Một số ý kiến nhằm nâng cao năng suất, chất lượng và lợi thế cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất xi măng và kính xây dựng ở Việt Nam trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0

pdf 12 trang Gia Huy 18/05/2022 2290
Bạn đang xem tài liệu "Một số ý kiến nhằm nâng cao năng suất, chất lượng và lợi thế cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất xi măng và kính xây dựng ở Việt Nam trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfmot_so_y_kien_nham_nang_cao_nang_suat_chat_luong_va_loi_the.pdf

Nội dung text: Một số ý kiến nhằm nâng cao năng suất, chất lượng và lợi thế cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất xi măng và kính xây dựng ở Việt Nam trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0

  1. MỘT SỐ Ý KIẾN NHẰM NÂNG CAO NĂNG SUẤT, CHẤT LƯỢNG VÀ LỢI THẾ CẠNH TRANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT XI MĂNG VÀ KÍNH XÂY DỰNG Ở VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.01 TS. Đoàn Xuân Hậu – PGS.TS. Lê Trung Thành – TS. Nguyễn Thị Phương Linh2 NCS. ThS. Nguyễn Quỳnh Trang3 Tóm tắt: Năng suất, chất lượng và lợi thế cạnh tranh là những chủ đề nhận được sự quan tâm không chỉ của nhà nghiên cứu khoa học mà còn là các mục tiêu quan trọng đối với các nhà quản trị doanh nghiệp. Trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, nâng cao năng suất, chất lượng và tạo lợi thế cạnh tranh bền vững là hướng đi cần thiết đối với các doanh nghiệp (trong đó có doanh nghiệp sản xuất xi măng, kính xây dựng) ở Việt Nam. Vì vậy, thông qua kết quả khảo sát các lãnh đạo, nhà quản trị của các doanh nghiệp sản xuất xi măng, kính xây dựng ở Việt Nam, bài viết sẽ hướng đến trình bày thực trạng và đưa ra một số ý kiến nhằm năng suất, chất lượng và lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp sản xuất xi măng, kính xây dựng ở Việt Nam. Từ khóa: Năng suất, chất lượng, lợi thế cạnh tranh, sản xuất xi măng, kính xây dựng, cách mạng công nghiệp 4.0. 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NĂNG SUẤT, CHẤT LƯỢNG VÀ LỢI THẾ CẠNH TRANH Trong những năm vừa qua, năng suất, chất lượng và lợi thế cạnh tranh là chủ đề không chỉ nhận được quan tâm của lãnh đạo và các nhà quản trị tại các doanh nghiệp, mà còn là chủ đề được nhiều nhà khoa học ở trong và ngoài nước thực hiện nghiên cứu: Thứ nhất, năng suất là một thuật ngữ thường được sử dụng trong cả các cuộc thảo luận học thuật và thực tế. Tuy nhiên, các định nghĩa về năng suất dường như phụ thuộc vào quan điểm của người đánh giá và bối cảnh sử dụng nó. Nhìn chung, năng suất được định nghĩa một cách phổ biến là việc sử dụng hiệu quả các nguồn lực – lao động, vốn, đất đai, vật liệu, năng lượng, thông tin – trong sản xuất hàng hóa và dịch vụ khác nhau. Ngoài ra, năng suất cũng có thể được định nghĩa là mối quan hệ giữa kết quả và thời gian cần thiết để hoàn thành chúng. Thời gian thường là mẫu số tốt vì nó là một phép đo tổng quát, và nó nằm ngoài tầm kiểm soát của con người. Càng ít thời gian để đạt được kết quả mong muốn, hệ thống hoạt động càng hiệu quả. Hiện tại năng suất là một chỉ số về khả năng cạnh tranh của tính bền vững của thị trường, là một công cụ đo lường xác định tính hiệu quả của một tổ chức về mặt tỷ lệ đầu ra được sản xuất với đầu vào đã sử dụng. Vì vậy, các nhà quản trị cần phải đánh giá thường xuyên về tất cả các yếu tố để duy trì và cải thiện năng suất (Sherman và cộng sự, 2006). Năng suất và chất lượng là một phần trọng yếu trong chiến lược hoạt động của tổ chức. Năng suất đóng một vai trò quan trọng trong ở cả cấp độ vi mô và vĩ mô. Ở cấp độ vi mô, các doanh nghiệp sử dụng năng suất như một thước đo hiệu quả để so sánh với các công ty đứng đầu, từ đó xác định phương hướng hoạt động (Kiraci và cộng sự, 2016). 1 Bài viết là sản phẩm của đề tài cấp Bộ xây dựng, mã số đề tài: RD 40-19. 2 Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. 3 Học viện Ngân hàng. 789
  2. Thứ hai, khái niệm chất lượng có nhiều cách hiểu khác nhau với từng góc độ tiếp cận khác nhau. Như dưới góc nhìn của doanh nghiệp, chất lượng yêu cầu các doanh nghiệp phải tiến hành sản xuất các sản phẩm đáp ứng các yêu cầu do khách hàng đặt ra, để được khách hàng chấp nhận và có chất lượng cao hơn của đối thủ cạnh tranh với chi phí thấp hơn hoặc có nhiều khác biệt về tính năng, công dụng mà sản phẩm đem lại cho khách hàng. Gần đây, Tổ chức Quốc tế về Tiêu chuẩn hóa ISO, trong TCVN ISO 9000 đã đưa ra định nghĩa sau: “Chất lượng là khả năng của tập hợp các đặc tính của một sản phẩm, hệ thống hay quá trình để đáp ứng các yêu cầu của khách hàng và các bên có liên quan”. Như vậy, chất lượng có những đặc điểm: (i) Chất lượng được đo bởi sự thỏa mãn nhu cầu. Nếu một sản phẩm vì lý do nào đó mà không