Quá trình biến đổi cấu tạo địa danh hành chính Thăng Long - Hà Nội triều Nguyễn (1802-1945) - Nguyễn Thị Việt Thanh

pdf 11 trang cucquyet12 3130
Bạn đang xem tài liệu "Quá trình biến đổi cấu tạo địa danh hành chính Thăng Long - Hà Nội triều Nguyễn (1802-1945) - Nguyễn Thị Việt Thanh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfqua_trinh_bien_doi_cau_tao_dia_danh_hanh_chinh_thang_long_ha.pdf

Nội dung text: Quá trình biến đổi cấu tạo địa danh hành chính Thăng Long - Hà Nội triều Nguyễn (1802-1945) - Nguyễn Thị Việt Thanh

  1. Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 31, Số 1 (2015) 29-39 Quá trình biến đổi cấu tạo địa danh hành chính Thăng Long - Hà Nội triều Nguyễn (1802-1945) Nguyễn Thị Việt Thanh* Viện Việt Nam học & Khoa Học Phát Triển, Đại học Quốc gia Hà Nội, 336 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội, Việt Nam Nhận ngày 08 tháng 10 năm 2014 Chỉnh sửa ngày 13 tháng 10 năm 2014; Chấp nhận đăng ngày 20 tháng 10 năm 2014 Tóm tắt: Trên cơ sở hoàn cảnh và điều kiện lịch sử triều Nguyễn với nhiều biến động lớn, đặc biệt là cuộc cải cách hành chính lớn của vua Minh Mệnh và việc thực dân Pháp chiếm đóng, biến Hà Nội thành thành phố thuộc địa, bài biết giới thiệu đặc điểm của hệ thống địa danh hành chínhThăng Long - Hà Nội trong ba giai đoạn: giai đoạn 1802-1831, 1831-1887 và giai đoạn sau 1888. Cùng với việc mô tả những đặc điểm chung nhất của hệ thống địa danh, từ đặc điểm của đơn vị chỉ loại, số lượng âm tiết, nguồn gốc đến đặc trưng cấu tạo mang tính điển hình so với các khu vực khác, bài biết tập trung làm rõ những khác biệt quan trọng giữa các giai đoạn, trong đó nổi bật là các phương thức xây dựng và cấu tạo địa danh mới dưới ảnh hưởng của chủ trương “Hán hóa”, sử dụng mĩ tự của triều đình và chủ trương sáp nhập các đơn vị hành chính cơ sở. Thông qua các tư liệu và phân tích, bài viết muốn cung cấp những nét nổi bật nhất của bức tranh địa danh hành chính trong hơn một thế kỷ triều Nguyễn, qua đó phần nào phản ánh những dấu ấn lịch sử, văn hóa, xã hội của Thăng Long - Hà Nội trong giai đoạn lịch sử này. Từ khóa: Địa danh hành chính, đơn vị hành chính, Thăng Long-Hà Nội, phức thể địa danh, phương thức cấu tạo, giai đoạn lịch sử. 1. Hoàn cảnh lịch sử* chia 143 năm thuộc triều Nguyễn thành 3 giai đoạn: Triều đại Tây Sơn sụp đổ sau một thời gian Giai đoạn 1 (từ năm 1802-1831): Bắt đầu ngắn ngủi, vua Gia Long lên ngôi Hoàng đế bằng sự lên ngôi của vua Gia Long, kéo dài đến năm 1802, thành lập chế độ quân chủ triều trước cuộc cải cách hành chính của vua Minh Nguyễn và kết thúc khi vua Bảo Đại thoái vị Mệnh. Với lý do Kinh thành chuyển vào Huế, năm 1945. Sau khi thành lập, nhà Nguyễn tiếp triều đình quyết định giữ nguyên tên Thăng tục chọn Huế làm Kinh đô cho triều đại mới. Long, nhưng đổi chữ Hán từ Thăng Long Thành Thăng Long mất đi vai trò thủ đô của đất (昇龍) có nghĩa là Rồng bay thành Thăng Long nước.Trên cơ sở đặc thù phương thức tổ chức 升隆 (có nghĩa là Thịnh vượng), đổi tên phủ hành chính của Thăng Long - Hà Nội, có thể Phụng Thiên thành phủ Hoài Đức, gồm 2 huyện ___ Vĩnh Thuận và Thọ Xương. Theo Các trấn tổng * ĐT: 84-904152536. xã danh bị lãm (1810-1813) [1] huyện Thọ Email: thanhntv@vnu.edu.vn 29
  2. 30 N.T.V. Thanh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 31, Số 1 (2015) 29-39 Xương (trước là Vĩnh Xương) có 8 tổng, gồm thể địa danh, yếu tố chỉ loại đứng trước, yếu tố 193 phường, thôn, trại. Huyện Vĩnh Thuận định danh đứng sau. Tuy vậy, nếu dựa vào các (trước là Quảng Đức) có 5 tổng, gồm 56 xã, văn bản gốc thì thấy các tài liệu liên quan đến thôn, phường, trại. địa danh hành chính từ đầu thế kỷ 19 đến giữa Giai đoạn 2 (từ năm 1831-1887): Được thế kỷ 20 được viết bằng hai loại hình văn tự, đánh dấu bằng cuộc cải cách hành chính quy hoặc là bằng chữ Hán (hoặc Nôm), hoặc bằng mô lớn trên phạm vi toàn quốc của vua Minh chữ Quốc ngữ. Việc khảo sát kết cấu của các Mạng. Tên gọi Hà Nội lần đầu tiên xuất hiện phức thể địa danh không thể không chú ý đến với vai trò tên một tỉnh hành chính. Địa giới Hà đặc điểm này. Đối với các tài liệu được xuất