Phát triển kinh tế vùng Nam Trung Quốc và tác động với Cao Bằng

pdf 15 trang Gia Huy 18/05/2022 2380
Bạn đang xem tài liệu "Phát triển kinh tế vùng Nam Trung Quốc và tác động với Cao Bằng", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfphat_trien_kinh_te_vung_nam_trung_quoc_va_tac_dong_voi_cao_b.pdf

Nội dung text: Phát triển kinh tế vùng Nam Trung Quốc và tác động với Cao Bằng

  1. PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÙNG NAM TRUNG QUỐC VÀ TÁC ĐỘNG VỚI CAO BẰNG 中国南区经济发展概况与其对越南高平省之影响 TS. Phạm Sỹ Thành1 Giám đốc Chương trình Nghiên cứu Kinh tế Trung Quốc thuộc VEPR, Đại học Kinh tế, ĐHQGHN 河内国家大学所属经纪大学树 VEPR 组中国经济研究项目经理 范士成 Tóm tắt: Chủ trương phát triển kinh tế vùng miền của Trung Quốc tập trung vào ba phương diện: (1) phối hợp phát triển giữa các vùng miền; (2) xây dựng các cực tăng trưởng mới; (3) các điểm tăng trưởng ven miền duyên hải phía Đông và theo các dòng sông lớn ở Trung Quốc. Từ khóa: Nam Trung Quốc, tác động, Cao Bằng 摘要 中国地区经济发展主张集中在:(1)各地区之间的配合;(2)建立新的增长 极;(3)东面沿海及中国大河边平原地区增长点 关键词:南中国,影响,高平省 1. Tổng quan chiến lược phát triển kinh tế vùng của Trung Quốc 1.1. Khái quát Từ khi thành lập nước đến nay, chiến lược phát triển kinh tế vùng của Trung Quốc đã trải qua 3 giai đoạn lớn: (1) từ khi thành lập nước đến trước cải cách mở cửa (1949-1978) là giai đoạn phát triển cân bằng kinh tế vùng; (2) từ sau cải cách mở cửa đến cuối thế kỷ XX (1979-1999) là giai đoạn phát triển không cân bằng; (3) từ khi bước sang thế kỷ mới (từ năm 2000) là giai đoạn phát triển nhịp nhàng kinh tế vùng. Bước sang thế kỷ XXI, Trung Quốc tích cực tham gia vào toàn cầu hóa kinh tế, nhất thể hóa/hội nhập? Kinh tế khu vực, chiến lược phát triển vùng miền cũng được đẩy mạnh. 1.2. Bố cục Kinh tế vùng miền Trung Quốc đã hình thành bố cục mới - hệ dẫn động 4 bánh “4WD” bao gồm 4 vùng kinh tế lớn: miền Tây, miền Trung bộ, Đông Bắc và miền Tây. Bố cục tổng thể của chiến lược phát triển vùng của Trung Quốc được nêu rõ trong Cương yếu quy hoạch 5 năm lần thứ 11: “thúc đẩy đại khai phá miền Tây, chấn hưng các cơ sở công 1 Giám đốc Chương trình Nghiên cứu Kinh tế Trung Quốc thuộc VEPR, ĐHKT, ĐHQGHN 769
  2. nghiệp cũ vùng Đông Bắc”, thúc đẩy miền Trung trỗi dậy, khuyến khích miền Đông đi đầu phát triển, đẩy mạnh sự tương tác tốt giữa miền Đông - miền Trung - miền Tây, phát triển vùng hài hòa nhịp nhàng trở thành trọng tâm và điểm dừng chính của chiến lược phát triển tổng thể vùng miền Trung Quốc và xây dựng xã hội hài hòa chủ nghĩa xã hội Trung Quốc2. Chủ trương phát triển kinh tế vùng miền của Trung Quốc tập trung vào ba phương diện: (1) phối hợp phát triển giữa các vùng miền; (2) xây dựng các cực tăng trưởng mới; (3) các điểm tăng trưởng ven miền duyên hải phía Đông và theo các dòng sông lớn ở Trung Quốc. 2. Vùng kinh tế miền Tây 2.1. Chiến lược Đại khai phát miền Tây 2.1.1. Bối cảnh Từ khi thực hiện cải cách mở cửa (1978), trọng điểm chiến lược phát triển vùng miền của Trung Quốc chuyển dịch về phía Đông. Đặng Tiểu Bình đưa ra chủ trương phát triển làm giàu có các tỉnh duyên hải phía Đông trước sau đó quy trở lại phát triển miền Tây, củng cố quốc phòng. Sau hơn 20 năm thực hiện phát triển kinh tế miền Đông, tồn tại lịch sử và khoảng cách chênh lệch phát triển giữa khu vực miền Đông và miền Tây ngày càng lớn trở thành vấn đề toàn diện cản trở sự phát triển bền vững lâu dài của nền kinh tế xã hội Trung Quốc. Chiến lược đại khai phát miền Tây là quyết sách chiến lược quan trọng của Trung Quốc, nhằm phát triển miền Tây, thu hẹp khoảng cách chênh lệch phát triển giữa hai miền Đông và Tây. Cuối năm 1999, trong Hội nghị Công tác Kinh tế Trung ương, Giang Trạch Dân đã nêu ra quyết sách Đại khai phát miền Tây. Năm 2000, Trung Quốc thành lập tổ chỉ đạo phát triển miền Tây do thủ tướng Chu Dung Cơ làm tổ trưởng với thành viên là các quan chức cấp cao hàng bộ trưởng. Năm 2001, trong bản “Đề cương kế hoạch 5 năm lần thứ 10 về phát triển kinh tế - xã hội nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa” được chính thức thông qua đã tiến hành bố trí cụ thể cho chiến lược đại khai phá miền Tây. Quy hoạch tổng thể đại khai phá miền Tây trong 50 năm có thể chia thành 3 giai đoạn: xây dựng nền tảng cơ sở hạ tầng (2001-2010), tăng tốc độ phát triển (2010-2030) và thúc đẩy hiện đại hóa toàn diện (2031-2050). 2.1.2. Phạm vi chiến lược Miền Tây bao gồm 12 tỉnh, khu tự trị và thành phố trực thuộc Thiểm Tây, Cam Túc, Ninh Hạ, Thanh Hải, Tân Cương, Tứ Xuyên, Trùng Khánh, Vân Nam, Quý Châu, Tây Tạng, Quảng Tây, Nội Mông, với đặc điểm chung là núi non hiểm trở, dân cư thưa thớt, kinh tế kém phát triển. 2.1.3. Mục tiêu - Mục tiêu tổng thể: Tháng 7 năm 2010, trong Hội nghị công tác đại khai phá miền Tây, Chủ tịch Hồ Cẩm Đào đã phát biểu, sau 10 năm thực hiện, mục tiêu tổng thể thực hiện chiến lược đại khai phá miền Tây là: nâng sức mạnh tổng thể kinh tế của khu vực miền Tây lên tầm cao mới, hoàn thiện hơn cơ sở hạ tầng, hình thành cơ bản hệ thống công nghiệp hiện đại, xây dựng cơ sở năng lượng mới, cơ sở chế biến sâu các nguồn tài nguyên, cơ sở sản xuất trang thiết bị và cơ sở các ngành công nghiệp chiến lược mới nổi quan trọng của cả nước; 2 770
