Phát triển kinh tế thủ đô nhanh và bền vững
Bạn đang xem tài liệu "Phát triển kinh tế thủ đô nhanh và bền vững", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- phat_trien_kinh_te_thu_do_nhanh_va_ben_vung.pdf
Nội dung text: Phát triển kinh tế thủ đô nhanh và bền vững
- PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỦ ĐÔ NHANH VÀ BỀN VỮNG TS. Nguyễn Hồng Sơn ThS. Đào Ngọc Lưu Viện nghiên cứu Phát triển KT- XH Hà Nội Tóm tắt Quan điểm phát triển kinh tế nhanh và bền vững đã trở thành một chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước trong lãnh đạo, quản lý, điều hành kinh tế - xã hội của đất nước thời kỳ đổi mới1. Với vị thế là Thủ đô,“trung tâm chính trị, hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hóa, giáo dục, khoa học và công nghệ, kinh tế và giao dịch quốc tế của cả nước”, Hà Nội đã quán triệt nghiêm túc các chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế theo hướng nhanh và bền vững, được cụ thể hóa trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm và hàng năm. Thời gian qua, kinh tế Hà Nội liên tục đạt mức tăng trưởng cao so với cả nước, tuy nhiên, xét dưới góc độ bền vững, còn bộc lộ nhiều hạn chế cần phải khắc phục. Bài viết đi sâu phân tích thực trạng phát triển kinh tế Hà Nội thời gian qua, tìm ra những điểm nghẽn và nguyên nhân, từ đó đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển kinh tế Thủ đô theo hướng nhanh và bền vững trong thời gian tới. Từ khóa: Bền vững, tăng trưởng, văn hóa, xã hội, môi trường, biến đổi khí hậu. 1. Thực trạng phát triển kinh tế Thủ đô thời gian qua Kinh tế Hà Nội phát triển theo hướng ngày càng gia tăng về quy mô và tốc độ. Khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế thế giới, việc mở rộng địa giới hành chính là những áp lực lớn lên các chỉ số cân đối vĩ mô, yêu cầu về cải thiện chất lượng tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế Thủ đô theo hướng hiện đại và bền vững. Tuy nhiên, kinh tế Thủ đô vẫn duy trì đƣợc tốc độ tăng trƣởng và phát triển ổn định. Tăng trưởng GRPD trên địa bàn Hà Nội giai đoạn 2006 - 2016 bình quân đạt 10,04% gấp 1,57 lần so với cả nước (6,38%). Quy mô nền kinh tế tăng nhanh, thu nhập bình quân đầu người (GRDP/người) 1 Quyết định số 153/2004/QĐ-TTg ngày 17/8/2004 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam (Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam); Quyết định số 432/QĐ-TTg ngày 12/4/2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Quyết định Phê duyệt Chiến lược phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020. 413
- năm 2006 là 16 triệu đồng, năm 2010 đạt 37,2 triệu đồng, năm 2016 đạt 79,4 triệu đồng (tăng gần gấp 5 lần so với 2006). Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hình thành cơ cấu mới với chất lượng cao hơn, trong đó dịch vụ chiếm vị trí chủ đạo. Đến cuối năm 2016, tỷ trọng ngành dịch vụ đạt 57,28%, công nghiệp - xây dựng đạt 29,69% và ngành nông nghiệp còn 3,22%. Các cân đối vĩ mô của kinh tế Thủ đô tương đối ổn định, lạm phát được kiểm soát. Chỉ số CPI hàng năm của Hà Nội theo xu hướng giảm dần năm 2010 là 9,6%, năm 2011 là 11,8%, năm 2013 là 6,4%, 2014 tăng 4,7%, năm 2015 tăng 0,7%, năm 2016 tăng 3%. Quy mô thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn