in the world, but for Vietnam, besides the opportunities, there are still many challenges Từ khóa: Kinh tế xanh, tăng trưởng, chính sách công, phát triển bền vững Keywords: Green economy, growth, public policy, sustainable development 1. GIỚI THIỆU Ý tưởng của nền kinh tế xanh đã xuất hiện gần đây và đang ngày càng nổi bật hơn thông qua hội nghị được gọi là Rio + 20. Để hiểu rõ hơn một chút, chúng ta phải tìm kiếm nguồn gốc của khái niệm, được tìm thấy trong ý tưởng phát triển kinh tế bền vững, còn được gọi là phát triển dễ đạt được.Theo định nghĩa kinh điển được cung cấp trong Báo cáo Brundtland, cái phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng nhu cầu của hiện tại mà không ảnh hưởng đến khả năng đáp ứng nhu cầu của thế hệ tương lai của họ (World Commission on Environment and Development, 1987). Đằng sau khái niệm này là cần phải suy nghĩ lại về phát triển kinh tế, mở ra một viễn cảnh mới, có tính đến sự công bằng giữa các thế hệ. Cho đến lúc đó, phát triển kinh tế đã được nhìn từ góc độ hẹp hơn thường được coi là yếu tố quyết định cơ bản của tăng trưởng kinh tế, mà không quan tâm đến môi trường. Những yếu tố quyết định cơ bản này cuối cùng đã tạo ra những thay đổi trong việc tích lũy các yếu tố sản xuất và năng suất sản xuất (bao gồm tiến bộ công nghệ và thay đổi hiệu quả sử dụng các yếu tố), bên cạnh đó ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng của quốc gia. Các dòng chính thống ít hơn cũng đã nghiên cứu các vấn đề về phân phối thu nhập, trong số những người khác, sử dụng một hình thức chính thức ít nghiêm ngặt hơn. Hiện nay, các ý tưởng chính thống ít được đưa vào các mô hình kinh tế, phần lớn là do phổ biến các phương pháp toán học tinh * Văn phòng Chính phủ, Hà Nội, Việt Nam.Tác giả nhận phản hồi: Phạm Thái Hà. Tel.: +84 972855555.E-mail address: thaihab- kt@gmail.com.
  2. 344 HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA vi hơn trong Kinh tế học (Krugman, 1995). Phân tích vi phạm bản quyền của các mô hình tăng trưởng kinh tế cũng đã đạt được động lực mới kể từ khi sự quan tâm đến các mô hình tăng trưởng kinh tế được đổi mới vào giữa những năm 1980. Mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và môi trường đã trở nên rõ ràng hơn từ những năm 1970, khi các nhà nghiên cứu bắt đầu xem xét những giới hạn đối với tăng trưởng sẽ là gì trong bối cảnh tài nguyên thiên nhiên là hữu hạn. Vào thời điểm đó, một số dự báo đáng lo ngại đã xuất hiện (Meadows, 1972), sau đó được đưa vào quan điểm, khi phân tích bắt đầu kết hợp một phương pháp mô hình tinh vi hơn có tính đến tiến bộ công nghệ, phát hiện ra trữ lượng tài nguyên thiên nhiên mới và việc sử dụng dự trữ mà trước đây không có hiệu quả kinh tế. Phát triển bền vững là một sự phát triển của ý tưởng phát triển cũ để mức độ mà nó kết hợp nhu cầu công bằng giữa các thế hệ. Việc loại bỏ bất bình đẳng giữa các thế hệ này là một chút xa hơn so với việc giảm bất bình đẳng thu nhập thường thấy trong các bản tin, tranh luận và văn bản học thuật. Bất bình đẳng trong một quốc gia có thể được giảm bớt và dữ liệu cho thấy điều này thực sự đã xảy ra trên toàn thế giới kể từ nửa đầu thế kỷ XIX, mặc dù bất bình đẳng thu nhập giữa các quốc gia đã tăng (Bourguignon & Morrison, 2002). Ngược lại, bất bình đẳng giữa các thế hệ là một cái gì đó rộng hơn, bao gồm một thước đo phúc lợi thay vì chỉ đơn thuần là thu nhập cộng đồng (Becker, 2005). Vấn đề công bằng giữa các thế hệ, được nhìn qua lăng kính về khả năng bền vững, có nghĩa là mỗi thế hệ nên được hưởng mức phúc lợi tương tự hoặc các cơ hội giống như các thế hệ khác. Điều này có nghĩa là môi trường sẽ không bao giờ xấu đi đến mức ngăn cản một thế hệ đạt được mức phúc lợi như thế hệ trước. Do đó, bảo tồn môi trường nổi lên như một cách để tránh sự gia tăng bất bình đẳng giữa các thế hệ. Rõ ràng không có ai ủng hộ việc bảo tồn bằng bất cứ giá nào, nhưng phải có tiêu chí để hướng dẫn sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên một cách bền vững. Khái niệm kinh tế xanh gần đây hơn so với phát triển bền vững. Sau 20 năm phát triển bền vững, trước hết là thực hiện 8 Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ, thế giới vẫn chưa đạt được các kết quả bền vững như mong muốn. Sự phát triển vẫn theo mô hình kinh tế “nâu”, gây hủy hoại môi trường và suy thoái tài nguyên. Trong bối cảnh đó, các nước tiên tiến, kinh tế công nghiệp đang chuyển dần thành kinh tế hậu công nghiệp và từng bước chuyển sang kinh tế tri thức. Cùng với đó, các dạng thức kinh tế của thế giới cũng đang có xu hướng chuyển dần sắc thái từ kinh tế “nâu” sang kinh tế “xanh”. Thuật ngữ kinh tế xanh, tăng trưởng xanh đã và đang được thừa nhận và phát triển kinh tế xanh đang trở thành mô hình phát triển tiên tiến được nhiều nước trên thế giới hướng tới, thậm chí đang lan tỏa thành