  3. nâng trình độ và chất lượng đời sống của nhân dân lên tầng cao mới, giảm chênh lệch về năng lực phục vụ công cộng cơ bản so với khu vực miền Đông; nâng cao bảo vệ môi trường sinh thái, hạn chế suy thoái môi trường. - Mục tiêu các thời kỳ: Tháng 12 năm 2006, Ủy ban thường vụ Quốc Vụ viện thông qua “Kế hoạch 5 năm lần thứ 11 đại khai phá miền Tây”. Mục tiêu hướng tới nỗ lực thực hiện phát triển kinh tế khu vực miền Tây vừa nhanh vừa hiệu quả, nâng cao và duy trì sự ổn định cho đời sống nhân dân, những khu vực và ngành nghề trọng điểm đạt trình độ phát triển mới, đạt được thành tựu mới trong lĩnh vực phục vụ lợi ích cộng đồng cơ bản như giáo dục, y tế, xây dựng xã hội chủ nghĩa và xã hội hài hòa vững bền. Năm 2012, Trung Quốc thông qua “Kế hoạch 5 năm lần thứ 12 đại khai phá miền Tây”, xác định rõ mục tiêu phát triển kinh tế xã hội miền Tây: phấn đấu giai đoạn “5 năm lần thứ 12” đại khai phá miền Tây trên 7 lĩnh vực kinh tế tổng hợp, cơ sở hạ tầng, môi trường sinh thái, ngành nghề đặc sắc, dịch vụ công cộng, đời sống nhân dân và cải cách mở cửa. Những mục tiêu này bao gồm: tốc độ tăng trưởng kinh tế khu vực và tốc độ tăng trưởng thu nhập người dân nông thôn đều cao hơn mức bình quân của cả nước, tăng thêm 15.000 km đường sắt, độ che phủ của rừng đạt khoảng 19%, tiêu hao năng lượng tính trên GDP giảm khoảng 15%, giảm tiêu thụ nước trên một đơn vị giá trị gia tăng công nghiệp xuống 30%, tỷ lệ giáo dục bắt buộc 9 năm đạt từ 90% trở lên, tỷ lệ đô thị hóa vượt mức 45%. 2.1.4. Thực hiện Tổ chức lãnh đạo: Ngay khi bắt đầu thực hiện chiến lược đại khai phá miền Tây, Quốc vụ viện đã thành lập Tổ chỉ đạo phát triển miền tây do Thủ tướng chính phủ Chu Dung Cơ đứng đầu, phó thủ tướng Ôn Gia Bảo làm tổ phó cũng quản lý công tác khai phá miền Tây, các thành viên khác là những người phụ trách chính ở các bộ phận liên quan. Tổ chỉ đạo phụ trách tổ chức quán triệt phương châm, chính sách của Trung ương về thực hiện chiến lược đại khai phá miền Tây, cân nhắc chiến lược phát triển, quy hoạch phát triển, các vấn đề chính, các kiến nghị chính sách và những quy định pháp luật có liên quan đến chiến lược đại khai phá miền Tây. Tháng 6 năm 2014, cơ cấu tham gia Tổ chỉ đạo có sự điều chỉnh, tiếp tục nâng cao năng lực phối hợp quy hoạch tổng thể công tác đại khai phá miền Tây. Trong 13 năm được thành lập, Tổ chỉ đạo đã tổ chức 10 hội nghị tổng thể, xem xét thông qua 3 kế hoạch 5 năm lần thứ 10, 11 và 12, Tổ chỉ đạo đã nghiên cứu thực hiện một loạt chính sách hỗ trợ đặc thù cho các dự án công trình trọng điểm như chuyển đổi đất nông nghiệp sang đất trồng rừng, chuyển đổi đất chăn nuôi sang trồng cỏ, phê chuẩn trọng điểm công tác hàng năm chiến lược đại khai phá miền Tây. Chính sách hỗ trợ: Trong giai đoạn mới của chiến lược đại khai phá miền Tây, Chính phủ Trung Quốc đã thực hiện 55 chính sách ưu đãi khác nhau trên 10 lĩnh vực như tài chính, thuế thu nhập, ngành nghề, đất đai, nhân tài, Các phòng ban và các đơn vị (Vụ Tổ chức Trung ương, Ủy ban Cải cách và Phát triển Quốc gia, Bộ Khoa học, Bộ Công nghiệp và Công nghệ thông tin, Ủy ban Dân tộc Nhà nước, Bộ Tài chính, Bộ Nhân lực và An sinh xã hội, Bộ Đất đai và Tài nguyên, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Thủy lợi, Bộ Nông nghiệp, Ủy ban Y tế và Kế hoạch hóa gia đình, ) nghiêm túc thực hiện công tác triển khai chính sách cụ thể, ban hành một loạt các quy định và biện pháp hỗ trợ thực hiện chính sách. 771
  4. 2.1.5. Các khu kinh tế trọng điểm Chiến lược đại khai phát miền Tây đã quy hoạch 11 khu kinh tế trọng điểm gồm: khu kinh tế Thành Đô - Trùng Khánh, Khu kinh tế Quan Trung - Thiên Thủy, Khu kinh tế Vịnh Bắc bộ, khu kinh tế Hô Bao Ngân Du (Hubaoyinyu), Khu vực Lan Châu - Tây Ninh - Cách Nhĩ Mộc - Đức Linh Cáp, Khu kinh tế Thiên Sơn Bắc Lộc, Khu kinh tế Điền Trung (miền Trung Vân Nam), Khu kinh tế Kiềm Trung (miền Trung Quý Châu), Khu kinh tế ven sông Hoàng Hà Ninh Hạ, Khu kinh tế Tạng Trung Nam, Vùng căn cứ cách mạng cũ Thiểm Tây - Cam Túc - Ninh Hạ. Trong đó, khu kinh tế Thành Đô - Trùng Khánh, khu kinh tế Vịnh Bắc bộ Quảng Tây và khu kinh tế Quan Trung - Thiên Thủy là 3 khu kinh tế trọng điểm của chiến lược. 2.1.6. Thành tựu - Tăng trưởng kinh tế ổn định và nhanh chóng: Sau hơn 15 năm thực hiện chiến lược đại khai phát miền Tây, tổng GDP của khu vực miền đã từ 1,3 nghìn tỷ NDT (năm 2000) tăng lên 13,8 nghìn tỷ NDT (năm 2014). Năm 2014, tốc độ tăng trưởng GDP của miền Tây đạt 9,06%, cao hơn các vùng miền Đông và miền Trung lần lượt là 1,15 và 0,64%, cao hơn mức tăng trưởng trung bình toàn quốc 0,77%, 8 năm liên tiếp nằm trong tốp dẫn đầu cả nước. Tỷ trọng của miền Tây trong GDP cả nước đạt 20,18%, tiếp tục thu hẹp khoảng cách kinh tế với khu vực miền Đông, đóng góp 21,9% và tốc độ tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc. Theo dữ liệu cấp tỉnh, tốc độ tăng trưởng của tỉnh Trùng Khánh dẫn đầu cả nước với 10,9%, theo sau là Tây Tạng và Quý Châu với 10,8%, Tân Cương và Thiểm Tây lần lượt đứng thứ 4 và thứ 7 với tốc độ tăng trưởng 10% và 9,7%3. - Mở rộng quy mô đầu tư, kích thích tăng trưởng kinh tế: Ưu tiên đầu tư vào các công trình trọng điểm thúc đẩy miền Tây phát triển nhanh và hiệu quả, chủ yếu là các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng, chủ yếu liên quan đến đường sắt, đường bộ và sân bay. Từ năm 2000- 2014, Trung Quốc đã khởi công 240 công trình trọng điểm trong chiến lược đại khai phá miền Tây với quy mô tổng vốn đầu tư lên đến 4.839 tỷ NDT. Trong đó, có nhiều công trình đã đi vào hoạt động hoặc đang hoàn thành như: đường sắt Thanh Hải - Tây Tạng, dự án chuyển nước từ miền Nam lên miền Bắc “Nam thủy Bắc điều”, dự án dẫn khí từ miền Tây sang miền Đông, xây dựng hệ thống tàu điện ngầm ở Trùng Khánh, dự án chuyển than từ miền Bắc và miền Tây sang miền Đông và miền Nam, dự án chuyển dầu từ miền Tây sang miền Bắc, dự án đưa điện từ miền Tây tới miền Đông, Năm 2014, Trung Quốc khởi công 33 công trình trọng điểm mới để phục vụ chiến lược đại khai phát miền Tây với tổng vốn đầu tư lên đến 835,3 tỷ NDT4. - Việc khởi công xây dựng những công trình trọng điểm này đã phát huy vai trò quan trọng đối với việc thực hiện chiến lược phát triển miền Tây, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội vùng miền Tây, cải thiện điều kiện sản xuất và đời sống của nhân dân miền Tây. Đặc biệt, trong giai đoạn kế hoạch 5 năm lần thứ 11, chiến lược đại khai phát miền Tây đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Chỉ số kinh tế vĩ mô năm 2010 tăng gấp đôi so với năm 2005. Xây dựng cơ sở hạ tầng có bước tiến đột phá, bước đầu hình thành bộ khung mạng lưới CSHT 3 4中华人民共和国国家发展和改革委员会, 2009, 2010, 2014 772
