Pháp luật về phòng vệ thương mại của Việt Nam trong điều kiện thực thi các FTA thế hệ mới

pdf 11 trang Gia Huy 18/05/2022 2330
Bạn đang xem tài liệu "Pháp luật về phòng vệ thương mại của Việt Nam trong điều kiện thực thi các FTA thế hệ mới", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfphap_luat_ve_phong_ve_thuong_mai_cua_viet_nam_trong_dieu_kie.pdf

Nội dung text: Pháp luật về phòng vệ thương mại của Việt Nam trong điều kiện thực thi các FTA thế hệ mới

  1. 5. Cục Phòng vệ Thương mại (2019), Biện pháp phòng vệ thương mại trong môi trường thực thi các FTA thế hệ mới, Tạp chí Tài chính số tháng 5/2019; 6. Ban Chỉ đạo Liên ngành Hội nhập quốc tế về kinh tế, Cẩm nang tích hợp các FTA theo từng lĩnh vực – Hướng dẫn thực thi cam kết về phòng vệ thương mại và giải quyết tranh chấp. 7. Vụ Hợp tác quốc tế, Bộ Tài chính (2018), Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ năm 2017, ―Thực hiện các cam kết thuế quan trong các hiệp định thương mại tự do giai đoạn 2018- 2022 và phát triển kinh tế ngành‖; 8. Benedictis, L.D & Taglioni, D. (2010), ―The Gravity Model in International trade‖, Báo cáo đánh giá tác động của các FTA đối với kinh tế Việt Nam; 9. Mutrap (2010, 2011), ―Đánh giá tác động của FTA đối với nền kinh tế Việt Nam‖. PHÁP LUẬT VỀ PHÕNG VỆ THƢƠNG MẠI CỦA VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN THỰC THI CÁC FTA THẾ HỆ MỚI Ths. Phạm Minh Quốc Trƣờng Đại học Thƣơng Mại Tóm lược: Trước khi nêu ra một số nội dung pháp lý cơ bản của các biện pháp phòng vệ thương mại (PVTM), bài viết đã giới thiệu sơ lược về các hiệp định thương mại tự do (FTA) mà Việt nam đã ký kết trong quá trình hội nhập thương mại quốc tế. Trong bài viết, khái niệm về PVTM và bản chất pháp lý của các biện pháp PVTM đã được khái quát hóa trên nền tảng các quy định tương ứng trong khuôn khổ các Hiệp định tương ứng về các biện pháp này của WTO. Trên cơ sở đó, bài viết đã xác định khung pháp lý về các biện pháp PVTM tại Việt nam và nêu ra một số khía cạnh pháp lý cần chú trọng và lưu ý đối với các nhà lập pháp, các cơ quan quản lý nhà nước và các nhà sản xuất kinh doanh trong nước về việc áp dụng hoặc bị áp dụng các biện pháp PVTM gắn với bối cảnh thực thi các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Từ khóa: Phòng vệ thương mại; hiệp định thương mại tự do thế hệ mới; chống phá giá; chống trợ cấp; biện pháp tự vệ 1. Sơ lƣợc về các Hiệp định thƣơng mại tự do FTA mà Việt nam đã ký kết: Quá trình hội nhập thương mại quốc tế của Việt nam đã và đang diễn ra ngày một sâu rộng. Điều này được thể hiện không chỉ thông qua việc Việt nam đã trở thành thành viên chính thức của WTO (vào năm 2007) mà còn thông qua việc chúng ta đã không ngừng tăng cường ký kết các Hiệp định tự do hóa thương mại (FTA) với nhiều quốc gia và khu vực tự do hóa thương mại. Tính đến cuối năm 2019, Việt Nam đã thiết lập quan hệ thương mại tự do với 55 đối tác thương mại thông qua việc ký kết 13 FTA và đang đàm phán 03 FTA khác. Trong 869
  2. số các FTA đã ký kết và có hiệu lực, Việt nam tham gia 7 FTA với tư cách là thành viên ASEAN (gồm FTA thành lập khu vực thương mại tự do ASEAN, 6 FTA giữa ASEAN với các đối tác Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Australia, New Zealand và Hồng Kông); với tư cách là một bên độc lập, Việt nam tham gia 6 FTA với các đối tác Chile, Nhật Bản, Hàn Quốc, Liên minh kinh tế Á-Âu, Liên minh châu Âu, và với các đối tác trong Hiệp định CPTPP. Đáng lưu ý là trong số các Hiệp định FTA mà Việt nam đã ký kết, ngoài các FTA truyền thống mà Việt nam đã ký kết đến nay đã có 2 Hiệp định FTA thế hệ mới mà Việt nam có nghĩa vụ phải thực thi (Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương - CPTPP) hoặc đang chờ hiệu lực (Hiệp định tự do hóa thương mai Việt nam và EU - EVFTA). Trong bài viết này, việc coi 2 Hiệp định này là các FTA thế hệ mới bởi lý do sau: + Các FTA truyền thống mà Việt nam đã ký kết thường chỉ bao gồm các cam kết tự do hóa thương mại trong lĩnh vực thương mại hàng hóa, hướng tới xóa bỏ thuế quan đối với khoảng 70-80% số dòng thuế. Điều này có thể thấy rõ ở các FTA mà Việt nam đã ký kết trước năm 2014 (như các FTA trong khuôn khổ ASEAN, FTA song phương với Nhật Bản (VJEPA) và với Chi lê (VCFTA)), thường có nội dung chủ yếu là hướng tới loại bỏ thuế quan cho hàng hóa