Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh gia nhập TPP

pdf 11 trang Gia Huy 18/05/2022 2190
Bạn đang xem tài liệu "Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh gia nhập TPP", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfnang_cao_nang_luc_canh_tranh_cua_doanh_nghiep_viet_nam_trong.pdf

Nội dung text: Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh gia nhập TPP

  1. NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH GIA NHẬP TPP ENHANCING COMPETITIVENESS OF VIETNAMESE ENTERPRISES IN THE CONTEXT OF TPP ENTRY Th.S. NCS Đặng Thị Thu Giang Học viện Tài chính Tóm tắt Tham gia Hiệp định đối tác Kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TTP) sẽ mang lại cho doanh nghiệp Việt Nam không chỉ cơ hội mà còn cả những thách thức. Có thể nói, TTP là một thị trường lớn nhưng đồng thời sẽ là một chiến trường lớn, trong đó doanh nghiệp Việt Nam cần nâng cao năng lực cạnh tranh để có thể tìm được chỗ đứng cho mình với các doanh nghiệp nước ngoài không chỉ ở thị trường trong nước mà cả ở nước ngoài. Bài viết phân tích những tác động của TTP tới kinh tế Việt Nam, qua đó đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao năng lực canh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam khi gia nhập TTP. Từ khóa: Hiệp định đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương, doanh nghiệp Việt Nam, năng lực cạnh tranh Abstract Participating in Trans-Pacific Partnership (TPP) will not only give Vietnamese enterprises opportunities but also challenges. TTP is considered as a huge market but at the same time it’s also the very big battlefield, in which Vietnamese enterprises should improve competitiveness in order to find their own places with foreign enterprises not only in domestic market but also foreign market. The paper analyzes the impacts of TTP on Vietnam economy, thereby propose a number of solutions to enhance the competitiveness of Vietnam enterprises. Key words: TPP, Vietnam enterprises, competitiveness 1.Xuất xứ TPP khởi nguồn là Hiệp định Đối tác kinh tế chặt chẽ hơn, do nguyên thủ 3 nước Chile, New Zealand, Singapore (P3) phát động đàm phán nhân dịp Hội nghị Cấp cao APEC tổ chức tại Mexico vào năm 2002. Đến năm 2005 có thêm Brunei xin gia nhập với tư cách thành viên sáng lập trước khi vòng đàm phán cuối cùng kết thúc, nên P3 đã biến thành P4, với tên gọi Hiệp định hợp tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương. Năm 2007, các nước thành viên P4 quyết định mở rộng phạm vi đàm phán của Hiệp định này ra các vấn đề dịch vụ tài chính, đầu tư và trao đổi với Mỹ về khả năng nước này tham gia đàm phán mở rộng của P4. Phía Mỹ cũng bắt đầu tiến hành nghiên cứu, tham vấn nội bộ với các nhóm lợi ích và Nghị viện về vấn đề này. Tháng 9/2008, Mỹ quyết định tham gia đàm phán P4 mở rộng; tháng 11 cùng năm, các nước Australia, Peru và Việt Nam cũng bày tỏ quan tâm và tham gia đàm phán TPP, nâng tổng số thành viên tham gia lên 8 359
  2. nước (trừ Việt Nam đến 13/11/2010 mới tuyên bố tham gia đàm phán với tư cách thành viên đầy đủ). Cũng từ thời điểm này, đàm phán mở rộng P4 được đặt tên lại là đàm phán Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Kể từ sau vòng đàm phán TPP đầu tiên được tiến hành tại Melbourn (Australia) vào tháng 3/2010, đến nay TPP đã co ́ sự tham gia của12 quốc gia. Ngoài các thành viên sáng lập, cać nước xin gia nhập tiếp theo là Mỹ, Australia, Việt Nam, Peru, Malaysia và gần đây là Mexico và Canada, Nhật Bản. Ngoài ra, Hàn Quốc và Đài Loan là các nước thành viên tiềm năng đang tiến hành tham vấn các đối tác, xem xét chuẩn bị tham gia đàm phán TPP. Các nước nói trên đã trải qua 19 vòng đàm phán; 04 Hội nghị Bộ trưởng TPP (hội nghị lần thứ 4 diễn ra ở Singapore, từ 22-25/3/2014). 