Nội được mở rộng, bao gồm 4 phủ Hoài Đức, bản và lưu hành bằng chữ Hán như Các trấn Thường Tín, Ứng Hòa, Lý Nhân và 15 huyện. tổng xã danh bị lãm (1810-1813), Bắc Thành Phủ Hoài Đức gồm 3 huyện: Vĩnh Thuận, Thọ dư địa chí lục (khoảng 1818-1821), Hà Nội địa Xương và Từ Liêm. Theo Hà Nội địa bạ bạ (1866) [1] tất cả các địa danh đều được ghi (1866), huyện Thọ Xương có 8 tổng, nhưng số chép theo trật tự Hán, tức là phần định danh lượng đơn vị hành chính giảm xuống còn 116 đứng trước, phần chỉ loại đứng sau: 永順縣 đơn vị. Huyện Vĩnh Thuận có 5 tổng, số lượng (Vĩnh Thuận huyện), 安城總 (Yên Thành đơn vị hành chính cũng giảm xuống còn 40. tổng), 安宅村 (An Trạch thôn), 盛珖寨 (Thịnh Giai đoạn 3 (từ năm 1887-1945): Sau khi Quang phường). Khi chuyển dịch viết bằng chữ Tự Đức ký hòa ước công nhận sự bảo hộ của Quốc ngữ, các tác giả hiện đại đều chuyển theo Pháp trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, Hà Nội trật tự tiếng Việt với kết cấu yếu tố chỉ loại bước vào thời kỳ thuộc địa. Khu vực Thăng đứng trước, yếu tố định danh đứng sau (huyện Long - Hà Nội xưa có những thay đổi cơ bản: Vĩnh Thuận, thôn An Trạch ). Phần lớn huyện Thọ Xương và một phần huyện Trong phức thể địa danh hành chính, phần Vĩnh Thuận được lấy làm phố, nằm dưới sự chỉ loại biểu thị các cấp trong bộ máy tổ chức quản lý của chính quyền thực dân. Theo Danh hành chính như tỉnh, huyện, xã/phường Số mục làng xã Hà Nội cuối thế kỷ 19 (1890) lượng các từ giữ vị trí này rất hạn chế và có thể huyện Thọ Xương còn lại 3 tổng gồm 12 đơn vị thay đổi trong những giai đoạn lịch sử khác cơ sở, huyện Vĩnh Thuận còn lại 4 tổng gồm 29 đơn vị, cùng một số khu vực quanh Hà Nội, lập nhau. Qua các từ chỉ loại này, phần nào có thể thành huyện Hoàn Long. Ngày 1/1/1915, theo hiểu được đặc trưng tổ chức hành chính của quyết định của Toàn quyền Đông Dương, từng triều đại trong một giai đoạn hoặc một khu huyện Hoàn Long (sau đổi tên thành Đại lý vực nhất định. Đối với Thăng Long, “thời Lý - Hoàn Long) được sáp nhập vào tỉnh Hà Đông Trần - Hồ được biết đến với cấp kinh thành và và năm 1942 được sáp nhập trở lại vào thành phường, từ thời Lê sơ trở đi bắt đầu hình thành phố Hà Nội, đổi tên thành "Đại lý đặc biệt”2. hệ thống ba cấp, gồm phủ, huyện, phường, về Phức thể địa danh và bộ phận chỉ loại trong địa sau (khoảng cuối thế kỷ 18) thêm cấp tổng danh Thăng Long-Hà Nội. trung gian giữa huyện và phường” [3], trong đó Trên cơ sở các tư liệu là các bản dịch chữ phường là loại đơn vị hành chính cơ sở đặc thù, Quốc ngữ được xuất bản và lưu hành hiện nay chỉ có ở Thăng Long, “chính thức được xác về hệ thống địa danh hành chính Thăng Long- nhận và hoạch định lại vào đời Trần” [4] tồn tại Hà Nội, có thể thấy đại đa số trong kết cấu phức tới đời Lê (cuối thế kỷ 18). Trong giai đoạn đầu
  3. N.T.V. Thanh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 31, Số 1 (2015) 29-39 31 nhà Nguyễn, tổ chức hành chính của Thăng làm nghề trồng lúa, trồng dâu nuôi tằm, trồng Long về cơ bản giống như các giai đoạn trước, hoa như các phường Tây Hồ, Quảng Bá, Nghi tuy nhiên phường không còn là đơn vị hành Tàm, Hòe Nhai, Võng Thị Còn tổng Yên chính cơ sở duy nhất nữa. Các đơn vị với tên Thành nằm ở vị trí bao sát ngay cạnh thành Hà gọi có chữ thôn, trại, xã bắt đầu xuất hiện, Nội (Kinh thành cũ) phía Tây và Bắc thì 24 trên được tách ra từ các phường cổ nhưng có vị thế tổng số 26 đơn vị hành chính được gọi là thôn, hành chính hoàn toàn ngang bằng với phường. 2 đơn vị còn lại được gọi là tràng (do địa phương làm nghề đúc đồng). Hai tổng Trung và Huyện Thọ Xương chỉ có 20 phường nhưng tổng Hạ là “vùng đất thuần túy nông nghiệp, có tới 172 thôn, 1 trại, trong khi đây có thể coi toàn ruộng nước, ao hồ, cư dân từ nhiều vùng là khu vực trung tâm nhất của Thăng Long. khác nhau đến khai hoang, lập trại, sống bằng Thôn - đơn vị mang tính đặc trưng của khu vực nghề nông” [5] có 13 đơn vị hành chính được gọi nông thôn lại chiếm đa số tại khu vực chủ yếu bằng một loại đơn vị đậm chất ”nông thôn” là trại. phổ biến các phường nghề thủ công, sản xuất, Sau năm 1831, đại đa số đơn vị hành chính buôn