Liên kết vùng để phát triển kinh tế

pdf 9 trang Gia Huy 18/05/2022 2050
Bạn đang xem tài liệu "Liên kết vùng để phát triển kinh tế", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdflien_ket_vung_de_phat_trien_kinh_te.pdf

Nội dung text: Liên kết vùng để phát triển kinh tế

  1. Hội thảo Khoa học “Các vấn đề đương đại trong lĩnh vực Kinh tế, Luật: Từ lí thuyết đến thực tiễn” LIÊN KẾT VÙNG ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ REGIONAL LINKS FOR ECONOMIC DEVELOPMENT TS. Trần Thanh Toàn1 Tóm tắt – Ở Việt Nam, vùng là một khái niệm tương đối phổ biến, được hiểu và phân chia theo những cách thức khác nhau tùy thuộc góc độ nghiên cứu và yêu cầu để chỉ đạo phát triển, yếu tố không gian lãnh thổ và địa – kinh tế là tiêu chí quan trọng để phân vùng. Theo đó, vùng kinh tế được coi là một thực thể khách quan, sự tồn tại của nó là do yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia, mỗi vùng trong những giai đoạn nhất định quyết định, hoặc dựa trên những lợi ích. Từ các điều kiện để liên kết vùng qua kinh nghiệm liên kết kinh tế vùng của một số nước trên thế giới, tham luận chỉ ra bài học kinh nghiệm cho liên kết kinh tế vùng của Việt Nam. Đồng thời, từ kết quả phân tích thực trạng liên kết vùng ở Việt Nam, bài viết đề xuất một số giải pháp để liên kết kinh tế vùng phát triển theo hướng bền vững trong thời gian tới trong giai đoạn toàn cầu hóa hiện nay. Từ khóa: kinh tế vùng, liên kết vùng, phát triển bền vững. 1. LÍ THUYẾT VỀ VÙNG Hiện nay, khái niệm về vùng được sử dụng khá phổ biến, tùy ngành khoa học có những quan niệm khác nhau. Tại Việt Nam, không gian kinh tế vùng bị chia cắt và thu hẹp bởi nhiều cụm ngành kinh tế cùng sản phẩm thế mạnh, mà các tỉnh có lợi thế chung không được liên kết với nhau. Nguyên nhân chủ yếu là do thiếu một mô hình quản lí, cùng với các chính sách vận hành phù hợp với mục tiêu và yêu cầu phát triển của vùng. Bên cạnh đó, có nhiều quan điểm khác nhau về phân định vùng phát triển kinh tế – xã hội. Điều đáng chú ý của quan điểm này là tìm ra các điểm đột phá phát triển và tạo nên các tác động lan tỏa cùng phát triển. 1 Trường Đại học Văn Lang; Email: tranthanhtoan1957@gmail.com 116
  2. Hội thảo Khoa học “Các vấn đề đương đại trong lĩnh vực Kinh tế, Luật: Từ lí thuyết đến thực tiễn” Hiện nay, các nước đang vận dụng lí thuyết này để xây dựng các mô hình phát triển khu chế xuất, vùng kinh tế trọng điểm, khu kinh tế. Quan điểm khác lại thiên về địa chính trị, xem vùng kinh tế là đặc trưng của các nhóm xã hội có liên quan đến các quá trình kinh doanh của các chủ thể kinh tế. Trong các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, hệ thống điều tiết của nhà nước theo vùng ngày càng được hoàn thiện, các nước đều có chung nhận định về vai trò quan trọng của hệ thống điều tiết nhà nước theo vùng, nếu thiếu nó sẽ khó giải quyết được các mục tiêu lớn của quốc gia, như ổn định và phát triển kinh tế, giảm bớt sự bất bình đẳng và tiến tới điều tiết hài hòa cân bằng sự bất bình đẳng về thu nhập, vấn đề việc làm và cải thiện chất lượng cuộc sống của dân cư, vấn đề môi trường và chất lượng