một trào lưu tốt đẹp để vừa ứng phó với biến đổi khí hậu vừa phát triển bền vững và tạo ra công bằng xã hội. Nền kinh tế xanh là một trong những kết quả mà cải thiện sức khỏe và sự công bằng xã hội của con người, đồng thời giảm đáng kể rủi ro môi trường và khan hiếm sinh thái (UNEP, 2011, tr.16). Một nền kinh tế xanh có lượng khí thải carbon thấp, sử dụng hiệu quả các nguồn lực và hòa nhập xã hội. Theo các tác giả của nghiên cứu này, bằng chứng thực nghiệm cho thấy hai điểm: không có sự đánh đổi giữa tính bền vững và tăng trưởng kinh tế; cả nước giàu và nước nghèo đều có thể chuyển đổi sang nền kinh tế xanh. Việc không có sự đánh đổi giữa tính bền vững và tăng trưởng kinh tế có thể bị thách thức bởi bằng chứng thực nghiệm chỉ ra sự đánh đổi trong giai đoạn đầu phát triển sau đó là tăng trưởng với lượng khí thải ô nhiễm giảm (một quy tắc thực nghiệm được gọi là Đường cong môi trường
  3. HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA 345 Kuznets). Vì vậy, có thể nói rằng không có sự đồng thuận giữa các nhà kinh tế về nền kinh tế xanh và các nguyên tắc chỉ đạo của nó. Người ta có thể nói rằng cuộc tranh luận vẫn còn tiếp diễn. Phân tích kinh tế về các vấn đề liên quan đến môi trường có thể xảy ra ở cả hai khía cạnh kinh tế vi mô và kinh tế vĩ mô. Đối với kinh tế vi mô, ví dụ, nó cho phép kiểm tra xem việc áp dụng các công nghệ sạch hơn hay hiệu quả hơn có khả thi hay không, nếu việc áp dụng các chính sách năng lượng ở một quốc gia có ảnh hưởng đến các quốc gia khác hay không. Liên quan đến kinh tế vĩ mô, người ta có thể thực hiện một nghiên cứu về mối quan hệ giữa môi trường và phát triển sinh thái, tức là, một nghiên cứu thích hợp về vấn đề bền vững. Dòng nghiên cứu này cho phép đánh giá, ví dụ, sự tồn tại của Đường cong môi trường Kuznets hoặc thiếu đối với một chất gây ô nhiễm nhất định, và nếu sự hiện diện của các chất làm mờ gây cản trở cả sự hội tụ có điều kiện của các quốc gia đối với thu nhập bình quân đầu người và tốc độ của nó. 2. KINH TẾ XANH Chương trình Môi trường của Liên hợp quốc (UNEP, 2011) xác định kinh tế xanh là nền kinh tế vừa mang đến hạnh phúc cho con người và công bằng xã hội, vừa giảm thiểu đáng kể các rủi ro về môi trường và khủng hoảng sinh thái. Hiểu một cách đơn giản, kinh tế xanh là nền kinh tế ít phát thải các bon, tiết kiệm tài nguyên, tạo ra việc làm và công bằng xã hội. Kinh tế xanh là một nền kinh tế hay mô hình phát triển kinh tế dựa trên phát triển bền vững và kiến thức về kinh tế học sinh thái. Các hoạt động trong nền kinh tế xanh tạo ra lợi nhuận hoặc giá trị có ích lợi, hướng đến phát triển cuộc sống của cộng đồng xã hội con người (đặc biệt là yếu tố văn hóa), đồng thời những hoạt động này thân thiện với môi trường (thành tố quan trọng nhất), 3 yếu tố này đạt trạng thái cân bằng sẽ thỏa mãn tính bền vững. Như vậy, khái niệm “kinh tế xanh” không thay thế khái niệm bền vững, nhưng nó ngày càng được công nhận là mô hình phù hợp làm nền tảng cho phát triển bền vững. Nói cách khác, kinh tế xanh không thay thế phát triển bền vững mà là chiến lược kinh tế để đạt được các mục tiêu phát triển bền vững. Chuyển đổi sang kinh tế xanh được hỗ trợ, thúc đẩy bởi cộng đồng quốc tế, mỗi quốc gia đang trong giai đoạn tái cơ cấu lại để thích ứng với những thay đổi trong bối cảnh phát triển thay đổi liên quan tới hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng và ứng phó với tác động của biến đổi khí hậu. Như vậy, xanh hóa nền kinh tế nâu là con đường duy nhất để tiếp tục phát triển đối với các quốc gia trong thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững trong thế kỷ 21 vì cho đến nay chưa phát hiện được con đường nào khác. Do hệ quả của sự phát triển không thân thiện môi trường, biến đổi khí hậu đang đe dọa tới sự phát triển, thậm chí còn phá hủy các kết quả phát triển đã đạt được. Thực tế đó đòi hỏi phải tìm kiếm những công cụ chính sách mới và chuyển đổi mô hình phát triển hiện nay để giải quyết các vấn đề trong quá trình phát triển bền vững. Mô hình kinh tế hiện đang được các quốc gia trên thế giới đồng thuận chuyển đổi sang, trong đó có Việt Nam, là kinh tế xanh.Trương Quang Học và Hoàng Văn Thắng (2014) khẳng định vai trò của kinh tế xanh, bao gồm: Thứ nhất, kinh tế xanh góp phần xóa đói giam nghèo. Hướng tới nền kinh tế xanh được coi là một trong những phương thức nhằm xóa đói giảm nghèo và cải thiện tổng thể chất lượng cuộc sống. Trong một kịch bản đầu tư xanh, 2% GDP toàn cầu được phân bổ để “làm xanh” các