2. Khái quát tiến trình tham gia đàm phán gia nhập tpp của Việt Nam - Sau khi P4 hình thành, Singapore đã gia nhập và thể hiện mong muốn mở rộng TPP và sử dụng TPP như một công cụ để hiện thực hóa ý tưởng về Khu vực Thương mại tự do châu Á-Thái Bình Dương của APEC. Từ năm 2006, quốc đảo Sư tử này tích cực mời Việt Nam tham gia TPP, song vì cân nhắc cảc về khía cạnh kinh tế và chính trị, Việt Nam chưa nhận lời mời này. - Tháng 9/2008, Mỹ tuyên bố tham gia TPP. Tiếp theo đó, tháng 11/2008, Australia và Peru cũng tuyên bố tham gia TPP. Đồng thời, đại diện các bên khẳng định sẽ đàm phán để thiết lập một khuôn khổ mới cho TPP. Kể từ đó, các vòng đàm phán TPP được lên lịch và diễn ra cho đến nay. Trước khi tuyên bố tham gia TPP, Mỹ cũng đã mời Việt Nam cùng tham gia TPP, đầu năm 2009, Việt Nam quyết định tham gia hiệp định này với tư cách thành viên liên kết. - Tháng 11/2010, sau khi tham gia 3 phiên đàm phán TPP với tư cách thành viên liên kết, Việt Nam đã chính thức tham gia đàm phán TPP và tham dự đầy đủ các vòng đàm phán cho đến nay. Ưu tiên đàm phán của Việt Nam trong TPP là mở rộng tiếp cận thị trường đối với sản phẩm may mặc và giày dép, do đây là những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ. 3. Những cơ hội từ TPP 3.1. Cơ hội với kinh tế khu vực Nếu ra đời, TPP sẽ trở thành một trong những khu vực thương mại lớn nhất thế giới với hơn 800 triệu người, đóng góp hơn 40% GDP của thế giới và khoảng 30% kim ngạch thương mại toàn cầu. Theo một nghiên cứu định lượng của Trung tâm Đông - Tây (East- West Center - trung tâm nghiên cứu được Quốc hội Mỹ thành lập) thì tác động của TPP trong thời gian đầu là tương đối nhỏ, song đến năm 2025 TPP có thể đem lại gia tăng thu nhập cho nền kinh tế toàn cầu lên đến 104 tỷ USD. Nghiên cứu này đề cập đến hai con đường hướng tới tự do hóa trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương: thứ nhất là đi từ các hiệp định thương mại tự do của các nước trong khu vực, mà chủ yếu bắt đầu từ các hiệp định của ASEAN, rồi tiến đến một 360
  3. hiệp định thương mại tự do cho cả khu vực; thứ hai là đi từ TPP, mở rộng dần cho các nước trong khu vực, và tiến đến xây dựng hiệp định cho tất cả các quốc gia trong khu vực. Trong nghiên cứu này, các quốc gia TPP được hiểu là bên cạnh 11 quốc gia đã chính thức nhận lời tham gia đàm phán còn có thêm Nhật Bản và Hàn Quốc, tổng cộng là 13 quốc gia. Nghiên cứu này chỉ ra rằng TPP là con đường dẫn đến tự do hóa khu vực đem lại lợi ích nhiều nhất cho các quốc gia. Vào năm 2025 GDP toàn cầu gia tăng 104,3 tỷ USD, tương ứng với mức gia tăng 0,1%. Tất cả các quốc gia tham gia TPP đều thu được lợi ích từ Hiệp định. Bảng 1: GDP gia tăng theo quốc gia vào năm 2025 với kịch bản TPP GDP năm 2025 (không có GDP gia tăng nhờ TPP Quốc gia % so với GDP TPP) (tỷ USD) (tỷ USD) Các quốc gia TPP Hoa Kỳ 20.337 13,9 0,07 Australia 1.426 2,4 0,17 Canada 1.982 2,3 0,12 Chile 289 2,3 0,78 Mexico 1.999 11,7 0,58 New Zealand 206 1,7 0,83 Peru 311 6,6 2,12 Brunei 22 0,1 0,48 Nhật Bản 5.332 30,7 0,58 Hàn Quốc 2.063 15,1 0,73 Malaixia 422 9,4 2,24 Singapore 386 1,4 0,35 Vietnam 235 33,5 14,27 Một số quốc gia khác Trung Quốc 16.834 -15,7 -0,09 Nga 2.790 -1,0 -0,03 Châu Âu 22.237 1,6 0,01 Ấn Độ 5.229 -0,6 -0,01 Thế giới 101.967 104,3 0,1 Nguồn: Nghiên cứu của Trung tâm Đông-Tây, thuộc QH Mỹ. 3.2. Cơ hội đối với Việt Nam 3.2.1. Cơ hội đẩy mạnh xuất khẩu Nhiều nước tham gia TPP là thị trường xuất khẩu quan trọng của Việt Nam. Trong đó có 2 trong số 3 nước nhập khẩu lớn nhất của nước ta là Mỹ và Nhật Bản. Do vậy, TPP sẽ mở ra cơ hội gia tăng xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ, Nhật Bản cũng như các thành viên khác của TPP, nhờ những cam kết mở cửa thị trường mạnh hơn, cao hơn so với những cam kết hiện có trong khu vực. Riêng với Mỹ, thông qua Hiệp định TPP, Việt Nam sẽ có 361