được nhu cầu chấp nhận thì phải bị coi là có chất lượng kém, cho dù trình độ công nghệ để chế tạo ra sản phẩm đó có thể rất hiện đại. Đây là một kết luận then chốt và là cơ sở để các nhà chất lượng định ra chính sách, chiến lược kinh doanh của mình; (ii) Do chất lượng được đo bởi sự thỏa mãn nhu cầu, mà nhu cầu luôn luôn biến động nên chất lượng cũng luôn luôn biến động theo thời gian, không gian, điều kiện sử dụng; (iii) Khi đánh giá chất lượng của một đối tượng, ta phi xét và chỉ xét đến mọi đặc tính của đối tượng có liên quan đến sự thỏa mãn những nhu cầu cụ thể. Các nhu cầu này không chỉ từ phía khách hàng mà còn từ các bên có liên quan, ví dụ như các yêu cầu mang tính pháp chế, nhu cầu của cộng đồng xã hội; (iv) Nhu cầu có thể được công bố rõ ràng dưới dạng các quy định, tiêu chuẩn nhưng cũng có những nhu cầu không thể miêu tả rõ ràng, người sử dụng chỉ có thể cảm nhận chúng, hoặc có khi chỉ phát hiện được trong chúng trong quá trình sử dụng; (v) Chất lượng không phải chỉ là thuộc tính của sản phẩm, hàng hóa mà ta vẫn hiểu hàng ngày. Chất lượng có thể áp dụng cho một hệ thống, một quá trình và phải có sự kiểm tra nghiêm ngặt của các chuyên gia đánh giá và kiểm soát chất lượng. Bên cạnh đó, theo Singh (2012) với đặc thù áp lực cạnh tranh ngày càng gay gắt, thì chất lượng của các quy trình, dịch vụ và sản phẩm sẽ quyết định đến năng lực cạnh tranh và hiệu quả hoạt động, thị phần của doanh nghiệp. Vì thế, nâng cao chất lượng trở thành mục tiêu quan trọng trong trong quản trị doanh nghiệp (Brüggemann, 2012) và nâng cao chất lượng trở thành mối quan tâm của doanh nghiệp tất cả các hoạt động trong chuỗi giá trị của một doanh nghiệp và đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa và sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, thương mại điện tử và môi trường doanh nghiệp ảo (Braccini và cộng sự, 2012). Thứ ba, khái niệm lợi thế cạnh tranh cũng được nhiều tác giả đưa ra với những góc độ tiếp cận khác nhau. Tuy nhiên, có thể hiểu khái niệm về lợi thế cạnh tranh qua các góc độ sau: (i) theo cách tiếp cận định hướng vào khách hàng, thì khái niệm lợi thế cạnh tranh lần đầu tiên được Porter (1980) định nghĩa trong lĩnh vực quản trị chiến lược của doanh nghiệp. Theo Porter (1980) “lợi thế cạnh tranh phát sinh từ các giá trị mà doanh nghiệp có thể tạo ra cho người mua, giá trị này lớn hơn các chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra”. Đồng quan điểm đó, Barney (1991) cho rằng lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp là những giá trị nổi trội mà doanh nghiệp tạo ra cho khách hàng và hơn hẳn so với đối thủ cạnh tranh, qua đó giúp doanh nghiệp nâng cao giá trị thương hiệu và trở thành nhà cung cấp được khách hàng ưa thích. Hay như Kurt (2010) đưa ra định nghĩa sau: “lợi thế cạnh tranh là bất cứ giá trị nào mà doanh nghiệp có thể đưa ra nhằm khuyến khích khách hàng (hoặc người sử dụng cuối cùng) mua sản phẩm hoặc dịch vụ của doanh nghiệp chứ không phải của đối thủ cạnh tranh và ngăn cản việc bắt chước của các đối thủ cạnh tranh trực tiếp trong hiện tại và cả ở tương lai”; (ii) lợi thế cạnh tranh được nhìn nhận ở kết quả hoạt động của doanh nghiệp, Lợi thế cạnh tranh có được khi một doanh nghiệp phát triển hoặc có được một tập hợp các ưu thế cho phép doanh nghiệp vượt trội so với đối thủ cạnh 790
  3. tranh (Wang, 2014). Huff và cộng sự, (2009) cho rằng lợi thế cạnh tranh của một doanh nghiệp được nhìn nhận khi doanh nghiệp có kết quả hoạt động nổi trội hơn so với các doanh nghiệp trong cùng ngành về thị phần, năng suất, chất lượng hoặc tiến bộ công nghệ. Điều này cấu thành các đặc điểm của tính độc đáo và ngoại lệ đối với lợi thế cạnh tranh. Hay như, Vũ Trọng Lâm (2006) cho rằng lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp “thể hiện một hoặc nhiều ưu thế của nó so với đối thủ cạnh tranh nhằm đạt được thắng lợi trong cạnh tranh. Ưu thế này có thể dẫn đến chi phí thấp hơn hoặc sự khác biệt nhiều hơn về sản phẩm và dịch vụ so với đối thủ cạnh tranh và được thể hiện thành tỷ suất lợi nhuận cao hơn trung bình”. Đồng quan điểm đó, Lê Thế Giới và cộng sự (2007) cho rằng một công ty được xem là có lợi thế cạnh tranh khi tỷ lệ lợi nhuận của nó cao hơn tỷ lệ bình quân trong ngành. Công ty có được lợi thế cạnh tranh bền vững khi nó có thể duy trì tỷ lệ lợi nhuận cao trong một thời gian dài. Trong môi trường kinh doanh phức tạp hiện đại và phát triển nhanh chóng, ngày càng khó khăn hơn để đạt được điều này. Hay có thể khẳng định nếu doanh nghiệp phát triển thịnh vượng trong ngành thì phải tạo ra lợi thế cạnh tranh so với các đối thủ (Grant, 2010). Bên cạnh đó, tiêu chí để đánh giá lợi thế cạnh tranh của một doanh nghiệp thường bao gồm: (1) Giá cả: Giá là một công cụ mà các công ty có