  4. 346 HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA lĩnh vực năng lượng, giao thông, xây dựng, chất thải, nông nghiệp, thủy sản, nước và rừng. Kinh tế xanh sẽ cung cấp các nguồn năng lượng có khả năng hỗ trợ cho 1,4 tỷ người hiện đang thiếu điện và cho hơn 700 triệu người khác đang không được tiếp cận với các dịch vụ năng lượng hiện đại. Công nghệ năng lượng tái tạo, như năng lượng mặt trời, năng lượng gió và các chính sách hỗ trợ năng lượng hứa hẹn sẽ đóng góp đáng kể việc cải thiện đời sống và sức khỏe cho một bộ phận người dân có thu nhập thấp, đặc biệt là cho những người hiện đang không có khả năng tiếp cận với năng lượng. Hội nghị thượng đỉnh của Liên hợp quốc về phát triển bền vững, Rio+20 năm 2012, đã nhất trí thông qua một văn kiện quan trọng có tựa đề “Tương lai mà chúng ta mong muốn” và quyết định dành 323 tỷ USD cho sáng kiến của Tổng Thư ký Ban-Ki-Moon mang tên “Năng lượng bền vững cho tất cả” với mục đích đảm bảo cho hơn 1,3 tỷ người tại các nước nghèo được tiếp cận năng lượng sạch và hiệu quả vào năm 2030. Thứ hai, kinh tế xanh giam nhẹ biến đổi khí hậu. Theo tính toán, chỉ cần đầu tư khoảng 1,25% GDP toàn cầu vào việc nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng trong các ngành và phát triển năng lượng tái tạo, bao gồm cả nhiên liệu sinh học thế hệ hai, mức độ tiêu thụ năng lượng trên toàn thế giới có thể giảm đi 36% vào năm 2030 và lượng khí CO2 thải ra hàng năm sẽ giảm từ 30,6 tỷ tấn năm 2010 xuống 20 tỷ tấn năm 2050. Thêm vào đó, nhờ vào nông nghiệp xanh, kịch bản kinh tế xanh ước tính có thể giảm nồng độ khí nhà kính xuống 450ppm vào năm 2050, một mức độ được cho là hợp lý và đủ để hạn chế sự nóng lên toàn cầu ở ngưỡng 2oC. Thứ ba, kinh tế xanh duy trì và tăng cường vốn tự nhiên. Theo UNESCO (2011), các khoản đầu tư xanh trong các lĩnh vực lâm nghiệp và nông nghiệp sẽ giúp đảo ngược xu thế suy giảm đất lâm nghiệp hiện nay, tái tạo khoảng 4,5 tỷ ha nguồn tài nguyên quan trọng này trong vòng 40 năm tới. Đầu tư vào nông nghiệp xanh vừa nâng cao năng suất, sản xuất ra nhiều lương thực hơn vừa giúp giảm lượng đất sử dụng cho nông nghiệp và chăn nuôi 6% và cải thiện chất lượng đất nông nghiệp lên 25% vào năm 2050. Ngoài ra, đầu tư để tăng nguồn cung cấp nước, mở rộng khả năng tiếp cận, cũng như cải thiện quản lý sẽ cung cấp thêm 10% nguồn cung nước toàn cầu cả trước mắt và lâu dài, thêm vào đó có thể góp phần duy trì nguồn tài nguyên nước ngầm và nước mặt. Thứ tư, kinh tế xanh là một xu thế tât yếu. Các sáng kiến được các cơ quan Liên hợp quốc thúc đẩy hướng tới nền kinh tế xanh như: Nông nghiệp thông minh với khí hậu (FAO phát động), Đầu tư công nghệ sạch (WB), việc làm xanh (ILO), kinh tế xanh (UNEP), Giáo dục vì sự phát triển bền vững (UNESCO), Xanh hóa khu vực y tế (WHO), Thị trường công nghệ xanh (WIPO), Tiêu chuẩn công nghệ thông tin xanh (ITU), Giải pháp năng lượng xanh (UN WTO), Sản xuất sạch hơn và hiệu quả sử dụng tài nguyên (UNEP và UNIDO), các thành phố và biến đổi khí hậu (UN-HABITAT), Tái chế tàu biển (IMO) đang thu được nhiều kết quả tốt đẹp.Theo tính toán của UNEP, năm 2009, cộng đồng EU và Mỹ đã tạo ra 2 - 3,5 triệu việc làm khi xây dựng các tòa nhà xanh, Trung Quốc tạo 10 triệu việc làm trong lĩnh vực tái chế và năng lượng tái tạo với doanh thu 17 tỷ USD/năm. Ngân hàng thế giới đánh giá nhu cầu đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế xanh trong xây dựng, năng lượng, vận tải ở các nước đang phát triển có thể lên tới 563 tỷ USD vào năm 2030 cùng với 100 tỷ USD để thích nghi với biến đổi khí hậu. Những dữ liệu nêu trên cho thấy, gieo mầm kinh tế xanh, tạo nên kinh tế xanhlà chiến lược cho phát triển bền vững trong tương lai. Bên cạnh đó, thực tiễn tại các nước cũng cho thấy, việc thúc đẩy tăng trưởng xanh hay quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế xanh tạo ra tiềm năng to lớn để đạt được phát triển bền vững và giảm
  5. HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA 347 đói nghèo với tốc độ chưa từng thấy đối với tất cả các quốc gia. Riêng đối với các nước đang phát triển, tăng trưởng xanh còn tạo đà cho một bước nhảy vọt để phát triển kinh tế. Hội nghị của Liên hợp quốc về phát triển bền vững, Hội nghị Rio+20 (tháng 6/2012) đã đặt được nền móng cho kinh tế xanh. Toàn bộ 30 tổ chức quốc tế chuyên ngành trong hệ thống Liên hợp quốc, do UNEP phối hợp cùng với các quốc gia đi đầu trong làn sóng xanh toàn cầu, như Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc, các nước EU, đặc biệt là Đức và các nước Bắc Âu, đã cùng nhau đưa ra thông điệp chung “cộng đồng thế giới cần chuyển dịch nhanh sang nền kinh tế xanh toàn cầu để cứu Trái đất và nhân loại”. 3. PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Trên thế giới, tuyên bố chung của Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất, tổ chức tại Rio de Janeiro, Brazil tháng 5/1992 đã xác định 27 nguyên tắc cơ bản của phát triển bền vững, 8 mục tiêu phát triển thiên niên kỷ được xác định trong Tuyên bố Thiên niên kỷtại Hội nghị thượng đỉnh Thiên niên kỷ của Liên Hợp Quốc (9/2000, New York, Mỹ) đạt được nhiều kết quả sau 15 năm thực hiện và từ 2016 được thay thế bằng 17 mục tiêu phát triển bền vững cho 15 năm tiếp theo (2016 - 2030) như là Chương trình nghị sự phát triển bền vững đến năm 2030 (The 2030 Agenda for Sustainable Development). Tuy nhiên, sau 15 năm thực hiện 8 mục tiêu phát triển thiên niên kỷ trái đất vẫn phải đang đối mặt với những thách thức rất lớn đe dọa sự tồn tại và phát triển tiếp tục của con người, như: nghèo đói, bất bình đẳng, thất nghiệp, bạo lực đặc biệt là sự suy giảm, suy thoái, cạn kiệt tài nguyên môi trường và tác động của biến đổi khí hậu (Đỗ Phú Hải, 2018). Liên hợp quốc thống nhất khái niệm về phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng được những yêu cầu của hiện tại, nhưng không gây trở ngại cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau: “Một sự phát triển thỏa mãn những nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không làm hại đến khả năng đáp ứng những nhu cầu của thế hệ tương lai” (UNEP, 2011). Phát triển bền vững ra đời cũng có nguyên cớ từ hệ quả tiêu cực của mối liên hệ, liên kết yếu trong quản lý phát triển với tuyên ngôn ban đầu là về Môi trường của con người (Tuyên bố Stockholm về Môi trường của con người, 1972), tiếp theo đó là về Môi trường và Phát triển (Tuyên bố Rio về Môi trường vàPhát triển, 1992) và 20 năm sau đó là về phát triển bền vững (Tuyên bố Johannesburg về phát triển bền vững, 2002). Tuyên bố Johannesburg về phát triển bền vững xác nhận rằng liên kết 3 trụ cột cơ bản của phát triển bền vững (kinh tế, xã hội, môi trường) là tiếp cận phát triển mới trong bối cảnh hiện đại. Tiếp cận liên ngành, đa lĩnh vực cho phép kết nối, liên kết các hoạt động phát triển trong các ngành, các lĩnh vực phát triển ở mọi cấp độ và quy mô để đạt được các mục tiêu phát triển bền vững (Vũ Tuấn Anh, 2015). Tiếp cận phát triển bền vững ban đầu đi từ nhận dạng, xác định các vấn đề môi trường để đưa vào, lồng ghép các quyết định phát triển và sau đó cùng với sự gia tăng nhanh chóng các vấn đề môi trường người ta nhanh chóng nhận ra rằng việc lồng ghép ít và chậm mang lại các kết quả tích cực bởi nhiều lý do, trong đó có lý do sự lồng ghép này trên thực tế nhìn chung là khá mơ hồ, thậm chí còn bị các lợi ích kinh tế, chính trị chi phối nên sau này tiếp cận lồng ghép dần được thay thế bởi tiếp cận tích hợp hay nhất thể hóa (UNEP, 2011). Trong tuyên bố của Hội nghị Thượng đỉnh của Liên Hợp Quốc Rio+20 tháng 6/2012 có tiêu đề “Tương lai chúng ta mong muốn” (The future We Want) đã nêu rằng “Chúng tôi kêu gọi tiếp cận chỉnh thể và tích hợp đối với phát triển bền vững” (Đoạn số 40). Báo cáo tổng hợp các báo cáo quốc gia về phát triển bền vững tại Hội
  6. 348 HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA nghị Thượng đỉnh của Liên Hợp Quốc Rio+20 chỉ ra, là “Các nước hiện vẫn tiếp tục tập trung cho tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo còn tích hợp các xác định môi trường thì vẫn còn bị bỏ lại phía sau” (UN-DESA, 2015). Nhận thức mới về phát triển bền vững trong bối cảnh phát triển của quản lý phát triển theo cơ chế kinh tế thị trường ở các quốc gia trên thế giới coi là phương thức phát triển chủ đạo trong thế kỷ 21. Trong đó kinh tế thị trường vớicác quan hệ thị trường, quan hệ giá trị với động lực chính của mọi hoạt động kinh tế là lợi nhuận,môi trường và nguồn tài nguyên được coi là tài sản, nguồn vốn cho sự phát triển (Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2015). Nghĩa là môi trường và nguồn tài nguyên phải được lượng giá, định giá (hay vốn hóa) như là một nguồn vốn phát triển để có thể đưa vào các tính toán, quyết định phát triển theo cơ chế thị trường, kinh tế thị trường. Lý luận và thực tiễn phát triển kinh tế thị trường trên thế giới đã chỉ ra rằng bên cạnh những điểm mạnh, tích cực cơ bản, rõ ràng thì kinh tế thị trường cũng có không ít những khiếm khuyết, những thất bại về đảm bảo duy trì nguồn cung cấp lâu dài một loại “đầu vào” cơ bản, quan trọng cho quá trình sản xuất hàng hóa là tài nguyên và năng lượng (Vũ Tuấn Anh, 2015). Giá trị của tài nguyên môi trường là đều mà mô hình tăng trưởng kinh tế của nhiều quốc gia đã, đang bỏ qua, không hoặc ít được tính đến trong các quyết định tăng trưởng, phát triển kinh tế. Đã có những tính toán về giá trị mất mát tài nguyên môi trường so với GDP cho thấy là con số không nhỏ, từ vài phần trăm cho tới hơn 10%. Các chuyên gia của Ngân hàng thế giới đưa ra con số 3 - 5% GDP của Việt Nam hay Bộ tài nguyên môi trường cho rằng ở nước ta GDP cứ tăng 1% thì thiệt hại do ô nhiễm môi trường sẽ làm mất đi 3% GDP (Bộ Tài Nguyên Môi trường, 2012). Điều này cũng có nghĩa là nếu cứ duy trì mô hình tăng trưởng cũ thì càng tăng trường kinh tế (tăng GDP) thì thiệt hại môi trường tích lũy càng lớn bởi vì không được bù đắp hàng năm và do vậy sự phát triển càng trở nên không bền vững.Mất mát, thiệt