  4. cơ hội gia tăng xuất khẩu vào thị trường này những sản phẩm vốn có thế mạnh (dệt may, thủy sản, giày dép, sản phẩm gỗ ). Theo dự tính của Trung tâm nghiên cứu Đông-Tây (QH Mỹ), nhờ tham gia TPP, đến năm 2025, xuất khẩu của Việt Nam tăng thêm 25,8%. Mức gia tăng này của Việt Nam cao hơn hẳn các quốc gia khác cùng tham gia TPP. Bảng 2: Gia tăng thu nhập và kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam so với các quốc gia TPP và một số quốc gia khác trong khu vực vào năm 2025 % Gia tăng kim ngạch STT Quốc gia % Gia tăng GDP xuất khẩu 1. Việt Nam 14,27 25,8 2. Malaxia 2,24 5 3. New Zealand 0,78 5,7 4. Hàn Quốc 0,73 7,7 5. Nhật Bản 0,58 4,9 6. Mexico 0,58 3,1 7. Brunei 0,48 1,8 8. Singapore 0,35 0,6 9. Trung Quốc -0,09 -0,5 Nguồn: Nghiên cứu của Trung tâm Đông-Tây, thuộc QH Mỹ. 3.2.2. Thúc đẩy đầu tư Tham gia TPP, hàng hóa Việt Nam có cơ hội thâm nhập các thị trường xuất khẩu lớn mạnh hơn, do thuế thấp hơn. Theo đó, Việt Nam hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài mạnh hơn các nước trong khu vực. Các nhà đầu tư nước ngoài đặc biệt là từ Trung Quốc, ASEAN sẽ tăng cường đầu tư vào Việt Nam để tận dụng ưu thế thành viên TPP của Việt Nam. Nhiều chuyên gia cho rằng, đây là lợi ích lớn nhất mà Việt Nam thu được từ TPP. Bên cạnh đó, ngay trong các thành viên TPP cũng có nhiều quốc gia là đối tác đầu tư quan trọng, có khả năng bổ sung cao cho nền kinh tế Việt Nam như: Mỹ, Australia, New Zealand, Singapore Khi TPP có hiệu lực, hiệp định này cũng giúp thúc đẩy, gia tăng đầu tư của các nước nói trên vào Việt Nam, đặc biệt trong một số lĩnh vực Việt Nam mong muốn như phát triển các ngành công nghệ cao, nâng cao trình độ của các lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ, nông nghiệp, tạo khả năng cho Việt Nam tham gia tốt hơn vào chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu.Ở chiều ngược lại cũng tạo điều kiện cho Việt Nam tham gia đầu tư vào các nước khác trong TPP với các lĩnh vực Việt Nam có thế mạnh. 3.2.3. Đẩy mạnh hội nhập quốc tế và nâng cao vị thế đất nước Việc tham gia TPP sẽ giúp Việt Nam có thêm điều kiện, cơ hội triển khai chủ trương tích cực, chủ động hội nhập quốc tế mà Đại hội Đảng lần thứ XI năm 2011 đã đề ra. Hiệp định này cũng giúp Việt Nam tăng cường quan hệ nhiều mặt với các đối tác quốc tế trong khu vực châu Á-Thái Bình, trong đó có nhiều đối tác quan trọng của Việt Nam nói riêng và ASEAN nói chung, như: Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc Việc tham gia TPP với nhiều điều khoản, mức độ yêu cầu cao về tự do hóa thương mại, thị trường sản phẩm, dịch vụ, 362
  5. môi trường cũng chứng tỏ quyết tâm và cam kết cải cách, đổi mới mạnh mẽ của Chính phủ Việt Nam. Qua đó, làm tăng sức hấp dẫn của thị trường Việt Nam nói riêng và uy tín của Việt Nam nói chung đối với các nhà đầu tư, cộng đồng quốc tế; góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam. 3.2.4. Thúc đẩy cải cách thể chế, tái cơ cấu, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Thực tế gần 30 năm đổi mới, mở cửa vừa qua cho thấy, việc mở cửa nền kinh tế thành công luôn tạo động lực thúc đẩy cải cách kinh tế và nâng cao trình độ phát triển của Việt Nam. Đồng thời, những cải cách và chính sách mở cửa tích cực lại tạo cơ hội để Việt Nam hội nhập quốc tế thành công. TPP vừa tạo ra thách thức, vừa tạo ra sức ép để Việt Nam đẩy mạnh cải cách thể chế, cải thiện môi trường kinh doanh, cải cách khu vực DNNN, hoàn thiện hệ thống luật pháp Những cải cách này trước mắt là để bảo đảm đủ điều kiện cho Việt Nam bước vào "sân chơi” TPP , song về lâu dài, có tác động tích cực đối với lành mạnh hóa nền kinh tế, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Thông qua TPP, các quan hệ thương mại, đầu tư và hợp tác giáo dục, khoa học công nghệ giữa Việt Nam với các thành viên TPP có thể cải thiện, mở rộng nhanh chóng. Theo đó, tạo thêm nguồn lực từ bên ngoài giúp Việt Nam phát triển, hiện đại hóa đất nước trong giai đoạn mới. Theo nghiên cứu định lượng của Trung tâm Đông - Tây (Mỹ), các quốc gia có quy mô kinh tế nhỏ, đặc biệt là Việt Nam sẽ là nước nhận được nhiều lợi ích nhất từ TPP cũng như các hiệp định thương mại tự do trong khu vực. Trung tâm này dự báo, đến năm 2025, GDP của Việt Nam sẽ tăng thêm 14,7%, chủ yếu nhờ vào việc mở rộng thương mại thông qua TPP. 4. Một số thách thức đặt ra Bên cạnh cơ hội, việc gia nhập TPP cũng đặt ra không ít khó khăn, thách thức lớn đối với Việt Nam. Dưới đây là những thách thức chủ yếu. 4.1. Gia tăng sức ép về mở cửa thị trường, cạnh tranh - Gia nhập TPP, sẽ làm gia tăng sức ép về mở cửa thị trường, cạnh tranh đối với các doanh nghiệp của Việt Nam, trong bối cảnh doanh nghiệp Việt Nam nhìn chung năng lực cạnh tranh còn yếu, khả năng quản lý còn nhiều bất cập. Khi đàm phán TPP kết thúc, có khả năng cam kết giảm thuế của Việt Nam sẽ thấp hơn một chút so với những nước khác, do vẫn là nước đang phát triển, song Việt Nam vẫn phải đối mặt với sự cạnh tranh nhập khẩu. Theo đó, nếu không có sự chuẩn bị tốt, nhiều ngành sản xuất và dịch vụ có thể sẽ gặp khó khăn.Ngay cả nông sản, chăn nuôi, vốn là một thế mạnh của Việt Nam, song nhiều mặt hàng được dự báo khó cạnh tranh ngay tại thị trường nội địa, như thịt lợn, thịt bò - Độ mở của nền kinh tế Việt Nam còn thấp và được bảo hộ nhiều hơn bất cứ quốc gia TPP nào. Trên thực tế, ở Việt Nam các thị trường dịch vụ, thị trường lao động, khoa học-công nghệ vẫn chưa phát triển hoàn chỉnh hoặc mới chỉ manh nha. Vì vậy, khi TPP chính thức có hiệu lực, Việt Nam sẽ phải đối mặt với đòi hỏi từ các nước TPP về việc mở rộng cửa hơn nữa cho đầu tư nước ngoài ở nhiều lĩnh vực mà Việt Nam chưa thị trường 363
  6. hóa, chẳng hạn như viễn thông và dịch vụ tài chính. Thỏa mãn những yêu cầu này sẽ là thách thức về mặt kinh doanh và chính sách công. - Việc tham gia Hiệp định TPP còn dẫn đến những thách thức lớn về cải cách doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam, mà theo đánh giá của phía Mỹ là chiếm tới 40% GDP quốc gia. Các cam kết từ TPP có thể gây ra một số hệ quả xã hội tiêu cực cho Việt Nam như tình trạng phá sản và thất nghiệp ở các doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh yếu. Ngoài ra, kết quả đàm phán nội dung lao động trong Hiệp định TPP có thể sẽ có tác động tới môi trường lao động ở Việt Nam. 4.2. Khó khăn đối với một số ngành hàng xuất khẩu chủ lực Hiệp định TPP đề cập đến tất cả các vấn đề của kinh tế, xã hội như thuế quan, hàng rào kỹ thuật, lĩnh vực phi truyền thống (lao động, môi trường, chống tham nhũng ) ở 22 nhóm lĩnh vực. Bên cạnh cơ hội giảm thuế, những rào cản dưới dạng quy định kỹ thuật, vệ sinh dịch tễ hay kiện phòng vệ thương mại với quy chế nền kinh tế phi thị trường mà Hoa Kỳ thực hiện, rất có thể sẽ vô hiệu hóa lợi ích từ việc giảm thuế quan đối với hàng hóa Việt Nam. Chẳng hạn, những quy định của TPP về quy tắc xuất xứ, môi trường sẽ gây khó khăn cho một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như: dệt may, thủy-hải sản Điển hình ở quy tắc xuất xứ, Mỹ đòi hỏi hàng dệt may của Việt Nam phải tính từ khâu sợi, điều mà hiện nay doanh nghiệp Việt Nam khó đáp ứng và khả năng có đến 80% hàng hóa không đạt yêu cầu. Trong khi đó, Việt Nam đang theo đuổi nguyên tắc xuất xứ "cắt và may” trong TPP mà theo đó, dù hàng hoá với nguồn nguyên liệu từ các nước không là thành viên TPP vẫn được hưởng những ưu đãi thuế quan trong TPP. Còn về môi trường, có những yêu cầu cam kết cấm trợ cấp đánh bắt thủy hải sản có thể gây bất lợi đối với chính sách phát triển của ngành này 4.3. Sức ép kiện toàn khung khổ luật pháp và các chỉ tiêu theo chuẩn quốc tế Việc cam kết và thực hiện các cam kết sâu và rộng trong khuôn khổ TPP sẽ đòi hỏi Việt Nam trong việc phải nhanh chóng kiện toàn hệ thống luật pháp; các chỉ tiêu về chất lượng sản phẩm, môi trường, xã hội theo thông lệ quốc tế. Trong khi đó, hệ thống luật pháp của Việt Nam hiện nay kém phát triển hơn những đối tác khác trong TPP. Luật pháp của Việt Nam yếu từ khâu soạn thảo đến ban hành, thực thi. Hiện tại Việt Nam vẫn tồn tại tình trạng phải sử dụng nhiều văn bản dưới luật để triển khai một luật. Các bộ chỉ tiêu đánh giá chất lượng sản phẩm, mức độ phát triển của các ngành và cả nền kinh tế nói chung còn có những