thành phố đều đạt và vượt kế hoạch. Cơ cấu thu theo hướng bền vững, ổn định. Đến năm 2016, tổng thu ngân sách trên địa bàn là 186.935 tỷ đồng vượt 110,3% dự toán. Chi ngân sách địa phương thực hiện 74.479 tỷ đồng, ưu tiên chi đầu tư phát triển, giảm chi thường xuyên. Huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, đẩy mạnh xã hội hóa, tập trung cho đầu tư phát triển. Vốn đăng kí ngoài ngân sách đã thu hút được 439,2 nghìn tỷ đồng, trong đó đầu tư nước ngoài 3,11 tỷ USD. Vốn đầu tư xã hội thực hiện đạt 278 nghìn tỷ đồng. Kết cấu hạ tầng đô thị và nông thôn trên địa bàn Hà Nội được đầu tư mạnh, phát triển đồng bộ, hiện đại. Hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông, nhất là các công trình giao thông trọng điểm được chỉ đạo thực hiện quyết liệt. Hạ tầng nông thôn được ưu tiên nguồn lực phát triển mạnh gắn với Chương trình Nông thôn mới (100% các xã của các huyện ngoại thành được bê tông hóa đường liên xã, liên thôn, nhà văn hóa, trạm y tế, trường học). Đến hết năm 2016, trên địa bàn có 255/386 xã đạt chuẩn nông thôn mới, chiếm 66% tổng số xã (cả nước đạt 20%). Tiếp tục phát triển nông nghiệp theo hướng hiện đại, gắn với đô thị sinh thái, sản xuất hàng hóa lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao, hài hòa và bền vững với môi trường. Với trên 200 nghìn doanh nghiệp, chiếm 25% số lượng doanh nghiệp của cả nước, thành phố coi việc quan tâm, tạo điều kiện để doanh nghiệp phát triển là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Chính quyền Thành phố đã chỉ đạo các ngành, các cấp thực hiện quyết liệt, nhiều giải pháp điều hành nhằm thực hiện tốt kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm và hàng năm đồng thời, tập trung các giải pháp đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp. Năm 2016, số lượng doanh nghiệp thành lập mới tăng cao với 22.666 doanh nghiệp mới (tăng 18% so với cùng kỳ). 414
- Hà Nội đã và đang từng bước cải cách từng khâu, từng bước trong quá trình hình thành và phát triển doanh nghiệp; môi trường kinh doanh ngày càng thông thoáng. Hoạt động cải cách thủ tục hành chính tập trung vào việc đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả hoạt động công khai, minh bạch các thông tin về thủ tục hành chính. Bên cạnh đó, các hoạt động hỗ trợ, ưu đãi, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp cũng được đẩy mạnh. Năm 2016, Hà Nội đã ban hành nhiều chương trình, kế hoạch cải thiện môi trường kinh doanh, hỗ trợ doanh nghiệp như Kế hoạch phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa Thành phố Hà Nội giai đoạn 2016 - 2020; Kế hoạch cải thiện môi trường kinh doanh, phấn đấu đến năm 2020, chỉ số PCI của Hà Nội nằm trong nhóm 10 địa phương dẫn đầu cả nước; An sinh xã hội được đảm bảo, chất lượng cuộc sống của người dân được nâng lên. Trong những năm qua, kinh tế phát triển mạnh mẽ đã góp phần nâng cao đời sống văn hóa tinh thần của người dân Thủ đô. Nhiều công trình văn hóa lớn, các di tích văn hóa, lịch sử được xây dựng, cải tạo, nâng cấp (tượng đài, rạp chiếu phim, công viên, trung tâm văn hóa, ). Công tác y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân có nhiều tiến bộ; chất lượng khám, chữa bệnh được nâng cao. Nhờ làm tốt