xuất nhập khẩu giữa các nước thành viên. Ngay cả với một số các FTA được ký kết sau năm 2014 (như FTA song phương với Hàn Quốc (VKFTA) và FTA với khối Liên minh Á-Âu (EAEU)), mặc dù nội dung đã có thêm các cam kết tự do hóa thương mại dịch vụ (mở cửa thêm các dịch vụ so với mức mở cửa trong WTO) và các nguyên tắc chung về đầu tư, sở hữu trí tuệ, cạnh tranh Tuy nhiên, những cam kết về các vấn đề này chỉ được để cập một cách hạn chế, mang tính tuyên bố định hướng, không có các nội dung ràng buộc cụ thể ở mức độ cao. + Khác so với các FTA truyền thống, các FTA được gọi là ―thế hệ mới‖ trên đây bao gồm các cam kết tự do hóa thương mại trong nhiều lĩnh vực (hàng hóa, dịch vụ, thương mại điện tử, đầu tư, sở hữu trí tuệ, lao động, môi trường ), trong đó mức độ cam kết mở cửa mạnh (cụ thể như: hướng tới xóa bỏ thuế quan đối với khoảng 97-100% số dòng thuế; mở cửa mạnh nhiều lĩnh vực dịch vụ; mở cửa mua sắm công), đặt ra nhiều tiêu chuẩn cao trong các vấn đề quy tắc. Các cam kết trong các FTA thế hệ mới cũng hướng tới khuyến khích sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ, hỗ trợ kỹ thuật cho các nước đang phát triển cũng như dành thời gian chuyển đổi hợp lý để nước đi sau có thể điều chỉnh chính sách theo lộ trình phù hợp với trình độ phát triển của mình. Một điểm đáng lưu ý khác trong các FTA ―thế hệ mới‖ đó là hầu hết các cam kết đều cao hơn so với cam kết WTO. Như vậy, so với các hiệp định của WTO, thì các FTA ―thế hệ mới‖ chính là các hiệp định ―WTO +‖, với những nội dung trước đây từng bị từ chối, nay lại cần thiết phải chấp nhận, bởi bối cảnh thương mại quốc tế đã thay đổi. Khi các cam kết trong các Hiệp định FTA được thực thi, nền kinh tế Việt nam được kỳ vọng sẽ tăng trưởng và hội nhập sâu vào môi trường thương mại quốc tế thông qua các cơ hội thu hút thêm được nhiều tập đoàn, nhà đầu tư lớn, có tiềm năng đến từ các nước thành viên 870
  3. của các Hiệp định này, hướng tới phát triển nền sản xuất hàng hóa trong nước thông qua việc phát huy cơ hội xuất khẩu, qua đó làm thay đổi cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam. Tuy nhiên, ngoài những thuận lợi của tự do hóa thương mại mà các Hiệp định FTA mang tới, hoạt động thương mại quốc tế của các doanh nghiệp Việt nam đã và đang phải đối mặt nhiều thách thức. Một trong số các thách thức đến từ việc tăng cường xuất khẩu hàng hóa vào thị trường các nước là thành viên của các FTA, chính là việc hàng hóa xuất khẩu của Việt nam có nguy cơ phải đối mặt với việc áp dụng các biện pháp PVTM bởi các nước nhập khẩu nhằm bảo vệ các ngành sản xuất tại các nước này. Mặt khác, tại thị trường nội địa, các nhà sản xuất kinh doanh của Việt nam cũng phải đối diện với sự cạnh tranh mạnh mẽ bởi hàng hóa nhập khẩu hàng hóa đến từ các nước thành viên khác mà không có hàng rào bảo hộ thuế quan. Vì vậy, sự quan tâm đúng mức tới việc áp dụng các biện pháp PVTM trên thị trường nội địa, theo đó việc hoàn thiện khung pháp lý cho việc áp dụng các biện pháp PVTM ở Việt nam là hết sức quan trọng và có ý nghĩa thiết thực cho việc bảo hộ các ngành sản xuất trong nước. 2. Khái niệm về phòng vệ thƣơng mại (PVTM) và các biện pháp phòng vệ trong thƣơng mại quốc tế? Các định chế thương mại quốc tế (kể cả các quy định của WTO và các quy định trong pháp luật Việt Nam) không trực tiếp đưa ra định nghĩa về khái niệm ―phòng vệ thương mại‖. Tuy nhiên, khái niệm ―phòng vệ thương mại‖ thường được hiểu là những biện pháp (trade remedies) mà một quốc gia sử dụng để hạn chế nhập khẩu đối với một hoặc một số loại hàng hóa nhập khẩu tăng nhanh đột biến, gây ra hoặc đe doa gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất trong nước nhằm mục đích bảo vệ ngành sản xuất hàng hóa tương tự hoặc cạnh tranh trực tiếp trên thị trường nội địa của nước nhập khẩu trong một giai đoạn nhất định trước sự thâm nhập và cạnh tranh không công bằng của hàng hoá nhập khẩu từ nước ngoài. Điều cần lưu ý là các biện pháp PVTM (trade remedies) chỉ áp dụng đối với thương mại hàng hóa, không áp dụng với thương mại dịch vụ, đầu tư hay sở hữu trí tuệ. Trong điều kiện hội nhập thương mại toàn cầu diễn ra ngày càng mạnh mẽ, PVTM luôn là một phần không thể thiếu trong các chính sách thương mại quốc tế của mỗi quốc gia, đồng thời cũng luôn là một phần luôn được quan tâm quy định rõ trong các định