khác biệt so với thông lệ quốc tế cả về chất lượng lẫn phương thức tính toán. Chẳng hạn, chỉ tiêu giảm nghèo là tính theo chuẩn riêng của Việt Nam. Để thực thi cam kết trong Hiệp định TPP, Việt Nam sẽ phải điều chỉnh, sửa đổi nhiều quy định pháp luật cũng như các chỉ tiêu chất lượng về thương mại, đầu tư, đấu thầu, sở hữu trí tuệ Trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, việc đưa hệ thống quy định pháp luật và các chỉ tiêu chất lượng, chỉ tiêu kinh tế-xã hội lên một mức tương xứng với các bên khác trong TPP là vô cùng khó khăn. 4.4. Khoảng cách quá lớn về trình độ phát triển Thách thức nghiêm trọng nhất đối với Việt Nam bao trùm cả những thách thức nêu trên là Việt Nam hiện có khoảng cách quá lớn về trình độ phát triển so với tất cả các nước 364
  7. thành viên TPP. Bên cạnh đó, Việt Nam còn có những khác biệt lớn với các đối tác trong TPP. Chẳng hạn: - Về kinh tế thị trường: Việt Nam chưa có kinh tế thị trường đúng nghĩa. Kinh tế thị trường ở Việt Nam là "theo định hướng XHCN”, không thật sự tôn trọng các quy luật của thị trường về cung cầu-cạnh tranh-giá cả. Thị trường ở Việt Nam về cơ bản mới có thị trường sản phẩm; thị trường vốn, lao động, khoa học công nghệ phát triển chưa đáng kể. Mỹ là đối tác lớn nhất trong TPP hiện cũng vẫn cho rằng Việt Nam là một nền "kinh tế phi thị trường” và áp đặt các hạn chế đối với ngành dệt may, thuỷ sản của Việt Nam. - Việt Nam đã có những bước tiến lớn trong công cuộc tự do hoá nền kinh tế và đã trở thành thành viên của WTO. Tuy vậy, Việt Nam vẫn gặp nhiều chỉ trích về các tiêu chuẩn lao động, sở hữu trí tuệ và vấn đề tham nhũng. Riêng về vấn đề quyền sở hữu trí tuệ, Việt Nam tiếp tục nằm trong danh sách các nước bị phía Mỹ theo dõi, một phần do sản phẩm lậu và nhái vẫn được tiêu thụ rộng rãi trên thị trường, bao gồm cả vi phạm bản quyền online. - Về quan hệ thương mại giữa Việt Nam với các đối tác trong TPP chủ yếu là quan hệ "hàng dọc”, nghĩa là xuất khẩu nguyên liệu thô, sản phẩm gia công; nhập khẩu công nghệ, máy móc Những yếu tố nêu trên sẽ làm hạn chế đáng kể khả năng tận dụng cơ hội, vượt qua các thách thức từ TPP của Việt Nam. 4.5. Tác động tiêu cực đối với chính sách đối ngoại "cân bằng nước lớn” Việt Nam chủ trương thực hiện chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ. Trong quan hệ với các nước lớn là Mỹ và Trung Quốc, thời gian qua Việt Nam thực hiện chính sách ‘cân bằng”. Tuy nhiên, việc Việt Nam gia nhập TPP - "sân chơi” chủ yếu do Mỹ dẫn dắt - đang gây ra những quan ngại và hiểu lầm từ phía Trung Quốc. Trên báo chí Trung Quốc hiện tồn tại quan điểm khá phổ biến là: Mỹ lợi dụng TPP để lôi kéo Việt Nam, Nhật Bản và một số nước khác thực hiện âm mưu "bao vây” Trung Quốc. Chiến lược của Hoa Kỳ và Nhật Bản là cách ly và làm giảm tầm ảnh hưởng của Trung Quốc ở khu vực thông qua TPP. Từ năm 2001, sau khi trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Trung Quốc đã ngay lập tức tận dụng tư cách này để đưa ra một đề xuất rất hấp dẫn về một hiệp định thương mại tự do với Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (CAFTA). Đồng thời, thực hiện "chương trình thu hoạch sớm”, đồng ý cắt giảm các khoản thuế nông nghiệp ngay lập tức với các nước ASEAN. Sau đó, ngày 1/1/2010, CAFTA giữa Trung Quốc và mười nước thành viên ASEAN đã chính thức đi vào hoạt động, trở thành khu vực thương mại tự do lớn nhất thế giới, xét về quy mô dân số. Gần đây, nhiều chuyên gia phân tích của Trung Quốc cũng cho rằng, TPP sẽ là đường dẫn cho sự tham gia nhiều hơn của Mỹ tại khu vực, đồng thời Mỹ cũng đang cố gắng thay đổi các thể thức thương mại theo cách "vạch một đường phân chia xuống Thái Bình Dương". TPP sẽ là những viên gạch nền, là hạt nhân cho một khu vực thương mại châu Á - Thái Bình Dương phục vụ lợi ích thực tế và lâu dài của Mỹ đối với châu Á, và trên hết là tăng cường địa vị, vai trò của Mỹ tại khu vực này. Theo đó, làm suy giảm ảnh hưởng của Trung Quốc.Trong bối cảnh nêu trên, TPP đang và sẽ đặt ra những khó khăn cho Việt Nam trong việc tiếp tục thực hiện chính sách "cân bằng” nước lớn. 365