công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình nên trong nhiều năm liền, Hà Nội là một trong những tỉnh, TP có mức sinh và mức sinh con thứ 3 trở lên thấp nhất toàn quốc; đã khống chế thành công tốc độ gia tăng dân số tự nhiên từ 4,3 con/ phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ vào những năm 1980 xuống còn 2 con vào năm 2010, tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên 1,1%, kiểm soát được quy mô dân số và từ đó đến nay Hà Nội đang duy trì mức sinh thay thế. Chỉ số phát triển con người của Hà Nội cao nhất cả nước. Quy mô giáo dục tiếp tục được ổn định và phát triển mạnh. Mạng lưới trường, lớp được mở rộng, cơ sở vật chất được tăng cường đầu tư xây dựng. Hà Nội hiện có 2.622 trường học và các cơ sở giáo dục, hơn 1,7 triệu học sinh, có 1.135 trường đạt chuẩn quốc gia. Mặc dù, tình hình chính trị, kinh tế thế giới có nhiều biến động, ảnh hưởng đến phát triển kinh tế Thủ đô, song an sinh xã hội tiếp tục được đảm bảo. Người nghèo, các đối tượng bảo trợ xã hội, người có công với cách mạng, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn được thành phố quan tâm, chăm lo. Đã triển khai nguồn vốn vay ưu đãi cho trên 11.000 hộ nghèo, 30.000 lượt hộ cận nghèo, 1.300 lượt hộ mới thoát nghèo, 8.000 lượt học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn với tổng kinh phí cho vay trên 1.600 tỷ đồng. Hàng năm, tạo việc làm mới cho khoảng 150 nghìn lao động; các chế độ chính sách được thực hiện tích cực. 415
- Giai đoạn 2011-2015, số hộ nghèo và cận nghèo được cấp thẻ bảo hiểm y tế (BHYT) đạt 245.842 hộ, hỗ trợ học nghề đạt 12.718 hộ, hỗ trợ xây dựng và sửa chữa nhà ở đạt 4.755 hộ. Hàng năm, thực hiện trợ cấp thường xuyên cho 300.452 người. Tỉ lệ hộ nghèo bình quân/năm (theo tiêu chí mới) đã giảm qua các năm: 1,8 % (năm 2011), 1,5% (năm 2016). Chất lượng cuộc sống của người dân thủ đô đặc biệt là nông thôn, miền núi và đồng bào dân tộc thiểu số được cải thiện và từng bước được nâng cao; Tỷ lệ cán bộ nữ giữ những chức danh chủ chốt trong các cơ quan, đơn vị ngày càng cao, v.v. Chú trọng công tác bảo vệ môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu trong quá trình phát triển kinh tế Thủ đô. Trong những năm qua, Hà Nội đã thực thi rộng rãi luật pháp về bảo vệ môi trường, kết hợp hài hòa giữa bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế - xã hội. Hầu hết các chỉ tiêu môi trường giai đoạn từ năm 2011 - 2015 đều đạt so với kế hoạch đề ra, một số chỉ tiêu vượt kế hoạch như: tỷ lệ chất thải rắn sinh hoạt ở khu vực ngoại thành (các huyện) được thu gom, vận chuyển trong ngày ước đạt 90% (kế hoạch là 80%); tỷ lệ rác thải sinh hoạt ở khu vực ngoại thành (các huyện) được thu gom, vận chuyển vận chuyển đi xử lý là 85% (kế hoạch là 80%). Thủ đô Hà Nội sau khi hợp nhất có diện tích rừng và đất lâm nghiệp 29.000 ha, chiếm gần 9% diện tích tự nhiên toàn thành phố. Rừng có vị trí, vai trò rất quan trọng trong việc điều hòa khí hậu, phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng cho Thủ đô. Vì vậy, 100% diện tích rừng đặc dụng và phòng hộ được khoán bảo vệ. Việc tổ chức quản lý bảo vệ rừng, hoạt động kiểm tra, kiểm soát lâm sản được thực hiện đúng quy định pháp luật. Nạn phá rừng, cháy rừng cơ bản được ngăn