chế thương mại toàn cầu (chẳng hạn như WTO) cũng như trong các hiệp định tự do hóa thương mại khu vực (chẳng hạn như CTTPP, ATIGA ) và các hiệp định tự do hóa thương mại song phương (chẳng hạn như EVFTA). Các biện pháp PVTM thường được đề cập bao gồm chống bán phá giá (Anti-dumping), chống trợ cấp (anti-subsidy) và các biện pháp tự vệ (safeguard measures). Các biện pháp PVTM nêu trên đều có mục đích nhằm bảo vệ/hỗ trợ ngành sản xuất trong nước của các nước thành viên trước những hành vi thương mại không lành mạnh (bán phá giá, trợ cấp) hoặc ứng phó với sự gia tăng nhập khẩu đột biến. Tuy nhiên, các quốc gia thành viên của các hiệp định tự do hóa thương mại (thường cũng đồng thời là thành viên của WTO) nếu muốn áp dụng biện pháp PVTM cần phải đáp ứng những điều 871
  4. kiện nhất định cũng như tuân thủ các thủ tục, quá trình điều tra quy định trong các hiệp định điều chỉnh tương ứng. Các biện pháp PVTM, nếu áp dụng đúng như mục tiêu ban đầu thì không có gì mâu thuẫn với tự do hoá thương mại. Tuy nhiên, khi các công cụ này bị lạm dụng và được sử dụng như một hình thức để tăng cường bảo hộ cho ngành sản xuất trong nước thì các biện pháp này sẽ đi ngược lại với những mục tiêu ―tốt đẹp‖ của tự do hoá thương mại. Chính vì vậy, bên cạnh việc thừa nhận và cho phép áp dụng các biện pháp PVTM, để phòng tránh sự lạm dụng các công cụ này, các hiệp định về PVTM của WTO cũng như các hiệp định FTA song phương và đa phương khác đã nêu ra những quy định, nguyên tắc, điều kiện chặt chẽ buộc các thành viên có nghĩa vụ phải đảm bảo thực hiện nếu muốn áp dụng các biện pháp PVTM. Trong khuôn khổ của WTO, một quốc gia muốn áp dụng các biện pháp phòng vệ nêu trên đối với một quốc gia thành viên khác cần phải thỏa mãn yêu cầu áp dụng bởi các quy định của Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT) cũng như các quy định chi tiết trong các hiệp định tương ứng khác của WTO bao gồm: Hiệp định thực thi điều VI của GATT (Hiệp định chống bán phá giá - ADA); Hiệp định trợ cấp và các biện pháp đối kháng (SCM) và Hiệp định Tự vệ (SGA)). Một điều đáng lưu ý là hầu hết các Hiệp định tự do hóa Thương mại thế hệ mới (trong đó có CTTPP) mỗi khi đề cập đến các biện pháp PVTM thường dẫn chiếu đến Điều XIX Hiệp định GATT 1994 và các Hiệp định tương ứng đã nêu trên của WTO với tư cách là các quy định có hiệu lực áp dụng đối với các quốc gia thành viên nếu các nước đó cũng là thành viên của WTO. 2.1 Biện pháp chống bán phá giá: Bán phá giá là hiện tượng xảy ra khi một loại hàng hoá nhất định được xuất khẩu sang nước khác, với mức giá thấp hơn mức giá thông thường có thể so sánh được tại thị trường nước xuất khẩu. Bán phá giá được coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh của các nhà sản xuất, xuất khẩu nước ngoài đối với các nhà sản xuất của nước nhập khẩu, vì vậy WTO đã cho phép nước nhập khẩu có quyền áp dụng biện pháp chống bán phá giá đối với hàng hóa nhập khẩu bị bán phá giá để khắc phục thiệt hại đáng kể mà hàng nhập khẩu này gây ra cho ngành sản xuất nội địa của nước nhập khẩu. Khi hàng hóa nhập khẩu được chứng minh là bán phá giá thì chúng có thể bị áp đặt các biện pháp: thuế chống phá giá, đặt cọc hoặc thế chấp, hạn chế định lượng hoặc điều chỉnh mức giá của nhà xuất khẩu nhằm triệt tiêu nguy cơ gây thiệt hại cho ngành sản xuất tại nước nhập khẩu. 2.2 Biện pháp chống trợ cấp: Biện pháp chống trợ cấp (còn gọi là biện pháp đối kháng - countervailing) là biện pháp được cơ quan có thẩm quyền của nước nhập khẩu áp dụng nhằm vào các nhà sản xuất, xuất khẩu nước ngoài (được chính phủ nước xuất khẩu trợ cấp) thông qua một cuộc điều tra nhằm xác định liệu chính phủ nước xuất khẩu có cung cấp khoản ―trợ cấp bị cấm‖ hoặc ―có thể bị đối kháng‖ hay không. Trong trường hợp tồn tại khoản trợ cấp ―bị cấm‖ hoặc ―có thể đối kháng‖ và hàng hoá được trợ cấp gây ra thiệt hại đáng kể đối với ngành sản xuất nội địa 872