thể sử dụng để cạnh tranh với các đối thủ bằng cách áp dụng giá thấp. Li et al. (2006) cũng đề cập rằng các công ty có thể chống lại các đối thủ cạnh tranh bằng cách đặt giá rẻ hơn hoặc giữ chi phí thấp; (2)Chất lượng: Chất lượng sản phẩm là sự phù hợp của sản phẩm với nhu cầu của thị trường hoặc người tiêu dùng. Các công ty phải thực sự hiểu những gì người tiêu dùng cần cho một sản phẩm được sản xuất (Deming & Edwards, 1982); (3) Giao hàng đúng hẹn: giảm thời gian giao hàng đến khách hàng hoặc giảm thời gian giao dịch vụ của khách hàng; (4) Đổi mới sản phẩm: suy nghĩ mới, ý tưởng mới và cung cấp các sản phẩm sáng tạo và dịch vụ cải tiến làm hài lòng khách hàng (Thompson, 1965 và Hurley & Hult, 1998); (5)Thời gian đưa SP/DV ra thị trường: Thời gian đưa ra thị trường là thời gian cần thiết kể từ khi sản phẩm và dịch vụ được hình thành lần đầu tiên, cho đến khi sản phẩm và dịch vụ sẵn sàng được bán ra trên thị trường (Vesey, 1991) Như vậy, lợi thế cạnh tranh có được khi một doanh nghiệp có một tập hợp các ưu thế cho phép doanh nghiệp vượt trội so với đối thủ cạnh và qua đó giúp doanh nghiệp đạt được kết quả hoạt động kinh doanh nổi trội (Wang, 2014) và xây dựng, duy trì lợi thế cạnh tranh là điều kiện tiên quyết quyết định sự thành công của một doanh nghiệp (Haffer, 2003). 2. CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ 4 VÀ NHỮNG THAY ĐỔI TRONG NGÀNH SẢN XUẤT XI MĂNG, KÍNH XÂY DỰNG “Cách mạng công nghiệp 4.0” được đề cập như một sáng kiến chiến lược quan trọng của kế hoạch hành động Chiến lược công nghệ cao 2020 của Chính phủ liên bang Đức năm 2011 (Kagermann và cộng sự, 2013). Cách mạng công nghiệp 4.0 nhằm thông minh hóa quá trình sản xuất và quản trị trong ngành công nghiệp chế tạo. Cách mạng công nghiệp 4.0 trở thành một chủ đề được thảo luận thường xuyên cho các doanh nghiệp, trường đại học và trung tâm nghiên cứu (Dais, 2014; Hermann, 2015). Cuộc cách mạng công nghiệp hứa hẹn tiềm năng kinh tế to lớn cũng như mang đến những cơ hội mới và xã hội đầy hứa hẹn (Kagermann, 2014). Ngoài ra, cách mạng công nghiệp 4.0 và các khái niệm hiện tại của nó (ví dụ nhà máy thông minh, hệ thống vật lý điện tử (CPS), mạng lưới thiết bị kết nối Internet (IoT) và Internet dịch vụ (IoS)) cũng gây ra sự thay đổi mô hình trong tổ chức công việc (Hartmann, 2015), mô hình kinh doanh (Kagermann và cộng sự 2013) và công nghệ sản xuất (Valdez và cộng sự, 2015). Không những thế, sự phát triển cách mạng 791
  4. công nghiệp 4.0 đã dẫn tới nhu cầu lớn hơn về kỹ thuật số tích hợp theo định nghĩa của Oesterreich và Teuteberg (2016), Weyer và cộng sự (2015) và Stock và Seliger (2016). Công nghiệp 4.0 bao gồm các mô hình, tích hợp ngang và dọc, tích hợp kỹ thuật số từ đầu tới cuối (Ivanov và cộng sự, 2016; Liao và cộng sự, 2017; Bechtsis và cộng sự, 2018).Cách mạng công nghiệp 4.0 đã giới thiệu công nghệ sản xuất hàng loạt linh hoạt (Kagermann và cộng sự, 2013). Máy móc sẽ hoạt động độc lập hoặc phối hợp với con người (Sung, 2017). Công nghiệp 4.0 là một cách tiếp cận để kiểm soát quá trình sản xuất bằng cách đồng bộ hóa thời gian bởi việc tích hợp và điều chỉnh sản xuất (Kohler & Weisz, 2016). Hơn nữa, theo Zesulka và cộng sự trong Yahya (2018), Công nghiệp 4.0 được sử dụng trên ba yếu tố liên quan đến nhau là: số hóa và tương tác kinh tế với các kỹ thuật đơn giản đối với các mạng kinh tế với các kỹ thuật phức tạp, số hóa sản phẩm và dịch vụ, và mô hình kinh doanh, hình thành thị trường mới. Chính vì vậy, nhiều nỗ lực đã được bắt đầu trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến hoạt động hiệu quả của một doanh nghiệp tập đoàn lớn. Chúng bao gồm chức năng nổi bật, sản xuất tinh gọn và quá trình tối ưu (Quezada và cộng sự, 2017; Buer và cộng sự, 2018; Moeuf và cộng sự, 2018) và hướng đến nâng cao khả năng cạnh tranh và tính bền vững về kinh tế, chất lượng sản phẩm, dịch vụ và quy trình của nhà sản xuất hoặc doanh nghiệp là rất quan trọng trong ngành công nghiệp ngày nay (M. Peris–Ortiz và cộng sự, 2015). Một trong những khái niệm của nền công nghiệp 4.0 là nhà máy thông minh (Lasi, 2014; Lee, 2015), khái niệm nhà máy thông minh được hiểu là nhà máy được trang bị máy móc thiết bị và quy trình tự động, chuỗi cung ứng nội bộ tự động, nhà máy tự động, phát triển sản phẩm, hệ thống quản lý thông tin tích hợp (Lasi, 2014). Lucke (2008) cũng cho rằng, nhà máy thông minh là nhà máy hỗ trợ nhân viên và máy móc thiết bị thực hiện công việc trong một hệ thống có khả năng giao tiếp, kết nối và tương tác giữa hệ thống thông tin, sản phẩm, môi trường và tất cả máy móc thiết bị. Saldivar và cộng sự (2015) đã tổng hợp, nhà máy thông minh là sự kết hợp của hệ thống thực ảo (cyberphysical systems) giữa các đối tượng vật lý như máy móc, băng