hại, tổn hại về môi trường còn ảnh hưởng trực tiếp tới cuộc sống của con người, bao gồm từ môi trường sống như không khí, nước sạch, thực phẩm, chất đốt cho đến sức khỏe, sinh kế của người dân. Đã có những tính toán cụ thể chỉ ra mối liên hệ trực tiếp giữa chất lượng sống của con người với chất lượng môi trường, theo đó con người phải chi tiêu nhiều hơn từ ngân sách gia đình cho việc thăm khám, chữa bệnh có nguyên nhân từ môi trường sống bị ô nhiễm. Cũng như trong quản lý kinh tế, trong quản lý xã hội người ta ngày càng phát hiện ra nhiều vấn đề xã hội nảy sinh và trở nên ngày càng trầm trọng có nguồn gốc phát sinh từ sự suy giảm, suy thoái chất lượng môi trường, như nghèo đói, sức khỏe, sinh kế (World Bank, 2006). Đối với những người nghèo, đặc biệt là những người nghèo mà sinh kế của họ phụ thuộc phần lớn hoặc hoàn toàn vào tự nhiên như sinh kế nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản , thì mối quan hệ trực tiếp này lại càng trở nên rõ ràng hơn bao giờ hết với hệ quả là họ - một bộ phận dân cư đáng kể trong xã hội - vốn đã nghèo lại càng trở nên nghèo khó hơn. Như vậy là đối tượng công tác xã hội như người nghèo, người khuyết tật, trẻ em lại là những người chịu ảnh hưởng nhiều hơn cả từ sự suy giảm, suy thoái, ô nhiễm môi trường, rõ ràng vấn đề môi trường gia tăng những khó khăn cho phát triển xã hội. 4. MỐI LIÊN HỆ GIỮA KINH TẾ XANH VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Các nghiên cứu kỹ thuật, công nghệ và kinh tế trong phân tích mối liên hệ giữa kinh tế xanh và phát triển bền vững nên được định hướng để bảo vệ môi trường để phân tích tác động và lường trước hậu quả của hành vi vô trách nhiệm trong sản xuất. Có nhiều lý do cho việc này: suy thoái
  7. HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA 349 đất, thay đổi khí hậu, khí thải nhà kính GHG và bất kỳ hoạt động nào khác có thể đe dọa đến tương lai hoặc thậm chí sự sống sót ở cấp độ toàn cầu (Ivanovicvà cộng sự, 2017). Các nghiên cứu lý thuyết đều chỉ ra rằng nền kinh tế xanh và phát triển bền vững không thể đánh đồng. Trong các mối quan hệ được thiết lập theo cách này, phát triển bền vững là một công cụ cho thực hiện kinh tế xanh (Ivanovicvà cộng sự, 2017). Chắc chắn, có những điểm tương đồng giữa hai khái niệm này.Phát triển bền vững thực sự là một cơ sở hiện thực hóa nền kinh tế xanh (Ivanovicvà cộng sự, 2017). Nếu sản xuất và/hoặc tiêu thụ có bất kỳ tác động tiêu cực hoặc khai thác quá mức tài nguyên không tái tạo, thì sẽ không thể có phát triển bền vững. Điều này có nghĩa là khái niệm kinh tế xanh được thực hiện không chỉ khi nền kinh tế chấp nhận nguyên tắc kinh doanh, mà còn khi xem xét khía cạnh xã hội, đó là khi tất cả các hình thức cân bằng xã hội đều được tính đến (Ivanovicvà cộng sự, 2017). Các nghiên cứu cũng đã chỉ ra rằng tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là tài nguyên không tái tạo, cần được khai thác một cách giới hạn và có kế hoạch. Ngược lại, nếu tài nguyên bị khai thác một cách vô trách nhiệm và không có một kế hoạch, sản xuất và xã hội sẽ sụp đổ sớm hay muộn do thiếu nguồn lực và điều này trái với các cơ sở của khái niệm phát triển bền vững và kinh tế xanh. Khi như mối quan hệ được thiết lập theo cách này, hai khái niệm này là tương đương và có mối quan hệ hài hòa (Ivanovicvà cộng sự, 2017). Mối liên hệ giữa kinh tế xanh và phát triển bền vững còn có thể xem xét dưới góc nhìn, với sự hiện diện của kinh doanh có trách nhiệm với xã hội. Khái niệm và ý tưởng về kinh doanh có trách nhiệm xã hội đã được xuất bản lần đầu tiên trong 1889 trong một bài báo “The Gospel of Wealth” của tác giả Andrew Carnegie. Carnegie là đầu tiên tác giả tuyên bố công khai rằng một công ty phải giúp đỡ và do đó cải thiện chất lượng của xã hội và môi trường mà nó hoạt động. Tuy nhiên, thái độ của ông lại không được chấp nhận (Cooper, 2000). Khủng hoảng và sự sụp đổ của thị trường tài chính trong những năm 1930 đã dẫn đến yêu cầu cần đánh giá lại thái độ này, nhưng không có tiến bộ đáng kể nào được chú ý cho đến những năm 1950. Đây là kết quả của sự tàn phá sau Thế chiến thứ hai, cũng như thành lập các mối quan hệ quốc tế và kinh tế mới. Tuy nhiên, vai trò của các quốc gia và các hoạt động của nó liên quan đến nguồn nhân lực và xã hội đã lần đầu tiên được xem xét. Lúc đầu, chủ sở hữu vốn sợ rằng việc thực hiện các hoạt động đó sẽ có tác động tiêu cực, và điều đó sẽ dẫn đến việc giảm lợi nhuận của công ty. Vào những năm 1970,khi các công ty đa quốc gia xuất hiện, vấn đề có trách nhiệm hơn đối với người lao động và môi trường bắt đầu trở thành yêu cầu bắt buộc đối với các công ty này. Do nhiều thảm họa công nghiệp, đặc biệt là những thảm họa về môi trường đã xuất hiện trên phạm vi toàn cầu. Về cơ bản, các hoạt động có trách nhiệm xã hội,theo Ivanovicvà cộng sự (2017), cũng đã được