Mối quan hệ giữa khả năng tự kiểm soát và tính gây hấn của học sinh trung học cơ sở
Bạn đang xem tài liệu "Mối quan hệ giữa khả năng tự kiểm soát và tính gây hấn của học sinh trung học cơ sở", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- moi_quan_he_giua_kha_nang_tu_kiem_soat_va_tinh_gay_han_cua_h.pdf
Nội dung text: Mối quan hệ giữa khả năng tự kiểm soát và tính gây hấn của học sinh trung học cơ sở
- Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghiên cứu Giáo dục, Tập 33, Số 1 (2017) 1-9 Mối quan hệ giữa khả năng tự kiểm sốt và tính gây hấn của học sinh trung học cơ sở Trần Văn Cơng*, Nguyễn Thị Hồng, Lý Ngọc Huyền Trường Đại học Giáo Dục, ĐHQGHN, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam Nhận ngày 26 tháng 5 năm 2016 Chỉnh sửa ngày 08 tháng 9 năm 2016; Chấp nhận đăng ngày 15 tháng 03 năm 2017 Tĩm tắt: Nghiên cứu này nhằm tìm hiểu mối quan hệ giữa khả năng tự kiểm sốt và tính gây hấn của học sinh THCS. Một bảng hỏi tự thuật (self-report) và bảng hỏi do bạn bè đánh giá (peer-report) đã được thực hiện trên 371 học sinh của 3 trường THCS tại địa bàn Hà Nội. Kết quả từ bảng hỏi do bạn bè đánh giá cho thấy cĩ 25/371 học sinh (chiếm 6.74%) thường xuyên cĩ biểu hiện gây hấn. Với số liệu tự đánh giá, phân tích nhân tố thang đo khả năng tự kiểm sốt cho thấy 2 nhân tố là tự kiểm sốt tiêu cực và tự kiểm sốt tích cực; thang đo tính gây hấn gồm 2 nhân tố: gây hấn hành vi và gây hấn thái độ. Kết quả nghiên cứu cho thấy tương quan nghịch giữa tự kiểm sốt và gây hấn, và tự kiểm sốt là biến độc lập dự đốn mức độ và biểu hiện gây hấn. Từ khĩa: Tự kiểm sốt, gây hấn, học sinh, trung học cơ sở, thang đo. 1. Tổng quan * vụ việc của học sinh lớp 7 đã bị đánh hội đồng vì khơng nghe lệnh của bạn khác2, v.v Bạo lực học đường là vấn nạn trong xã hội Tính gây hấn là một vấn đề chung của hiện nay, diễn ra dưới nhiều hình thức như trực những trẻ đang ở độ tuổi đến trường và là kết tiếp hoặc gián tiếp, trên mọi cấp độ từ việc trêu quả tác động tâm lí, giáo dục và xã hội mang đùa, nĩi xấu đến những vụ bạo lực [1]. Các em tính tiêu cực ở cả người gây hấn và nạn nhân nữ thường chọn cách gây hấn gián tiếp làm nạn [3], bao gồm những biểu hiện mang tính chất nhân tổn thương về tinh thần hơn là về mặt thể xâm hại, nhằm làm tổn thương người khác, chất [1, 2] trái lại, các em nam lại gây hấn cơng chính bản thân mình hoặc các vật thể xung khai phổ biến hơn [1]. Phần lớn các mâu thuẫn quanh một cách cĩ chủ đích mặc dù cĩ đạt được ấy đều được châm ngịi từ những xích mích rất hay khơng [1, 4, 5]. Tuy nhiên, về thuật ngữ, nhỏ nhặt của lứa tuổi học trị. Điển hình là hành vi gây hấn lại khơng đồng nhất với bạo trường hợp của một học sinh lớp 11, vì mâu lực. Hành vi bạo lực là hậu quả của hành động thuẫn nhỏ trên facebook đã bị một nhĩm bạn 1 thì hành vi gây hấn lại là bản chất của hành đánh khiến em khơng thể cất lên tiếng nĩi hay động [1]. Về mức độ gây hấn, theo kết quả nghiên cứu của Trần Thị Minh Đức và cộng sự ___ * Tác giả liên hệ. ĐT.: 84-978205905. ___ Email: congtv@vnu.edu.vn 2 Cửu Long, Nữ sinh bị đánh hội đồng vì khơng tuân lệnh 1 M.C, Nữ sinh Phú Thọ bị bạn đánh cấm khẩu đã nĩi lớp trưởng, được, bi-danh-hoi-dong-vi-khong-tuan-lenh-lop-truong- bi-ban-danh-cam-khau-da-noi-duoc-1428363351.htm 3156054.html?commentid=10791780 1