tải, sản phẩm với hệ thống thông tin như hệ thống hoạch định nguồn lực doanh nghiệp (ERP) để thực hiện sản xuất linh hoạt và nhanh chóng. Và với đặc thù các doanh nghiệp sản xuất (trong đó có các doanh nghiệp sản xuất xi măng và kính xây dựng) thì việc sử dụng hệ thống máy móc thông minh hơn trong sản xuất có thể làm tăng hệ quả chất lượng sản phẩm trong việc điều chỉnh giới hạn sản xuất (Singh và cộng sự, 2012). Hệ thống máy móc thông minh có khả năng học hỏi, đưa ra quyết định, thao tác dữ liệu, tính di động tuyệt vời và độ tin cậy để thực hiện công việc. Nó sẽ tăng hiệu quả, tốc độ, chất lượng và tính linh hoạt cho sản phẩm. Tuy nhiên, thông thường, việc sản xuất cũng sẽ phải đối mặt với tính toán sai về nhu cầu và mức tồn kho khi có sự hình thành chi phí theo đơn đặt hàng tiếp theo và khả năng tiếp cận dữ liệu thời gian thực có liên quan đến toàn bộ chuỗi cung ứng và nguyên liệu (Au, 2000). Bên cạnh đó, có nhiều lý do như dễ hỏng, tạo ra và tiêu thụ tức thời, không thể nhận biết và không đồng nhất khi giao một sản phẩm khác với dịch vụ (Morris và Johnston, 1987). So với các ngành xây dựng và sản xuất, không có tiêu chuẩn nào về sản xuất sản phẩm hữu hình hoặc vô hình, miễn là chất lượng trơn tru tương thích với các điều kiện, đặc điểm kỹ thuật và nhu cầu của khách hàng (Peukert và cộng sự, 2015). Bên cạnh đó, Công nghiệp 4.0 có thể theo dõi quá trình giải phóng carbon bằng cách sử dụng tập trung vào dữ liệu và cũng giảm lượng khí thải nhà kính (Gabriel và Pessel, 2016). Để kiểm soát tình trạng ô nhiễm, việc tiêu thụ tài nguyên và năng lượng cần phải được quan tâm cẩn thận. Bên cạnh đó, bằng cách tái chế tất cả các chất thải là lựa chọn tốt nhất để đảm bảo ô nhiễm. Do đó, quá trình hậu cần 792
  5. và vận chuyển đã giảm đi để tạo cơ hội tốt hơn bằng cách tập trung vào ngành sản xuất cốt lõi nổi tiếng nhất trong Công nghiệp 4.0. (Au và cộng sự, 2000; Singh và cộng sự, 2012). Định hướng sinh thái chặt chẽ hơn, để chiếm thị phần kinh tế chính xác và tương lai của doanh nghiệp sẽ được đo lường về chất lượng quá trình, sản phẩm và dịch vụ trong khi duy trì hoạt động và khả năng cạnh tranh trong khu vực (Brüggemann, 2012). Điều này sẽ dẫn đến quản trị chất lượng tốt hơn và cũng tăng khả năng quản trị doanh nghiệp (Hirsch– Kreinsen, 2014). Việc giảm tác động môi trường là một cách tốt để đảm bảo rằng công ty tuân theo các quy tắc từ Chính phủ cho vấn đề ô nhiễm. Như vậy, cách mạng công nghiệp 4.0 đem lại cả cơ hội và thách thức cho các doanh nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng ở Việt Nam. Trong đó, các doanh nghiệp sẽ có cơ hội trong việc nâng cao trình độ, năng lực sản xuất và cạnh tranh trong chuỗi giá trị toàn cầu nếu nắm bắt và thay đổi kịp thời. Một số công nghệ sản xuất được nghiên cứu, ứng dụng để phát triển các lĩnh vực vật liệu xây dựng dự báo tăng trưởng nhanh trong thời gian tới gồm: vật liệu cho kết cấu tập trung theo hướng những loại vật liệu bền, thiết kế mô hình cấu kiện vật liệu, lắp ghép, thi công thuận tiện; vật liệu bao che nhẹ, cách âm, cách nhiệt, chống thấm nước, thi công, lắp ghép nhanh; vật liệu trang trí, hoàn thiện: hấp thụ tia UV hoặc phản xạ tia UV cho ánh sáng trắng truyền quang Như vậy, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 tạo điều kiện để các doanh nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng có cơ hội bứt phá bằng việc ứng dụng công nghệ vào nghiên cứu và sản xuất để có thể tạo ra các loại vật liệu xây dựng mới có hiệu quả và thân thiện với môi trường hơn. Tuy nhiên, trên thực tế lại cho thấy, ngành vật liệu xây dựng Việt Nam chưa có những sản phẩm mới mang tính đột phá và bắt kịp với xu hướng của cách mạng công nghiệp 4.0. Vì vậy, đây chính là thời điểm để các doanh nghiệp tận dụng cơ hội để bứt phá và vươn ra thế giới, sánh bước cùng với các doanh nghiệp quốc tế. Để làm được điều này, các doanh nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng cần đẩy mạnh việc áp dụng công nghệ số vào quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm bởi việc ứng dụng công nghệ số giúp giảm chi phí đồng bộ từ các khâu giao dịch, vận chuyển để hạ giá thành, tăng năng suất và năng lực cạnh tranh, đẩy mạnh mô hình quản lý. Đây chính là tiền đề để hướng các nghiên cứu khoa học vào tìm kiếm vật liệu xây dựng thông minh gắn với xây dựng đô thị văn minh, kiến trúc đô thị. Bên cạnh đó, thách thức từ cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 lại đến từ việc đầu tư cho khoa học công nghệ trong nghiên cứu; sản xuất vật liệu xây dựng chưa tương xứng, chưa có những sản phẩm vật liệu xây dựng mới, mang tính đột phá, tiên phong bắt kịp xu hướng cách mạng công nghiệp 4.0. Trong khi các công trình xây dựng hiện nay ngày càng được chú trọng đến độ bền