  5. của nước nhập khẩu, biện pháp chống trợ cấp, nếu có, sẽ được áp dụng đối với nhà sản xuất, xuất khẩu nước ngoài. Các khoản trợ cấp này do chính phủ cung cấp, vì vậy các chương trình của chính phủ sẽ là đối tượng bị điều tra. 2.3 Biện pháp tự vệ: Biện pháp tự vệ là công cụ bảo vệ hoặc hỗ trợ ngành sản xuất hàng hóa tương tự hoặc ngành sản xuất hàng hóa có cạnh tranh trực tiếp ở nước nhập khẩu trong trường hợp khẩn cấp do tình trạng gia tăng bất thường của hàng hóa nhập khẩu có thể gây ra hoặc đe doa gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho nhà sản xuất trong nước. Khác hẳn so với biện pháp chống phá giá và biện pháp chống trợ cấp, biện pháp tự vệ thường được áp dụng một cách khắt khe hơn: Nếu như yêu cầu về điều kiện để áp dụng biện pháp chống bán phá giá, biện pháp chống trợ cấp chỉ dừng lại ở mức cơ quan điều tra phải chứng minh có tình trạng bán phá giá hay trợ cấp và việc bán phá giá hoặc trợ cấp đó gây thiệt hại ―đáng kể‖ cho ngành sản xuất hàng hóa tương tự trong nước thì trong các cuộc điều tra để áp dụng biện pháp tự vệ, cơ quan điều tra phải chứng minh được tình trạng thiệt hại ―nghiêm trọng‖ mà ngành sản xuất hàng hóa ―tương tự hoặc cạnh tranh trực tiếp‖ trong nước phải chịu do sự gia tăng của hàng hóa nhập khẩu. Có thể thấy rằng các biện pháp PVTM trên đây đều giống nhau ở mục đích áp dụng, đó là chúng đều hướng tới việc bảo vệ/hỗ trợ ngành sản xuất trong nước bị thiệt hại từ hàng hoá nhập khẩu. Thêm vào đó, các biện pháp muốn được áp dụng cần phải qua quá trình điều tra tuân thủ các quy định của các Hiệp định có liên quan của WTO. Ngoài ra, các biện pháp này, trong trường hợp bị áp dụng sai so với các quy định của WTO sẽ là đối tượng bị khởi kiện ra cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO. Tuy nhiên, có thể thấy rõ sự khác biệt về bản chất của các biện pháp nói trên ở chỗ: Biện pháp chống bán phá giá là để đối phó với hành vi cạnh tranh không lành mạnh thông qua việc bán sản phẩm với giá thấp nhằm chiếm lĩnh thị trường và tiến tới loại bỏ dần các đối thủ cạnh tranh tại thị trường nước nhập khẩu. Biện pháp chống trợ cấp được áp dụng cũng nhằm đối phó với sự cạnh tranh bất bình đẳng thông qua việc loại bỏ tác động tiêu cực gây ra cho ngành sản xuất hàng hóa nội địa xuất phát từ các chính sách trợ cấp của chính phủ nước xuất khẩu. Còn đối với biện pháp tự vệ, công cụ này không nhằm đối phó với hành vi thương mại không lành mạnh như phá giá, trợ cấp mà được dùng để hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất trong nước trước sự gia tăng của hàng nhập khẩu mà dẫn đến những thiệt hại mang tính ―nghiêm trọng‖ cho ngành sản xuất trong nước. Sự khác biệt nêu trên dẫn đến sự khác biệt rõ rệt trong thủ tục pháp lý khi triển khai các hoạt động điều tra, cụ thể đối với vụ việc áp dụng biện pháp chống phá giá hoặc chống trợ cấp, cơ quan điều tra phải chứng minh có tình trạng bán phá giá hay trợ cấp, tức là việc điều tra thường chỉ liên quan đến các doanh nghiệp nước ngoài thì ở vụ việc áp dụng các biện pháp tự vệ, việc điều tra để chứng minh tình trạng thiệt hại ―nghiêm trọng‖ do việc gia tăng ―bất thường‖ của luồng hàng nhập khẩu phải liên quan đến nhiều doanh nghiệp và thị trường trong nước. 873
  6. 3. Khung pháp luật về các biện pháp PVTM ở nƣớc ta hiện nay 3.1 Cam kết về các biện pháp PVTM của Việt nam trong các FTA thế hệ mới: Nhìn chung, các cấp độ thông thường của các biện pháp PVTM được quy định tại các FTA truyền thống và 2 FTA thế hệ mới thường được thể hiện như sau: - Đối với biện pháp chống bán phá và biện pháp chống trợ cấp: Cấp độ của các quy định chống bán phá giá và trợ cấp trong FTA nói chung và FTA thế hệ mới nói riêng được phân loại như sau: Cấp độ 1 - Không chấp nhận biện pháp chống bán phá giá và trợ cấp áp dụng đối với thành viên của FTA; Cấp độ 2 - Quy định một cách không cụ thể; Cấp độ 3 - Quy định cụ thể biện pháp chống bán phá giá và trợ cấp áp dụng đối với thành viên FTA và đối với một số FTA. Ở cấp độ 3 có thể thấy rõ Chương 6 của CPTPP đã ghi nhận các quy định tương ứng của WTO, quy định các thông lệ khuyến khích thành viên tuân thủ nhằm tăng tính minh bạch của các cơ quan điều tra, áp dụng biện pháp. Chương 3 của EVFTA đã quy định chi tiết một số điều khoản tương ứng của WTO với mức độ cao hơn. Cụ thể như mặc dù WTO không bắt buộc sử dụng quy tắc lựa chọn mức thuế thấp hơn – lesser duty tule, song với cam kết trong EVFTA, ít nhất đối với đối tác EU, Việt Nam bắt buộc phải sử dụng quy tắc này, và ngược lại với EU cũng vậy. - Đối với biện pháp tự vệ: Các FTA thường phân loại biện pháp tự vệ làm hai nhóm: + Nhóm (1) Biện pháp tự vệ song phương hoặc trong khuôn khổ FTA. Nhóm (1) chỉ được áp dụng đối với các thành viên của