- 2 T.V. Cơng và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghiên cứu Giáo dục, Tập 33, Số 1 (2017) 1-9 (2008 - 2010), chỉ cĩ 0,1% học sinh khơng bao gây ra hành vi gây hấn. Sự tự kiểm sốt kém giờ gây hấn, 95,3% học sinh thỉnh thoảng cĩ dẫn đến rất nhiều tệ nạn như nghiện ma túy, gây hấn và 4,5% học sinh gây hấn thường nghiện rượu và lạm dụng các chất cấm [12]. xuyên. Về mức độ bị gây hấn của học sinh bởi Sự phát triển tâm lí phụ thuộc rất lớn vào những bạn cùng học, số liệu nghiên cứu cho yếu tố mơi trường. Mỗi cá nhân muốn tồn tại và thấy 2,6% học sinh thường xuyên bị gây hấn và phát triển bao giờ cũng cần cĩ một yếu tố hiện 97,4% học sinh thỉnh thoảng bị gây hấn trong thực với nhiều lực tác động trực tiếp và gián phạm vi học đường [6]. tiếp. Tác động của xã hội tới mối quan hệ giữa Gây hấn cĩ rất nhiều nguyên nhân tuy nhiên khả năng tự kiểm sốt và tính gây hấn của học yếu tố quyết định chính vẫn là sự thất bại của sinh THCS cĩ thể xem xét dưới các khía cạnh khả năng tự kiểm sốt [7]. Tự kiểm sốt là khả sau đây: yếu tố gia đình, yếu tố nhĩm bạn và năng điều chỉnh suy nghĩ, cảm xúc, hành vi và nhà trường. Ngồi ra, cịn cĩ những yếu tố ảnh ham muốn của bản thân, đặc biệt trong những hưởng khác như nghiện game online bạo lực [5, tình huống khĩ khăn giúp cá nhân trở nên phù 17], xu hướng cầu tồn [12], sử dụng các chất hợp với yêu cầu của mơi trường xung quanh và kích thích [18] cũng ảnh hưởng tới khả năng tự giảm thiểu, bác bỏ những hành vi tiêu cực kiểm sốt và hành vi gây hấn. khơng mong muốn [8- 12]. Mặc dù vậy, khả Trong nghiên cứu này, chúng tơi lựa chọn năng tự kiểm sốt chỉ là một nguồn năng lượng nghiên cứu trên học sinh THCS bởi nhiều lí do. cĩ giới hạn và sẽ bị suy kiệt [13-15]. Khi sử Trước hết, các kết quả nghiên cứu đã cho thấy dụng khả năng tự kiểm sốt đồng nghĩa với việc rằng, hành vi gây hấn đang là một vấn nạn hiện ta đang tiêu hao nĩ, ít nhất tại một thời điểm nay, đặc biệt là dưới hình thức bạo lực học nào đĩ [15]. Mỗi cá nhân khi sinh ra đã cĩ mức đường. Tuy nhiên, tại Việt Nam, các nghiên độ tự kiểm sốt khơng giống nhau [12]. Nhưng cứu về tính gây hấn lại chủ yếu tập trung vào mức độ khả năng tự kiểm sốt khơng hề cố định đối tượng khách thể là học sinh THPT [1, 6], theo thời gian mà cĩ thể được cải thiện thơng chưa cĩ một nghiên cứu cụ thể về mối quan hệ qua việc rèn luyện [7, 16]. Sự nỗ lực rèn luyện giữa khả năng tự kiểm sốt và tính gây hấn của của mỗi cá nhân cĩ thể làm tăng khả năng tự học sinh nĩi chung, đặc biệt là học sinh THCS. kiểm sốt và giảm thiểu hành vi gây hấn [7]. Đây cũng là lứa tuổi thiếu niên tính từ 11 đến Mối quan hệ giữa khả năng tự kiểm sốt và 15 tuổi. Sự thay đổi về sinh lí cũng ảnh hưởng tính gây hấn đã được rất nhiều nhà nghiên cứu rõ rệt tới sự thay đổi về tâm lí trong giai đoạn đề cập tới. Theo Denson và cộng sự (2011), này, quá trình hưng phấn chiếm ưu thế rõ rệt, sự DeWall và cộng sự (2007): Khi năng lực kiểm ức chế bị kém đi dẫn đến nhiều khi thiếu niên sốt giảm, đặc biệt là sau một hành vi xúc phạm khơng làm chủ được mình, [19, tr.178], khả năng lăng mạ, khi sự tự điều tiết giảm, người trong kiểm sốt bản thân khá kém, khĩ kìm chế và tạo cuộc cĩ nhiều khả năng gây hấn [7, 9]. Theo điều kiện để hành vi gây hấn dễ dàng bộc lộ. Kim và cộng sự (2008), khả năng tự kiểm sốt Do đĩ, việc nghiên cứu về mối quan hệ giữa tỉ lệ nghịch với nghiện trị chơi trực tuyến khả năng tự kiểm sốt và tính gây hấn sẽ gĩp (game online) và tính gây hấn lại tỉ lệ thuận với phần tìm hiểu mức độ tự kiểm sốt, thực trạng game online [17]. Cịn Stucke và cộng sự của hành vi gây hấn và các yếu tố liên quan. Từ (2006) qua 3 thí nghiệm lại một lần nữa khẳng đĩ, đưa ra thực trạng vấn đề cĩ cơ sở khoa học, định: Nếu khả năng tự kiểm sốt bị hạn chế thì gĩp phần đề xuất những khuyến nghị giúp xây khả năng ức chế hành vi gây hấn thấp hơn và dựng mơi trường học đường an tồn, lành dẫn đến mức độ của hành vi gây hấn cũng được mạnh; đồng thời hỗ trợ cho cơng tác của giáo thực hiện mạnh mẽ hơn [18]. Tangney và cộng viên, các nhà tư vấn tâm lí học đường trong sự (2004) trong phần vai trị của sự tự kiểm sốt việc đưa ra biện pháp khắc phục, giảm thiểu cĩ chỉ ra rằng, Tự kiểm sốt cĩ vai trị trực tiếp vấn nạn hành vi gây hấn và nâng cao mức độ kiềm chế sự bốc đồng, nguyên nhân trực tiếp kiểm sốt ở học sinh THCS.