bán. Khu vực nằm giữa thành Thăng Long cấp cơ sở của 2 huyện Thọ Xương, Vĩnh Thuận và sông Nhị Hà, nơi hàng trăm năm sầm uất với vẫn là thôn (115 đơn vị, chiếm 74,5%). Sau các phường nghề nổi tiếng, hoạt động trong cơ thôn là phường (26 đơn vị, chiếm 16,7%), tiếp cấu tổ chức xã hội về cơ bản theo kiểu đô thị đó là trại (14 đơn vị, chiếm 8,1%). Hai đơn vị phong kiến, nhưng đơn vị hành chính với tên vốn được gọi là tràng đã được sáp nhập và gọi thôn lại chiếm đa số. Tổng Tả Túc có 23/29 mang tên gọi mới là thôn (thôn Lạc Chính). Bên đơn vị là thôn, 6 đơn vị được gọi là phường lại cạnh đó xuất hiện một loại đơn vị hành chính là các phường Thủy Cơ chỉ làm nghề chài lưới cơ sở nữa được gọi là xã, nhưng chỉ có 1 đơn vị ven sông Hồng. Tổng Hậu Túc (trung tâm khu duy nhất là xã Cơ Xá thuộc tổng Phúc Lâm vực phố cổ hiện nay) có 25/29 đơn vị là thôn và (trước là tổng Tả Túc), mặc dù tại thời điểm chỉ có 4 phường là phường Thái Cực, Đông Hà, này, đơn vị xã là loại đơn vị cơ sở phổ biến ở cả Đồng Lạc, Phúc Phố. Một số phường cổ có từ nước. Cuối thế kỷ 19, phức thể địa danh của Hà rất lâu đời ở đất Thăng Long như phường Cổ Nội xuất hiện thêm đơn vị chỉ loại mới là Châu Vũ, phường Báo Thiên được tách thành nhiều (châu Vạn Ngọc, châu Ngọc Xuyên) biểu thị các thôn. Đây là một trong những minh chứng cho khu vực dân cư nằm ở bãi bồi ven sông. chủ trương ”nông thôn hóa” của triều đình nhà Nguyễn đối với vùng đất phồn hoa này khi Thăng Long không còn là Kinh Thành nữa [4]. 2. Đặc trưng của bộ phận định danh giai Trong khi đó huyện Vĩnh Thuận mặc dù đoạn 1802-1831 diện tích có phần lớn hơn song dân cư thưa thớt, số lượng đơn vị hành chính ít hơn nhiều so 2.1. Về số lượng âm tiết với huyện Thọ Xương. Huyện gồm 16 phường, Bộ phận định danh của một địa danh 25 thôn, 13 trại và hai đơn vị được gọi là tràng thường được cấu tạo bằng một danh từ hoặc (Ngũ Xá tràng và Tứ Chiếng tràng). Tuy vậy một danh ngữ, có độ dài từ 1 đến 8 âm tiết. toàn bộ đơn vị cơ sở của hai tổng Thượng và Trong số 264 đơn vị địa danh của Thăng Long tổng Trung đều được gọi là phường, mặc dù giai đoạn đầu (tên gọi 2 huyện, 13 tổng, 249 khu vực này nằm bao quanh Hồ Tây, chủ yếu phường/thôn), số lượng các địa danh có 2 âm
  4. 32 N.T.V. Thanh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 31, Số 1 (2015) 29-39 tiết vẫn lớn hơn cả, chiếm 67,87%, trong đó đại chính ở Thăng Long bên cạnh tên chính thức đa số là từ Hán Việt (thôn Chân Tiên, phường còn có tên Nôm, đặc biệt là các phường thuộc Phục Cổ, ). Tuy vậy, các địa danh có số lượng tổng Yên Thành (huyện Vĩnh Thuận) và các lớn hơn 2 âm tiết cũng giữ một tỉ lệ đáng kể. thôn thuộc tổng Hậu Túc (huyện Thọ Xương, Nhiều nhất là nhóm có 3 âm tiết (13,25%, như: khu vực phố cổ ngày nay), như phường Thạch thôn Khánh Thụy Tả, thôn Báo Thiên Tự), tiếp Khối tên Nôm là Hàng Than, phường Nghi Tàm theo là nhóm có 5 âm tiết (10,04 %, như thôn tên Nôm là làng Dâu, phường Đồng Lạc tên Trừng Thanh Hạ Hàng Kiếm, thôn Trung Hạ Nôm là Hàng Vải , song hiện tượng tên Nôm Phường Cổ Vũ), nhóm có 4 âm tiết (7,63%, như được sử dụng với tư cách là địa danh hành thôn Thủy Cơ Đông Trạch, Thủy Cơ Biện chính chính thức không đáng kể. Dương). Đặc biệt một số trường hợp địa danh - Nhóm địa danh Hán Việt: Các địa danh có 6 âm tiết, như thôn Trừng Thanh Trung Cựu cấu tạo từ gốc Hán giữ ưu thế (217 địa danh, Vệ Tả, thôn Tây Luông đồn Bến Đá Thị , hoặc chiếm tới 82,19%). Giống như nhiều địa có tới 8 âm tiết (thôn Ngoại ô giáp Hương Bài phương khác, do chịu ảnh hưởng của văn hóa phường Đông Hà). Đây là một hiện tượng khá Hán, các địa danh Hán Việt có kết cấu 2 âm đặc biệt khi so với địa danh của các khu vực tiết, như thôn Mỹ Lộc, phường Thái Cực, tổng khác cùng giai đoạn cũng như so với các giai Yên Thành chiếm tỉ lệ khá lớn. Nhiều địa danh đoạn sau của Thăng Long-Hà Nội. chủ yếu là các mĩ tự mang ý nghĩa về những 2.2. Về nguồn gốc, các địa danh được chia điều tốt đẹp trong cuộc sống, chứa đựng các thành 3 nhóm với tỷ lệ phân bố rất khác nhau yếu tố như 安 (đọc là “an” hoặc “yên”), 順 (thuận), 新 (tân), 大 (đại), 義 (nghĩa), 福 - Nhóm địa