sống [1] Thời gian qua, ở Việt Nam, vùng là một khái niệm tương đối phổ biến, được hiểu và phân chia có thể theo những cách thức khác nhau tùy thuộc góc độ nghiên cứu và yêu cầu để chỉ đạo phát triển. Tuy nhiên, yếu tố không gian lãnh thổ và địa – kinh tế là tiêu chí quan trọng để phân vùng. Theo đó, vùng kinh tế được coi là một thực thể khách quan, sự tồn tại của nó là do yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia trong những giai đoạn nhất định quyết định, hoặc dựa trên những lợi ích. Vùng là một bộ phận lãnh thổ của nền kinh tế quốc dân, có cơ cấu khá phức tạp và tổng hợp, có thể hoạt động tương đối độc lập. Qua sự phân tích nhiều quan điểm khác nhau về phân định vùng kinh tế và qua nghiên cứu thực tiễn phát triển kinh tế vùng có thể lưu ý một số điểm khi phân định vùng là: - Một lãnh thổ có các điều kiện tự nhiên và vị trí địa lí tương đồng nhau; - Vị trí kinh tế và trình độ phát triển kinh tế tương hợp; - Đặc trưng của các nguồn lực phát triển tương đồng nhau; - Các quan hệ kinh tế của các nhóm xã hội, của các doanh nghiệp, của các đơn vị hành chính có tác dụng thúc đẩy phát triển hay kìm hãm sự phát triển của các vùng phụ cận [2]. 2. LIÊN KẾT KINH TẾ VÙNG Liên kết vùng là thuật ngữ dành cho những khu vực tiếp giáp với nhau, có liên quan và hỗ trợ lẫn nhau trong các lĩnh vực khác nhau. Sự phân bố và liên kết này giúp việc quản lí dễ dàng và thống nhất hơn. Nhờ đó mà các bộ phận trong liên kết vùng có thể dễ dàng hỗ trợ để đạt được mục tiêu chung hơn so với việc tập trung vào một cá thể duy nhất. 117
  3. Hội thảo Khoa học “Các vấn đề đương đại trong lĩnh vực Kinh tế, Luật: Từ lí thuyết đến thực tiễn” Liên kết kinh tế vùng thực chất là sự liên kết giữa các chủ thể kinh tế khác nhau trong một vùng, dựa trên lợi ích kinh tế là chính, nhằm phát huy lợi thế so sánh, tạo ra tính cạnh tranh kinh tế cao hơn cho một vùng. Các hình thức liên kết kinh tế vùng có thể trên các khía cạnh không gian kinh tế theo lãnh thổ, ngành hàng, tổ chức sản xuất. Chủ trương, chính sách phát triển vùng, liên kết vùng không những tạo động lực phát triển kinh tế mà còn giúp các vùng khó khăn thực hiện tốt chức năng bảo tồn tài nguyên, sinh thái, ổn định an ninh, chính trị, xã hội . Như vậy, liên kết vùng làm tăng khả năng kết nối về mặt không gian kinh tế – tự nhiên và kinh tế – xã hội (KT-XH); tăng hiệu quả quản lí vĩ mô và vi mô của các bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp; tạo lợi thế so sánh trong cạnh tranh và động lực phát triển để phát triển KT-XH hiệu quả và bền vững [3]. * Các điều kiện để liên kết vùng bền vững Tổng kết các cơ sở quan trọng tạo lập liên kết nội vùng và liên vùng như sau: - Các lợi thế so sánh vùng có vai trò quan trọng trong việc hình thành hệ thống phân công lao động và chuyên môn hóa; và do đó hình thành mối liên kết nội vùng và liên vùng. - Lợi thế quy mô nhờ chuyên môn hóa, nhờ quy mô tác động lan tỏa đến các vùng khác nhờ sử dụng các nguyên liệu đầu vào và kiến thức, lao động có kĩ năng Quy mô thị trường và chi phí giao thông giảm sẽ hình thành nên các cụm trung tâm công nghiệp với các