chặn, hầu như không xảy ra vi phạm lớn. Việc thực hiện nguyên tắc sử dụng đất lâm nghiệp, cho thuê môi trường rừng để thực hiện các dự án đầu tư đảm bảo đúng chế độ chính sách, phát huy tác dụng tích cực. Công tác quản lý và sử dụng tài nguyên ngày càng theo hướng hiệu quả. Công tác thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, giao đất, cho thuê đất và chuyển mục đích sử dụng đất đã cơ bản được các địa phương triển khai thực hiện theo quy hoạch; Việc thẩm định cấp phép khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước được thực hiện theo các quy định về trình tự, thủ tục hành chính. Bên cạnh đó, vấn đề chủ động, sẵn sàng ứng phó và thích nghi với biến đổi khí hậu đã được Thành phố lồng ghép trong các kế hoạch, chiến lược phát triển 416
- kinh tế - xã hội, quy hoạch ngành và các giai đoạn chuẩn bị đầu tư các dự án trên địa bàn. Đồng thời, Thành phố cũng đã đầu tư hàng nghìn tỷ đồng để sửa chữa, nâng cấp, xây mới hệ thống đê điều, thủy lợi, chống úng ngập, thoát nước đô thị, nhà máy xử lý chất thải, trồng cây xanh, 2. Những điểm nghẽn trong phát triển kinh tế Thủ đô nhanh và bền vững Có thể thấy, Hà Nội đã tích cực triển khai và thực hiện khá thành công một số nhiệm vụ để hướng tới phát triển kinh tế theo hướng nhanh và bền vững. Tuy nhiên, những kết quả và tiến bộ đạt được chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh của Thủ đô. Trình độ phát triển kinh tế còn thấp so với Thủ đô các nước trên thế giới và một số nước trong khu vực. Còn nhiều tồn tại, hạn chế trong quá trình phát triển trên các phương diện phát triển bền vững về kinh tế, xã hội và môi trường: - Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Hà Nội tương đối cao qua các năm nhưng chưa đảm bảo chất lượng và phát triển theo hướng bền vững. Các nguồn lực về con người, vốn, đất đai, văn hóa, khoa học, công nghệ sau khi Hà Nội mở rộng địa giới hành chính chưa được khai thác hiệu quả. Mặc dù có Luật Thủ đô song khi thể chế hóa thành các quy định cụ thể còn gặp nhiều khó khăn. Trên thực tế, Hà Nội chưa được hưởng cơ chế, chính sách đặc thù đủ mạnh tạo động lực mới cho phát triển KT-XH Thủ đô. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế vẫn chậm, đặc biệt cơ cấu nội bộ các ngành công nghiệp, dịch vụ và các sản phẩm chủ lực. Tỷ trọng các ngành công nghiệp chế biến, ngành nông nghiệp công nghệ cao, xanh, sạch còn thấp. Các loại dịch vụ có giá trị gia tăng cao như tài chính tín dụng, y tế, bảo hiểm, giáo dục và các dịch vụ phát triển kinh doanh khác còn chiếm tỷ lệ nhỏ và vẫn thấp so với các Thủ đô các nước trong khu vực. - Mô hình tăng trưởng của Hà Nội vẫn thiên về chiều rộng, chủ yếu dựa vào gia tăng quy mô tài sản cố định (chiếm trung bình 70%), trong khi đó năng suất lao động chỉ chiếm hơn 10%, TFP chiếm 15% tổng mức tăng trưởng (trong khi ở các nước trong khu vực, đóng góp của năng suất lao động, mức tăng TFP chiếm tới 40%). Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của Hà Nội còn thấp, thể hiện qua hệ số ICOR của Hà Nội còn cao so với cả nước và đặc biệt là so với thế giới. Như vậy, tăng trưởng kinh tế của Hà Nội thời gian qua là chưa thực sự hiệu quả, mô hình tăng trưởng còn chủ yếu dựa vào vốn đầu tư, chất lượng tăng trưởng kém bền vững. - Chất lượng quy hoạch phát triển các ngành kinh tế ở Hà Nội không cao và thành phố cũng chưa huy động tốt tiềm năng kinh tế trong dân cư, đặc biệt là tiềm năng của khu vực kinh tế ngoài Nhà nước. 417
- - Quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh, nhưng thiếu sự quản lý chặt chẽ, phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị theo hướng đồng bộ, hiện đại còn chậm theo kế hoạch, quản lý đô thị (dân cư, giao thông, môi trường, ) còn nhiều bất cập đã tác động tiêu cực đến KT - XH Thủ đô. - Việc phát triển kinh tế vẫn chưa thực sự đảm bảo hài hòa với phát triển văn hóa - xã hội. Quản lý văn hóa - xã hội trong một số lĩnh vực còn bất cập. Khoảng cách chênh lệnh giàu - nghèo giữa đô thị và nông thôn ngày càng tăng. Vấn đề nghèo đa chiều đang đặt ra những thách thức mới. Tỷ lệ thất nghiệp ngày càng cao. Chất lượng chăm sóc sức khỏe, hệ thống y tế và chất lượng dịch vụ y tế chưa đáp ứng được yêu cầu khám, chữa bệnh của nhân dân. Vệ sinh an toàn thực phẩm chưa được kiểm soát chặt chẽ. Nhiều vấn đề xã hội tiêu cực nảy sinh trên địa bàn chưa được xử lý triệt để. - Tình trạng ô nhiễm môi trường ngày càng trở nên nghiêm trọng, đặc biệt là ô nhiễm môi trường nước, không khí đang ở mức báo động. Chưa có những giải pháp hiệu quả để ứng phó với sự biến đổi khí hậu; Chưa huy động được nhiều nguồn lực để bảo vệ môi trường sinh thái và môi trường sống của nhân dân. Những tồn tại, hạn chế, điểm nghẽn trong phát triển Thủ đô nêu trên là do một số nguyên nhân chủ yếu sau: - Những yếu tố tác động bên ngoài có ảnh hưởng không nhỏ tới mục tiêu phát triển kinh tế bền vững của Thủ đô thời gian qua đó là: Tình hình kinh tế, chính trị thế giới, khu vực biến động phức tạp, khó lường; Tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh, ; Sau khi mở rộng địa giới hành chính, trình độ phát triển kinh tế - xã hội giữa các địa bàn không đồng đều, cơ cấu kinh tế và hệ thống quản lý giữa các địa phương cũng chưa ăn khớp nhịp nhàng, nên chưa thể phát huy ngay những tiềm năng và lợi thế do việc sáp nhập địa giới mang lại; Hệ thống chính sách, pháp luật còn chậm đổi mới, chồng chéo và bất cập; chưa có những chính sách đặc thù, đáp ứng yêu cầu phát triển Thủ đô. - Nhận thức của một bộ phận cán bộ, viên chức về phát triển kinh tế bền vững còn hạn chế. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra, giám sát thực hiện nghị quyết, chương trình, kế hoạch của lãnh đạo Thành phố có lúc, có nơi chưa thường xuyên, sâu sát và chưa quyết liệt. Sự phối hợp, điều hành giữa các cấp, các ngành, giữa cơ quan quản lý Nhà nước với các doanh nghiệp trong một số lĩnh vực chưa cụ thể, còn mang tính hình thức đối phó, chậm chạp. Công tác cải cách hành chính gắn liền với nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ, công 418