danh Việt: (phúc), 美(mĩ), 泰 (thái) Tuy vậy không ít địa Các địa danh Việt chỉ có 19 địa danh danh mô tả đặc điểm về mặt địa lý, nghề nghiệp (chiếm 7,19%). Trong nhóm này, đa số là các hoặc những đặc điểm có tính điển hình của khu địa danh bắt đầu bằng chữ ”Hàng ”: Thôn vực được đặt tên. Phường Xã Đàn là khu vực Hàng Đàn, thôn Hàng Rau, thôn Hàng Bột, có đàn Xã Tắc của triều nhà Lý cầu mùa màng; thôn Hàng Chài, Hàng Cháo Các địa danh thôn Giáo Phường là nơi tập trung sinh sống này gắn với những nghề nghiệp mang tính đặc của nhiều gia đình làm nghề hát xướng; tràng thù của từng phường nghề, tập trung ở khu vực Ngũ Xá là tên một khu vực dân cư làm nghề huyện Thọ Xương. Thôn Hàng Bài có nhiều đúc đồng tập trung từ 5 xã tỉnh Bắc Ninh cũ có nhà làm và bán bài lá. Thôn Hàng Bột là một tên Nôm là làng Hè, làng Me, làng Giồng, làng khu vực có nhiều cửa hàng chế biến và bán các Dí trên và làng Dí dưới. Ngay cạnh đó là tràng loại bột gạo, bột sắn. Ngoài ra, một số địa danh Tứ Chiếng, nơi tập trung dân cư từ 4 trấn quanh sử dụng một yếu tố (hiện tượng, sự vật) mang Thăng Long (trấn Kinh Bắc, Sơn Nam, Hải tính đặc trưng của khu vực như Thôn Kho Hương và Sơn Tây) đến làm ăn rồi cũng lập Súng, Thôn Cầu Cháy, Thôn Cầu Bươu (huyện Tràng (viết thành Tứ Chính 四正 và được đọc Thọ Xương), thôn Bà Lấy (huyện Vĩnh Thuận), chệch là Tứ Chiếng); các phường Hòe Nhai, hoặc thể hiện đặc trưng địa lý như thôn Cửa phường Liễu Giai gắn với truyền thuyết có từ Nam (nằm tại cửa Nam kinh thành). Giống các đời vua trước khi trồng các hàng cây hòe, nhiều địa phương khác, rất nhiều đơn vị hành cây liễu [6]. Nhiều địa danh trùng với tên các
  5. N.T.V. Thanh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 31, Số 1 (2015) 29-39 33 chùa, đình nổi tiếng tọa lạc ở đó, như phường - Yếu tố có chức năng khu biệt biểu thị vịtrí Bái Ân ở khu vực có chùa Bái Ân nổi tiếng; thôn hoặc phương hướng mang tên Nhất Trụ Tự do ở đó có chùa Một Cột Trong 246 địa danh, có tới 86 địa danh chứa - Nhóm địa danh nguồn gốc hỗn hợp một hoặc một số yếu tố Hán Việt biểu thị ý Bên cạnh hai nhóm địa danh có gốc Hán nghĩa vị trí (thượng, trung, hạ, nội ) hoặc ý Việt và gốc thuần Việt còn có một số địa danh nghĩa phương hướng (tả, hữu, đông ) hoặc cả có cấu tạo hỗn hợp, vừa sử dụng yếu tố Hán, hai. Các yếu tố này có thể đứng độc lập hoặc có vừa sử dụng yếu tố Việt trong một tên gọi. thể kết hợp với các yếu tố khác để tạo nên một Thôn Khán Sơn Núi Sưa (tổng Yên Thành) là đơn vị địa danh. Song xét về phương thức cấu một phức thể kết hợp tên gọi của hai đối tượng, tạo, vai trò của chúng trong các kết cấu định một đối tượng diễn đạt bằng chữ và theo trật tự danh không như nhau. Hán-Việt (Khán Sơn), một đối tượng được biểu Hiện tượng thường gặp nhất là các yếu tố đạt bằng từ thuần Việt (Núi Sưa), tích hợp hai này kết hợp với một yếu tố gốc có nghĩa để tạo tên gọi gắn với hai sự tích khác nhau: Khán Sơn thành những đơn vị mới, thường tạo thành cặp. là một gò đất cao, tương truyền vào thế kỷ 15 Yếu tố gốc này có thể chỉ là một âm tiết, như vua Lê Thánh Tông thường tới đây xem duyệt trường hợp cấu tạo địa danh các tổng của huyện võ nghệ, còn Núi Sưa gắn với truyền thuyết đây Thọ Xương: Chỉ hai từ Hán 肅 (túc) và 嚴 là một núi từng trồng nhiều cây Sưa có gỗ rất (nghiêm), lần lượt kết hợp với các từ chỉ vị trí quý. Một số địa danh khác cũng mang đặc điểm 右 (hữu), 左 (tả), 前 (tiền), 後 (hậu), tạo thành tương tự: thôn Yên Hội Hàng Cháo, thôn Hữu tên gọi của 8 tổng: 前肅(Tiền Túc), 後肅 (Hậu Biên Giám Hàng Cháo, thôn Tây Luông Đồn Túc), 右肅 (Hữu Túc), 左肅 (Tả Túc), 前嚴 Bến Đá Thị Mặc dù nhóm địa danh này không (Tiền Nghiêm), 右嚴 (Hữu Nghiêm), 後嚴 nhiều, song chúng cũng phản ánh một giai đoạn (Hậu Nghiêm), 左嚴 (Tả Nghiêm), tạo thành có tính giao thời giữa sử dụng địa danh Hán đơn vị định danh hai âm tiết có cấu trúc chặt Việt mang tính uyên bác, sang trọng và địa chẽ. Yếu tố gốc này cũng có thể là một từ 2 âm danh thuần Việt mang tính dân dã, tự phát. tiết (thường là một địa danh đã có sẵn từ trước), như các trường hợp thôn Khánh Thụy Tả // thôn 2.3. Về cấu tạo địa danh Khánh Thụy Hữu, thôn