  8. 5. Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Vam trong bối cảnh TPP 5.1. Thực trạng năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam 5.1.1 Về nguồn vốn và công nghệ Các doanh nghiệp hiện nay đều gặp khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn, điều này sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả kinh doanh và năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế đặc biệt khi tham gia hiệp định TPP. Bên cạnh đó, việc tiếp cận nguồn vốn hạn chế sẽ dẫn đến việc nguồn tài chính của các doanh nghiệp Việt Nam yếu và thụ động, nên hầu hết các doanh nghiệp phải sử dụng công nghệ và kỹ thuật lạc hậu, không được nâng cấp, đòi hỏi số lượng lao động lớn. Theo kết quả điều tra đối với toàn bộ doanh nghiệp năm 2013, chưa có đến 10% doanh nghiệp có các hoạt động nghiên cứu và phát triển và chỉ có khoảng hớn 5% cải tiến công nghệ có sẵn. Trong những năm gần đây, mặc dù có nhiều doanh nghiệp đã đầu tư đổi mới máy móc thiết bị và công nghệ tuy nhiên tốc độ đổi mới công nghệ, trang thiết bị còn chậm, chưa đồng đều, chưa có định hướng phát triển rõ rệt. 5.1.2 Về nhân lực và quản lý nhân lực Doanh nghiệp Việt Nam có nguồn lao động dồi dào. Theo số liệu thống kê đầu năm 2016, Việt Nam có hơn 90 triệu dân, 67% dân số trong độ tuổi lao động. Tuy nhiên năng suất lao động lại ở mức thấp, cấp thiết đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam phải có chương trình đào tạo, bồi dưỡng để năng cao kỹ năng, trình độ góp tạo lợi thế cạnh tranh so với các nước trong khu vực. Đối với DNNN, việc phân cấp trên dưới, ngang dọc chưa rõ ràng, khiến doanh nghiệp chịu nhiều cấp, nhiều ngành cùng quản lý, trong khi đó bộ máy quản lý còn cồng kềnh, nhiều thủ tục hành chính rườm rà khiến doanh nghiệp không thể hoạt động nhanh nhạy, linh hoạt, đáp ứng yêu cầu của thị trường. 5.1.3 Về chiến lược sản phẩm Hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam cũng đã quan tâm đến chất lượng sản phẩm và xây dựng chiến lược sản phẩm để đáp ứng nhu cầu của khách hàng và thị trường nhưng do các khó khăn về nguồn vốn và công nghệ nên các sản phẩm của doanh nghiệp Việt Nam có hàm lượng tri thức và công nghệ thấp, chất lượng sản phẩm chưa đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Kế hoạch kinh doanh và giá thành sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam rất bị động, phụ thuộc vào sự biến động giá cả nguyên liệu nhập khẩu, tỷ giá hối đoái do nguyên vật liệu nhập khẩu chiếm tỷ trọng cao trong giá thành sản phẩm. 5.1.4 Về chiến lược phân phối Các doanh nghiệp Việt Nam có quy mô vừa và nhỏ là chủ yếu do vậy rất ít doanh nghiệp có được kênh phân phối đến đại lý hoặc người tiêu dùng cuối cùng. Phần đông các doanh nghiệp Việt Nam áp dụng hình thức kênh phân phối qua các trung gian thương mại dẫn đến việc không kiểm soát được quá trình phân phối và tiêu thụ sản phẩm, chưa nắm bắt trực tiếp các phản hồi từ thị trường khách hàng. 5.1.5 Về đầu tư chi phí nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới Trên thế giới, chi phí của các doanh nghiệp bỏ ra để nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới có tỷ trọng khá lớn trong cơ cấu chi phí nhằm đầu tư, sáng tạo các công nghệ kỹ thuật mới nâng cao năng suất lao động, cải tiến chất lượng sản phẩm. Tuy nhiên, tại Việt 366