- T.V. Cơng và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghiên cứu Giáo dục, Tập 33, Số 1 (2017) 1-9 3 2. Phương pháp nghiên cứu mơ tả, tương quan, so sánh, phân tích nhân tố và hồi quy tuyến tính. Tiến hành phân tích nhân Trong nghiên cứu này, chúng tơi đã tiến tố với 2 bảng hỏi khả năng tự kiểm sốt và tính hành khảo sát bằng bảng hỏi tự thuật (self- gây hấn chúng tơi đã xác định, thang đo khả report) và bảng bạn bè đánh giá (peer-report) năng tự kiểm sốt gồm 2 nhân tố: kiểm sốt tiêu trên 371 học sinh tại 3 trường THCS trên địa cực (với hệ số tin cậy bên trong Cronbach alpha bàn Hà Nội. Khách thể tương đối đồng đều về α=0.87) và kiểm sốt tích cực (với hệ số tin cậy giới tính với 198 học sinh nữ (chiếm 53.95%) bên trong Cronbach alpha α=0.85). Thang đo và 169 học sinh nam (chiếm 46.05%). Khi sử tính gây hấn gồm 2 nhân tố: gây hấn hành vi dụng bảng bạn bè đánh giá, chúng tơi đã xác (với hệ số tin cậy bên trong Cronbach alpha định được 25/371 học sinh (chiếm 6.74%) α=0.89) và gây hấn thái độ (với hệ số tin cậy thường xuyên cĩ biểu hiện gây hấn. bên trong Cronbach alpha α= 0.80). Bảng hỏi tự thuật cho học sinh gồm 2 thang đo về khả năng tự kiểm sốt và tính gây hấn. Thang đo khả năng tự kiểm sốt được tham 3. Kết quả và thảo luận khảo và tổng hợp từ các thang đo trong 4 cơng trình nghiên cứu, cụ thể là thang đo khả năng tự 3.1. Kết quả nghiên cứu kiểm sốt SCS5 của Rosenbaum (1980) [20], Self-control Scale của Tangney và cộng sự Thực trạng khả năng tự kiểm sốt (2004) [12], thang đo Grasmick et al. Scale của Sử dụng T-test để so sánh giữa các nhân tố Higgins (2007) [21] và bảng hỏi SRQ6 của khả năng tự kiểm sốt. So sánh mức độ của các Carey và cộng sự (2004) [22]. Từ đĩ, xây dựng loại tự kiểm sốt, chúng tơi thấy được rằng các thang đo khả năng tự kiểm sốt cho nghiên cứu em thường cĩ xu hướng kiểm sốt tích cực tốt bao gồm 81 câu miêu tả khả năng tự kiểm sốt, (M3=3.39) hơn kiểm sốt tiêu cực (M=3.18) và 3 câu miêu tả tính cầu tồn với 5 mức độ để cá kết quả này cĩ ý nghĩa thống kê với p4=0.00 nhân học sinh tự đánh giá như 1: Hồn tồn (t=-5.22). khơng giống với tơi, 2: Khơng giống với tơi, 3: Dùng ANOVA để tìm sự khác biệt về giới Giống tơi một chút, 4: Giống tơi khá nhiều, 5. của các nhân tố trên, chúng tơi nhận thấy rằng Hồn tồn giống với tơi. Về thang đo biểu hiện cĩ sự khác biệt về giới trong khả năng tự kiểm tính gây hấn, chúng tơi đã tham khảo các thang sốt tiêu cực (p=0.04, F5=4.16). Cụ thể, khả đo The Overt Aggression Scale của Yudofsky năng tự kiểm sốt tiêu cực của các em nam và cộng sự (1986) [23], bảng hỏi The (M=3.24) cĩ xu hướng tốt hơn so với các em nữ Aggression Questionnaire của Buss và cộng sự (M=3.12). Ngồi ra, khi so sánh các nhân tố (1992) [24], The Aggression Scale của Orpinas kiểm sốt, chúng tơi nhận thấy cĩ sự khác biệt và cộng sự (2001) [25]. Thang đo về tính gây về mức độ kiểm sốt tích cực với học lực hấn bao gồm 53 câu miêu tả cụ thể các biểu (F=6.85; p=0.00). Kết quả nghiên cứu cho hiện của tính gây hấn được thiết kế dưới dạng thấy, những em học lực xuất sắc cĩ điểm trung câu trả lời theo mức độ: 1: Khơng bao giờ, 2: bình kiểm sốt tích cực ở mức độ cao nhất Hiếm khi, 3: Thỉnh thoảng, 4: Thường xuyên. (M=3.86) rồi đến học lực yếu (M=3.51), học Đồng thời, bảng hỏi cịn khảo sát các yếu tố liên lực khá (M=3.37) và cuối cùng là học lực trung quan bao gồm: yếu tố nhân khẩu học, mơi trường bình (M=3.11). sống, sự ảnh hưởng của game bạo lực, phim ảnh. Thực trạng tính gây hấn Cả hai thang đo này đều thể hiện các thơng số tin cậy và hiệu lực ở mức độ tốt hoặc chấp nhận được (xem thêm [26, 27]) ___ 3 Từ số liệu thu được, chúng tơi xử lí bằng M (Mean): Điểm trung bình 4 p: Hệ số xác suất phần mềm SPSS với một số phân tích thống kê 5 F: Hệ số Fisher