chịu lực, độ bền theo thời gian, tiết kiệm năng lượng, chi phí sản xuất, xây lắp, đặc biệt phải thích ứng với khí hậu tại nơi xây dựng công trình. Đồng thời, nguồn vốn hàng năm đầu tư cho nghiên cứu khoa học, áp dụng khoa học công nghệ tại doanh nghiệp và các viện nghiên cứu vật liệu xây dựng còn thấp (chiếm tỷ lệ nhỏ so với giá trị hàng trăm nghìn tỷ đồng mà ngành vật liệu xây dựng đem lại). Điều đó làm giảm năng suất, chất lượng và lợi thế cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng ở Việt Nam. 3. THỰC TRẠNG VỀ NĂNG SUẤT, CHẤT LƯỢNG VÀ LỢI THẾ CẠNH TRANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT XI MĂNG, KÍNH XÂY DỰNG Ở VIỆT NAM Dựa trên kết quả tổng quan, nhóm nghiên cứu đã xây dựng phiếu khảo sát các doanh nghiệp sản xuất xi măng, kính xây dựng ở Việt Nam về năng suất, chất lượng và lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp trong năm 2020. Kết quả về năng suất và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp như sau: 793
  6. Hình 1: Hiệu quả hoạt động chung của các doanh nghiệp sản xuất xi măng, kính xây dựng ở Việt Nam Nguồn: kết quả khảo sát doanh nghiệp sản xuất xi măng, kính xây dựng, 2020 Theo hình 1, kết quả khảo sát điều tra cho thấy: Doanh thu và sản lượng bán hàng, năng suất lao động được các doanh nghiệp sản xuất xi măng và kính xây dựng đánh giá là tăng qua qua năm, tuy nhiên tỷ lệ lợi nhuận/doanh thu và tỷ lệ lợi nhuận/ vốn đầu tư lại chỉ đạt mức điểm 3.2 điểm và 3.1 điểm cho thấy hiệu quả hoạt động tổng thể hầu như không tăng và do đó vị thế cạnh tranh tổng thể của doanh nghiệp được đánh giá là không thay đổi và đạt mức điểm 3.4 điểm. Trong khi đó, về chất lượng và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất xi măng, kính xây dựng ở Việt Nam cho thấy, chất lượng sản phẩm và độ bền của sản phẩm, độ tin cậy của sản phẩm được các doanh nghiệp đánh giá là có sự tăng lên qua các năm (đạt mức điểm từ 4,1 điểm/5 điểm), tuy nhiên số dòng sản phẩm được ưa chuộng, tính mới mẻ của sản phẩm, số dòng sản phẩm được bán ra lại được các doanh nghiệp đánh giá là giữ nguyên so với các năm trước đây và do đó sự phổ dụng về thương hiệu và thị phần, lợi nhuận của doanh nghiệp giữ nguyên, không tăng lên nhiều so với các năm trước (Xem hình 2). Hình 2: Đánh giá về năng lực cạnh tranh của sản phẩm Nguồn: kết quả khảo sát doanh nghiệp sản xuất xi măng, kính xây dựng, 2020 794
  7. Bên cạnh đó, xét trên góc độ cạnh tranh về giá và chi phí của các doanh nghiệp sản xuất xi măng, kính xây dựng ở Việt Nam được đánh giá như hình dưới đây: Hình 3: Đánh giá về năng lực cạnh tranh về giá của sản phẩm xi măng, kính xây dựng ở Việt Nam Nguồn: kết quả khảo sát doanh nghiệp sản xuất xi măng, kính xây dựng, 2020 Như vậy, theo đánh giá của các doanh nghiệp sản xuất xi măng, kính xây dựng ở Việt Nam chỉ ra giá không phải là lợi thế của các doanh nghiệp sản xuất xi măng, kính xây dựng trên thị trường. Kết quả khảo sát cho thấy mặc dù giá của sản phẩm bù đắp được chi phí và giá của sản phẩm phù hợp với chất lượng, tuy nhiên tiêu chí “giá các sản phẩm của doanh nghiệp là thấp trên thị trường” chỉ đạt 2,8 điểm/5 điểm và tiêu chí “Doanh nghiệp có thể bán với giá thấp hơn” chỉ đạt 2,3 điểm và tổng thể giá của sản phẩm của doanh nghiệp chưa thực sự cạnh tranh và tạo lợi thế cạnh tranh cho các doanh nghiệp sản xuất xi măng, kính xây dựng ở Việt Nam. Hình 4: Đánh giá về hoạt động nghiên cứu, phát triển và chuỗi cung ứng, sự thích ứng của các doanh nghiệp xi măng, kính xây dựng ở Việt Nam Nguồn: kết quả khảo sát doanh nghiệp sản xuất xi măng, kính xây dựng, 2020 795
  8. Trong khi đó, hoạt động nghiên cứu, phát triển chưa được các doanh nghiệp quan tâm, đầu tư khi mà “DN luôn đầu tư đủ cho R&D” và “doanh nghiệp luôn dẫn đầu về sản phẩm mới”, “Doanh nghiệp luôn đi trước đối thủ cạnh tranh” chỉ đạt mức 3,4 điểm (Xem hình 4). Trước bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 và sự thay đổi về nhu cầu, các doanh nghiệp xi măng, kính xây dựng ở Việt Nam đều nhận thức rõ được các cơ hội, thách thức cũng như nhận thức được điểm mạnh, điểm yếu của mình. Tuy nhiên, khả năng tiếp cận thị trường mới, khách hàng mới và khó khăn trong tái cấu trúc là những điểm yếu của các doanh nghiệp sản xuất xi măng, kính xây dựng ở Việt Nam (Xem hình 4). Về khía cạnh dịch vụ, phân phối và truyển thông của các doanh nghiệp sản xuất xi măng, kính xây dựng ở Việt Nam chỉ ra sản phẩm thường được giao đúng hạn và sản phẩm luôn sẵn sàng phục vụ khách hàng là điểm mạnh của các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, xây dựng website với đủ thông tin và được cập nhật thường xuyên đã được nhiều doanh nghiệp sản xuất xi măng, kính xây dựng ở Việt Nam quan tâm và nhìn nhận là kênh truyền thông quan trọng nhằm