  5. giao thông vận tải tổng hợp, thông xe 365.000km đường quốc lộ mới và đưa 8000km đường sắt đi vào hoạt động. Xây dựng sinh thái và bảo vệ môi trường, đạt được kết quả đáng ghi nhận, các công trình sinh thái trọng điểm tiến triển thuận lợi giảm đáng kể lượng khí thải và chất ô nhiễm, từng bước cải thiện chất lượng môi trường. Sự phát triển nhanh chóng của ngành công nghiệp ưu thế của địa phương và ưu thế về tài nguyên dần chuyển thành ưu thế về kinh tế, khả năng tự phát triển tăng mạnh. Mức sống của người dân được cải thiện rõ rệt, thu nhập của người dân ở thành thị và nông thôn tăng lần lượt là 80% và 85,7% so với năm 2005, diện mạo của khu vực thành thị và nông thôn có những thay đổi lịch sử rõ rệt. 2.2. Khu kinh tế Vịnh Bắc Bộ Quảng Tây 2.2.1. Bối cảnh Nằm trong bố cục thực hiện chiến lược đại khai phá miền Tây, việc thành lập và triển khai Khu kinh tế Vịnh Bắc Bộ Quảng Tây là một trong những điểm nhấn trong chính sách phát triển kinh tế xã hội của Quảng Tây. Đây là khu vực trọng điểm tiến hành cải cách mở cửa sớm nhất ở Trung Quốc, có vai trò và tác dụng to lớn trong bố cục chiến lược cải cách mở cửa của Trung Quốc, có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, vị trí giao thông thuận tiện. Do nằm ở vị trí phía tây nam Trung Quốc, hướng tới Đông Nam Á, khu kinh tế vịnh Bắc Bộ Quảng Tây đã được ấn định quy hoạch phát triển là: trở thành cơ sở dịch vụ lưu thông phân phối, cơ sở thương mại, cơ sở gia công, chế tạo và cơ sở chia sẻ thông tin phục vụ cho sự hợp tác mở cửa giữa Trung Quốc và ASEAN. Khu kinh tế Vịnh Bắc Bộ Quảng Tây là hạt nhân cho việc triển khai hợp tác tại khu vực Vịnh Bắc Bộ mở rộng giữa Trung Quốc và ASEAN. Trên cơ sở vị trí quan trọng về ưu thế địa lý duyên hải của khu tự trị, tháng 3 năm 2006, Quảng Tây đã thành lập Khu kinh tế Vịnh Bắc Bộ Quảng Tây, lấy đó để chỉ đạo toàn bộ quá trình khai thác, mở cửa toàn khu tự trị tỉnh Quảng Tây, thúc đẩy hợp tác khu vực giữa Trung Quốc - ASEAN và hợp tác Vịnh Bắc Bộ mở rộng. Ngày 22/3/2006, chính quyền nhân dân khu tự trị dân tộc Choang tỉnh Quảng Tây đã thành lập Ủy ban quản lý xây dựng quy hoạch kinh tế Vịnh Bắc Bộ Quảng Tây để quy hoạch, quản lý, chỉ đạo công tác mở cửa, phát triển khu kinh tế. Ủy ban là cơ quan trực thuộc Chính quyền Quảng Tây. Tháng 2 năm 2007, Quảng Tây chính thức thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn khai thác, đầu tư Vịnh Bắc Bộ Quảng Tây và công ty trách nhiệm hữu hạn tập đoàn cụm cảng quốc tế Vịnh Bắc Bộ, đánh dẫu sự chỉnh hợp nguồn tài nguyên, quy hoạch phát triển khu kinh tế Vịnh Bắc Bộ Quảng Tây đã đạt được bước tiến mang tính thực chất, quá trình mở cửa, khai thác toàn diện đó đã bước được một bước quan trọng. Dưới sự chỉ đạo của Ủy ban cải cách và phát triển quốc gia, theo tinh thần đại hội Đảng lần thứ 17 và “Đề cương kế hoạch 5 năm lần thứ 11 về phát triển kinh tế xã hội nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa” và “Kế hoạch 5 năm lần thứ 11 đại khai phá miền Tây”, bản Kế hoạch Phát triển Khu kinh tế Vịnh Bắc bộ Quảng Tây từ 2006 đến 2020 do Quảng Tây soạn thảo đã ra đời. Tháng 1 năm 2008, Quốc vụ viện Trung Quốc đã chính thức phê chuẩn và công bố “Kế hoạch phát triển khu kinh tế Vịnh Bắc bộ Quảng Tây”5. Đánh dấu việc hợp tác kinh tế khu vực Vịnh Bắc Bộ đã được nâng lên thành chiến lược quốc gia. 5广西壮族自治区人民政府 (2008),广西北部湾经济区发展规划, 国家发改委网站 773
  6. 2.2.2. Phạm vi Khu kinh tế vịnh Bắc Bộ Quảng Tây (gọi tắt là khu vực kinh tế Vịnh Bắc Bộ) gồm 4 thành phố Nam Ninh, Bắc Hải, Khâm Châu và Cảng Phòng Thành, diện tích đất liền 42.500 km2 chiếm 17,9% tổng diện tích toàn Quảng Tây, diện tích mặt biển đạt 129.300 km với số dân 21 triệu người (2013), là khu vực ven biển duy nhất ở miền tây Trung Quốc. 2.2.3. Mục tiêu Sau 10-15 năm sẽ xây dựng khu kinh tế Vịnh Bắc Bộ trở thành khu vực tăng trưởng kinh tế quan trọng ven biển của Trung Quốc, đi đầu thực hiện mục tiêu xây dựng toàn diện xã hội khá giả của khu vực miền Tây, Trung Quốc. 5 mục tiêu cụ thể được đưa ra gồm: (1) Sức mạnh kinh tế tăng lên rõ rệt. Trên cơ sở của việc tối ưu hóa cơ cấu nền kinh tế, nâng cao hiệu quả, giảm tiêu thụ, bảo vệ môi trường, đến năm 2010, gia tăng đáng kể GDP bình quân đầu người, đến năm 2020, GDP bình quân đầu người cao hơn mức trung bình của cả nước, chiếm khoảng 45% tổng sản lượng kinh tế của toàn tỉnh Quảng Tây. (2) Tăng cường tối ưu hóa cơ cấu nền kinh tế. Hình thành cơ bản kết cấu ngành nghề hợp lý, phát triển đồng bộ 3 nhóm ngành, nâng cao rõ rệt năng lực sáng tạo độc lập và khả ngăn cạnh tranh của các ngành nghề, hình thành cơ bản cơ sở công nghiệp hiện đại, cơ sở phát triển nguồn năng lượng mới và bảo vệ an ninh năng lượng của khu vực, xây dựng nông thôn mới xã hội chủ nghĩa đạt bước phát triển quan trọng, thành thị và nông thôn hỗ trợ nhau cùng phát triển, nâng cao và giữ ổn định mức độ đô thị hóa, nâng cao rõ rệt vai trò đi đầu bức xạ của các thành phố trung tâm. (3) Không ngừng hợp tác mở cửa sâu sắc. Xây dựng cơ bản khu vực hợp tác kinh tế khu vực và quốc tế, gia tăng đáng kể nền kinh tế định hướng xuất khẩu, mở rộng quy mô ngoại thương, kinh tế đối ngoại, đầu tư nước ngoài, tăng cường năng lực ngành dịch vụ, thành lập cơ bản thể chế cơ chế hợp tác mở cửa. (4) Tăng cường xây dựng nền văn minh sinh thái. Duy trì chất lượng môi trường sinh thái trên đất liền và trên biển, trở thành khu bảo tồn sinh thái quan trọng của biển Đông, hiệu quả tiết kiệm năng lượng rõ ràng, hình thành kinh tế vòng tròn có quy mô khá lớn, không ngừng tăng cường khả năng hỗ trợ bảo vệ môi trường, tiết kiệm tài nguyên, hình thành cơ bản cơ cấu ngành nghề, phương thức tăng trường, mô hình tiêu thụ, năng lực phát triển bền vững về tiết kiệm năng lượng và bảo vệ môi trường sinh thái. (5) Cải thiện toàn diện đời sống người dân. Tăng trưởng ổn định thu nhập của cư dân nông thôn, tăng cao và giữ ổn định tỷ lệ tiêu dùng, hình thành cơ bản hệ thống giáo dục suốt đời, cung cấp đầy đủ hơn công tác xã hội, phổ biến toàn diện bảo hiểm xã hội, giúp cho toàn thể cư dân được hưởng dịch vụ y tế cơ bản, nâng cao chất lượng dịch vụ công cộng, môi trường sống thuận lợi tốt đẹp, xã hội ổn định, hài hòa và tiến bộ. 774