cụm ngành có liên kết chuỗi với nhau, hay là hình thành các vùng chuyên canh nông nghiệp gắn liền với nó là công nghiệp chế biến và cơ khí, dịch vụ phục vụ phát triển nông nghiệp của vùng chuyên canh đó. - Sự đồng thuận về thể chế và các nhóm xã hội chia sẻ lợi ích chung, trong đó có lợi ích phát triển riêng của địa phương. Do đó, liên kết vùng là một trong những giải pháp thiết thực hiện nay, liên kết để tái phân công và phối hợp trên quy mô vùng, cả trong đột phá về thể chế, đột phá về phát triển nhân lực và đột phá về phát triển kết cấu hạ tầng tạo đà chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo sức hấp dẫn mới thu hút nguồn vốn đầu tư cho phát triển là rất cấp thiết. Trong những năm qua, chủ trương liên kết vùng của Đảng và Nhà nước đã dần đi vào thực tiễn đất nước, cơ chế, chính sách và hành lang pháp lí có nhiều thuận lợi cho các cấp ngành, địa phương, cơ sở thực hiện hiệu quả liên kết vùng [4]. 118
  4. Hội thảo Khoa học “Các vấn đề đương đại trong lĩnh vực Kinh tế, Luật: Từ lí thuyết đến thực tiễn” Tuy nhiên, trong thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập toàn cầu, liên kết vùng với quá trình tái cấu trúc nền kinh tế nước ta còn nhiều bất cập, đòi hỏi phải sớm có câu trả lời thỏa đáng về chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, cơ chế chính sách, chuỗi giá trị sản phẩm , đặc biệt trong hoàn cảnh nước ta đang chịu sự tác động nhanh, mạnh của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 3. KINH NGHIỆM LIÊN KẾT KINH TẾ VÙNG CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI 3.1. Kinh nghiệm của Cộng hòa Liên bang Đức Đức có nhiều hình thức liên kết vùng rất đa dạng, trong đó, đáng chú ý là liên kết vùng của Vùng Hannover. Lãnh đạo thành phố Hannover và lãnh đạo những địa phương lân cận đã thống nhất và được Quốc hội ban hành đạo luật thành lập Vùng Hannover. Theo Luật này, Vùng Hannover gần như một cấp hành chính độc lập nằm giữa Bang và cấp cơ sở. Ở cấp vùng, người dân bầu ra cơ quan đại diện với thời hạn 5 năm và chủ tịch vùng. Hội đồng có 85 thành viên; Chủ tịch là thành viên của Hội đồng vùng và có quyền bỏ phiếu. Chủ tịch phụ trách toàn bộ bộ máy hành chính [1]. Nguồn thu của ngân sách vùng bao gồm: Đóng góp từ các địa phương thuộc địa bàn và các khoản hỗ trợ từ Bang. Ngoài ra, vùng còn được nhận sự hỗ trợ từ Liên bang và EU. Vùng không có nguồn thu trực tiếp từ thuế. Bên cạnh mô hình mới xuất hiện như vùng Hannover, một hình thức phân vùng mang tính truyền thống ở Đức là mô hình “Đại diện vùng”. “Cấp hành chính” này có thể được coi như là cơ quan đại diện của cấp Bang tại một vùng, nó không có cơ quan dân cử mà chỉ thuần túy là đại diện của cơ quan hành pháp bang. Vùng có trách nhiệm triển khai quy hoạch và kế hoạch phát triển. Vùng xây dựng kế hoạch đồng thời liên xã cũng xây dựng kế hoạch. Mỗi bang có quyền quyết định về lập quy hoạch. 3.2. Kinh nghiệm của Nhật Bản Lãnh thổ Nhật Bản được chia thành 9 vùng, mỗi vùng bao gồm một số tỉnh. Tuy nhiên, theo Hiến pháp Nhật Bản và Luật Tự quản địa phương, vùng liên tỉnh không phải là một cấp hành chính. Do đó, cơ quan quản lí vùng không do dân bầu, mà do chính quyền các tỉnh trong vùng thỏa thuận lập ra và cùng cấp kinh phí hoạt động. Chức năng của cơ quan quản lí vùng khá hạn chế so với chức năng của các chính quyền địa phương trong vùng. Hiện nay, các cơ quan quản lí vùng ở Nhật Bản thực hiện các chức năng như quản lí và lập kế hoạch phát triển các công trình công cộng trong vùng. 119