FTA nhằm ứng phó với hệ quả khi thực hiện cam kết trong hiệp định như: Giảm thuế, hàng nhập khẩu gia tăng gây thiệt hại cho sản xuất trong nước. + Nhóm (2) Biện pháp tự vệ toàn cầu. Đây là biện pháp tự vệ theo ý nghĩa của điều XIX – GATT và hiệp định tự vệ của WTO. Cấp độ của biện pháp tự vệ cũng được phân loại tương tự chống bán phá giá và trợ cấp gồm: Không cho phép, quy định không cụ thể và quy định chi tiết. Về cơ bản, nội dung cam kết về PVTM trong các FTA có những điểm đáng lưu ý sau: - Các nội dung về PVTM cơ bản đều dựa trên các cam kết chung về PVTM trong khuôn khổ WTO. - Tùy thuộc vào đối tác và tầm quan trọng của thị trường xuất khẩu, Việt Nam có thể linh hoạt trong phạm vi và nội dung áp dụng biện pháp PVTM. - Về nội dung quy định, đa số các quy định về PVTM trong các FTA của Việt Nam liên quan đến biện pháp tự vệ, bao gồm biện pháp tự vệ toàn cầu và biện pháp tự vệ trong giai đoạn chuyển tiếp. Các hiệp định CPTPP, EVFTA quy định cụ thể đề cập đến các biện pháp khác như: Chống bán phá giá, chống trợ cấp theo hướng dẫn chiếu tới việc áp dụng quy định của WTO. 874
  7. - Đối với các biện pháp tự vệ toàn cầu, biện pháp chống bán phá giá và biện pháp chống trợ cấp, các Hiệp định FTA hầu hết dẫn chiếu đến các nghĩa vụ theo các Hiệp định liên quan của WTO. 3.2. Văn bản quy phạm pháp luật về các biện pháp phòng vệ trong thương mại quốc tế Để tạo thuận lợi cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và bảo vệ lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp trong nước, Việt Nam đã ban hành các văn bản quy định pháp luật về các biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ. Cho đến trước ngày 01 tháng 01 năm 2018 (ngày Luật quản lý ngoại thương 2017 có hiệu lực) các quy định về PVTM của Việt Nam được đề cập trong các văn bản sau: - Pháp lệnh 42/2002/PL-UBTVQH10 ngày 11/ 06/ 2002 về tự vệ trong nhập khẩu hàng hóa nước ngoài vào Việt Nam. - Nghị định 150/2003/NĐ-CP ngày 8/12/2003 quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh tự vệ trong nhập khẩu hàng hóa nước ngoài vào Việt Nam. - Pháp lệnh 20/2004/PL-UBTVQH11 ngày 29/04/2004 về việc chống bán phá giá đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam. - Nghị định 90/2005/NĐ-CP ngày 11/07/2005 quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Chống bán phá giá hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam - Pháp lệnh số 22/2004/PL-UBTVQH11 ngày 20/08/2004 về chống trợ cấp hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam. - Nghị định số 89/2005/NĐ-CP ngày 11/07/2005 quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Chống trợ cấp hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam. - Thông tư số 38/2015/TT-BCT ngày 25/03/2015 quy định về thủ tục hải quan; kiểm tra, giám sát hải quan; thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và quản lý thuế đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu Luật Quản lý ngoại thương số 05/2017/QH14 ngày 12 tháng 6 năm 2017 đã được Quốc hội thông qua và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 1 năm 2018, trong đó đưa ra quy định mới và sửa đổi về các biện pháp PVTM, thay thế cho các văn bản trước đây. Theo Điều 113 Luật này, kể từ ngày Luật Quản lý ngoại thương có hiệu lực thi hành, các vụ việc phệ thương mại PVTM đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiếp nhận hồ sơ khiếu nại, điều tra trước ngày Luật này có hiệu lực thì được tiếp tục xem xét, giải quyết theo quy định của Pháp lệnh số 42/2002/PL-UBTVQH10 về Tự vệ trong nhập khẩu hàng hóa nước ngoài vào Việt Nam; số Pháp lệnh số 20/2004/PL -UBTVQH11 về Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam; số Pháp lệnh số 22/2004/PL-UBTVQH11 về Chống trợ cấp hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam số 22/2004/PL -UBTVQH11. Trên nền tảng các quy định về PVTM trong Luật Quản lý Ngoại thương, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 10/2018/NĐ- CP ngày 15/01/2018 quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý ngoại thương về các biện pháp PVTM. Tiếp theo đó Bộ Công Thương cũng đã ban hành Thông tư số 06/2018/TT-BCT ngày 20/4/2018 quy định chi tiết một số nội dung về các biện pháp PVTM và Thông tư số 19/2019/TT-BCT hướng dẫn áp dụng biện pháp tự vệ đặc biệt để thực thi Hiệp định CTTPP. 875