  7. Bảng: Mục tiêu phát triển chủ yếu của khu kinh tế Vịnh Bắc Bộ Quảng Tây STT Nội dung Năm 2005 Năm 2010 Năm 2020 1 Dân số (triệu người) 12,3 14 19 2 Tỷ lệ đô thị hóa (%) 39,23 45 60 3 Tỷ trọng khai thác và đầu tư/GDP (%) 0.5 0.8 4 4 Tiêu thụ năng lượng trên GDP (TCE) (NDT) 10.000 9.000 6.600 Tiêu thụ nước trên đơn vị giá trị gia tăng 5 công nghiệp (tấn) (NDT) 3.000.000 2.000.000 1.200.000 Tổng lượng khí thải oxit lưu huỳnh 6 (chủ yếu là SO2) (nghìn tấn) 227 205 205 7 Tổng lượng phát thải COD (nghìn tấn) 315,5 277 250 8 Độ che phủ của rừng (%) 45,1 50 60 2.2.4. Thực hiện Qua 6 năm thành lập khu kinh tế Vịnh Bắc Bộ Quảng Tây, Quảng Tây đẩy nhanh tiến độ thực hiện "Kế hoạch Phát triển khu kinh tế Vịnh Bắc Bộ Quảng Tây”, thúc đẩy phát triển mạnh trên các lĩnh vực công nghiệp, cảng biển, giao thông vận tải, dịch vụ hậu cần, xây dựng đô thị, du lịch, thương mại, văn hóa, mở rộng hợp tác đa kênh với các nước ASEAN và nhiều khu vực châu thổ sông Châu, sông Dương Tử và Tây Nam, Nam Phi và các tỉnh lân cận khác. Sau sáu năm phát triển và xây dựng, nền kinh tế của Khu kinh tế Vịnh Bắc Bộ Quảng Tây tăng trưởng nhanh chóng, tích tụ công nghiệp nhanh chóng, sự gia tăng nhanh chóng của các hệ thống công nghiệp hiện đại, số cảng lớn 100 triệu tấn gia tăng nhanh chóng, mô hình đại khai phát hình thành nhanh chóng. Với tinh thần Vịnh Bắc Bộ, Vịnh Bắc Bộ đã nhanh chóng tạo nên kỳ tích, trở thành khu vực dẫn đầu phát triển khu kinh tế, tốc độ để tạo ra một phép lạ, trở thành sự phát triển kinh tế hàng đầu tại Quảng Tây, là động cơ quan trọng để phát triển miền Tây, là một công cụ quan trọng của biên giới biển của Trung Quốc, nhấn mạnh sự phát triển kinh tế quan trọng, một kênh quan trọng của sự hợp tác giữa Trung Quốc và ASEAN, dịch vụ, các quốc gia chiến lược ngoại giao láng giềng một lực lượng quan trọng6. 2.2.5. Triển vọng Dựa trên Vịnh Bắc Bộ, phục vụ “Tam Nam” (gồm Tây Nam, Hoa Nam và Trung Nam), kết nối Đông-Tây, hướng ra Đông Nam Á, phát huy đầy đủ vai trò đường giao thông quan trọng, cầu nối giao lưu và môi trường hợp tác giữa nhiều khu vực, lấy hợp tác mở cửa để thúc đẩy phát triển và xây dựng, nỗ lực xây dựng khu kinh tế Vịnh Bắc Bộ thành cơ sở hậu cần, cơ sở thương mại, cơ sở gia công chế tạo và trung tâm trao đổi thông tin giữa Trung Quốc và ASEAN, trở thành động lực hỗ trợ chiến lược đại khai phá miền Tây, trở 6 775
  8. thành khu hợp tác kinh tế quốc tế quan trọng có trình độ mở cửa lớn, năng lực bức xạ mạnh, kinh tế phồn vinh, xã hội hài hòa, sinh thái tốt lành. Đường lối phát triển 1. Xây dựng quy hoạch khởi điểm cao, chất lượng cao. Chủ yếu xây dựng 9 quy hoạch: quy hoạch khu kinh tế, quy hoạch dải đô thị, quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch phát triển giao thông tổng hợp, quy hoạch xây dựng tổ hợp cảng lớn, quy hoạch sử dụng hợp lí tài nguyên nước, quy hoạch phát triển công nghiệp ven biển, quy hoạch phát triển ngành dầu khí và các ngành phụ trợ, quy hoạch bảo vệ môi trường sinh thái đất liền và biển. Mời hoặc ủy thác cho các cơ quan có uy tín của nhà nước tham gia xây dựng quy hoạch, mời các chuyên gia quốc tế tham gia thẩm định. 2. Mở rộng mở cửa đối nội và đối ngoại, đẩy mạnh hợp tác vùng trong nước và quốc tế. Đi sâu thực hiện chiến lược mở cửa cùng có lợi và cùng thắng, chiến lược hợp tác vùng dựa vào phía Đông, liên kết với miền Tây, phát triển xuống phía Nam, tích cực chủ động tham gia liên kết hợp tác giữa các tỉnh, khu vực trong vành đai kinh tế vịnh Bắc Bộ, tích cực chủ động hợp tác với các nước ven vịnh Bắc Bộ, đặc biệt là Việt Nam, lấy đại khai phá để thúc đẩy hợp tác lớn, phát triển mạnh. 3. Xây dựng chính sách khuyến khích, vận dụng cơ chế thị trường thúc đẩy mở cửa phát triển toàn diện. Đổi mới trợ giúp chính sách và hơn nữa là tập trung nguồn lực, phát huy ưu thế của các bên, mở rộng nhịp độ kêu gọi đầu tư, cải thiện môi trường đầu tư, thu hút và sử dụng nhân tài các bên. Kết hợp giữa chính sách trợ giúp Khu kinh tế vịnh Bắc Bộ (Quảng Tây) với chính sách phát triển miền Tây của Nhà nước, chính sách mở cửa đối ngoại vùng ven biển, phát huy hiệu ứng tổng hợp của từng chính sách. Bảo đảm cho các chủ thể được tiếp cận thị trường công bằng, phát huy ưu thế của cơ chế thị trường trong phân bổ nguồn lực. Khuyến khích phát triển kinh tế phi công hữu, khuyến khích kinh tế phi công hữu tham gia các lĩnh vực xây dựng với nhiều phương thức như tham gia cổ phần, đầu tư toàn bộ, cùng góp vốn, hợp tác hoặc tham gia hạng mục 4. Quy hoạch thống nhất thúc đẩy xây dựng các hạng mục ngành nghề lớn và cơ sở hạ tầng. Một mặt, khởi công, hoặc tiền thi công các công trình như: nhà máy lọc dầu triệu tấn Khâm Châu, hạng mục nhà máy giấy Khâm Châu - Bắc Hải, hạng mục công trình gang thép cảng Phòng Thành, hạng mục nhà máy điện hạt nhân. Mặt khác, xoay quanh các ngành luyện kim, hoá dầu, công nghiệp giấy các ngành phụ trợ. Kết hợp với ưu thế cảng biển, lợi dụng đầu tư của các nước Đông Nam Á, bắt tay quy hoạch các hạng mục chế tạo gia công lớn. Đẩy mạnh xây dựng cơ sở hạ tầng giai đoạn II với trọng điểm là các công trình luồng lạch, cáp nước, đường sá, mạng điện. 5. Xây dựng môi trường đầu tư tiền tệ, xây dựng công ty kinh doanh nhất thể hoá cảng biển. Để tập hợp vốn tốt hơn, thành lập công ty đầu tư phát triển vịnh Bắc Bộ (Quảng Tây) thành môi trường đầu tư góp vốn và là chủ thể đầu tư, phụ trách các hạng mục kinh doanh, đầu tư kinh doanh Căn cứ theo nguyên tắc thị trường hoá, lấy tài sản làm khớp nối, thúc đẩy thống nhất quy hoạch tài nguyên, thống nhất xây dựng và thống nhất quản lí, xây dựng công ty tập đoàn cảng vụ vịnh Bắc Bộ. Hiện nay, công tác quy hoạch vùng và quy hoạch dải đô thị Khu kinh tế vịnh Bắc Bộ (Quảng Tây) đã hợp tác với cơ quan có uy tín của Nhà nước và trưng bày mô hình lớn tại Hội chợ triển lãm Trung Quốc-ASEAN lần thứ III. 776