  5. Hội thảo Khoa học “Các vấn đề đương đại trong lĩnh vực Kinh tế, Luật: Từ lí thuyết đến thực tiễn” Bài học kinh nghiệm cho liên kết kinh tế vùng của Việt Nam: - Liên kết vùng ở các nước là mô hình tự nguyện gần như một cấp hành chính độc lập nằm giữa các tỉnh. Ở cấp vùng, có Hội đồng vùng phụ trách các hoạt động về chính sách, kinh tế, xã hội trong vùng. - Việt Nam nên xây dựng và củng cố hơn nữa mô hình và công cụ quản lí vùng lãnh thổ và phải được luật hóa. - Quốc tế có nhiều mô hình liên kết vùng nhưng dù mô hình nào thì cũng cần có bộ máy và tài chính để triển khai liên kết vùng. Do đó, cần có cơ chế cung cấp tài chính cho cơ quan điều phối vùng. Đồng thời, tăng tính pháp lí để cơ quan điều phối vùng đủ thẩm quyền điều hành các hoạt động chung của vùng. - Hội đồng vùng sẽ là cơ quan xây dựng chương trình phát triển kinh tế, xã hội địa phương trong vùng để đảm bảo có sự phân công trong vùng cũng như phù hợp với quy hoạch vùng đã được phê duyệt [5]. - Các hoạt động xúc tiến đầu tư cần được tiến hành chung trong vùng nhằm phát huy về quy mô của các sự kiện, từ đó có đủ nguồn lực quảng bá cộng đồng quốc tế. 4. THỰC TRẠNG LIÊN KẾT VÙNG Ở VIỆT NAM Thực tế liên kết vùng Việt Nam còn mang tính hình thức, ít được thực thi. Khi thực tiễn đòi hỏi phải có sự phối hợp, hợp tác cùng phát huy các thế mạnh của nhau thì các địa phương chưa cùng bàn với nhau trao đổi các vấn đề cần hợp tác, rất ít các liên kết phát triển diễn ra trên thực tế giữa các địa phương phù hợp với các nguyên lí liên kết vùng và chưa thật sự trở thành một chủ trương có tính nguyên tắc trong tổ chức không gian phát triển của địa phương. Trên thực tế, những liên kết (biên bản ghi nhớ, cam kết) giữa địa phương này với địa phương khác, vùng này với vùng khác đã được xúc tiến để phát huy lợi thế của địa phương, của vùng. Tuy nhiên, các cam kết này không mang tính pháp lí và cũng không có chế tài để đảm bảo sự thực hiện lâu dài và nghiêm túc giữa các bên. Những liên kết này chưa phải là sự liên kết dựa trên các lợi thế phát triển và mang tính tương tác của cực tăng trưởng với các vùng kém phát triển. Đây chỉ là sự hỗ trợ trong phát triển văn hóa. Trong những năm gần đây, các vùng đang tích cực tìm biện pháp để có thể phối hợp thực hiện các ý tưởng liên kết. Tuy nhiên, các cam kết hỗ trợ rất ít đi vào thực tiễn do những nguyên nhân chủ yếu như tính bắt buộc pháp lí thấp, các thỏa thuận thường không kèm theo điều kiện thực thi; nguồn lực cho hợp tác hạn chế; lợi ích địa phương cục bộ vẫn chi phối các hợp tác giữa các địa phương/vùng. 120