Kim Bát Thượng // thôn Cái làm nên đặc trưng của địa danh Thăng Kim Bát Hạ Lúc này, các yếu tố Tả, Hữu, Long giai đoạn này, theo chúng tôi, là phương Thượng, Hạ có chức năng khu biệt hai đơn vị thức ghép “mang tính cơ học” các yếu tố có định danh cùng mang yếu tố gốc, phân biệt chức năng khu biệt xung quanh một yếu tố nhau ở vị trí hoặc phương hướng theo một trục được coi là “trung tâm”, tạo nên những đơn vị không gian mang tính giả định tương đối. Phần định danh mới. Chính phương thức này là lớn trường hợp các yếu tố này nằm phía sau yếu nguyên nhân dẫn đến tình trạng độ dài của các tố gốc theo trật tự tiếng Việt, song cũng có khi địa danh lớn hơn so với các giai đoạn sau. Dựa lại nằm phía trước yếu tố gốc, tạo thành kết hợp trên đặc trưng ngữ nghĩa của “yếu tố có chức theo trật tự tiếng Hán, như thôn Tả Bà Ngô // năng khu biệt”, chúng tôi tạm chia thành một số thôn Hữu Bà Ngô. nhóm sau: Trường hợp thứ hai, cũng không phải hiếm gặp, là khi một địa danh chỉ do một yếu tố chỉ
  6. 34 N.T.V. Thanh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 31, Số 1 (2015) 29-39 vị trí (thượng, trung, hạ, nội, ngoại) đảm nhiệm. giải thích tương tự đối với trường hợp nhóm 4 4/5 tên gọi tổng thuộc huyện Vĩnh Thuận được địa danh có yếu tố “phường Báo Thiên” nằm ở cấu tạo chỉ bằng 1 âm tiết: tổng Thượng, tổng hai tổng sát nhau: Thôn Thương Môn phường Trung, tổng Hạ, tổng Nội (ngoài ra còn một Báo Thiên // thôn Thương Môn Hạ phường Báo tổng là Yên Thành). Kiểu địa danh này rất Thiên // thôn Thương Đông Hạ phường Báo thường gặp ở các vùng nông thôn Bắc hoặc Thiên (tổng Tiền Nghiêm) và thôn Tự Tháp Trung bộ. Tuy vậy, giá trị định danh và khu biệt Phường Báo Thiên (tổng Tiền Túc). của loại địa danh này chỉ có khi đặt trong một Tuy vậy, đối với các địa danh có yếu tố hệ quy chiếu nào đó. Ví dụ đối với các tổng của “phường Đông Tác” lại khác. Đông Tác nguyên huyện Vĩnh Thuận, khi đặt các địa danh trên, là tên một trong 36 phường cổ vốn nằm ở khu nhà cầm quyền đương thời có lẽ đã dựa trên tư vực Trung Tự. Thời Lê mạt, dân phường Đông duy không gian mang tính ước lệ, đặt vị trí các Tác lên phố mở hàng nhuộm (nhiễm), tạo thành tổng trên một mặt phẳng tính từ Bắc xuống các làng nghề mới. Đến thế kỷ 19, phường Nam, từ trung tâm ra ngoại vi để quyết định tên Đông Tác không tồn tại với tư cách là một đơn gọi. Nếu hình dung bản đồ huyện Vĩnh Thuận vị hành chính độc lập, song dấu vết vẫn được trên một mặt phẳng đứng thì tổng Thượng nằm lưu giữ trong địa danh khi chính quyền lập thôn phía trên cùng (phía trên Hồ Tây), phía dưới là trên cơ sở khu vực các làng nghề, tạo nên các tổng Trung, tiếp theo là tổng Nội. Nằm ở vị trí địa danh cùng có “phường Đông Tác” nhưng lại dưới cùng (sát phủ Thường Tín trước đây, nay phân bố ở những khu vực khác nhau. Thôn là vành đai 2 tại ranh giới các đường Đại La, Nhiễm Thượng phường Đông Tác ở khu vực đường Trường Chinh, đường Láng) là tổng Hạ. phố Cầu Gỗ, Hàng Dầu ngày nay; thôn Nhiễm Như đã biết, Thăng Long trong suốt ba thế Trung phường Đông Tác ở khu vực phố Đồng kỷ được nhà Lê duy trì tổ chức hành chính của Xuân, Hàng Gạo ngày nay; trong khi đó vẫn một phủ là Phụng Thiên, gồm hai huyện Vĩnh tồn tại một phường gốc có tên là thôn Trung Tự Xương và Quảng Đức, mỗi huyện chia thành 18 phường Đông Tác tại khu vực Trung Tự. Trong phường, tổng cộng là 36 phường. Đến thời cấu trúc các địa danh trên, “phường Đông Tác” Nguyễn, nhiều phường cổ được chia nhỏ thành giữ vai trò là yếu tố xác định nguồn gốc dân cư, thôn, xong dấu vết của chúng được lưu lại trong tạo nên giá trị khu biệt cho các tên gọi này. bản thân các địa danh với tư cách định ngữ. Như phường Cổ Vũ, một phường cổ nổi tiếng của Thăng Long, được xây dựng từ thế kỷ 11- 3. Sự biến đổi bức tranh địa danh giai đoạn 14, nhưng đến thế kỷ 19 không còn nữa, song 1831-1887 trong các tư liệu địa danh triều Gia Long tồn tại Theo Đại Nam thực lục, từ năm 1824, vua một loạt địa danh thôn có sử dụng yếu tố Minh Mạng đã có chủ trương xem xét lại tên “phường Cổ Vũ”: Thôn Thị Vật Phường Cổ Vũ, gọi của các đơn vị hành chính tổng, xã, thôn, thôn Nhân Nội Phường Cổ Vũ, thôn Thượng phường các địa phương và ra chỉ dụ “những tên Phường Cổ Vũ, thôn Trung Phường Cổ Vũ. Nôm và mặt chữ không nhã thì bàn định đổi đi” Chính quyền đã sử dụng phương thức cấu tạo [7]. Theo tinh thần này, sau năm 1831, cùng với địa danh đánh dấu được yếu tố gốc với ý nghĩa cuộc cải cách hành chính của Minh Mệnh, địa “cùng tách ra từ một đơn vị cũ”. Có thể có cách dư và hệ thống địa danh Thăng Long có những
  7. N.T.V. Thanh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 31, Số 1 (2015) 29-39 35 thay đổi quan trọng. Trước hết là sự xuất hiện lại 1), Yên Hòa (còn lại 3), Kim Liên (còn lại của tên gọi “Hà Nội” sau khi nhà Nguyễn quyết 5). Điều đáng lưu ý là các địa danh được giữ định xây dựng một tỉnh lớn với diện tích rộng nguyên đều là địa danh Hán Việt. Không một bao gồm 4 phủ và 15 huyện, nằm giữa hai con địa danh thuần Việt nào được lưu giữ với tư sông lớn là sông Hồng và sông Đáy. Tổ chức cách là địa danh hành chính, mặc dù trong các hành chính của hai huyện Vĩnh Thuận và Thọ khu vực được định danh này vẫn tồn tại rất Xương, trung tâm của Thăng Long cũ và Hà nhiều phường/phố nghề mang tên Nôm như Nội mới có những thay đổi đáng kể theo hướng Hàng Đàn, Hàng Muối, Hàng Vôi thu gọn số lượng đơn vị hành chính cơ sở, từ b) Các đơn vị thay đổi tên gọi cũng không 249 xuống còn 156 đơn vị. Theo đó, bức tranh nhỏ (56 trường hợp). Việc thay đổi tên gọi có địa danh hai huyện Thọ Xương và Vĩnh Thuận thể giải thích bằng một số nguyên nhân, cũng chịu những biến động lớn theo xu hướng - Nguyên nhân thứ 1: do địa danh có chứa chung là Hán “hóa” các tên gọi, sử dụng các mĩ yếu tố trùng với húy phải chuyển sang một chữ tự mang ý nghĩa hay, đẹp, tránh tình trạng diễn giải, mô tả theo kiểu “nôm na”. Tên gọi của hoặc âm khác theo lệnh ban bố của triều đình toàn bộ 8 tổng huyện Thọ Xương đều thay đổi. trong các giai đoạn khác nhau [8]: Tại giai đoạn Các địa danh được cấu tạo theo kiểu mô tả vị trí này, 6 thôn, phường mang tên có chữ Hoa đều trước đây đều được thay thế bằng các mĩ tự phải đổi do tránh húy mẹ vua Thiệu Trị là bà được lựa chọn từ tên gọi của một đơn vị cơ sở Hồ Thị Hoa: thôn Xuân Hoa phải đổi chữ thành cũ trong tổng: tổng Tả Túc đổi tên thành Phúc Xuân Yên; thôn Nam Hoa đổi thành Nam Phố; Lâm, tổng Tiền Túc đổi thành Thuận Mỹ, tổng thôn Hoa Viên đổi thành Hương Viên; phường Hữu Túc đổi thành Đông Thọ, tổng Hậu Túc Kim Hoa đổi thành Kim Liên; phường Yên Hoa đổi thành Đồng Xuân, tổng Tả Nghiêm đổi đổi thành Yên Phụ, thôn Nam Hoa đổi thành thành Kim Hoa (sau đổi thành Kim Liên vì Nam Ngư. Ngoài ra còn một số trường hợp kiêng húy), tổng Hữu Nghiêm đổi thành Yên khác như thôn Hương Viên đổi thành Phương Hòa, tổng Tiền Nghiêm đổi thành Vĩnh Xương, Viên, thôn Văn Hương đổi thành Văn Chương tổng Hậu Nghiêm đổi thành Thanh Nhàn. do kiêng húy mẹ nuôi vua Kiến Phúc là bà Trên cơ sở khảo sát tình hình biến đổi cung Nguyễn Thị Hương; phường Hồng Mai phải đổi của địa danh Thăng Long - Hà Nội sau năm thành Bạch Mai do kiêng húy tiểu tự vua Tự Đức. 1831, chúng tôi có một số nhận xét: - Nguyên nhân thứ 2 là do chủ trương “Hán a) Số lượng các đơn vị hành chính cơ sở của hóa” địa danh. Sau năm 1831, toàn bộ 19 địa huyện Thọ Xương giảm từ 193 xuống còn 116 danh gốc Việt đều không còn nữa, hoặc được đơn vị, trong đó, có 53 đơn vị giữ nguyên tên thay thế bằng từ Hán Việt, hoặc được sáp nhập gọi so với giai đoạn trước (chiếm 45,29%). Địa vào các đơn vị hành chính khác mang tên Hán giới hành chính các đơn vị này có thể được giữ Việt. Địa danh thôn Chùa Tháp phường Báo nguyên, cũng có thể được mở rộng, sáp nhập Thiên được đổi thành thôn Tự Tháp phường Báo thêm một số đơn vị khác vào. Có những tổng Thiên. Thôn Khán Sơn Núi Sưa đổi tên thành bảo lưu khá nhiều địa danh cũ, như tổng Phúc Khán Xuân. Thôn Tả Bà Ngô đổi thành Thanh Lâm, Thuận Mỹ, Đồng Xuân. Song cũng có Ngô (năm 1866 đổi thành thôn Thanh Miến). những tổng hầu như còn lại rất ít đơn vị giữ lại - Nguyên nhân thứ 3 là do sáp nhập các đơn các tên gọi cũ, như các tổng Thanh Nhàn (còn vị hành chính. Về lý thuyết, có thể có hai khả năng.