  8. Nhìn chung, những quy định về PVTM trong các văn bản pháp luật trên đây đều tuân thủ các nội dung của các Hiệp định WTO có liên quan. Đối với các biện pháp tự vệ trong giai đoạn chuyển tiếp, hiện nay pháp luật Việt Nam vẫn đang dẫn chiếu áp dụng từng Hiệp định. Tuy vậy, trong trường hợp tiến hành điều tra, áp dụng biện pháp tự vệ trong giai đoạn chuyển tiếp, hiện nay, cơ quan điều tra vẫn chưa có cơ sở pháp lý về trình tự thủ tục tiến hành. Do đó, đối với Hiệp định CPTPP vừa có hiệu lực vào tháng 01/2019, Bộ Công Thương đang tiến hành xây dựng văn bản quy định, hướng dẫn thực thi Hiệp định. Đây là một nỗ lực trong việc hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về lĩnh vực PVTM trong xu thế FTA thế hệ mới. 3.3 Cơ quan quản lý nhà nước về thực thi PVTM ở Việt nam: Trước khi ban hành Luật Quản lý ngoại thương 2017, để thực thi một cách hiệu quả những chính sách, quy định đã được ban hành, Chính phủ đã thành lập Cục Quản lý cạnh tranh trực thuộc Bộ Công Thương có chức năng giúp Bộ trưởng Bộ Công Thương quản lý nhà nước về chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ. Cơ cấu, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Cục Quản lý cạnh tranh được quy định tại Nghị định số 95/2012/NĐ-CP ngày 12/11/2012 của Chính phủ và Quyết định số 848/QĐBCT ngày 05/02/2013 của Bộ Công Thương. Tuy nhiên, sau khi ban hành Luật Quản lý ngoại thương 2017, Chính phủ đã thành lập Cục PVTM trực thuộc Bộ Công Thương trên cơ sở Nghị định số 98/2017/NĐ-CP ngày 18/8/2017 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Công Thương (thay thế Nghi định 95/2012/NĐ-CP). Đây là cơ quan quản lý nhà nước có chức năng giúp Bộ trưởng Bộ Công Thương thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về PVTM (tách ra từ Cục Quản lý cạnh tranh trước đây của Bộ Công Thương). Với chức năng của mình, Cục PVTM trực tiếp tiếp nhận hồ sơ, khiếu kiện của doanh nghiệp để xem xét, tiến hành khởi xướng điều tra các vụ việc chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ đối với hàng nhập khẩu nước ngoài vào Việt Nam. Bên cạnh đó, Cục PVTM cũng hỗ trợ, tư vấn cho doanh nghiệp các quy định PVTM của WTO, của các nước trên thế giới và trong các FTA khi doanh nghiệp có yêu cầu. Các hiệp hội và doanh nghiệp cũng có thể nhận được hướng dẫn, thông tin tham khảo về các vấn đề liên quan đến khởi kiện như việc chuẩn bị hồ sơ từ Cục PVTM. 4. Một số khía cạnh pháp lý cần lƣu ý trong việc triển khai pháp luật về các biện pháp PVTM ở Việt nam trong điều kiện thực thi các FTA thế hệ mới: Với tư cách là Thành viên của WTO, pháp luật Việt Nam được xây dựng trên cơ sở tuân thủ các quy định trong các Hiệp định điều chỉnh của WTO về PVTM. Bên cạnh đó, trước tình hình Việt Nam đã và đang tham gia đàm phán, ký kết nhiều FTA song phương, đa phương với các đối tác trên thế giới, pháp luật Việt Nam về PVTM cũng đã bắt đầu có sự điều chỉnh để dần đáp ứng những quy định trong FTA. Tuy nhiên, có thể thấy rõ một số vấn đề cần lưu ý sau: * Về phía các cơ quan quản lý nhà nước: Trong các FTA Việt Nam đã ký kết và tham gia, hầu hết quy định về Chống phá giá và Chống trợ cấp trong các FTA này đều dẫn chiếu tới Hiệp định Chống bán phá giá và Hiệp 876
  9. định Trợ cấp và các biện pháp đối kháng của WTO. Tức là quyền và nghĩa vụ của các Bên sẽ tuân theo các hiệp định điều chỉnh của WTO. Do pháp luật Việt Nam về PVTM bám sát và tuân thủ các quy định của WTO, nên Việt Nam có thể đáp ứng và tuân thủ các quy định này. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng trong số các FTA đã ký kết và tham gia, các FTA thế hệ mới thường đưa ra những yêu cầu cao hơn so với các Hiệp định của WTO (các cam kết WTO +). Như vậy, với các quy định về PVTM có yêu cầu cao hơn Hiệp định WTO (WTO+), hệ thống pháp luật và các cơ quan chức năng của Việt Nam về PVTM cần lưu ý tập trung xây dựng các văn bản hướng dẫn thực thi cụ thể nhằm đảm bảo sự tương thích, phù hợp. Ngoài ra, với sự ra đời còn mới mẻ của Cục PVTM (tách ra từ Cục Quản lý cạnh tranh – Bộ Công Thương), xuất phát từ thực tế chức năng của cơ quan này một mặt hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam kháng kiện trong các vụ kiện liên quan đến các biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ do phía nước ngoài tiến hành đối với hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam, mặt