  6. Hội thảo Khoa học “Các vấn đề đương đại trong lĩnh vực Kinh tế, Luật: Từ lí thuyết đến thực tiễn” Điều đáng nói ở đây là các ý tưởng liên kết chưa được cụ thể hóa trong các kế hoạch, quy hoạch phát triển mang tính chất dài hạn của từng địa phương, kể cả các địa phương với tư cách như là một cực tăng trưởng. Thiếu sự phối hợp giữa các địa phương trong việc hình thành chính sách thu hút và phân bổ đầu tư. Liên kết giữa nội vùng và ngoại vùng còn hạn chế; sự hợp tác và liên kết vùng còn lỏng lẻo từ quy hoạch phát triển, thu hút đầu tư, phân bổ nguồn lực đến cơ chế phối hợp điều hành. Việc liên kết, hợp tác nội vùng và liên vùng về cơ bản vẫn chưa có bước tiến mạnh về chất và những thay đổi mang tính đột phá. Dường như các sáng kiến, các hoạt động vẫn chưa thực sự tạo ra động lực đủ mạnh giữa các địa phương trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội; chênh lệch về trình độ phát triển và mức sống dân cư giữa các vùng còn khá lớn. Sự mất cân đối thể hiện ở chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế; về điều kiện kết cấu hạ tầng và tiếp cận, hưởng thụ các dịch vụ văn hóa, giáo dục, y tế giữa các vùng vẫn còn lớn. Kết cấu hạ tầng vùng và liên vùng đã được cải thiện, song còn chưa đồng bộ, đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng thiết yếu vẫn chậm, chất lượng thấp, tính kết nối, tính liên hoàn, tính đồng bộ và hợp lí còn hạn chế, thiếu trọng điểm vào các khu kinh tế để thu hút đầu tư, còn theo chiều rộng. Nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại: - Thiếu các thể chế quản trị vùng. Đây là loại vùng phục vụ việc hoạch định chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội theo lãnh thổ cũng như để quản lí các quá trình phát triển kinh tế – xã hội trên mỗi vùng của đất nước, là tổ hợp các đơn vị hành chính – lãnh thổ cấp tỉnh bao gồm nhiều chủ thể độc lập. - Thiếu sự phối hợp giữa các địa phương trong việc hình thành chính sách thu hút và phân bổ đầu tư. Thực tế hiện nay, giữa các tỉnh hầu như không có liên kết thu hút đầu tư, thậm chí giữa các tỉnh còn diễn ra tình trạng cạnh tranh, chạy đua thu hút đầu tư không lành mạnh. Tình trạng này khiến lợi ích tổng thể giảm sút ở cấp độ quốc gia cũng như từng vùng và ngay ở trong các tỉnh. - Thiếu sự liên kết trong quy hoạch giữa các tỉnh, thành phố trong một vùng. Quy hoạch giữa cấp trên và cấp dưới thiếu tính đồng bộ, hơn nữa quy hoạch giữa các tỉnh cũng thiếu sự gắn kết, phối hợp. - Phân định vùng còn nhiều vấn đề đặt ra cần nghiên cứu. Việc phân vùng như hiện nay chỉ là phép cộng gồm nhiều đơn vị hành chính – lãnh thổ (tỉnh, thành phố) với nhau, chưa hẳn đã là một lãnh thổ có các điều kiện 121
  7. Hội thảo Khoa học “Các vấn đề đương đại trong lĩnh vực Kinh tế, Luật: Từ lí thuyết đến thực tiễn” tự nhiên và vị trí địa lí tương đồng nhau, sự tương hợp về vị trí kinh tế và trình độ phát triển kinh tế; đặc trưng của các nguồn lực phát triển tương đồng nhau, tác dụng thúc đẩy hay kìm hãm sự phát triển của các vùng khác; đặc trưng khác biệt của vùng so với các vùng khác hay nói cách khác là lợi thế so sánh của vùng. Tìm hiểu nguyên nhân của vấn đề cho thấy, mỗi tỉnh có mỗi lợi ích riêng khi thực quy hoạch. Khi xây dựng quy hoạch không tham khảo quy hoạch lẫn nhau giữa các tỉnh. Mặt khác "do loạn quy hoạch, người hoạch định quy hoạch chỉ tham khảo các quy hoạch trong tỉnh" cũng đã khá mất nhiều thời gian, không còn thời gian để tham khảo các tỉnh liền kề. Như vậy, phát triển vùng hiện nay đang đặt ra các vấn đề cần giải quyết, và cần có những đột phá thực sự trong cơ chế liên kết mới có thể giúp các địa phương bật dậy, khai thác được các lợi thế cạnh tranh, phát triển nền kinh tế có hiệu quả để vượt qua khủng hoảng [6]. 