  9. 3. Các chiến lược phát triển kinh tế quốc tế 3.1. Một trục hai cánh Tại hội nghị cao cấp ASEAN - Trung Quốc, thủ tướng Ôn Gia Bảo đã kêu gọi các nhà lãnh đạo ASEAN cùng tích cực tham gia nghiên cứu tính khả thi của việc đẩy mạnh hợp tác Vịnh Bắc Bộ mở rộng, coi đây là một điểm sáng mới trong hợp tác Trung Quốc - ASEAN. Chiến lược “Một trục hai cánh” được cấu thành bởi hai mảng (cánh) lớn là hợp tác kinh tế Vịnh Bắc Bộ, hợp tác tiểu vùng sông Mê Kong và một trục là hành lang kinh tế Nam Ninh - Singapore. Về hình thức biểu đạt, hợp tác kinh tế trên biển, hợp tác kinh tế trên đất liền và hợp tác tiểu vùng sông Mê Kong đều bắt nguồn từ chữ M nên có thể gọi là chiến lược “3M” trong hợp tác giữa Trung Quốc và ASEAN. Giới lãnh đạo Trung Quốc đã thống nhất coi chiến lược “một trục hai cánh’ là chiến lược hợp tác kinh tế khu vực Trung Quốc - ASEAN với các mục tiêu cụ thể như: (1) Hình thành một vành đai tăng trưởng kinh tế mới ở bờ Tây Thái Bình Dương, trọng tâm là phát triển hợp tác Vịnh Bắc Bộ mở rộng thành sự án hợp tác vùng mới giữa Trung Quốc và ASEAN, đưa nội dung hợp tác này vào khung khổ tổng thể hợp tác Trung Quốc - ASEAN. (2) Tạo sự ổn định cả khu vực ở biên giới trên bộ và trên biển, mở ra không gian phát triển mới cho Trung Quốc, đặc biệt mở ra con đường cho khu vực miền Tây Trung Quốc đi qua Tiểu vùng Sông Mê Kong mở rộng, thông qua Ấn Độ Dương để đi vào thị trường thế giới nhằm chấn hưng vùng Tây Nam Trung Quốc. (3) Đưa hợp tác Trung Quốc - ASEAN vào phát triển thực chất, hiệu quả, từ đó thúc đẩu sự phát triển hợp tác tổng thể Đông Á, đồng thời mở ra cục diện đảm bảo an ninh năng lượng cho Trung Quốc ở biển Đông. Trung Quốc chủ trương xây dựng hợp tác kinh tế Vịnh Bắc Bộ mở rộng trở thành cực tăng trưởng mới giữa Trung Quốc và ASEAN, trong đó khu kinh tế Vịnh Bắc Bộ là hạt nhân cực tăng trưởng mới của Trung Quốc. Nội dung: Trúc hành lang kinh tế Nam Ninh (Quảng Tây) - Singapore, phát triển cơ sở hạ tầng, đường cao tốc, đường sắt cao tốc Cánh trái: Hợp tác tiểu vùng sông Meekong mở rộng (GMS), phát triển cơ sở hạ tầng, nông nghiệp, thương mại đầu tư. Các bên tham gia: Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan, Myanmar, Vân Nam, Quảng Tây Cánh phải: Hợp tác kinh tế VBBMR, các bên tham gia: Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan, Malaysia, Singapore, Indinesia, Philippins và Brunei. 3.2. Khu khai phát kinh tế Nam Ninh - ASEAN Khu khai phát kinh tế Nam Ninh - ASEAN nằm ở điểm giao nhau giữa Trung Quốc - ASEAN "10 + 1" và vòng tròn kinh tế Chu Giang mở rộng 9+2, là khởi điểm của vành đai kinh tế biên giới Sở Nam-Quý Dương-Côn Minh và khu vực hợp tác kinh tế VBBMR "một trục hai cánh". Trong đó, hành lang kinh tế Nam Ninh - Singapore có thể được coi là một trong những dự án quan trọng nhất trong hợp tác kinh tế khu vực Trung Quốc - ASEAN, sự phát triển của nó sẽ cải thiện đáng kể điều kiện giao thông vận tải trong khu vực, kích thích và tận dụng lợi thế về địa lý, tài nguyên, kinh tế, công nghệ và thị trường của các nước trong khu vực, tối ưu hoá sự phân phối các nguồn lực và tài nguyên trong khu vực, qua đó thúc đẩy sự hợp tác và phát triển giao lưu kinh tế kỹ thuật của các quốc gia và khu vực xung quanh hành lang kinh tế. Hành lang này sẽ trở thành đường giao thông quốc tế quan trọng nhất trên đường bộ Trung Quốc - ASEAN, tạo điều kiện cho đầu tư và hợp tác thương mại giữa các quốc gia và 777
  10. khu vực xung quanh Hành lang, thúc đẩy sự phân công ngành nghề và sự hội tụ các thị trường chuyên nghiệp trong khu vực. Phạm vi Hành lang kinh tế Nam Ninh - Singapore: Kết nối giao thông, kinh tế trục Nam Ninh - Hà Nội - Phnom Penh - Bangkok- Kuala Lumpur- Singapore. 3.3. Hợp tác kinh tế Vịnh Bắc Bộ mở rộng Phạm vi không gian hợp tác kinh tế VBBMR: Ban đầu, khi Trung Quốc mới đưa ra sáng kiến hợp tác này, không gian hợp tác được xác định là một số tỉnh, thành phố phía Nam của Trung Quốc và các nước ASEAN dọc theo Hành lang kinh tế Nam Ninh - Singapore, như: Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan, Malaysia Singapore và Brunei. Tuy nhiên, đến nay phạm vi khuôn khổ hợp tác này đã bao trùm hầu hết các nước ASEAN. Về phía Trung Quốc, theo Lộ trình hợp tác kinh tế VBBMR mà Trung Quốc đưa ra tháng 7/2012, không gian hợp tác còn được đề nghị mở rộng trong thời gian tới, với sự tham gia của Hồng Kông, Ma Cao và Đài Loan. Mục tiêu chung của hợp tác kinh tế VBBMR là: Thiết lập một cơ chế hợp tác tiểu vùng, tạo đòn bẩy toàn diện cho hệ thống vận tải trên biển và duyên hải, tăng cường hợp tác cảng biển và tiếp vận, đẩy mạnh liên kết công nghiệp và phân công lao động, phát triển các ngành kinh doanh duyên hải, hợp tác phát triển tài nguyên biển, xúc tiến phát triển các thành phố ven biển, thiết lập các cụm cảng hỗ trợ lẫn nhau, các cụm công nghiệp và cụm thành phố với sự bổ sung mạnh mẽ và tính đa dạng, đồng thời đẩy nhanh việc phát triển bền vững kinh tế, xã hội trong khu vực. Ngoài các mục tiêu chung nêu trên, việc Trung Quốc tích cực đề xuất và triển khai sáng kiến "Một trục hai cánh” nói chung và hợp tác kinh tế VBBMR nói riêng còn nhằm củng cố môi trường hòa bình, ổn định xung quanh, tạo vành đai an ninh ở phía Nam, tăng sự hiện diện, nâng cao vị thế nước lớn của Trung Quốc ở Đông Nam Á; ngăn chặn ảnh hưởng của các nước lớn, đặc biệt là Mỹ, Nhật ở khu vực này, nhất là trong bối cảnh Mỹ đẩy mạnh thực hiện chiến lược "trở lại châu Á” trong năm 2012 Bên cạnh đó, Trung Quốc muốn thông qua hợp tác kinh tế VBBMR để mở rộng