- 4 T.V. Cơng và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghiên cứu Giáo dục, Tập 33, Số 1 (2017) 1-9 Tương tự, chúng tơi cũng tiến hành so sánh hơn học sinh nữ (M=1.81 so với M=1.60) (với cặp đơi T-test để so sánh các nhân tố tính gây p=0.00, F=15.33) và học sinh nữ lại cĩ xu hấn. Học sinh cĩ xu hướng gây hấn thái độ hướng thực hiện hành vi gây hấn thái độ nhiều (M=2.45) nhiều hơn gây hấn hành vi (M=1.69) hơn nam giới (M=2.52 so với M=2.37) (với và sự khác biệt này là cĩ ý nghĩa thống kê với p=0.01, F=6.90), Ngồi ra, kết quả nghiên cứu p=0.00 (t=-24.73). cịn cho thấy rằng cĩ tương quan thuận ở mức 6 Dùng ANOVA để tìm ra sự khác biệt giới độ trung bình (r =0.42 ) giữa gây hấn thái độ của gây hấn hành vi và gây hấn thái độ. Chỉ số và gây hấn hành vi. Tương quan này cho thấy, ở p đều nhỏ hơn 0.05, cĩ sự khác biệt rõ ràng về một số học sinh cĩ biểu hiện gây hấn thái độ giới về mức hộ gây hấn hành vi và gây hấn thái cao cũng sẽ cĩ xu hướng gây hấn hành vi cao. độ. Kết quả nghiên cứu cho thấy, học sinh nam Mối quan hệ giữa khả năng tự kiểm sốt và cĩ xu hướng thực hiện gây hấn hành vi nhiều tính gây hấn Bảng 1. Bảng tương quan các nhân tố khả năng tự kiểm sốt và tính gây hấn Nhân tố (1) (2) (3) (4) (1) Kiểm sốt tiêu cực 1 (2) Kiểm sốt tích cực 0.01 1 (3) Gây hấn hành vi -0.33 -0.13* 1 (4) Gây hấn thái độ -0.58 0.04 0.42 1 p Quan sát bảng tương quan, chúng tơi nhận Bảng 2. Tổng hợp các trị số trong phân tích hồi quy thấy cĩ tương quan nghịch ở mức độ trung bình tuyến tích đa biến các nhân tố gây hấn với các nhân giữa kiểm sốt tiêu cực với gây hấn hành vi tố khả năng tự kiểm sốt (r=-0.33 ). Tương quan nghịch ở mức độ cao Gây hấn Gây hấn giữa kiểm sốt tiêu cực với gây hấn thái độ (r=- hành vi thái độ Giá trị tương 0.58 ), tức là ở những em cĩ kiểm sốt tiêu 0.36 0.59 cực càng cao đồng nghĩa với việc càng ít cĩ quan bội (R) Hệ số xác định biểu hiện gây hấn hành vi, gây hấn thái độ và 2 0.13 0.34 6 bội (R ) ngược lại. , Kiểm sốt Khi thực hiện khảo sát, chúng tơi cũng thu 0.01 0.22 thập được số liệu báo cáo của các bạn cùng lớp tích về những bạn thường xuyên cĩ hành vi gây hấn Hệ số cực p Kiểm với các bạn khác. Kết quả cho thấy rằng mức độ sốt 0.00 0.00 tự kiểm sốt tiêu cực của nhĩm học sinh bị báo tiêu cáo thường xuyên gây hấn so với nhĩm học cực sinh khơng bị báo cáo là cĩ sự khác biệt mang ý nghĩa thống kê (p=0.05, F=4.12). Cụ thể, ở học Tiến hành phân tích hồi quy đa biến giữa sinh bị báo cáo, mức độ tự kiểm sốt tiêu cực các nhân tố gây hấn với các nhân tố khả năng tự kiểm sốt: Giá trị tương quan bội là R=0.36 và (M=2.96) thấp hơn so với những bạn cịn lại mức độ kiểm sốt tích cực và mức độ kiểm sốt (M=3.19). 2 tiêu cực giải thích được 13% (R =0.13) mức độ gây hấn hành vi. Kiểm sốt tích cực và kiểm ___ sốt tiêu cực là yếu tố độc lập cĩ ý nghĩa dự 6 r: Hệ số tương quan
- T.V. Cơng và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghiên cứu Giáo dục, Tập 33, Số 1 (2017) 1-9 5 đốn mức độ gây hấn hành vi. Giá trị tương được 34% (R2 =0.34) mức độ gây hấn thái độ. quan bội là R=0.59 và mức độ kiểm sốt tích Kiểm sốt tiêu cực là yếu tố độc lập cĩ ý nghĩa cực và mức độ kiểm sốt tiêu cực giải thích dự đốn mức độ gây hấn thái độ. Bảng 3. Tổng hợp các trị số trong phân tích hồi quy tuyến tích đa biến các nhân tố gây hấn với các yếu tố liên quan Gây hấn hành vi Gây hấn thái độ Giá trị tương quan bội (R) 0.43 0.62 Hệ số xác định bội (R2) 0.19 0.38 Kiểm sốt tích cực 0.01 0.30 Kiểm sốt tiêu cực 0.00 0.00 Hệ Giới tính 0.00 0.44 số p Cách ứng xử trong gia đình 0.14 0.10 Mức độ chơi game giải trí 0.95 0.36 Điểm trung bình mức độ cầu tồn 0.42 0.00 y Tiến hành phân tích hồi quy đa biến với các hành vi và gây hấn thái độ đều nhạy trước sự nhân tố kiểm sốt, gây hấn với các yếu tố khác thay đổi của các chỉ báo (biến độc lập). như: giới tính, cách ứng xử trong gia đình, mức Đặc biệt, từ kết quả nghiên cứu, gây hấn về độ chơi game, điểm trung bình mức độ cầu mặt hành vi cĩ nhiều chỉ số cĩ thể dự đốn tồn, điểm trung bình mức độ khả năng tự kiểm được hơn gây hấn thái độ, hay nĩi cách khác nĩ sốt tích cực, mức độ khả năng tự kiểm sốt cĩ vẻ như được gây ra bởi các yếu tố bên ngồi tiêu cực, kết quả trong bảng trên cho thấy: Giá nhiều hơn. trị tương quan bội là R=0.43 và tất cả 6 yếu tố Xem xét các yếu tố liên quan đến khả năng 2 này giải thích được 19% (R =0.19) mức độ gây tự