bắt đầu được thực hiện vào những năm 1990. Theo nghĩa đó, Ivanovicvà cộng sự (2017) chỉ ra: Hoạt động của nhiều công ty có tác động tiêu cực đến môi trường và do đó, các công ty đa quốc gia đã phải áp dụng các quy tắc ứng xử của công ty. Cho đến lúc đó, các hoạt động là tự nguyện, đó là nguyên nhân của các vụ bê bối sinh thái, dân tộc và tài chính thời đó, cũng như sự hoài nghi về toàn cầu hóa các công ty đa quốc gia và trách nhiệm kinh doanh của họ, minh bạch trong kinh doanh và cam kết phát triển xã hội và phúc lợi. Mô hình thực tế nhất về kinh doanh có trách nhiệm xã hội có hình dạng giống kim tự tháp và nó chỉ ra sự tương tác rõ ràng của các yếu tố quyết định bao gồm: từ thiện, đạo đức, pháp lý và những yếu tố kinh tế. Mô hình được phát triển bởi Carrol vào năm 1991. Yếu tố từ thiện là ở đỉnh của kim tự tháp và Carrol xác định nó là yếu tố quan trọng nhất bắt buộc sức mạnh tổng hợp với yếu tố đạo đức, pháp lý và kinh tế. Mô hình đã được thử nghiệm trong các nghiên cứu lý thuyết và trong thực
  8. 350 HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA tế và nó đã được chứng minh là có thể áp dụng và tối ưu như một công cụ đánh giá hành vi quản lý trong các công ty thành công. Các thuật ngữ “kinh doanh có trách nhiệm xã hội”, “trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp”, trên thực tế, đồng nhất với hành vi được Carrol mô tả, đó là hoạt động từ thiện, vấn đề đạo đức, tính hợp pháp. Trong nền kinh tế xanh và phát triển bền vững, hành vi có trách nhiệm xã hội càng được đề cao hơn nữa. Nhiều tác giả và tổ chức quốc tế với những phương pháp tiếp cận khác nhau, nhưng đều tập trung vào các vấn đề chung là: quyền lợi của người tiêu dùng, môi trường, quyền lợi của người lao động, quyền lợi của đối tác kinh doanh và các đối thủ cạnh tranh, bảo vệ doanh nghiệp và bảo vệ xã hội toàn cầu nói chung. 5. KINH TẾ XANH, CON ĐƯỜNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CỦA VIỆT NAM Chủ trương của Đảng và Nhà nước Việt Nam là thúc đẩy mạnh mẽ quá trình tái cơ cấu nền kinh tế, mở ra cơ hội cho Việt Nam xây dựng mô hình phát triển bền vững trong bối cảnh biến đổi toàn cầu. Đây vừa là cơ hội để Việt Nam phát triển, song cũng đặt ra rất nhiều khó khăn thách thức để có thể bắt kịp, đón đầu và hội nhập với làn sóng kinh tế xanh đang lan rộng khắp thế giới hiện nay. Đây là một sự lựa chọn đúng đắn. Trong thời gian qua, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng nhưng phát triển chưa bền vững; phát triển kinh tế ở nước ta vẫn còn dựa nhiều vào việc khai thác tài nguyên thiên nhiên; năng suất lao động còn thấp; công nghệ sản xuất, mô hình tiêu dùng còn sử dụng nhiều năng lượng, nguyên liệu và thải ra nhiều chất thải. Nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên bị khai thác cạn kiệt, sử dụng lãng phí và kém hiệu quả. Môi trường, sinh thái tại nhiều nơi bị phá hoại nghiêm trọng, ô nhiễm và suy thoái đến mức báo động Vì thế, việc tiếp cận và xây dựng một nền kinh tế xanh là yêu cầu cấp thiết và hiện thực hóa con đường phát triển kinh tế một cách bền vững và xóa đói, giảm nghèo. Nhận thức rõ ý nghĩa của cơ hội này để phát triển đất nước và hội nhập với trào lưu quốc tế, Chính phủ đã ban hành những văn bản quan trọng mang tính chất chiến lược: Quyết định số 2139/ QĐ-TTg ngày 5/12/2011 về việc Phê duyệt Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu; Quyết định số 432/QĐ-TTg ngày 12/4/2012 phê duyệt Chiến lược Phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020; Quyết định số 1393/QĐ-TTg ngày 25/9/2012 phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh thời kỳ 2011 - 2020 và tầm nhìn đến năm 2050 Nội dung các văn bản này đã bao quát nội hàm, ý nghĩa, mục tiêu, quan điểm, nguyên tắc, giải pháp, cách thức thực hiện tăng trưởng xanh, là cơ sở pháp lý để thúc đẩy tăng trưởng xanh ở Việt Nam. Tăng trưởng xanh ở Việt Nam là một nội dung quan trọng của phát triển bền vững, đảm bảo phát triển kinh tế nhanh, hiệu quả, bền vững và góp phần quan trọng thực hiện Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu. Tăng trưởng xanh là phương thức thúc đẩy quá trình thay đổi các mô hình tăng trưởng, tái cơ cấu nền kinh tế, nhằm khai thác tối đa lợi thế cạnh tranh, tăng hiệu quả kinh tế và khả năng cạnh tranh thông qua nghiên cứu và ứng dụng công nghệ tiên tiến, phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng hiện đại, nhằm sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, giảm phát thải khí nhà kính, ứng phó với biến đổi khí hậu, góp phần xóa đói, giảm nghèo, tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững. Chiến lược tăng trưởng xanh của Việt Nam đã xác định 3 mục tiêu: Khuyến khích các ngành kinh tế sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên với giá trị gia tăng cao, hạn chế tiến tới xóa bỏ những ngành sử dụng lãng phí tài nguyên thiên nhiên, gây ô nhiễm môi trường; Ứng dụng và phát triển công nghệ hiện đại nhằm sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, giảm phát thải khí nhà
  9. HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA 351 kính, góp phần ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu; Nâng cao đời sống nhân dân thông qua việc tạo thêm việc làm từ các ngành công nghiệp xanh và cải thiện chất lượng cuộc sống thông qua việc xây dựng lối sống thân thiện với môi trường. Để thực hiên các mục tiêu trên, Chiến lược đã đề ra ba nhóm nhiệm vụ quan trọng: Giảm cường độ phát thải khí nhà kính và thúc đẩy sử dụng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo; Xanh hóa sản xuất và xanh hóa lối sống và thúc đẩy tiêu dùng bền vững (Trương Quang Học và Hoàng Văn Thắng, 2014). Tiếp cận với vấn đề kinh tế xanh, Việt Nam có những cơ hội nhưng cũng đối mặt với nhiều thách thức. Kinh tế xanh là cơ hội để Việt Nam hội nhập sâu rộng hơn với xu hướng phát triển xanh toàn cầu. Việt Nam có những lợi thế so sánh về điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên, vị thế, dân số, xã hội - những tiền đề tốt cho nền kinh tế xanh. Việt Nam có nhiều tiềm năng để phát triển nông nghiệp, năng lượng tái tạo, du lịch (Hình 1) Bên cạnh đó, kinh tế nước ta liên tục tăng trưởng trong những năm vừa qua đã tạo ra nội lực bên trong cho một xu thế phát triển mới. Những vấn đề bức xúc về ô nhiễm môi trường và suy giảm tài nguyên trong thời gian qua đã thức tỉnh các cấp lãnh đạo và người dân ủng hộ hướng phát triển mới - nền kinh tế xanh để tạo đà cho sự đồng thuận cao của xã hội loại bỏ phát triển “kinh tế nâu”. Việt Nam rất thành công trong việc thực hiện các Mục tiêu Thiên niên kỷ và là một trong số ít nước có khả năng hoàn thành các Mục tiêu này (đặc biệt là Mục tiêu giảm nghèo) đúng thời gian. (Nguồn: tác giả vẽ từ số liệu của Tổng cục Thống kê) Hình 1. Tăng trưởng kinh tế chung và các lĩnh vực chính của Việt Nam, 2010-2015 Việt Nam có tình hình chính trị - xã hội ổn định, quan hệ quốc tế ngày càng mở rộng; môi trường pháp lý, cơ chế, chính sách thuận lợi, theo hướng đẩy mạnh “Tái cơ cấu nền kinh tế gắn với mô hình tăng trưởng” và coi đó là nhiệm vụ hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế - xã
  10. 352 HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA hội giai đoạn 2011 - 2015. Nguồn lực lao động của Việt Nam đang ở giai đoạn “dân số vàng”, có truyền thống cần cù lao động, sống giản dị và hài hòa với thiên nhiên theo truyền thống văn hóa phương Đông, có khả năng tiếp thu nhanh khoa học - công nghệ và kỹ năng quản lý để phát triển nhân lực xanh. Mặt khác, Việt Nam đã, đang và sẽ nhận được sự hỗ trợ tích cực của cộng đồng quốc tế (UNDP, WB, Đan Mạch, Thụy Điển, Đức, Nhật, Pháp, Mỹ ) trong ứng phó với biến đổi khí hậu nói riêng và tăng trưởng xanh nói chung. Tất cả những yếu tố tích cực đó đang hội tụ lại thành bàn đạp cho Việt Nam xây dựng nền kinh tế xanh và khẳng định sự lựa chọn “tăng trưởng xanh” là phương án tối ưu cho sự phát triển bền vững, xóa đói, giảm nghèo của đất nước. Tuy nhiên, con đường tiến tới nền kinh tế xanh của Việt Nam cũng đang gặp phải nhiều khó khăn, thách thức. Nhận thức và trình độ phát triển nói chung còn thấp; Hệ thống pháp luật đang trong thời kỳ chuyển đổi chưa đồng bộ, chưa phù hợp với xu thế toàn cầu hóa và hướng tới tăng trưởng xanh; Hiệu quả sử dụng tài nguyên thấp và lãng phí, tài nguyên thiên nhiên (vốn tự nhiên) nhất là tài nguyên sinh vật bị suy thoái nghiêm trọng, tài nguyên không tái tạo cạn kiệt; Công nghệ sản xuất còn lạc hậu, tiêu tốn nhiều năng lượng; Các ngành kinh tế “nâu” đang chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế; Các ngành sản xuất năng lượng sạch như năng lượng hạt nhân, năng lượng gió, mặt trời, sinh khối, địa nhiệt chưa phát triển. Thêm vào đó, nhiều ngành hỗ trợ, giải quyết vấn đề môi trường, dịch vụ môi trường, công nghiệp tái chế còn yếu kém; Là quốc gia chịu tác động nặng nề của biến đổi khí hậu; Lối sống và mô hình tiêu dùng của một bộ phận nhân dân còn lãng phí, hủy hoại tài nguyên, không thân thiện và hài hòa với thiên nhiên. Kinh tế xanh - con đường phát triển bền vững trong bối cảnh biến đổi khí hậu đang trở thành mô hình phát triển tiên tiến được nhiều nước trên thế giới hướng tới và coi đây là một trong những giải pháp giúp chúng ta thoát khỏi tình trạng suy thoái hiện nay. Để thúc đẩy mạnh mẽ quá trình tái cơ cấu nền kinh tế, phát triển nhanh và bền vững, Việt Nam đã ban hành Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh thời kỳ 2011 - 2020 tầm nhìn đến năm 2050 và đã triển khai thực hiện trên phạm vi toàn quốc. Bên cạnh những khó khăn thách thức nhất định, chúng ta cũng có nhiều cơ hội thuận lợi để thực hiện Chiến lược và hội nhập với nền kinh tế xanh của thế