không gian phát triển, thị trường tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ, nguồn cung cấp nguyên liệu, năng lượng, thu hút đầu tư, du lịch giành vị trí có lợi nhất trong tiến trình liên kết kinh tế khu vực và tiểu vùng. Đồng thời, cụ thể hóa và tận dụng tối đa lợi ích hợp tác toàn diện Trung Quốc - ASEAN trong khung khổ CAFTA. Sáng kiến hợp tác kinh tế VBBMR cũng phù hợp với Chiến lược quốc gia phát triển hướng Nam của Trung Quốc. Trung Quốc coi Đông Nam Á và Nam Á là khu vực trọng điểm thúc đẩy chính sách ngoại giao "láng giềng hoà mục, láng giềng cùng giàu" của nước này. 3.4. Hợp tác vùng Chu Giang mở rộng Năm 2003, Quảng Đông đưa ra chủ trương Hợp tác vùng Chu Giang mở rộng (9+2) kết nối các tỉnh vùng duyên hải phía Đông với tỉnh Hồ Nam, Giang Tây ở miền Trung với các tỉnh Tứ Xuyên, Vân Nam, Quý Châu, Quảng Tây ở miền Tây. Phạm vi: 9 tỉnh Quảng Đông, Phúc Kiến, Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây, Vân Nam, Quý Châu, Tứ Xuyên, Hồ Nam, Giang Tây, Hải Nam và 2 khu hành chính đặc biệt là Hồng Kông, Ma Cao. 778
  11. Mục tiêu: Xây dựng mạng lưới cơ sở hạ tầng thích ứng với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, thiết lập hệ thống thị trường khu vực công bằng và mở cửa, xây dựng hệ thống hợp tác ngành nghề bổ sung ưu thế cho nhau trong vùng, gây dựng thương hiệu hợp tác vùng Chu Giang mở rộng nâng cao sức cạnh tranh và ảnh hưởng quốc tế của toàn vùng, hình thành cục diện mới liên kết và tác động phát triển nhịp nhàng giữa miền Đông - Trung - Tây. Giai đoạn 2011-2020: Thông qua phân bố nguồn lực của thị trường thực hiện phát triển phối hợp giữa các ngành nghề, thiết lập hệ thống thị trường các yếu tố sản phẩm có sức cạnh tranh và mở cửa, nâng cao sức cạnh tranh và ảnh hưởng quốc tế chung, nâng cao trình độ giao lưu giữa vùng Chu Giang mở rộng và ASEAN. 3.5. Một vành đai, một con đường Ý tưởng “Một vành đai, một con đường” được bắt nguồn từ con đường tơ lụa lịch sử trên bộ và một con đường tơ lụa trên biển kết nối Trung Quốc với các nước châu Á, châu Phi và châu Âu. Trong ba thập kỷ cải cách, Trung Quốc đã xây dựng một hệ thống đường cao tốc, đường sắt từ Bắc vào Nam, từ phía Đông sang khu vực kém phát triển phía Tây và Tây Nam. Sau khi thực hiện được điều này, Trung Quốc coi đó là cơ hội để liên kết với các khu vực ở Nam Á, châu Âu, châu Phi và thậm chí cả châu Mỹ. Ý tưởng này lần đầu tiên được đưa ra trong bài phát biểu của ông Tập Cận Bình tại Đại học Nazarbayev, Kazakhstan vào ngày 7/9/2013: “Để kết nối chặt chẽ kinh tế, tăng cường hợp tác và mở rộng phát triển trong khu vực Á - Âu, chúng ta nên có một cách tiếp cận sáng tạo và cùng nhau xây dựng một vành đai kinh tế theo con đường tơ lụa. Điều này sẽ mang lại lợi ích cho tất cả người dân dọc theo tuyến đường”. Ông Tập đã đề nghị kết nối giao thông cần phải được cải thiện để mở đường cho việc kết nối các khu vực chiến lược từ Thái Bình Dương sang Biển Baltic và dần dần hướng tới việc thiết lập hệ thống giao thông kết nối Đông, Tây và Nam Á. Chủ tịch Trung Quốc cũng kêu gọi các thành viên trong khu vực thúc đẩy việc thiết lập hệ thống tài chính nội khối để tăng cường khả năng chống đỡ những rủi ro tài chính và cải thiện năng lực cạnh tranh toàn cầu. Mục tiêu: 4 mục tiêu chính thức được Tập Cận Bình nói ra và được Quốc hội Trung Quốc xác nhận là (1) tự do chuyển dịch hàng hóa và cải thiện việc sử dụng tài nguyên; (2) phối hợp và hội nhập chính sách kinh tế với các nước; (3) tăng cường mạng lưới kết nối châu Âu - châu Á - châu Phi và các biển phụ cận; (4) khai thác tiềm năng của thị trường, khuyến khích đầu tư và tạo việc làm. Mục tiêu đối nội: Quy hoạch kinh tế theo vùng với các tỉnh khi các chính sách cũ thất bại, giải quyết vấn đề dư thừa sản lượng, dư thừa vốn, sức cạnh tranh suy giảm nên doanh nghiệp phải hướng ra bên ngoài; ổn định và phát triển các vùng còn kém phát triển (miền Tây, Nam); ổn định tình hình chính trị trong nước. Mục tiêu đối ngoại: thực hiện quốc tế hóa NDT nhằm mở rộng ảnh hưởng của đồng tiền Trung Quốc trong luồng giao dịch và đầu tư với các nước châu Á, thiết lập trật tự kinh tế mới độc lập và cạnh tranh với hiện thời, đòn bẩy CSHT; Về quan hệ quốc tế, gia tăng quyền lực mềm của Trung Quốc, cải thiện hình ảnh quốc gia; kiểm soát chiến lược các tuyến giao thương; đẩy lùi ảnh hưởng của Mỹ, Nhật Bản, Australia và Ấn Độ thiết lập một trật tự mới xoay quanh Trung Quốc. Thực hiện: Có nhiều nước đã ký văn bản hợp tác “một vành đai, một con đường” với Trung Quốc. 779
  12. TT Tên nước Cơ quan ký kết phía TQ Loại văn bản 1 Tajikistan Ủy ban Cải phát MOU 2 Kazakhstan Ủy ban Cải phát MOU 3 Qatar Ủy ban Cải phát MOU 4 Kuwait Ủy ban Cải phát MOU 5 Hàn Quốc Ủy ban Cải phát MOU 6 Hungary Bộ Ngoại giao MOU 7 Malaysia Bộ Thương mại MOU 8 Maldives Bộ Thương mại MOU 9 Sri Lanka Bộ Thương mại MOU 10 Sri Lanka Bộ Thương mại MOU 11 Nepal Bộ Thương mại MOU 12 Moldova Bộ Thương mại MOU 13 Kyrgyzstan Bộ Thương mại MOU 14 Georgia Bộ Thương mại MOU 15 Armenia, Bộ Thương mại MOU 16 Uzbekistan Bộ Thương mại MOU 17 Ukraine Bộ Thương mại MOU 18 Belarus Bộ Thương mại MOU 19 Nga Chính phủ Tuyên bố chung 20 Mông Cổ Chính phủ Tuyên bố chung Phục vụ chiến lược một vành đai, một con đường, Tập Cận Bình công bố thành lập Quỹ con đường tơ lụa trị giá 40 tỷ USD để hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng ở các nước có liên quan. Ngoài ra, Trung Quốc còn khởi xuất thành lập Ngân hàng Phát triển Cơ sở hạ tầng châu Á (AIIB) thu hút 57 nước tham gia ký kết thỏa thuận. AIIB hoạt động với số vốn ban đầu là 50 tỷ USD và sẽ dần được tăng lên thành 100 tỷ USD. 4. Tác động đối với tỉnh Cao Bằng Xuất phát từ nhu cầu về vốn CSHT đặc biệt trong việc phát triển cảng biển và kinh tế biển, MSN khởi xướng bởi Trung Quốc có thể đóng vai trò tích cực trong việc giải quyết “cơn khát CSHT” của khu vực khi ADB và Ngân hàng Thế giới (WB) đều chỉ đáp ứng được một phần nhỏ nhu cầu khổng lồ này. Tuy nhiên, khi tham gia vào các dự án CSHT khu vực do Trung Quốc dẫn dắt hoặc cấp vốn, Việt Nam cần tính tới các hệ quả đa chiều. Nếu xem xét hệ thống hạ tầng giao thông tại khu vực Đông Nam Á lục địa bằng việc phân tích vai trò, tác động của các vùng tập trung quốc tế tại khu vực này, thì kết quả sẽ cho thấy lợi thế hay rủi ro của các quốc gia được quyết định bởi vị trí địa chiến lược của mỗi nước trong hệ thống giao thông khu vực. Cụ thể, đối với các nước không nằm ở vị trí trung tâm, giao 780