kiểm sốt và tính gây hấn, kết quả cho thấy: hấn hành vi. Kiểm sốt tích cực, kiểm sốt tiêu Mức độ cầu tồn cĩ tương quan nghịch mức cực, giới tính là yếu tố độc lập cĩ ý nghĩa dự độ trung bình với kiểm sốt tiêu cực đốn mức độ gây hấn hành vi. Các yếu tố cịn (r=0.39 ), tương quan trung bình với kiểm lại như cách ứng xử trong gia đình và giới tính sốt tích cực (r=0.38 ), tương quan trung bình cĩ rất ít ảnh hưởng đến mức độ gây hấn hành với gây hấn thái độ (r=0.41 ) và tương quan ở vi. Giá trị tương quan bộ là R=0.62 và tất cả 6 mức độ thấp với gây hấn hành vi (r=0.12*). Kết yếu tố này giải thích được 38% (R2 =0.38) mức quả này cho thấy, ở một số học sinh, mức độ độ gây hấn thái độ. Kiểm sốt tiêu cực, điểm cầu tồn càng cao, khả năng tự kiểm sốt tiêu trung bình mức độ cầu tồn là yếu tố độc lập cĩ cực càng thấp, khả năng tự kiểm sốt tích cực ý nghĩa dự đốn mức độ gây hấn thái độ. càng cao, mức độ gây hấn hành vi ở mức độ Kết quả phân tích hồi quy đa biến giữa các thấp và gây hấn thái độ ở mức độ trung bình. nhân tố gây hấn và các nhân tố tự kiểm sốt và Ngồi ra các yếu tố cách ứng xử trong gia kết quả phân tích hồi quy đa biến giữa các nhân đình, cách ứng xử của cha mẹ khi con phạm tố gây hấn và yếu tố khác liên quan là cĩ sự lỗi, đặc điểm của khu vực sinh sống quan hệ thay đổi. Tính dự đốn thay đổi (cụ thể đối với bạn bè và chơi game bạo lực cũng cĩ ảnh gây hấn hành vi R2=0.13 so với R2=0.19, gây hưởng trực tiếp đến khả năng tự kiểm sốt và hấn thái độ R2=0.34 so với R2 =0.38) cĩ nghĩa hành vi gây hấn. là biến được dự đốn (biến phụ thuộc) gây hấn
- 6 T.V. Cơng và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghiên cứu Giáo dục, Tập 33, Số 1 (2017) 1-9 3.2. Bàn luận kết quả nghiên cứu hướng gây hấn cơng khai phổ biến hơn [1]. Tác giả Lagerspetz và cộng sự (1988) cũng đã thực Về khả năng tự kiểm sốt hiện nghiên cứu khác biệt về giới liên quan đến Từ kết quả nghiên cứu, chúng tơi nhận thấy hành vi gây hấn, kết quả cho thấy, các em nữ sử rằng cĩ sự khác biệt về học lực giữa khả năng dụng nhiều phương tiện gây hấn gián tiếp, trong kiểm sốt tích cực. Cụ thể, những học sinh cĩ khi các em nam lại cĩ xu hướng sử dụng các học lực xuất sắc và giỏi lại cĩ mức độ kiểm sốt phương tiện gây hấn trực tiếp [2]. tốt hơn. Kết quả này tương đồng với nghiên cứu Về mối quan hệ giữa khả năng tự kiểm sốt của Tangney và cộng sự (2004), những người cĩ và tính gây hấn mức độ kiểm sốt cao sẽ đạt kết quả tốt hơn trong Theo kết quả nghiên cứu, chúng tơi kết luận học tập so với người cĩ mức độ kiểm sốt thấp. rằng cĩ tương quan nghịch ở khả năng tự kiểm Bởi những học sinh cĩ mức độ tự kiểm sốt kém sốt và gây hấn hành vi. Nghĩa là ở một số học thường cĩ xu hướng trì hỗn nhiệm vụ được giao, sinh, khả năng tự kiểm sốt kém sẽ dẫn tới xu dẫn đến hiệu quả học tập khơng tốt [15]. hướng thực hiện hành vi gây hấn. Kết quả này Về tính gây hấn tương đồng với kết quả của các nghiên cứu Chúng tơi nhận thấy rằng học sinh cĩ xu trước. Theo DeWall và cộng sự (2007), Denson hướng thực hiện gây hấn thái độ nhiều hơn gây và cộng sự (2007), khi năng lực tự kiểm sốt hấn hành vi. Kết quả này cĩ tương đồng với kém thì sẽ cĩ xu hướng thực hiện hành vi gây nghiên cứu của tác giả Trần Văn Cơng và cộng hấn [7, 9]. Ngồi ra trong nghiên cứu của sự (2009), trẻ thường bị bắt nạt ẩn, bắt nạt quan Stucke và cộng sự (2006) cũng khẳng định khả hệ (25.5% so với 10.75%) nhiều hơn là bắt nạt năng tự kiểm sốt bị hạn chế thì ức chế hành vi ở hình thức trực tiếp (ngồi cơ thể) [28]. Đây gây hấn thấp và mức độ của hành vi gây hấn cũng là hình thức đáng lưu tâm, bởi khi nĩi đến càng cao [18]. gây hấn, người ta sẽ nghĩ ngay đến gây hấn Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu của chúng bằng hành vi, bạo lực. Tuy nhiên, trên thực tế, tơi cịn cho thấy rằng, khơng phải bất kì loại tự hình thức này khơng phổ biến bằng gây hấn kiểm sốt nào thấp cũng dẫn đến xu hướng thực bằng thái độ. hiện các hành vi gây hấn, mà chỉ cĩ khả năng tự Ngồi ra, cĩ tương quan giữa gây hấn thái kiểm sốt tiêu cực mới cĩ tương quan nghịch độ và gây