  9. Nam các doanh nghiệp chưa có điều kiện chú ý đến công tác nghiên cứu và phát triển nên chỉ dành 0,2% đến 0,3% doanh thu cho nghiên cứu phát triển sản phẩm mới. 5.2. Các biện pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam 5.2.1 Mở rộng khả năng tiếp cận vốn cho doanh nghiệp Để tăng tiềm lực tài chính, các doanh nghiệp cần chủ động đa dạng hóa cơ cấu vốn để không phụ thuộc quá nhiều vào vốn vay ngân hàng. Đồng thời doanh nghiệp cũng như cần sự hỗ trợ của Nhà nước thông qua hỗ trợ về lãi suất, bảo lãnh tín dụng và năng lực xây dựng phương án kinh doanh. Việc tiếp cận được nguồn vốn sẽ giúp doanh nghiêp Việt Nam có khả năng tiếp nhận, phát triển những tiến bộ khoa học công nghệ, nâng cao năng suất lao động, tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao, giá thành rẻ hơn nhờ đó tăng sức cạnh tranh cho doanh nghiệp. 5.2.2 Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp Tiến hành sắp xếp bố trí hợp lý đội ngũ cán bộ quản lý và lao động hiện có ở các doanh nghiệp phù hợp với trình độ và năng lực sở trường. Bổ sung những cán bộ, lao động đủ tiêu chuẩn, có triển vọng phát triển, đồng thời thay thế những cán bộ, nhân viên không đủ năng lực, không đủ tiêu chuẩn. Đa dạng hóa các kỹ năng và đảm bảo khả năng thích ứng của người lao động khi có sự điều chỉnh lao động trong nội bộ doanh nghiệp, qua đó cắt giảm được chi phí cho doanh nghiệp. Tiêu chuẩn hóa cán bộ, lao động trong doanh nghiệp cụ thể đối với từng ngành nghề, từng loại công việc, đáp ứng được yêu cầu phát triển trong từng thời kỳ. Áp dụng cơ chế bổ sung và đào thải nhân lực thường xuyên để duy trì đội ngũ cán bộ quản lý kinh doanh, nhân viên tinh thông nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu cạnh tranh của thị trường. 5.2.3 Đổi mới cơ cấu tổ chức quản lý Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận trong hệ thống tổ chức kinh doanh của doanh nghiệp, tranh sự chồng chéo, tạo điều kiện cho cán bộ quản lý tập trung đầu tư chuyên sâu và đảm bảo sự hoạt động của các bộ phận trong doanh nghiệp một cách nhịp nhàng. Điều chỉnh hợp lý, tổ chức phù hợp với yêu cầu của đội ngũ cán bộ quản lý trong doanh nghiệp nhằm xác định các quyết định đưa một cách chính xác, hiệu quả. Đảm bảo thông tin trong nội bộ doanh nghiệp theo các nguyên tắc sau: Thông tin phải được phổ biến rộng rãi cho tất cả mọi người, mọi cấp trong tổ chức được biết rõ ràng; các tuyến thông tin cần trực tiếp và ngắn gọn; duy trì hoạt động của toàn bộ hệ thống thông tin một cách thường xuyên không bị ngắt quãng. 5.2.4 Tăng cường hoạt động marketing hỗn hợp Thứ nhất:Tăng cường công tác nghiên cứu thị trường Nghiên cứu thị trường là công việc cần thiết đầu tiên đối với bất kỳ doanh nghiệp nào trong quá trình kinh doanh, qua đó giúp doanh nghiệp nắm được thông tin cần thiết về giá cả, cung cầu hàng hóa và dịch vụ để doanh nghiệp đề ra những phương án chiến lược và biện pháp cụ thể thực hiện mục tiêu kinh doanh đề ra. Công tác nghiên cứu thị trường 367
  10. tiến hành theo trình tự: xác định mục tiêu nghiên cứu thị trường, xây dựng hệ thống các chỉ tiêu nghiên cứu thị trường, xác định và lựa chọn phương pháp nghiên cứu, xây dựng kế hoạch nghiên cứu, thực hiện, điều chỉnh kế hoạch và viết báo cáo. Thứ hai: Hoàn thiện chiến lược sản phẩm Các doanh nghiệp cần chọn những sản phẩm có thế mạnh, không ngừng cải tiến nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hóa sản phẩm theo nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Khai thác có hiệu quả lợi thế của quốc gia trong lựa chọn sản phẩm, hiện đại hóa khâu thiết kế sản phẩm, lựa chọn hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến trên thế giới phù hợp với doanh nghiệp để nâng cao chiến lược sản phẩm. Sản phẩm phải đảm bảo đáp ứng nhu cầu thị trường về chất lượng, kiểu dáng, mẫu mã và bao gói, trong đó sự thích ứng của sản phẩm với một thị trường phụ thuộc vào 2 yếu tố cơ bản: mức độ chấp nhận người tiêu dùng cuối cùng và mức độ sẵn sang chấp nhận của các nhà sản xuất, của các khách hàng trung gian (nhà bán buôn, nhà bán lẻ). Thứ ba: Hoàn thiện chiến lược phân phối và tổ chức lại mạng lưới bán hàng Doanh nghiệp nên chọn kiểu kênh phân phối dọc như sau: Các thành viên liên kết với nhau thành một hệ thống thống nhất, chặt chẽ, bền vững để không bị phá vỡ bởi bất kỳ xung lực nào từ môi trường bên ngoài, trong đó phải có một tổ chức giữ vai trò người chỉ huy kênh( thường là nhà sản xuất). Tính thống nhất và sự liên kết chặt chẽ giữa các thành viên kênh được đảm bảo