  8. 36 N.T.V. Thanh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 31, Số 1 (2015) 29-39 Khả năng thứ nhất: sáp nhập với một đơn vị + Mô hình thứ nhất: địa danh mới được cấu hành chính sẵn và sử dụng tên gọi của đơn vị tạo từ hai yếu tố đầu tiên trong địa danh của đó. Như ba thôn của tổng Vĩnh Xương (Tiền từng đơn vị theo mô hình A1-B1. Ví dụ: Nghiêm cũ) là Quang Hoa, Thể Giao và Pháp (Thôn) Thịnh Xương sáp nhập với (thôn) Hoa được nhập vào thôn Thiền Quang, chỉ còn Yên Bàn thành (thôn) Thịnh Yên lại một thôn trong huyện Vĩnh Xương. + Mô hình thứ hai: địa danh mới được cấu Khả năng thứ hai: sáp nhập một số đơn vị tạo từ hai yếu tố cuối cùng trong địa danh của với nhau tạo thành đơn vị mới. Tên gọi của đơn từng đơn vị theo mô hình A2-B2 . Ví dụ: vị mới có thể hoàn toàn mới, không có liên (Thôn) Cung Tiên sáp nhập với (thôn) Tứ quan tới các địa danh cũ. Như trường hợp các Mỹ thành (thôn) Tiên Mỹ thôn Thương Môn Thượng Phường Báo Thiên, Thương Môn Hạ Phường Báo Thiên, Thương + Mô hình thứ ba: địa danh mới được cấu Đông Hạ Phường Báo Thiên (vốn cùng với tạo từ yếu tố đầu của địa danh thứ nhất và yếu thôn Chùa Tháp Phường Báo Thiên được tách tố cuối cùng của địa danh thứ hai theo mô A1- ra từ phường Báo Thiên, một phường cổ được B2. Ví dụ: hình thành từ thế kỷ 16 [9]) được nhập thành (Thôn) Cảm Ứng sáp nhập với (thôn) Yên một thôn với tên gọi Đông Mỹ (tổng Vĩnh Hội thành (thôn) Cảm Hội Xương), thuần túy là một mỹ tự, không có liên Có trường hợp sáp nhập cùng lúc 4 hoặc 5 quan tới ý nghĩa cũng như nguồn gốc xuất phát đơn vị lại thành một đơn vị, tên gọi mới cũng của các địa danh cũ. Tên gọi mới cũng có thể là sự kết hợp các thành tố của các địa danh cũ. Có sử dụng theo phương thức ghép tên, song chỉ thể nói đây là hiện tượng phổ biến nhất, chiếm lấy yếu tố của hai đơn vị để tạo thành một tên tỉ lệ cao nhất trong số các trường hợp đổi tên gọi hay, có nghĩa nhất. Ví dụ trường hợp 5 thôn trong giai đoạn này (36 trường hợp). Phương là Khâm Thiên Giám (tên chữ là Khâm Đức), thức này rất thuận tiện, vừa rút gọn được số Tương Thuận, Tô Tiền, Trung Kính, Phù Mỹ lượng các đơn vị hành chính cấp cơ sở theo chủ được sáp nhập lại thành một thôn của tổng Vĩnh trương cải cách hành chính của vua Minh Xương với tên gọi mới là Mỹ Đức là sự kết hợp Mệnh, đồng thời về cơ bản đáp ứng được tâm lý thành tố địa danh chỉ của thôn Khâm Đức và của người dân khi dấu vết làng quê của họ vẫn thôn Phù Mỹ (theo mô hình 2). được lưu dấu lại qua tên gọi mới. Tuy vậy sau Ngoài ra cũng có một số giải pháp khác tùy khi sáp nhập, việc lựa chọn tên gọi chắc chắn thuộc vào từng trường hợp cụ thể. Ví dụ khi sáp đã được chính quyền cân nhắc kỹ lưỡng sao cho vừa thuận âm đồng thời có nghĩa đẹp. nhập thôn Vũ Thạch Hạ và Vũ Thạch Tiểu, tên gọi mới chỉ còn giữ yếu tố chung của 2 thôn là Giả sử ký hiệu địa danh của đơn vị hành Vũ Thạch. Khi sáp nhập thôn Lương Xá và Yên chính thứ nhất (chủ yếu là địa danh 2 âm tiết) là A1-A2, địa danh của đơn vị thứ hai là B1-B2. Xá, chỉ lược bỏ yếu tố chung Xá, tạo thành tên Qua khảo sát các trường hợp thay đổi địa danh gọi mới là thôn Lương Yên. do sáp nhập, chúng tôi thẩy có 3 mô hình (chủ -Nguyên nhân thứ 4: do rút gọn các địa danh yếu đối với các địa danh có 2 âm tiết). Số lượng âm tiết các địa danh giai đoạn thứ hai có những khác biệt đáng kể so với giai đoạn
  9. N.T.V. Thanh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 31, Số 1 (2015) 29-39 37 trước. Nếu giai đoạn trước, do mang nặng tính Vĩnh Thuận bị lấy làm phố. Thành phố Hà Nội mô tả nên dung lượng (độ dài) các địa danh được thành lập, thực tế trở thành một thành phố thường lớn, thì ở giai đoạn này, số lượng các thuộc địa của Pháp. Do không gian Hà Nội địa danh được cấu tạo bằng 2 âm tiết chiếm tỉ lệ không ngừng được mở rộng, chính quyền Pháp lớn (84,61%, so với giai đoạn trước là 67,87%) buộc phải tổ chức lại đơn vị hành chính cơ sở và chủ yếu là những địa danh mới. Các địa danh cho phù hợp và thuận lợi trong quản lý. Theo có số lượng âm tiết lớn của giai đoạn trước có Nghị định số 791 ngày 17/7/1914 của Đốc lý xu hướng được rút gọn thành hai âm tiết, dễ Hà nội, “Hà Nội được chia thành tám quận nhớ và dễ sử dụng. Địa danh dài nhất “thôn (quartier), người Việt vẫn quen gọi là Hộ. Dưới Ngoại Ô giáp Hương Bài Phường Đông Hà” các hộ là các cụm dân cư gồm một số đường được rút gọn lại thành một tên gọi mới là thôn phố hay còn gọi là các khu phố nhỏ, đứng đầu Hương Nghĩa. Thôn Nam Môn Thị Hoa Ngư rút là một trưởng phố. Các hộ phố thuộc sự quản lý gọn thành thôn Nam Ngư, vừa gọn gàng, vừa của phòng Các công việc bản xứ của Tòa Đốc tránh chữ húy Hoa. Nhiều thôn vốn có yếu tố Lý” [12]. Các Hộ được định danh bằng phương cấu tạo nguồn gốc làm định ngữ như thôn thức đánh số thứ tự theo chữ La Mã từ I đến Trung Tự Phường Đông Tác, thôn Cửa Nam VIII. Theo “Tên làng xã và địa dư