  13. thoa các tuyến đường quốc tế, không thể kết nối với các quốc gia và vùng lãnh thổ khác thông qua hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông chung của khu vực sẽ gặp ít nhất ba rủi ro: (i) suy giảm sức hấp dẫn vì lệch trục đường chính vốn là chỉ dấu của đầu tư; (ii) mọi khoảng chi phí đầu tư vào cơ sở hạ tầng giao thông trở nên lãng phí vì không được sử dụng; (iii) mất lợi thế cạnh tranh (xuất nhập khẩu, di chuyển nguồn lực, ) trong một thời gian cố định hàng chục năm. Tuy nhiên, với các quốc gia có lợi thế về vốn đầu tư, khả năng tự chủ tài chính, khả năng cho vay hay viện trợ chính thức, khả năng bảo trì hoạt động hạ tầng (như Trung Quốc) lại có thể điều chỉnh hệ thống giao thông xuyên quốc gia, chuyển dịch theo hướng có lợi về mặt địa chiến lược cho quốc gia của mình mà cụ thể là biến Vân Nam thành một vùng tập trung quốc tế. Nhìn vào bảng số liệu hạ tầng giao thông hiện có của năm quốc gia Đông Nam Á lục địa, có thể nhận thấy Lào, Myanmar sẽ dần cải thiện được chất lượng cơ sở hạ tầng; Thái Lan sẽ có cơ sở hạ tầng tối ưu hơn nếu các kế hoạch đầu tư của Trung Quốc được triển khai trong tương lai. Điều này tạo ra một lợi thế địa-kinh tế mới cho các nước này. Đồng thời, các vùng tập trung quốc tế về cơ sở hạ tầng chạy qua Lào, Thái Lan còn được coi là một phương án khả thi đối với Trung Quốc nếu kết nối từ Trung Quốc qua Việt Nam để đến ASEAN bị trì hoãn. Nghĩa là, Trung Quốc có nhiều con đường thương mại quốc tế khác nhau để phát triển Vân Nam. Bảng 1: Hệ thống CSHT tại 5 quốc gia khối ASEAN thuộc GMS (2007)7 Cảng Đường sắt Đường Campuchia Kém Kém Kém Lào - - Tạm được Thái Lan Tốt Tốt Tốt Việt Nam Tạm được Tạm được Tạm được Myanmar Kém Kém Tạm được Nguồn: World Bank Fact Book, Comparison of Logistics Infrastructure of Countries in ASEAN Hơn thế nữa, nếu nhìn vào bảng đồ đầu tư hạ tầng giao thông đến năm 2020 tại khu vực Tiểu vùng sông Mekong mở rộng (GMS)8, ngoài Thái Lan, Lào, thì nhân tố Campuchia và Myanmar cũng sẽ trở thành một vùng tập trung quốc tế tiềm năng trong các chương trình đầu tư của Trung Quốc (thông qua tỉnh Vân Nam, Quảng Tây) lẫn của nội khối GMS với việc phát triển tương đối đồng đều các hành lang giao thông. Như vậy, khi hạ tầng giao thông được định hình có thể thúc đẩy sự phát triển của Myanmar, Lào, Thái Lan, Campuchia nhưng làm giảm lợi thế của Việt Nam nếu không kết nối được với hệ thống hạ tầng giao thông của khu vực (kết nối hướng Đông - Tây). Khi địa-kinh tế dịch chuyển theo hướng các quốc gia nằm sâu trong lục địa có thể tiếp cận dễ dàng hơn với các cảng biển nhờ hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông (đường bộ, đường sắt) thì có khả năng các mạng sản xuất khu vực sẽ tăng tốc dịch chuyển từ Trung Quốc; và một số nước ASEAN mất ưu thế sang khu vực mới nổi này. Như vậy, hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông mang lại lợi ích đối với các quốc gia sở hữu hệ thống này (như Trung Quốc), nhưng đồng thời làm suy giảm lợi ích của các quốc gia nằm ở ngoại vi mạng lưới đó. 7 World Bank Fact Book, Comparison of Logistics Infrastructure of Countries in ASEAN, in-asia.com/infrastructure_asean.html, truy cập ngày 28-5-2015. 8 Nguồn: ADB. Tác giả đánh dấu các điểm Vùng tập trung và chú thích. 781
  14. Trong số 6 nước tại GMS, hệ thống hạ tầng giao thông của Việt Nam ở mức tương đối phát triển và nhận được nhiều sự chú ý đầu tư. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại một số bất cập. Hệ thống hạ tầng giao thông đường bộ của Việt Nam hiện phát triển theo hình chữ Y chạy theo trục Bắc - Nam, nhưng vẫn chưa có nhiều dự án phát triển giao thông kết nối theo trục Đông - Tây. Nếu so sánh hệ thống giao thông đường bộ quốc tế thì Việt Nam còn yếu hơn so với Thái Lan, (và tương lai) là Lào, Campuchia, thậm chí là Myanmar (Xem hình 4). Trong khi đó, hệ thống cảng biển với hơn 20 cảng lớn nhỏ, theo các phân lớp cảng khu vực, cảng quốc gia nhưng chỉ có cảng Sài Gòn nằm trong hải trình quốc tế. Việc quy hoạch cảng biển hiện nay chủ yếu bắt nguồn từ cạnh tranh giữa các địa phương, do đó thiếu sự điều phối và quy hoạch vùng hợp lý, cảng biển Việt Nam vừa thừa (các cảng nội vùng ASEAN), vừa thiếu (các cảng sâu quốc tế, cảng trung chuyển). Mặt khác, chi phí cảng biển của Việt Nam vừa đắt, dịch vụ kém và thời gian thông quan thường lâu nên dù có nhiều cảng nhưng hiện thời Campuchia và Lào vẫn không mấy mặn mà trong việc xuất khẩu hàng hóa qua cảng của Việt Nam. Từ đây có thể đưa ra ba nhận xét chính về vấn đề đầu tư hạ tầng của Trung Quốc tại GMS: Thứ nhất, cho dù việc phát triển thương mại Trung Quốc - Đông Nam Á tăng, nhưng Trung Quốc chỉ hợp tác với GMS thông qua sự ảnh hưởng và hiện diện tỉnh Vân Nam và các thành phố phụ trợ. Thứ hai, để tạo thuận lợi và mở rộng quy mô thương mại dọc kết hợp xuyên biên giới trong dài hạn của Trung Quốc với Myanmar, Lào, và Việt Nam, Trung Quốc đã mở rộng việc phát triển cơ sở hạ tầng giao thông vận tải đến các nước GMS theo nhiều hướng, trong đó Vân Nam là một trong những vùng tập trung. Thứ ba, xét tổng thể GMS, hạ tầng giao thông chỉ giao thoa tại ba địa điểm chính, bao gồm Vân Nam (Trung Quốc), Viên Chăn (Lào) và Bangkok (Thái Lan). Điều này mở ra nhiều quan ngại rằng một số quốc gia khác trong GMS (trong đó có Việt Nam) nằm trong “trục