khác phải triển khai Luật Quản lý Ngoại thương về các biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ trong nước, có thể thấy rằng yêu cầu nâng cao năng lực thực thi pháp luật về PVTM thông qua việc tăng cường nhân lực cũng đào tạo chuyên môn hóa đội ngũ chuyên gia trong từng lĩnh vực của PVTM luôn cần được đề cao. Yêu cầu này không chỉ cấp thiết từ phía cơ quan quản lý nhà nước chuyên trách (Cục PVTM – Bộ Công Thương) mà còn được đặt ra đối với các Bộ quản lý ngành sản xuất cụ thể. Điều này xuất phát từ thực tiễn áp dụng các biện pháp PVTM cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan quản lý chức năng với các nhà quản lý thuộc các Bộ trực tiếp quản lý sản xuất, bởi đây họ là những chuyên gia có khả năng hiểu rõ về ngành sản xuât, thực trạng cạnh tranh và các vấn đề mang tính chất chuyên môn cũng như thông lệ kinh doanh của các doanh nghiệp trong ngành. Thực tế kháng kiện của các vụ kiện bán phá giá cá tra, ba tra, tôm, xe đạp, dây cu-roa cho thấy hiểu biết về các biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ của các đơn vị có liên quan vẫn chưa toàn diện. Vì vậy, việc đào tạo nâng cao năng lực về các biện pháp chống phá giá, chống trợ cấp và tự vệ cho đội ngũ cán bộ làm công tác này là hết sức cần thiết và cấp bách, góp phần tăng cường sự hợp tác và hỗ trợ của các cơ quan thuộc các bộ ngành trong việc thi hành các quy định pháp luật liên quan. * Về phía các doanh nghiệp sản xuất hàng hóa trong nước và kinh doanh xuất khẩu - Trong khi các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt nam đã và đang phải đối mặt với nguy cơ bị điều tra áp dụng các biện pháp PVTM do các cam kết trong FTA ngày một gia tăng thì phía các doanh nghiệp sản xuất trong nước lại chưa sẵn sàng sử dụng hoặc ứng phó với các biện pháp PVTM một cách hiệu quả. Điều này được thể hiện qua các số liệu thống kê như sau: Cho đến nay đã có gần 90 vụ kiện chống bán phá giá, 16 vụ kiện yêu cầu điều tra về trợ cấp và 32 vụ kiện điều tra áp dụng biện pháp tự vệ từ phía các đối tác nước ngoài đồi với hàng hóa xuất khẩu của Việt nam (chủ yếu đối với mặt hàng thép, sợi, giấy, hàng thủy sản Trong khi đó, con số tương ứng đối với các vụ kiện từ phía các doanh nghiệp trong nước đối với hàng hóa nhập khẩu cò rất khiêm tốn (gần 10 vụ kiện chống bán phá giá, 6 vụ kiện yêu cầu điều tra tự vệ và chưa có vụ việc điều tra chống trợ cấp nào). 877
  10. - Thực tiễn những vụ việc kháng kiện PVTM từ phía các đối tác nước ngoài cho thấy nhiều doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam còn bị động, chưa thực sự nhận thức rõ ràng về nguy cơ xảy ra các vụ việc điều tra PVTM cũng như hệ quả bất lợi của các vụ việc này đối với hoạt động sản xuất, xuất khẩu của doanh nghiệp và thậm chí là của cả ngành. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cũng chưa chủ động và tích cực trong việc chuẩn bị, ứng phó với các vụ điều tra PVTM. Nhiều doanh nghiệp còn có tâm lý né tránh, không tham gia hoặc tham gia không đầy đủ vào công tác kháng kiện dẫn tới kết quả bất lợi đối với các doanh nghiệp. Trong trường hợp bị điều tra và áp dụng biện pháp PVTM, các doanh nghiệp có thể đánh mất lợi ích có được từ việc cắt giảm thuế trong FTA, gây ảnh hưởng đến khả năng xuất khẩu và thậm chí có thể đánh mất thị trường xuất khẩu. Ngoài ra, trong việc sử dụng các công cụ PVTM từ phía các FTA để bảo hộ hoặc hỗ trợ các nhà sản xuất trong nước, tồn tại một thực tế là cho dù cơ quan điều tra có thể tự khởi xướng một vụ điều tra, tuy nhiên hầu hết các vụ việc PVTM phải được khởi xướng dựa trên đơn kiện của các nhà sản xuất trong nước. Trong điều kiện cho phép, các nhà sản xuất trong nước là chủ thể trực tiếp tiếp cận và phát hiện được các hành vi cạnh tranh không công bằng của các nhà xuất khẩu nước ngoài hoặc hiểu được những thiệt hại mà ngành sản xuất mình đang gặp phải, nếu bản thân các chủ thể này không gửi đơn kiện, cơ quan có thẩm quyền khó có thể tiến hành cuộc điều tra, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của doanh nghiệp. Thực tế trên đây đòi hỏi các doanh nghiệp Việt nam phải chủ động nâng cao khả năng ứng phó với các vụ điều tra PVTM từ phía nước ngoài đồng thời phải chủ động tích cực trong việc tìm hiểu và sử dụng các công cụ PVTM mà FTA cho phép, để vừa tranh thủ những lợi ích mà FTA mang