hấn hành vi ở tương quan thuận mức với cả gây hấn hành vi (ở mức độ trung bình, độ trung bình. Theo Tangney và cộng sự r=-0.33 ) và gây hấn thái độ (ở mức độ cao, (2004), thực hiện các hành vi gây hấn như là r=-0.58 ), với ý nghĩa thống kê. Cịn khả năng một kết quả của sự tức giận [12]. Nghĩa là tự kiểm sốt tích cực chỉ cĩ tương quan nghịch những em thường xuyên tức giận, cáu gắt, v.v. duy nhất với gây hấn hành vi ở mức độ thấp sẽ cĩ khả năng thực hiện gây hấn hành vi cao (r=-0.13 ). Nghiên cứu của Tangney và cộng hơn các bạn khác. sự (2004) cũng khẳng định mức độ tự kiểm Kết quả nghiên cứu cịn cho thấy biểu hiện sốt cao tỉ lệ nghịch với ý đồ xấu xa, ngang của tính gây hấn cĩ sự khác biệt theo giới tính. bướng (gây hấn thái độ) và những hành vi gây Cụ thể, học sinh nam cĩ xu hướng thực hiện hấn bên ngồi. Họ ít khi tức giận đồng thời cĩ gây hấn hành vi hơn học sinh nữ và ngược. Sự xu hướng tương đối thấp để thực hiện các khác biệt đã phản ánh được đặc điểm hành vi hành vi gây hấn [12]. theo giới, điều này cũng được tương đồng với Kết quả phân tích hồi quy đa biến giữa các các nghiên cứu trong và ngồi nước. Tác giả nhân tố gây hấn và các nhân tố tự kiểm sốt và Hồng Xuân Dung (2010) đã khẳng định rằng kết quả phân tích hồi quy đa biến giữa các nhân các em nữ thường chọn cách gây hấn gián tiếp tố gây hấn và yếu tố khác liên quan là cĩ sự làm nạn nhân tổn thương về tinh thần hơn là về khác biệt. Gây hấn về mặt hành vi cĩ nhiều chỉ mặt thể xác và ngược lại, các em nam lại cĩ xu số cĩ thể dự đốn được hơn gây hấn thái độ,
- T.V. Cơng và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghiên cứu Giáo dục, Tập 33, Số 1 (2017) 1-9 7 hay nĩi cách khác nĩ cĩ vẻ như được gây ra bởi mỗi người [17]. Hay kết quả nghiên cứu của tác các yếu tố bên ngồi nhiều hơn. Kết quả này giả Trần Thị Minh Đức cho rằng, chơi game chính là gợi ý cho những nghiên cứu trong bạo lực sẽ làm gia tăng suy nghĩ, cảm nhận và tương lai liên quan đến mối quan hệ giữa khả hành vi gây hấn [5]. Nhưng trong nghiên cứu năng tự kiểm sốt và tính gây hấn. này, chúng tơi cịn nhận thấy rằng, nhĩm chơi Về các yếu tố liên quan tới mối quan hệ của game bạo lực cĩ mức độ gây hấn hành vi cao khả năng tự kiểm sốt và tính gây hấn hơn và mức độ khả năng tự kiểm sốt tiêu cực kém hơn. Tangney và cộng sự (2004) đã khẳng định vai trị của khả năng tự kiểm sốt trong cầu tồn là chưa rõ ràng [12]. Tuy nhiên, chúng tơi đã xác định được tương quan trực tiếp, cĩ ý nghĩa 4. Kết luận thống kê giữa mức độ cầu tồn và khả năng tự kiểm sốt cùng hành vi gây hấn. Tương quan đĩ Như vậy, kết quả nghiên cứu đã cho thấy cho thấy những người cầu tồn thường cĩ xu thực trạng khả năng tự kiểm sốt, thực trạng hướng đặt mục tiêu cho bản thân mình cao hơn tính gây hấn, mối quan hệ giữa khả năng tự người khác, gặp khĩ khăn trong việc chỉnh lại kiểm sốt và tính gây hấn. các tiêu chuẩn và kì vọng của họ một cách phù Về khả năng tự kiểm sốt, kết quả nghiên hợp điều đĩ thúc đẩy họ luơn phải cố gắng làm cứu cho thấy học sinh cĩ xu hướng kiểm sốt mọi việc thật tốt, cĩ những phương hướng rõ tích cực hơn kiểm sốt tiêu cực, đồng thời cĩ sự ràng để đạt được thành cơng, do đĩ, khả năng khác biệt về mức độ khả năng tự kiểm sốt dựa tự kiểm sốt tích cực cũng khá tốt. Nhưng chính trên giới tính và học lực. Trong những yếu tố vì cầu tồn nên khi gặp thất bại, họ dễ bị vướng như giới tính, học lực, cách ứng xử trong gia đình, vào những suy nghĩ tiêu cực, thất vọng dẫn đến mức độ chơi game, điểm trung bình mức độ cầu khả năng tự kiểm sốt tiêu cực kém. Từ đĩ, họ tồn, cĩ một số yếu tố cĩ vai trị dự đốn mức độ cĩ xu hướng gây hấn thái độ như việc nổi nĩng, khả năng tự kiểm sốt tích cực và tiêu cực. tức giận, v.v và tệ hơn là gây hấn hành vi với Về tính gây hấn, học sinh cũng cĩ biểu hiện người khác và chính bản thân mình. gây hấn thái độ nhiều hơn gây hấn hành vi và Ngồi ra, việc ứng xử giữa các thành viên cĩ sự khác biệt về giới tính. Trong những yếu tố trong gia đình, đặc điểm khu phố, mối quan hệ như giới tính, học lực, cách ứng xử trong gia giữa bạn bè cũng