- chức, viên chức còn hạn chế. Ý thức trách nhiệm và chấp hành pháp luật, kỷ cương, quy tắc vận hành cơ chế thị trường của các chủ thể kinh tế còn thấp. 3. Đề xuất giải pháp Để phát triển kinh tế Thủ đô nhanh và bền vững, xứng tầm với vị thế, tiềm năng và thế mạnh, trong thời gian tới, Hà Nội cần triển khai đồng bộ một số giải pháp cơ bản sau: (1) Đổi mới mô hình tăng trưởng gắn với tái cơ cấu kinh tế theo hướng hiệu quả, bền vững. Tập trung phát triển các ngành, lĩnh vực trình độ cao, chất lượng cao. Từng bước phát triển kinh tế tri thức và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển các ngành, lĩnh vực ứng dụng công nghệ mới (như một số công nghệ kỹ thuật cao, vật liệu mới, công nghệ sinh học, công nghệ biến đổi gien), để tạo nên sự nhảy vọt về KHCN, năng suất lao động, hàm lượng R&D, giá trị tăng thêm và sức cạnh tranh của hàng hóa - dịch vụ Thủ đô. Nâng tỷ lệ đầu tư cho khu vực ngoại thành gắn với phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới. Ưu tiên chất lượng và hiệu quả, nâng cao sức cạnh tranh và vị thế trong phân công quốc tế và chuỗi giá trị toàn cầu của nền kinh tế chung, của doanh nghiệp và sản phẩm hàng hóa Thủ đô. Gắn yêu cầu tăng trưởng với giải quyết hài hòa các mặt chất lượng sống, văn hóa, môi trường và phát triển bền vững, đảm bảo dân chủ, công bằng và tiến bộ xã hội. Khai thác lợi thế so sánh, phát huy tổng hợp các nguồn lực của Thủ đô (trước tiên là con người, KHCN, văn hóa, ) cho phát triển. Đẩy mạnh cơ cấu lại nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới. Thực hiện cơ cấu lại và phát triển nhanh các ngành dịch vụ. Tập trung phát triển một số ngành dịch vụ tiềm năng, có hàm lượng tri thức và công nghệ cao như tài chính, ngân hàng, logistics, hàng không, dịch vụ giáo dục, y tế, kiểm toán, tư vấn, pháp lý; tiếp tục phát triển hạ tầng thương mại, thương mại điện tử. Tập trung phát triển du lịch cả về quy mô và chất lượng, phát huy hiệu quả vai trò trung tâm phân phối khách du lịch lớn nhất của khu vực phía Bắc, cầu nối đưa khách du lịch trong SE N và các nước trong khu vực. Cơ cấu lại doanh nghiệp Nhà nước thông qua việc tiếp tục sắp xếp, cổ phần hóa, thoái vốn đầu tư Nhà nước một cách minh bạch, thực chất theo cơ chế thị trường. Tích cực thực hiện tái cơ cấu đầu tư công; huy động tối đa nguồn vốn ngân sách cho đầu tư phát triển theo luật đầu tư công. Tiếp tục cơ cấu lại nguồn thu ngân sách Nhà nước theo hướng tăng tỉ trọng thu nội địa; đẩy mạnh thực hiện 419
- các giải pháp chống thất thu ngân sách; cơ cấu lại các khoản chi ngân sách Nhà nước theo hướng tiết kiệm, hiệu quả. (2) Tiếp tục hoàn thiện thể chế cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nghiên cứu, rà soát, ban hành những văn bản, chính sách mới và cụ thể hóa việc vận dụng các cơ chế đặc thù về quản lý kinh tế, quản lý đô thị, quản lý môi trường phù hợp với tình hình cụ thể ở Thủ đô. Khuyến khích phát triển thị trường hàng hóa - dịch vụ và nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa dịch vụ, xây dựng các thương hiệu mạnh cho hàng hóa Thủ đô; chú trọng phát triển cả thị trường khu vực đô thị và vùng nông thôn ngoại thành, đồng thời giữ vững và mở rộng thị trường quốc tế. Từng bước phát triển thị trường tài chính - tiền tệ theo hướng bền vững, chất lượng, gắn với hội nhập, đồng bộ với cơ cấu gồm thị trường vốn trung, dài hạn và thị trường tín dụng ngắn hạn (ngân hàng, các quỹ tín dụng, quỹ bảo hiểm, quỹ đầu tư, ). Phát triển thị trường đất đai, bảo đảm thu về cho ngân sách kết hợp với yêu cầu thị trường hóa, công khai, minh bạch các giao dịch đất đai. Tiếp tục bổ sung hoàn thiện khung pháp lý và cơ chế thị trường lao động, cụ thể hóa và vận dụng vào điều kiện Thủ đô. Đẩy mạnh công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm phổ thông, việc làm cho khu vực nông thôn. Phát triển nhanh thị trường khoa học công nghệ; hoàn thiện hạ tầng cơ bản như các trung tâm ứng dụng, các phòng thí nghiệm, cơ sở đào tạo đại học và viện nghiên cứu, chợ công nghệ (techmart); tiến hành điều tra và quy hoạch đội ngũ cán bộ KHCN trên địa bàn; triển khai Quy chế thu hút và sử dụng nhân tài KHCN Thủ đô, Đề án thu hút các nhà khoa học quốc tế về làm việc, hợp tác với Thủ đô; đẩy nhanh việc xây dựng các khu công nghệ cao, hình thành các đại học quốc tế; cải tiến quy chế đấu thầu thực hiện nhiệm vụ KHCN, cơ chế tài chính cho KHCN và thành lập Quỹ KHCN Thủ đô. (3) Cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh; khuyến khích khởi nghiệp, phát triển doanh nghiệp, thúc đẩy tăng trưởng. Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, chỉ số PCI, trọng tâm là các lĩnh vực: quy hoạch, đầu tư, đất đai, xây dựng, cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh, giấp phép đầu tư, phấn đấu đến năm 2020, Hà Nội đứng trong top 10 cả nước. Tăng cường xúc tiến đầu tư, các giải pháp huy động nguồn lực trong và ngoài nước cho đầu tư phát triển. Xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường và ngăn chặn có hiệu quả các hành vi gian lận thương mại, trốn thuế, 420
- Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong các nội dung, nhiệm vụ của cải cách hành chính theo hướng tổng thể và đồng bộ. Tiếp tục rà soát sửa đổi các quy định, thủ tục hành chính, tạo thuận lợi hơn nữa cho người dân và doanh nghiệp. Định kỳ tổ chức diễn đàn trao đổi giữa các cấp chính quyền với doanh nghiệp để kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, có biện pháp tháo gỡ nhằm duy trì và phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, thúc đẩy khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo theo tinh thần Nghị quyết số 35 của Chính phủ. Thực hiện tốt Chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp. Thực hiện có hiệu quả các chính sách ưu đãi, nhất là về thuế, tín dụng, đất đai, nhân lực để hỗ trợ sản xuất kinh doanh, khuyến khích ứng dụng công nghệ cao, công nghiệp hỗ trợ, khuyến nông, sản xuất chế biến tiêu thụ nông sản. Đẩy nhanh tiến độ và nâng cao chất lượng sắp xếp, cổ phần hóa, thoái vốn doanh nghiệp Nhà nước. Tăng cường kiểm tra, thanh tra, giám sát, quan tâm xử lý kịp thời, dứt điểm, đúng chế độ, đúng thẩm quyền những vướng mắc trong quá trình sắp xếp, cổ phần hóa, thoái vốn Nhà nước tại doanh nghiệp. Chú trọng việc xây dựng phương án sản xuất kinh doanh, phương án lao động, định hướng phát triển doanh nghiệp để phát huy hiệu quả mục tiêu cổ phần hóa. (4) Phát triển kinh tế đi đôi với giải quyết tốt các vấn đề văn hóa, xã hội, bảo đảm an sinh và đời sống của nhân dân Thủ đô ngày càng tốt hơn. Phát triển các kênh tạo việc làm. Khuyến khích các hình thức tạo việc làm tại chỗ thông qua phát triển các loại hình dịch vụ, sản xuất nhỏ tại vùng nông thôn. Xây dựng hệ thống thông tin lao động - việc làm được cập nhật thường xuyên của Thành phố. Đẩy mạnh công tác đào tạo nghề, chú trọng đào tạo nghề dài hạn có địa chỉ, đào tạo theo nhu cầu thị trường, đào tạo phục vụ cho xuất khẩu. Đặc biệt chú trọng đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho khu vực chuyển đổi mục đích sử dụng đất. Tiếp tục thực hiện các chính sách hỗ trợ người nghèo, hỗ trợ các hộ cận nghèo, xây dựng và mở rộng thực hiện các mô hình giảm nghèo có hiệu quả, bền vững phù hợp với điều kiện của từng quận, huyện. Làm tốt công tác đền ơn đáp nghĩa. Xây dựng các thiết chế văn hóa đồng bộ, tạo hành lang pháp lý quản lý phát triển văn hóa. Từng bước hoàn thiện việc xây dựng và thực hiện các quy định, quy ước, quy chế cụ thể về nếp sống văn hóa. Tiếp tục thực hiện phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”. Đẩy mạnh XHH trong phát triển văn hóa xã hội. Tăng cường phân cấp quản lý, đầu tư tôn tạo các di tích, danh thắng. Khuyến khích mọi doanh nghiệp, mọi tổ chức, cá nhân tham gia phát triển văn hóa, giáo dục, y tế, thể dục thể thao, theo quy 421
- định của pháp luật. Đấu tranh phòng, chống các tệ nạn xã hội, chú trọng các biện pháp kiểm soát, ngăn chặn từ xa (buôn bán, vận chuyển, tàng trữ và sử dụng trái phép chất ma tuý, ) ; tích cực phòng, chống tham nhũng. (5) Tăng cường công tác bảo vệ môi trường, giảm thiểu các rủi ro do biến đối khí hậu, hướng tới phát triển nền kinh tế xanh. Thực hiện nghiêm các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường, trong đó đặc biệt chú ý bảo đảm quy trình phê duyệt và giám sát việc thực hiện các dự án đầu tư. Quy định rõ trách nhiệm của các bên liên quan đến việc phê duyệt, thẩm định dự án, quản lý môi trường và của các nhà đầu tư kinh doanh, nhất là những dự án có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường. Khuyến khích nghiên cứu khoa học và áp dụng vào sản xuất các công nghệ không gây ô nhiễm môi trường và hình thành các ngành, nghề kinh tế mới thân thiện với môi trường. Xây dựng các kế hoạch, phương án phòng, chống và thích ứng; đẩy mạnh tuyên truyền thay đổi hành vi và lối sống của nhân dân trên địa bàn nhằm hướng tới hình thành các mô hình sản xuất và thói quen tiêu dùng bền vững, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên; từ đó, tạo cho mỗi thành viên trong xã hội ý thức chủ động phòng, tránh thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu. Chú trọng công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý nghiêm những hành vi vi phạm về bảo vệ môi trường đặc biệt tại các làng nghề, lưu vực sông, khu công nghiệp, khu đô thị. Xây dựng, hoàn thiện và thực hiện nghiêm các quy định về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đối với người tiêu dùng và với môi trường. Thúc đẩy xã hội hóa công tác vệ sinh môi trường và bảo vệ môi trường. Triển khai nhanh lộ trình kiểm soát khí thải đối với xe cơ giới theo lộ trình của Chính phủ. Khai thác và sử dụng bền vững nguồn nước. Tăng cường bảo vệ và phát triển rừng, bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học. Tranh thủ tối đa nguồn lực quốc tế về bảo vệ môi trường. Tài liệu tham khảo 1. Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội năm 2016 và nhiệm vụ trọng tâm, giải pháp chủ yếu năm 2017, Ban Cán sự Đảng UBND TP, Hà Nội, 01/2017; 2. Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội Hà Nội 5 năm (2016 - 2020) của Thành phố Hà Nội, UBND Thành phố, Hà Nội, 8/2016; 3. Và một số tài liệu tham khảo khác. 422