đường phụ” khi tiến hành hoạt động thương mại với Trung Quốc (mà Vân Nam đóng vai trò là một vùng tập trung quan trọng), và các quốc gia khác. Việc hình thành mạng lưới cơ sở hạ tầng Đông Nam Á kết nối với Nam Á và hai tỉnh Vân Nam, Quảng Tây của Trung Quốc chẳng hạn có thể thúc đẩy sự phát triển của Myanmar, Lào, Thái Lan, Campuchia nhưng làm suy giảm lợi thế của Việt Nam do hệ thống CSHT tại khu vực này có thể làm gia tăng quy mô thương mại, đầu tư, do đó đem lại ích lợi cho các quốc gia này. Hiện tượng này có thể được gọi dưới cái tên đòn bẩy cơ sở hạ tầng (ĐBCSHT). Ở một mức độ nhất định, khi CSHT cứng định hình (như đường xá, đường xe lửa hay bến cảng) và Việt Nam không kết nối được với hệ thống CSHT của khu vực (tức là các kết nối theo hướng Đông - Tây) thì lợi thế của toàn bộ mạng lưới CSHT cứng trong nước của Việt Nam sẽ suy giảm. Các trục CSHT đang được đầu tư với số vốn lớn như cao tốc Bắc - Nam, hệ thống cảng biển nằm dọc hầu như tất cả các tỉnh sẽ chủ yếu phục vụ nhu cầu nội địa. Các cảng biển Việt Nam có ưu thế lớn trong đó có cảng Sài Gòn nằm trong hải trình quốc tế, nhưng hiệu quả quản lí kém, chi phí đắt đỏ, hệ thống chuyên chở, lưu giữ và hậu cần thiếu hụt khiến các cảng này không thu hút được hàng hóa từ vùng “hậu cần” là Đông Nam Á lục địa rộng lớn. Hàng hóa từ Lào, Campuchia đang xuất khẩu thông qua các cảng của Thái Lan. Trong tương lai, khi các cảng khác của Thái Lan được quy hoạch và hoàn thành, khi hệ thống CSHT cứng nối liền từ Côn Minh chạy xuyên qua Lào đến Bangkok, khi thị trường Đông Nam Á nối liền với Nam Á qua trạm kết nối Myanmar thì các cảng của Thái Lan sẽ có ưu thế rất lớn. Điều này đặt Việt Nam vào một tình thế quyết đoán trong việc lựa chọn các điểm tiếp nối CSHT khu vực sao cho không bị đầu tư dàn trải, lãng phí. Để làm được điều này, lợi ích của địa phương là một lực cản cần tính tới khi quy hoạch. Những quan ngại về “đòn bẩy cơ sở hạ tầng” từ các dự án Trung Quốc đặt các nước đón nhận đầu tư, đặc biệt là Việt Nam cần tư duy lại cách tiếp cận với nó một cách vừa toàn 782
  15. diện và vừa phân khúc. Nhu cầu dự án CSHT của châu Á và của Việt Nam là có thật, và các định chế tài chính hiện nay vẫn chưa thể đáp ứng hoàn toàn được nhu cầu này9. Vì thế tận dụng được các dự án trong các đề xuất CSHT của Trung Quốc thông qua “Một vành đai, một con đường” là một bổ sung quan trọng và cần thiết. Điều này không những có ý nghĩa về phát triển kinh tế với một số địa phương của Việt Nam, mà còn với liên kết vùng, tiểu vùng, và rộng lớn hơn là cả mạng lưới sản xuất-thương mại-đầu tư của khu vực. Tuy vậy, một góc nhìn chỉ quá tập trung vào “phân khúc” theo nghĩa không có một kế hoạch phát triển tổng thể phát triển CSHT của Việt Nam sẽ là rất nguy hiểm vì nó có thể phá vỡ tổng thế quy hoạch phát triển cơ sở hạ tầng hiện có của Việt Nam. Tầm quan trọng của CSHT không phải là để có một con đường chạy qua hay có nhiều hơn các nhà máy điện, tầm quan trọng của các dự án CSHT là phải tạo ra tác động lan tỏa về kinh tế và phúc lợi cho các khu vực nằm dọc theo các dự án CSHT ấy. Một hệ thống CSHT hiệu quả cuối cùng không chỉ là kết nối hữu cơ các vùng địa lý mà phải thực sự là mạng lưới sản xuất, khoa học-kỹ thuật và kiến thức. Từ đặc thù phát triển (cả các yếu tố nội sinh, lẫn ngoại sinh trong mối quan hệ Việt- Trung), những yếu tố vừa kể ở phần trên sẽ làm tăng khả năng Việt Nam có thể là chịu tác động tiêu cực trong đòn bẩy CSHT đang dần định hình. Không có một “đại chiến lược” với những tính toán từ tất cả các chiều hướng, lợi ích ngắn hạn có thể nhiều, nhưng dài hạn thì ít. Lợi ích của địa phương tăng lên, nhưng sẽ tỷ lệ thuận với chi phí ngân sách từ Trung ương dùng để sửa sai các “kết nối lệch” hay giải quyết các “vấn đề phát triển cục bộ”. Quan trọng hơn, ngoài yếu tố lợi ích được-mất trong ngắn hạn, nó còn “cố định hóa” mối quan hệ Việt - Trung từ góc nhìn của việc thiết kế các kết nối về hạ tầng10. Và chưa chắc cố định này mang lại lợi ích nhiều nhất cho Việt Nam. Một đại công trình - khác với những hợp đồng thương mại hay đầu tư - thường có tuổi thọ hàng nửa thế kỷ. Nó không những điều chỉnh hành vi, ứng xử, và cả cách thức tổ chức của một cộng đồng trong một khoảng thời gian nhất định, mà còn tạo ra những yếu tố “ngoại sinh”. Các yếu tố này sẽ thúc đẩy các cá nhân, hay các nhóm tác nhân khác nhau hoạt động nương theo cách thức tổ chức đó. Nhưng ngược lại nó sẽ tạo ra những lực “từ trường nghịch” trong việc sửa sai hay những cố gắng trong việc tìm kiếm một giải pháp thay đổi. Sự hình thành của các đòn bẩy CSHT và những tác động tích cực, cũng như tiêu cực của nó. Câu hỏi đặt ra là tích cực cho ai, và các hệ quả tiêu cực sẽ đẩy về hướng nào, ai sẽ phải là người gánh chịu? Đối với Việt Nam hiện nay, nếu chưa tận dụng được lợi thế từ đòn bẩy này, thì ít nhất đừng để trở thành mục tiêu của nó. Việc phát triển hướng ra bên ngoài nhằm giải quyết vấn đề dư thừa vốn, dư thừa sản lượng của doanh nghiệp Trung Quốc có thể sẽ tác động lớn đến Cao Bằng thông qua hệ thống CSHT. Là tỉnh giàu tài nguyên, Trung Quốc là điểm xuất khẩu khoáng sản chủ yếu của Cao Bằng, tuy nhiên do kết nối CSHT của Việt Nam với Trung Quốc chủ yếu qua các đường Lào Cai - Vân Nam, Quảng Ninh - Quảng Tây và Lạng Sơn - Quảng Tây nên nếu không kết nối được Cao Bằng với Lào Cai hoặc Lạng Sơn thì ưu thế địa lý của Cao Bằng có thể bị suy giảm. Ngoài ra, triển vọng kinh tế Trung Quốc trong trung hạn là điều chỉnh mạnh và có thể suy giảm, điều này sẽ làm giảm nhu cầu nhập khẩu các loại hàng hóa của Trung Quốc - đòi hỏi tỉnh Cao Bằng phải có giải pháp ứng phó, đa dạng hóa thị trường xuất khẩu bao gồm cả tận dụng tốt hơn nữa việc lưu thông hàng hóa và thị trường hàng hóa trong nước. 9 Cuộc đua của các ngân hàng phát triển tại châu Á, Thời báo Kinh tế Sài Gòn 09/05/2015, truy cập 09/11/2015. 10 Từ dùng của GS Trần Văn Thọ 783