là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp tới đình, mức độ chơi game, mức độ cầu tồn, mức hành vi gây hấn và khả năng tự kiểm sốt, bởi độ tự kiểm sốt tiêu cực, mức độ tự kiểm sốt mơi trường xã hội là một tổng thể rộng lớn cĩ tác tích cực, cĩ một số yếu tố cĩ vai trị dự đốn động trực tiếp đến sự hình thành và phát triển đời gây hấn thái độ và gây hấn hành vi. sống tâm lí của mỗi cá nhân [19, tr.70]. Về mối quan hệ giữa khả năng tự kiểm sốt Khơng chỉ vậy, chúng tơi cịn khảo sát ảnh và tính gây hấn, kết quả nghiên cứu cho thấy cĩ hưởng của việc chơi game bạo lực với mức độ tương quan nghịch giữa khả năng tự kiểm sốt kiểm sốt và hành vi gây hấn và ra được kết và tính gây hấn. Nghiên cứu chỉ ra mối quan hệ luận rằng cĩ sự khác biệt giữa những em chơi cụ thể giữa từng loại khả năng tự kiểm sốt với game bạo lực và khơng chơi. Nghiên cứu về từng biểu hiện của tính gây hấn. Đặc biệt, mức mối quan hệ giữa mức độ kiểm sốt và hành vi độ kiểm sốt tiêu cực, mức độ kiểm sốt tích gây hấn với game bạo lực, Kim và cộng sự cực và một số yếu tố khác cĩ vai trị dự đốn (2009) cũng đã cho rằng nghiện game bạo lực mức độ gây hấn hành vi và gây hấn thái độ. là một yếu tố trung gian của mối quan hệ khả Ngồi ra, gây hấn về mặt hành vi cĩ nhiều chỉ năng tự kiểm sốt và hành vi gây hấn; nghiện số cĩ thể dự đốn được hơn gây hấn thái độ, game bạo lực online là điều kiện tăng hành vi hay nĩi cách khác nĩ cĩ vẻ như được gây ra bởi gây hấn và làm giảm khả năng kiểm sốt của các yếu tố bên ngồi nhiều hơn.
- 8 T.V. Cơng và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghiên cứu Giáo dục, Tập 33, Số 1 (2017) 1-9 Về các yếu tố liên quan đến mối quan hệ than a metaphor, Journal of personality and giữa khả năng tự kiểm sốt và tính gây hấn, social psychology, 92(2) (2007) 325. cách ứng xử trong gia đình, cách ứng xử của [11] Rothbaum, F., Weisz, J. R., & Snyder, S. S., cha mẹ khi con phạm lỗi, đặc điểm của khu vực Changing the world and changing the self: A two- process model of perceived control. Journal of sinh sống và quan hệ bạn bè, mức độ cầu tồn, Personality and Social Psychology, 42 (1982) 5. việc chơi game bạo lực cĩ ảnh hưởng trực tiếp [12] Tangney, J. P., Baumeister, R. F., & Boone, A. L., đến khả năng tự kiểm sốt và tính gây hấn. High self‐control predicts good adjustment, less pathology, better grades, and interpersonal success. Journal of personality, 72(2) (2004) 271. Tài liệu tham khảo [13] Baumeister, R. F., Vohs, K. D., & Tice, D. M., The strength model of self-control. [1] Hồng Xuân Dung, Khác biệt về giới trong hành Current directions in psychological science, vi gây hấn của học sinh THPT, Nghiên cứu gia 16(6) (2007) 351. đình và giới, Quyển 20- số 3 (2010) 68. [14] Muraven, M., & Baumeister, R. F., Self- [2] Lagerspetz, K. M., Bjưrkqvist, K., & Peltonen, regulation and depletion of limited resources: T., Is indirect aggression typical of females? Does self-control resemble a muscle? Gender differences in aggressiveness in 11 to Psychological bulletin, 126(2) (2000) 247. 12‐year‐old children. Aggressive behavior, [15] Muraven, M., Tice, D. M., & Baumeister, R. F., 14(6) (1988) 403. Self-control as a limited resource: Regulatory [3] Salkind, N. J., Encyclopedia of educational depletion patterns. Journal of personality and psychology, SAGE publications, 2008. social psychology, 74(3) (1998) 774. [4] Trần Thị Minh Đức, Game bạo lực với thanh [16] Gottfredson, M. R., & Hirschi, T., A general thiếu niên - những phân tích từ gĩc độ tâm lí xã theory of crime. Stanford, CA: Stanford hội, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, University Press Tice, D. M, 1993. 