cung cấp thông tin về doanh nghiệp, sản phẩm đến đối tác và khách hàng (Xem hình 5). Hình 5: Đánh giá về hoạt dịch vụ, phân phối và truyển thông của các doanh nghiệp sản xuất xi măng, kính xây dựng ở Việt Nam Internet được tận dụng tốt trong kinh doanh 3.8 Website thường được cập nhật 4.1 Website đủ thông tin 4.2 Các hoạt động khuyến mãi đem lại kết quả tốt 3.2 Các thông điệp truyền thông dễ nhớ 3.3 Thương hiệu được nhắc nhớ thường xuyên 3.9 DN có kênh giao tiếp hiệu quả với khách hàng 3.3 Trung gian muốn bán sản phẩm của DN 3.4 DN có mối quan hệ tốt với trung gian 3.7 Sản phẩm luôn sẵn sàng phục vụ 4.1 Dịch vụ hỗ trợ khách hàng hoàn hảo 3.4 Sản phẩm được giao nhanh chóng 3.8 Dịch vụ giao hàng đáng tin cậy 4.3 Sản phẩm được giao luôn đúng hạn 4.1 0 0.5 1 1.5 2 2.5 3 3.5 4 4.5 5 Nguồn: kết quả khảo sát doanh nghiệp sản xuất xi măng, kính xây dựng, 2020 Tuy nhiên, với các công cụ truyền thông chưa phong phú và phương pháp thực hiện các hoạt động truyền thông chưa thực sự chuyên nghiệp dẫn đến các thông điệp truyền thông của các doanh nghiệp sản xuất xi măng, kính xây dựng ở Việt Nam chưa gây ấn tượng với khách hàng (đạt 3,3/5 điểm), các chương trình khuyến mại chưa thực sự đem lại kết quả đúng như kỳ vọng. Không những thế, doanh nghiệp thiếu kênh giao tiếp hiệu quả với khách hàng, có mối quan hệ tốt với các tổ chức trung gian, dịch vụ hỗ trợ khách hàng chưa thực sự hoàn hảo là những điểm yếu của các doanh nghiệp sản xuất xi măng, kính xây dựng ở Việt Nam. 796
  9. 4. MỘT SỐ Ý KIẾN NHẰM NÂNG CAO NĂNG SUẤT, CHẤT LƯỢNG VÀ LỢI THẾ CẠNH TRANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT XI MĂNG VÀ KÍNH XÂY DỰNG Ở VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 Năng suất, chất lượng và lợi thế cạnh tranh của bất kỳ tổ chức kinh doanh nào cũng luôn đi đôi với nhau, ứng với cặp phạm trù "nguyên nhân – kết quả". Nếu doanh nghiệp có các yếu tố năng suất, chất lượng tốt thì sẽ đem lại lợi thế cạnh tranh và nếu không thì ngược lại. Năng suất, chất lượng và lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp luôn thay đổi theo thời gian, không gian, sự phát triển của khoa học công nghệ, nhu cầu của thị trường, Sản xuất và sử dụng vật liệu xây dựng (xi măng, kính xây dựng) có vai trò quan trọng đóng góp vào sự phát triển chung của ngành công nghiệp và của ngành xây dựng, tạo động lực phát triển kinh tế – xã hội. Trong những năm vừa qua, sản xuất xi măng, kính xây dựng đã được thực hiện theo quy hoạch cả về chủng loại, số lượng và chất lượng đáp ứng ngày càng cao nhu cầu về xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển đô thị và nhà ở. Tuy nhiên, để thích ứng tốt với bối cảnh CMCN 4.0 thì việc nâng cao năng suất, chất lượng và lợi thế cạnh tranh là hướng phát triển thiết yếu đối với các doanh nghiệp sản xuất xi măng, kính xây dựng ở Việt Nam. Vì vậy, trong thời gian tới các doanh nghiệp sản xuất xi măng, kính xây dựng ở Việt Nam nên tập trung: – Thứ nhất, các doanh nghiệp cần đẩy mạnh ứng dụng khoa học & công nghệ trong hoạt động quản trị doanh nghiệp, đẩy mạnh đổi mới công nghệ sản xuất để hướng đến nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm thiểu chi phí và nâng cao năng suất lao động trong doanh nghiệp. – Thứ hai, cần xây dựng hoặc áp dụng các phần mềm quản lý chuỗi cung ứng, phần mềm quản trị mối quan hệ khách hàng để luôn có những thông tin, dữ liệu cập nhật để nâng cao chất lượng công tác lập kế hoạch và điều độ sản xuất, giảm thiểu chí phí dự trữ qua đó giúp nâng cao năng suất, giảm giá thành sản phẩm và qua đó nâng cao lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp. Đặc biệt, cần xây dựng hệ thống thông tin thông suốt với các thành viên kênh phân phối, với khách hàng để nâng cao chất lượng dịch vụ hỗ trợ đối với các thành viên thuộc kênh phân phối và khách hàng qua đó tạo mối quan hệ đối tác bền chặt giữa doanh nghiệp với thành viên kênh phân phối, khách hàng và tạo nên lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp. – Thứ ba, mặc dù chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp sản xuất xi măng, kính xây dựng được các doanh nghiệp đánh giá đạt chất lượng và đạt độ tin cậy của khách hàng. Tuy nhiên, để hướng đến mở rộng thị trường, nâng cao doanh thu thì các doanh nghiệp sản xuất xi măng, kính xây dựng nên bổ sung nên đa dạng hóa về chủng loại sản phẩm thông qua việc tạo ra các sản phẩm theo công năng, mục đích sử dụng cụ thể, và theo trọng lượng (với xi măng), kích thước (kính xây dựng) với từng mục đích sử dụng của từng nhóm đối tượng khách hàng. – Thứ tư, trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 cách thức truyền và nhận thông tin giữa doanh nghiệp với nhà cung cấp, thành viên kênh phân phối và khách hàng có nhiều thay đổi. Vì vậy, các doanh