bằng sự hợp tác toàn diện, trên nền tảng thống nhất lợi ích của toàn bộ hệ thống kênh và từng thành viên. Để tạo lập được một hệ thống kênh phân phối dọc, các doanh nghiệp cần quan tâm đến việc: đầu tư xứng đáng để thiết kế một cơ cấu kênh phân phối tối ưu, số lượng kênh được sử dụng và tỷ trọng hàng hóa được phân bổ mỗi kênh; biến cơ cấu kênh phân phối tối ưu thành hiện thực, nghĩa là phát triển mạng lưới phân phối và thực hiện các biện pháp điều chỉnh, quản lý nó; xử lý kịp thời có hiệu quả các mâu thuẫn, xung đột trong kênh, giải quyết các xung đột ngay từ khi mới phát sinh; thường xuyên đánh giá hoạt động của các thành viên kênh, để có sự quản lý và điều chỉnh hệ thống kênh một cách có căn cứ kịp thời. 5.2.5 Xây dựng và phát triển thương hiệu doanh nghiệp Các doanh nghiệp cần trao việc hoạch định chiến lược và sáng tạo nhãn hiệu cho các chuyên gia nhằm mục đích là biến mình thành người thẩm định, sử dụng các dịch vụ tư vấn như tư vấn sáng tạo phát triển nhãn hiệu, tư vấn về pháp lý, tư vấn kinh doanh và hoạch định chiến lược, tư vấn về quảng cáo và truyền thông, giám sát các nhà cung cấp dịch vụ tư vấn. Xây dựng thương hiệu phải khơi dậy cảm xúc của khách hàng. Để xây dựng một thương hiệu được khách hàng tin cậy thì doanh nghiệp cần phải hiểu rõ đối tượng khách hàng của mình hơn ai hết và luôn lấy sự hài lòng của khách hàng làm trọng tâm cho mọi hoạt động. Nâng cao nhận thức về bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa. Việc đăng ký sở hữu công nghiệp, đăng ký độc quyền nhãn hiệu hàng hóa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của 368
  11. thương hiệu tại các thị trường mà doanh nghiệp có chiến lược đầu tư kinh doanh là rất cần thiết. 5.5.6 Hoàn thiện hệ thống thông tin, chủ động áp dụng thương mại điện tử trong điều hành kinh doanh Xây dựng các chi nhánh nhằm thu được thông tin chính xác, kịp thời về giá cả, chất lượng, điều kiện giao hàng Liên kết với các bạn hàng truyền thống để họ có thể giúp đỡ trong việc cung cấp thông tin. Xây dựng một đội ngũ cán bộ chuyên trách nhằm nghiên cứu đầy đủ, cung cấp thông tin về thị trường có thể dự báo về các biến động của thị trường. Chủ động xây dựng và triển khai áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng quốc tế (như ISO:9000 về quản lý chất lượng, HACCP/ISO 22.000 về quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm, OHSSAS 18.000 về sức khỏe công nghiệp và ISO:14.000 về quản lý môi trường ). Kết luận Tham gia vào TPP sẽ đem lại một thị trường rộng lớn và cũng nhiều thách thức cho các doanh nghiệp Việt Nam với sự canh tranh gay gắt từ các doanh nghiệp,tập đoàn nước ngoài. Vì vậy để có thể tìm được chỗ đứng cho mình, doanh nghiệp Việt Nam cần phải nâng cao năng lực cạnh tranh bằng các biện pháp cụ thể như mở rộng khả năng tiếp cận vốn, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đổi mới tổ chức quản lý, tăng cường marketing và các phương pháp phát triển sản phẩm. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần có những giải pháp cụ thể để kết nối với các doanh nghiệp, qua đó giải quyết những khó khăn, tranh chấp về thương mại trong bối cảnh hội nhập kinh tế sâu rộng của Việt Nam hiện nay. Tổng hợp các giải pháp trên sẽ góp phần khơi dậy khả năng sáng tạo, phát huy trí tuệ của từng các nhân và tập thể từng doanh nhiệp nhằm tìm cách tối thiểu hóa chi phí sản xuất, đặc biệt là chi phí nguyên liệu, chi phí quản lý doanh nghiệp, giảm giá thành sản phẩm, nâng cao vị thế, thương hiệu sản phẩm Việt Nam trên thị trường quốc tế cũng tức là nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh hội nhập TPP. TÀI LIỆU THAM KHẢO (1) Bộ ngoại giao Việt Nam “Giới thiệu chung về Hiệp định TPP”. www.mofahcm.gov.vn (2) Đoàn Minh Huê, (2015) “Vào TPP, doanh nghiệp cần đổi mới quy trình quản trị”. www.bnews.vn (3) Phạm Tất Thắng “Các biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam khi gia nhập cộng đồng ASEAN dưới tác động của TPP”. www.vietnamasean.vn 369