2013. [17] Kim, E. J., Namkoong, K., Ku, T., & Kim, S. J., [5] Trần Thị Minh Đức, Hành vi gây hấn phân tích The relationship between online game addiction từ gĩc độ tâm lí học xã hội, Nxb Đại học Quốc and aggression, self-control and narcissistic gia Hà Nội, 2010. personality traits. European psychiatry, 23(3) (2008) 212. [6] Trần Thị Minh Đức, Hành vi gây hấn của học sinh phổ thơng trung học, Năm 2008- 2010, [18] Stucke, T. S., & Baumeister, R. F., Ego Trung tâm hỗ trợ nghiên cứu Châu Á và Quỹ cao depletion and aggressive behavior: Is the học Hàn Quốc, ĐHQGHN. inhibition of aggression a limited resource? European Journal of Social Psychology, 36(1), [7] Denson, T. F., Capper, M. M., Oaten, M., Friese, (2006) 1. M., & Schofield, T. P., Self-control training decreases aggression in response to provocation [19] Đinh Thị Kim Thoa, Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Trần in aggressive individuals. Journal of Research in Văn Tính, Tâm lí học phát triển, NXB Đại học Personality, 45(2) (2011) 252. Quốc gia Hà Nội, 2009. [8] Baumeister R. F., Exline J. J., Virtue, [20] Rosenbaum, M., A schedule for assessing self- personality, and social relations: Self-control as control behaviors: Preliminary findings. the moral muscle, Journal of Personality. 67 Behavior therapy, 11(1) (1980) 109. (1999) 1165. [21] Higgins, G. E., Examining the Original Grasmick [9] DeWall, C. N., Baumeister, R. F., Stillman, T. Scale A Rasch Model Approach. Criminal Justice F., & Gailliot, M. T., Violence restrained: and Behavior, 34(2) (2007). 157. Effects of self-regulation and its depletion on [22] Carey, K. B., Neal, D. J., & Collins, S. E., A aggression. Journal of Experimental Social psychometric analysis of the self-regulation Psychology, 43(1) (2007) 62. questionnaire. Addictive behaviors, 29(2) [10] Gailliot, M. T., Baumeister, R. F., DeWall, C. (2004) 253. N., Maner, J. K., Plant, E. A., Tice, D. M., & [23] Yudofsky, S. C., Silver, J. M., Jackson, W., Schmeichel, B. J., Self-control relies on glucose Endicott, J., & Williams, D., The Overt as a limited energy source: willpower is more Aggression Scale for the objective rating of
- T.V. Cơng và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghiên cứu Giáo dục, Tập 33, Số 1 (2017) 1-9 9 verbal and physical aggression. The American đường trên thế giới và ở Việt Nam, NXB Thơng journal of psychiatry, 1986. tin và Truyền thơng, ISBN: 978-604-80-1967-9 [24] Buss, A. H., & Perry, M., The aggression (2016) 358. questionnaire. Journal of personality and social [27] Trần Văn Cơng, Nguyễn Thị Hồng, Lý Ngọc psychology, 63(3) (1992) 452. Huyền, Thực trạng hành vi gây hấn ở học sinh [25] Orpinas, P., & Frankowski, R., The Aggression trung học cơ sở, Kỉ yếu hội thảo Phịng chống Scale: A self-report measure of aggressive bạo lực học đường trong bối cảnh hiện nay-Thực behavior for young adolescents. The Journal of trạng và giải pháp, NXB ĐHQGHN, ISBN: 978- Early Adolescence, 21(1) (2001) 50. 604-62-5842-1 (2016) 326. [26] Trần Văn Cơng, Nguyễn Thị Hồng, Lý Ngọc [28] Trần Văn Cơng, Bahr Weiss, David Cole, Bị bắt Huyền, Xây dựng thang đo năng lực tự kiểm nạt bởi bạn cùng lứa và mối liên hệ với nhận sốt cho học sinh trung học cơ sở tại Việt Nam, thức bản thân, trầm cảm ở học sinh phổ thơng, Kỉ yếu hội thảo khoa học quốc tế Tâm lí học học Tạp chí Tâm lý học, Số 11 (128) (2009). đường lần thứ 5 - Phát triển tâm lí học học Relationship between Self-control and Aggression in Secondary School Students Tran Van Cong, Nguyen Thi Hong, Ly Ngoc Huyen VNU University of Education, 144 Xuan Thuy, Cau Giay, Hanoi, Vietnam Abstract: This study aims to examine the relationship between self-control and aggression in secondary school students. A self-report scale and a peer-report scale were conducted on 371 students in three secondary schools in Hanoi. The results from the peer-report scale show that 25/371 students (6.74%) frequently demonstrate aggression. The analysis of the self-report scale reveals two factors: negative self-control and positive self-control from the self-control scale; and two factors: aggressive behavior and aggressive attitude from the aggression scale. The research results demonstrate negative correlation between self-control and aggression, and show that self-control is an independent variable that predicts the level and manifestation of aggression. Keywords: Self-control, aggression, students, secondary school, scale.