nghiệp sản xuất xi măng, kính xây dựng ở Việt Nam cần đa dạng hóa các kênh trao đổi thông tin giữa DN và nhà cung cấp, thành viên kênh phân phối, khách hàng mà không chỉ có website, doanh nghiệp cần tạo ra các phần mềm hoặc app để thông tin được thông suốt, được cập nhật thường xuyên để qua đó giúp doanh nghiệp chủ động hơn với những thay đổi của môi trường kinh doanh. – Thứ năm, hoạt động truyền thông đã được các doanh nghiệp sản xuất xi măng, kính xây dựng ở Việt Nam quan tâm, tuy nhiên trong thời gian tới các doanh nghiệp cần xây dựng các chiến lược, kịch bản truyền thông khoa học và bài bản hơn, cần đưa các thông điệp truyền thông ngắn gọn và tạo sự ghi nhớ trong khách hàng, đối tác về thương hiệu, sản phẩm của doanh nghiệp. 797
  10. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. AM. Braccini, Nunzio Casalino, A D Atri. (2012); A Quality Management Training System Concerning ISO Standards for sustainable Organisational Change in SMEs, International journal of productivity and quality management (IJPQM)”, vol. 9, no. 1, 2012. 2. Amit, R., Zott, C. (2012). Creating value through business model innovation. MIT Sloan Manag. Rev., 53, 41–49. 3. Au, A.K.M., Enderwick, P. (2000). A cognitive model on attitude towards technology adoption. J. Manag. Psychol. 15, 266–282 4. ASQ, Quality Resources. Retrieved May 10, 2018, from 5. Barney J (1991), Firm resources and sustained competitive advantage, Journal of Management, 17(1), 99–120. 6. Bechtsis, D., Tsolakis, N., Vlachos, D., Srai, J.S., 2018. Intelligent Autonomous Vehicles in digital supply chains: a framework for integrating innovations towards sustainable value networks. J. Clean. Prod. 181, 60–71. 7. Bilal Balci, Alicia Hoiman, Christopher Rosenkranz, (2011) Service Productivity: A literature review and agenda, Conference paper, pp. 1–14. 8. Buer, S.V., Strandhagen, J.O., Chan, F.T., 2018. The link between Industry 4.0 and lean manufacturing: mapping current research and establishing a research agenda. Int. J. Prod. Res., 1–17. 9. Brüggemann, H., Bremer, P.: Grundlagen Qualitätsmanagement. Springer Vieweg, Wiesbaden (2012). 10. Cegliński, P. (2016a), “The use of strategic marketing management tools in contemporary enterprises”, Marketing i Zarządzanie, No. 5 (46), pp. 9–16. 11. D. A. Garvin. (1984). What Does 'Product Quality' Really Mean? MIT Sloan Management Review, 26, pp. 25–48. 12. Dais, S.: Industrie 4.0 - Anstoß, Vision, Vorgehen. In: Bauernhansl, T., ten Hompel, M., Vogel- Heuser, B. (eds.) Industrie 4.0 in Produktion, Automatisierung und Logistik, pp. 625-634. Springer Vieweg, Wiesbaden (2014). 13. Gabriel, M.; Pessel, E. (2016). Industry 4.0 and sustainability impacts: Critical discussion of sustainability aspects with a special focus on future of work and ecological consequences. Int. J. Eng. 1, 131–136. 14. Grant, R. M. (2010), Contemporary Strategy Analysis, John Wiley & Sons Ltd., New York. 15. Haffer, R. (2003), Systemy zarządzania jakością w budowaniu przewag konkurencyjnych przedsiębiorstw, Wydawnictwo Uniwersytetu Mikołaja Kopernika, Toruń. 16. Hartmann, E.A.: Arbeitsgestaltung für Industrie 4.0: Alte Wahrheiten, neue Herausforderungen. In: Botthof, A., Hartmann, E.A. (eds.) Zukunft der Arbeit in Industrie 4.0, pp. 9–20. Springer Vieweg, Berlin (2015) 17. Henry Chesbrough, and Jim Spohrer, (2006); A Research Manifesto for Services Science, Communications of the ACM, vol. 49, no. 7, pp. 34–40. 18. Henson, E., Sandberg, W., 2017. Mergers & Acquisitions: Managing GxP Compliance Through Integration and Organizational Change. A Roadmap to Gmp Compliance Part 3, (12). 19. Hermann, M., Pentek, T., Otto, B.: Design Principles for Industrie 4.0 Scenarios: A Literature Review. Working Paper No. 01/2015, Technische Universität Dortmund – Fakultät Maschinenbau, Audi Stiftungslehrstuhl Supply Net Order Management (2015). 20. Hirsch-Kreinsen, H. (2014). Smart production systems. A new type of industrial process innovation. In Proceedings of the 2014 DRUID Society Conference, Copenhagen, Denmark. 798