5. GIẢI PHÁP ĐỂ LIÊN KẾT VÙNG KINH TẾ PHÁT TRIỂN THEO HƯỚNG BỀN VỮNG, TRONG THỜI GIAN TỚI CẦN - Hoàn thiện quy hoạch phát triển kinh tế từng vùng trên cơ sở lợi thế so sánh của từng địa phương, khắc phục không gian kinh tế bị chia cắt bởi địa giới hành chính. Trên cơ sở các quy hoạch và kế hoạch được phê duyệt, tập trung các nguồn lực của Nhà nước và các thành phần kinh tế để đầu tư, phát triển hạ tầng kinh tế – xã hội, đặc biệt là kết cấu hạ tầng giao thông, đô thị và nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới Cần tạo lập cơ chế, chính sách để thu hút mạnh mẽ các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia hình thành và phát triển kinh tế vùng, ưu tiên tập trung vào các lĩnh vực thuộc thế mạnh của từng vùng - Cần tổ chức sản xuất với chuỗi giá trị liên kết vùng, liên kết với các chuỗi giá trị quốc tế, nhất là đối với những sản phẩm chủ lực, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm. Tạo lập thể chế kinh tế ưu đãi cho các vùng kinh tế trọng điểm để các vùng này thật sự trở thành đầu tàu, động lực lan tỏa vùng ngoại vi và cả nước. Tích cực hội nhập quốc tế về khoa học công nghệ, kĩ thuật canh tác, tiêu chuẩn, chất lượng an toàn vệ sinh thực phẩm - Hoàn thiện thể chế phân quyền, phân cấp giữa Trung ương và địa phương, rất cần có tổ chức chủ trì điều phối cho toàn vùng, vừa bảo đảm tập trung thống nhất của nền kinh tế, vừa phát huy tính chủ động, sáng tạo của địa phương. Đổi 122
  8. Hội thảo Khoa học “Các vấn đề đương đại trong lĩnh vực Kinh tế, Luật: Từ lí thuyết đến thực tiễn” mới hệ thống chỉ tiêu phát triển kinh tế – xã hội của quốc gia và địa phương, chú trọng nghiên cứu bổ sung các chỉ tiêu về chất lượng tăng trưởng. - Mỗi vùng cần có những mô hình thí điểm để thực tế hiệu quả vận hành của các chủ trương, chính sách và pháp luật của Nhà nước, để có thể đánh giá, rút kinh nghiệm và điều chỉnh các chủ trương phù hợp tình hình thực tế. - Các nhà khoa học, chuyên gia cần tiếp tục nghiên cứu, đề xuất các giải pháp thúc đẩy phân vùng hợp lí, khoa học, phù hợp với thực tiễn; hoàn thiện quy hoạch phát triển vùng trên cơ sở lợi thế so sánh của từng địa phương; tận dụng lợi thế của sự kết nối trên “không gian ảo” để liên kết vùng toàn diện. - Phát triển vùng là một quá trình lâu dài và phức tạp, cho nên cần nhận thức đầy đủ về vị trí vai trò của công việc này và xây dựng được một cơ sở lí luận vững chắc thông qua việc bồi dưỡng, đào tạo cán bộ thuộc các cơ quan xây dựng chính sách có đủ trình độ, năng lực xây dựng và thực hiện có hiệu quả các chiến lược, chương trình, các chính sách phát triển vùng (ý kiến cá nhân ông Lê Vĩnh Tân – UVTW