lại, vừa có thể bảo vệ được lợi ích của mình trước sức ép cạnh tranh của hàng nhập khẩu. Trước những thách thức phải đối mặt cũng như khả năng có thể áp dụng hệ thống các quy định pháp luật về PVTM sẵn có tại Việt nam, trong quá trình kinh doanh sản xuất và xuất khẩu hiện nay các doanh nghiệp Việt nam cần chú trọng một số lưu ý sau: Thứ nhất, cần tăng cường nâng cao sự hiểu biết về PVTM thông qua các giải pháp sau: + Trang bị những kiến thức cơ bản về pháp luật PVTM, quy định PVTM trong các FTA giữa Việt Nam và đối tác để nắm rõ các nghĩa vụ và quyền lợi của mình. + Tìm hiểu quy định pháp luật của WTO và của các nước khởi kiện, do các quy định trong FTA chỉ phán ánh được phần nào quy trình điều tra trên thực tế, những nội dung không được quy định trong FTA sẽ được tuân theo quy định của WTO hoặc nội luật của nước điều tra. + Thường xuyên trao đổi thông tin với Hiệp hội và cơ quan quản lý nhà nước nhằm nắm bắt được những thông tin cảnh báo để lên phương án thay đổi hoạt động kinh doanh hoặc chủ động lên phương án đối phó với vụ việc. + Chú trọng đào tạo, nâng cao kiến thức cho nhân viên về lĩnh vực này, xây dựng một đội ngũ nhân viên pháp lý có kiến thức về PVTM để xử lý khi vụ việc xảy ra. Thứ hai, cần chủ động ứng phó đối với các vụ kiện về PVTM từ phía các đối tác nước ngoài và chủ động đưa khởi kiện PVTM để bảo vệ lợi ích của ngành sản xuất của mình. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp Việt nam phải chuẩn bị đầy đủ về nguồn lực cần thiết cho việc 878
  11. theo kiện (cả về tài chính và nhân lực) bởi một vụ kiện thường kéo dài, với những đòi hỏi cao về bằng chứng, lập luận, bao gồm các công việc như: + Lưu trữ hồ sơ, sổ sách đầy đủ và rõ ràng sẵn sàng cho việc cung cấp tài liệu chứng minh tại các vụ kiện đến từ nước ngoài; Tích cực tham gia vào công tác kháng kiện một cách nghiêm túc, có trách nhiệm và hợp tác đầy đủ với cơ quan điều tra. Nếu doanh nghiệp xuất khẩu không hợp tác với cơ quan điều tra của nước ngoài, thì cơ quan điều tra có quyền sử dụng những dữ liệu sẵn có bất lợi để tính toán biên độ phá giá, trợ cấp. + Thu thập và chuẩn bị sẵn sàng các số liệu, bằng chứng về việc hàng hóa nước ngoài bán phá giá hoặc có sự gia tăng đột biến và thiệt hại gây ra cho ngành sản xuất của mình tại các vụ kiện trong nước. + Dự trù trước một khoản kinh phí để thuê luật sư khi cần thiết. Luật sư tư vấn đóng vai trò rất quan trọng trong việc hỗ trợ doanh nghiệp kháng kiện và khởi kiện, góp phần giúp các doanh nghiệp thu được kết quả tích cực hoặc giảm thiểu được mức thuế. + Đa dạng hóa thị trường, tìm kiếm thị trường xuất khẩu mới, đa dạng hóa sản phẩm, tránh tăng trưởng xuất khẩu quá nóng vào một thị trường, chuyển dần từ chiến lược cạnh tranh bằng giá sang cạnh tranh bằng chất lượng và thương hiệu nhằm giảm thiểu nguy cơ bị điều tra PVTM. Thứ ba, tăng cường khả năng kết nối các doanh nghiệp tham gia và trực tiếp tham gia trong các vụ việc kháng kiện và khởi kiện PVTM thông qua các hoạt động sau: + Phát huy vai trò của Hiệp hội ngành hàng thông qua việc phối hợp và liên hệ chặt chẽ với Hiệp hội và các doanh nghiệp trong ngành để cùng xây dựng chiến lược kháng kiện hoặc khởi kiện cho cả ngành. + Tập hợp các doanh nghiệp trong ngành cùng phối hợp thu thập số liệu và đứng đơn kiện bởi PVTM là một công cụ ―tập thể‖ được trao cho các ngành sản xuất nhằm bảo vệ cả ngành của mình trước những hành vi cạnh tranh không lành mạnh hoặc nhập khẩu ồ ạt từ nước ngoài. Một doanh nghiệp đơn lẻ không thể đứng đơn kiện hay sử dụng công cụ này, ngoại trừ trường hợp bản thân doanh nghiệp đó là đại diện của ngành. + Củng cố quan hệ với các bạn hàng, đối tác nước ngoài (các nhà nhập khẩu, người tiêu dùng ở nước ngoài) vì họ cũng là một bên có lợi ích bị ảnh hưởng bởi vụ việc điều tra PVTM. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Quốc Hội (2017), Luật Quản lý Ngoại thương số 05/2017/ QH14 2. Chính Phủ (2018), Nghị định số 98/2017/NĐ-CP ngày 18/8/2017 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Công Thương 3. Chính Phủ (2018), Nghị định số 10/2018/NĐ-CP ngày 15/01/2018 quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý ngoại thương về các biện pháp PVTM 4. Bộ Công Thương (2018), Thông tư số 06/2018/TT-BCT ngày 20/4/2018 quy định chi tiết một số nội dung về các biện pháp PVTM 879