  11. 21. Huff, A. S., Floyd, S. W., Sherman, H. D., Terjesen, S. (2009), Strategic Management. Logic and Action, John Wiley & Sons, New York. 22. ISO: Quality management systems. (2005). Fundamentals and vocabulary, (ISO 9000:2005). 23. Ivanov, D., Dolgui, A., Sokolov, B., Werner, F., Ivanova, M., 2016. A dynamic model and an algorithm for short-term supply chain scheduling in the smart factory industry 4.0. Int. J. Prod. Res. 54 (2), 386–402. 24. Kagermann, H.: Chancen von Industrie 4.0 nutzen. In: Bauernhansl, T., ten Hompel, M., Vogel- Heuser, B. (eds.) Industrie 4.0 in Produktion, Automatisierung und Logistik, pp. 603–614. Springer Vieweg, Wiesbaden (2014) 25. Kagermann, H., Wahlster, W., Helbig, J.: Recommendations for implementing the strategic initiative INDUSTRIE 4.0 - Final report of the Industrie 4.0 Working Group. (2013) 26. Kiraci, Ercihan, Turley, G. A., Attridge, Alex, Olifent, Alan and Williams, M. A. (2016); Evaluating the Capability of Laser Scanning to Measure an Automotive Artefact: A Comparison study of Touch Trigger Probe and Laser-Scanning, International Journal of Productivity and Quality Management, vol. 18, iss. 4, pp. 440-450. 27. Kohler, D, & Weisz, J.D. (2016). Industry 4.0: the challenges of the transforming manufacturing. Germany: BPI France. 28. Kurt Chiristensen (2010), Defining customer value as the driver of competitive advantage, Strategy & Leadership, 38, 20-25. 29. K. Zhou, T. Liu and L. Zhou. (2015). Industry 4.0: Towards future industrial opportunities and challenges in Fuzzy Systems and Knowledge Discovery (FSKD), in 12th International Conference, China. 30. Liao, Y., Deschamps, F., Loures, E.D.F.R., Ramos, L.F.P., 2017. Past, present and future of Industry 4.0-a systematic literature review and research agenda proposal. Int.J. Prod. Res. 55 (12), 3609–3629. 31. Nguyễn Văn Sinh (2014). Nâng cao lợi thế cạnh tranh các doanh nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng thuộc Bộ xây dựng. Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Đại học Kinh tế Quốc dân. 32. M. Peris-Ortiz, J. Álvarez-García and C. Rueda-Armengot. (2015). Achieving Competitive Advantage through Quality Management, Springer, Cham. 33. Moeuf, A., Pellerin, R., Lamouri, S., Tamayo-Giraldo, S., Barbaray, R., 2018. The industrial management of SMEs in the era of Industry 4.0. Int. J. Prod. Res. 56 (3), 1118–1136. 34. Morris, B. and Johnston, R. (1987). Dealing with inherent variability: the differences between manufacturing and services. International Journal of Operations & Production ManagemenT. 7 (4): 13–23. 35. Oesterreich, T., Teuteberg, F., 2016. Understanding the implications of digitization and automation in the context of Industry 4.0: A triangulation approach and elements of a research agenda for the construction industry. Comput. Ind. 83, 121–139. 36. Peukert, B., Benecke, S., Clavell, J., Neugebauer, S., Nissen, N.F., Uhlmann, E., Lang, K.-D., Finkbeiner, M. (2015). Addressing Sustainability and Flexibility in Manufacturing via Smart Modular Machine Tool Frames to Support Sustainable Value Creation. Procedia CIRP, 29, 514– 519. 37. Porter M.E. (1980). Competitive strategy – Techniques for analyzing Industries and Competitors, New York: The Free Press. 38. Putnik, D.G., Varela, R.L., Carvalho, C., Alves, C., Shah, V., Castro, H., Ávila, P. (2015).Smart objects embedded production and quality management functions. International Journal for Quality Research 9, 151-166. 39. Quezada, L.E., da Costa, S.E.G., Tan, K.H., 2017. Operational excellence towards sustainable development goals through industry 4.0. Int. J. Prod. Econ. 190, 1–2. 799
  12. 40. Sherman, A.J., 2018. Mergers and Acquisitions from A to Z. AMACOM Division American Management Association. 41. Sherman, H. David, Zhu, Joe, (2006); “Service Productivity Management; Improving Service Performance Using Data Envelopment Analysis (DEA), Springer, pp. 1–274. 42. Singh, M., Khan, I.A., Grover, S. (2012). Tools and Techniques for Quality Management in Manufacturing Industries. In: National Conference on Trends and Advances in Mechanical Engineering, pp. 853–859. 43. Sung, T.K. (2017). Industri 4.0: a Korea perspective. Technological Forecasting and Social Change Journal, 1–6. 44. Stock, T., Seliger, G., 2016. Opportunities of sustainable manufacturing in industry 4.0. Procedia CIRP 20, 536–541. 45. Tjandrawinata, R.R. (2016). Industri 4.0: Revolusi industri abad ini dan pengaruhnya pada bidang kesehatan dan bioteknologi. Jurnal Medicinus, Vol 29, Nomor 1, Edisi April. 46. Valdez, A.C., Brauner, P., Schaar, A.K., Holzinger, A., Ziefle, M.(2015). Reducing Complexity with Simplicity – Usability Methods for Industry 4.0. 19th Triennial Congress of the International Ergonomics Association. 47. Wang, H.-L. (2014), Theories for competitive advantage, in: Hasan, H. (Ed.), Being Practical with Theory: A Window into Business Research, Wollongong, Australia: THEORI, Australia, pp. 33 – 43. 48. Weyer, S., Schmitt, M., Ohmer, M., Gorecky, D., 2015. Towards Industry 4.0 −Standardization as the crucial challenge for highly modular, multi-vendor production system. IFAC-PapersOnLine 48 (3), 579–584. 49. Yahya, Muhammad. (2018). Era Industri 4.0: Tantangan Dan Peluang Perkembangan Pendidikan Kejuruan Indonesia. Disampaikan pada Sidang Terbuka Luar Biasa Senat Universitas Negeri Makassar Tanggal 14 Maret 2018. 800