giới. KẾT LUẬN Nghiên cứu đã làm rõ sự tương đồng và sự khác biệt, tính phổ quát và tính đặc thù của các lý luận về phát triển bền vững và tăng trưởng xanh và kinh tế xanh và ứng phó biến đổi khí hậu, hệ sinh thái phát triển. Sự tương đồng thể hiện là phát triển đều gắn với bảo vệ tài nguyên môi trường, không chỉ bao gồm mục tiêu kinh tế mà nó còn mở rộng bao gồm cả các mục tiêu xã hội và môi trường, sinh thái. Sự khác biệt lớn nhất là kinh tế xanh và ứng phó biến đổi khí hậu lại đặt tài nguyên môi trường và con người ở trung tâm của sự phát triển. Về sự phổ quát, các lý luận đều bổ trợ cho nhau, có kinh tế xanh và ứng phó biến đổi khí hậu thì có phát triển bền vững và có tăng trưởng xanh, có hệ sinh thái phát triển. Tiếp cận xanh hay xanh hóa các quyết định về phát triển quốc gia, công cụ xanh là đặc trưng nổi bật khi nói về tăng trưởng xanh, kinh tế xanh.Về tính đặc thù, tăng trưởng xanh, kinh tế xanh lại không thay thế khái niệm phát triển bền vững mà là công cụ thực hiện phát triển bền vững trong bối cảnh biến đổi khí hậu, trong đó nhấn mạnh nhiều hơn tới khía cạnh tài nguyên môi trườngvà gắn bó với ứng phó với biến đổi khí hậu. Ở Việt Nam, sự phát triển nhanh và bền vững với sự ghép cơ học các cấu thành hay trụ cột của phát triển bền vững về
  11. HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA 353 kinh tế, xã hội, môi trường chưa đúng nghĩa là tích hợp, sẽ thất bại nếu coi tài nguyên môi trường là không giới hạn, chỉ là nguồn cung cấp một đầu vào quan trọng. Trong hoạch định, xây dựng và thực hiện chính sách công để phát triển bền vững, thì các công cụ xanh hóa cần được sử dụng (kinh tế xanh) để làm giảm áp lực cho tài nguyên môi trường, giảm phát thải khí nhà kính. Xanh hóa tiêu dùng, xanh hóa sản xuất, bên cạnh có công cụ chính sách thay đổi lối sống xanh thì mấu chốt là những thiệt hại môi trường do hoạt động sản xuất phải được tính toán vào giá thành sản phẩm của tất cả hàng hóa dịch vụ công tư để đảm bảo môi trường là biến số nội tại của quá trình sản xuất. Cuối cùng, quan trọng là trong thực tiễn quản lý nhà nước, cần không cho phép các đầu tư công nghệ không thân thiện với tài nguyên môi trường gây phát thải nhiều khí nhà kính dù chúng đem lại lợi ích kinh tế lớn đảm bảo phát triển bền vững bởi vì sự phát triển cần đem lại chất lượng sống ngày càng tốt hơn cho cả thế hệ hiện tại lẫn các thế hệ tiếp theo. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Becker, G. S. (2005), “The Quantity and Quality of Life and the Evolution of World Inequality”, American Economic review, vol. 95. 2. Bourguignon, F.& Morrison, C. (2002), “Inequality Among World Citizens: 1820­1992”, American Economic Review, vol. 92. 3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư(2015) “Kết quả rà soát khung thể chế và pháp lý về kế hoạch và đầu tư, năng lượng, công nghiệp và môi trường theo hướng tăng trưởng xanh”. 4. Bộ tài nguyên môi trường(2012), “Kỷ yếu Hội thảo Kinh tế xanh và Phát triển bền vững”,Bộ tài nguyên môi trường, UBND tỉnh Quảng Ninh và Tổng Liên đoàn lao động VN tổ chức tháng 6/2012 tại Tp. Hạ Long. 5. Cooper, S. (2000), Shareholder Wealth or Societal Welfare: A Stakeholder Perspective/Arnold G. Value Based Management. Context and Application. New York, Wiley&Sons Ltd. 6. Đỗ Phú Hải (2018), “Những vấn đề lý luận về phát triển bền vững và kinh tế xanh ở Việt Nam”, Tạp chí khoa học, đại học quốc gia Hà Nội: Nghiên cứu chính sách và quản lý, Tập 34, số 2, 29-39. 7. Ivanovic, O. M., Zubović, J., Mitić, P. (2017), “Relationship between sustainable development and green economy: Emphasis on green finance and banking”, Economics of Agriculture, vol. 4, pp. 1467-1482. 8. Krugman, P. (1995), The Fall and Rise of Development Economics, In: Krugman, P. (Org.) Development, Geography, and Economic Theory. Cambridge, MA: MIT Press, pp.1-29. 9. Meadows, D. H. (1972), The limits to growth. New York: Universe Books, 1972. 10. Trương Quang Học và Hoàng Văn Thắng (2014), “Kinh tế xanh, con đường phát triển bền vững trong bối cảnh biến đổi toàn cầu”, Tạp chí môi trường. 11. UNEP (2011), “Hướng tới Nền kinh tế Xanh - Lộ trìnhcho phát triển bền vững và xóa đói giảm nghèo, 2011”.Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường.
  12. 354 HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA 12. UN-DESA(2015), “Report of the Capacity Building Workshop and Expert Group Meeting on Integrated Approaches to Sustainable Development Planning and Implementation”. 2729­ May 2015, New York, p. 5. 13. Vũ Tuấn Anh(2015),Tiến tới nền kinh tế xanh ở Việt Nam. Xanh hóa sản xuất, NXB Khoa học xã hội, H. 2015. 14. World Bank (2006), “World Development Report 2006 - Equity and Development”. 15. World Commission on Environment and Development (1987), Our Common Future. Oxford: Oxford University Press.