Đảng, Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương, 2015). - Nhà nước cần sớm nghiên cứu mô hình một cơ quan tổ chức tư vấn phát triển vùng phù hợp. Vùng không phải là một đơn vị hành chính hay một khu vực hành chính, đồng thời vùng cũng không phải là phép cộng đơn thuần của các đơn vị hành chính. Do vậy, để tăng cường khả năng phối hợp hoạt động các địa phương trong vùng có thể thành lập hội đồng tư vấn phát triển vùng. - Để có nguồn vốn hỗ trợ phát triển vùng, ngoài nguồn vốn từ ngân sách nhà nước để xây dựng các công trình hạ tầng lớn, cần phải huy động cả hệ thống xã hội vào giải quyết vấn đề này, kể cả thu hút nguồn vốn từ bên ngoài. 6. KẾT LUẬN Liên kết vùng là một trong những giải pháp thiết thực hiện nay, liên kết để tái phân công và phối hợp trên quy mô vùng, cả trong đột phá về thể chế, đột phá về phát triển nhân lực và đột phá về phát triển kết cấu hạ tầng tạo đà chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo sức hấp dẫn mới thu hút nguồn vốn đầu tư cho phát triển là rất cấp thiết. Liên kết kinh tế vùng sẽ tạo ra sức mạnh tổng hợp để đủ sức đối phó với những vấn đề phát triển bền vững, cân bằng giữa mục tiêu tăng trưởng kinh tế với các mục tiêu bảo vệ môi trường và ổn định xã hội trong điều kiện hội nhập và phát triển kinh tế quốc tế. Các địa phương trong từng vùng cần chủ động xây dựng các dự án quy hoạch các vùng liên kết để hình thành các vùng sản xuất quy mô lớn có cùng chung về chiến lược, sản phẩm, quy hoạch, kêu gọi đầu tư, hệ thống quản lí chất 123
  9. Hội thảo Khoa học “Các vấn đề đương đại trong lĩnh vực Kinh tế, Luật: Từ lí thuyết đến thực tiễn” lượng, phát triển các chuỗi giá trị quy mô lớn trong tình hình cạnh tranh quốc tế hiện nay. Cần phải nghiên cứu cụ thể về cơ chế vùng, liên vùng và có các văn bản pháp lí cần thiết để điều tiết, kiểm soát, phát huy tối đa khả năng liên vùng để thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội. Liên kết vùng là vấn đề cần thiết đã được đề cập từ lâu, song chưa có những quy định, chế tài, cơ chế, chính sách cụ thể, có các giải pháp thật cụ thể để phối hợp giữa các tỉnh, ngành, các địa phương để thực hiện liên kết vùng. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Lê Xuân Bá. Tổng quan về tái cơ cấu kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng ở Việt Nam, Viện Nghiên cứu Quản lí Kinh tế Trung ương. 2017. [2] Viện Nghiên cứu Quản lí Kinh tế Trung ương. Báo cáo khảo sát liên kết giữa các địa phương trong phát triển kinh tế vùng tại Cộng hòa Liên bang Đức. 2011. [3] Hoàng Thị Tư. Vai trò của liên kết vùng trong tái cơ cấu kinh tế chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Ban Kinh tế Trung ương. 2017. [4] Chu Thúc Đạt. Liên kết khai thác tiềm năng, lợi thế của các địa phương trong phát triển. Vụ Phát triển KH&CN Địa phương, Bộ KH&CN. 2017. [5] Bùi Tất Thắng. Liên kết vùng để phát triển và thu hút đầu tư. Bộ Kế hoạch và Đầu tư. 2018. [6] Vương Phương Hoa. Liên kết vùng trong quá trình tái cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Truy cập từ nh-te-chuyen-doi-mo-hinh-tang-truong-133810.html [Ngày truy cập 22/11/2020]. - 124