các tỉnh Bắc Phường Đông Tác được đơn giản hóa bằng Kỳ” của Ngô Vi Liễn, tám hộ bao gồm 218 đơn việc bỏ phần định ngữ, chỉ còn lại tên Trung vị là các đường, phố, ngõ đã được đặt tên bằng Tự, Cửa Nam. tiếng Pháp hoặc mới được đánh số thứ tự, chưa Tuy vậy cũng có trường hợp nguyên nhân có tên chính thức [13]. thay đổi địa danh do những nhân tố địa lý hoặc Ngoại trừ khu vực được lấy làm phố, theo lịch sử quy định. Thôn Trung Liệt Miếu Bến Đá Danh sách các phủ huyện của tỉnh Hà Nội năm là một thôn nằm sát bờ sông Hồng (khu vực 1888 và Danh mục làng xã Hà Nội cuối thế kỷ phố Trần Quang Khải). Theo Nguyễn Viết 19 (năm 1890), tỉnh Hà Nội giai đoạn này gồm Chức, có địa danh trên bởi đầu thế kỷ 19 tại đây 4 Phủ: Phủ Hoài Đức (4 huyện), phủ Thường có một bến đò có kè đá nên được gọi là Bến Đá. Tín (3 huyện), phủ Ứng Hòa (2 huyện), phủ Mỹ Trong bản đồ Hà Nội năm 1831 tên thôn được Đức (2 huyện). Mặc dù tên gọi huyện Thọ đổi thành thôn Trung Liệt Miếu Thạch Tân (có Xương và huyện Vĩnh Thuẫn vẫn tồn tại trong nghĩa là Bến Đá), nhưng đến khoảng giữa thế các tài liệu, song thực tế, địa dư của các huyện kỷ 19, do sông Hồng chuyển dòng, bến đò bị đã có những thay đổi rất lớn. Các đơn vị hành cát bồi, thuyền bè không tới nữa, miếu Trung chính còn lại của hai huyện này, đặc biệt là Liệt cũng bị phá hỏng, do vậy đổi tên thôn huyện Thọ Xương chỉ là một phần rất nhỏ so thành Cổ Tân (古津村có nghĩa là Bến cũ) [11]. với giai đoạn trước 1888. Về phương diện địa danh, có thể đưa ra một số nhận xét sau: Bức tranh địa danh sau năm 1888 - Về cơ bản, nhiều địa danh được sử dụng Sau đạo dụ của vua Đồng Khánh chấp nhận giai đoạn này không thay đổi so với địa danh nhường đất cho Pháp làm khu nhượng địa, lần giai đoạn trước, nhất là hệ thống tên gọi các lượt phần lớn đất của hai huyện Thọ Xương và
  10. 38 N.T.V. Thanh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 31, Số 1 (2015) 29-39 tổng và các đơn vị thuộc huyện Vĩnh Thuận. Có Long (sau mang tên là đại lý Hoàn Long) vào thể dự đoán rằng địa giới hành chính của các tỉnh Hà Đông vốn trước có tên là tỉnh Cầu Đơ, đơn vị này không thay đổi hoặc không có huyện lỵ nằm tại thôn Cầu Đơ. Từ giai đoạn những biến đổi lớn. Địa danh của các đơn vị này trở đi tới trước năm 1954, khái niệm Hà vốn là thôn, xã cũ của huyện Thọ Xuơng cũng Nội chỉ còn là phần thành phố với các đường, vẫn giữ nguyên. phố, ngõ theo phương thức tổ chức của một thành phố phương Tây. - Một số tên gọi tiếp tục thay đổi chủ yếu do kỵ các húy được ban hành trong giai đoạn này, như phường Thụy Khuê (tổng Trung) được đổi Tài liệu tham khảo tên từ phường Thụy Chương; phường Nhật Chiêu (tổng Thượng) đổi thành Nhật Tân do kỵ [1] Nguyễn Thúy Nga (2010). Địa danh Thăng Long- húy vua Thành Thái. Riêng tổng Nội có những Hà Nội thời Nguyễn (khảo cứu từ nguồn tư liệu Hán Nôm). Nxb KHXH. thay đổi đáng kể. Khác với xu hướng giảm các [2] Lê Trung Hoa. Địa danh học Việt Nam. Nxb đơn vị hành chính, tổng Nội lại tăng từ 10 thành KHXH. 2006 12 đơn vị cơ sở vào cuối thế kỷ 19. Xuất hiện [3] Vũ Văn Quân. (2010). Quy hoạch hành chính và tổ chức bộ máy quản lý Thăng Long-Hà Nội thời ba địa danh mới là thôn Ngọc Khánh, thôn Kim kỳ Trung đại (Thăng Long- Hà Nội, tuyển tập Mã và thôn Trung. công trình nghiên cứu lịch sử. Tập 1. Tr.495. Nxb Hà Nội). Ngày 26/12/1896, viện cớ “lấy thành phố [4] Nguyễn Quang Ngọc (2010). Cấp phường ở Hà Nội làm tỉnh lỵ của tỉnh Hà Nội, tức là để Thăng Long-Hà Nội: Quá trình hình thành, biến các quan tỉnh người bản xứ đóng trụ sở trên đất đổi và những nét đặc trưng (Thăng Long- Hà Nội, nhượng địa là không hợp lý, cần đưa họ về gần tuyển tập công trình nghiên cứu lịch sử. Tập 1. [5] Nguyễn Quang Ngọc. Thập Tham trại-nguồn gốc với dân chúng, đặt dưới quyền cai trị của họ” dân cư, tín ngưỡng thành Hoàng và đặc điểm kinh [14], toàn bộ tỉnh lỵ tỉnh Hà Nội chuyển về Cầu tế, TCKH ĐHTH HN, số 1/1986. Đơ, một làng thuộc huyện Thanh Oai. Năm [6] Bùi Thiết. Từ điển địa danh Thăng Long-Hà Nội. 1899, trên cơ sở phần đất còn lại của huyện Tr.156 và Tr.248. Vĩnh Thuận và Thọ Xương, sáp nhập thêm một [7] Phan Phương Thảo. (chủ biên), 2013. Khu phố cổ Hà Nội nửa đầu thế kỷ XX qua tư liệu địa chính, số thôn xã của huyện Từ Liêm và Thanh Trì, Nxb Chính trị quốc gia.Tr.125. huyện Hoàn Long được thành lập làm huyện [8] Ngô Đức Thọ (H.1997). Chữ húy Việt Nam qua ngoại ô Hà Nội. Trong “Danh sách các xã các triều đại. Nxb Văn hóa. thuộc huyện Hoàng Long, ngoại thành Hà Nội” [9] Phạm Thùy Vinh, Tìm hiểu sự biến động của các địa danh hành chính thuộc kinh thành Thăng Long năm 1906 có ghi huyện Hoàng Long gồm 9 [10] được phản ánh trên tư liệu văn khắc Hán Nôm, kỷ tổng: tổng Thượng, tổng Trung, tổng Nội, tổng yếu Hội thảo VNH lần thứ 4. Yên Hạ (tên mới của tổng Hạ, huyện Vĩnh [11] Nguyễn Trãi toàn tập, Dư địa chí, Nxb Khoa học Thuận cũ), tổng Vĩnh Yên, tổng Kim Liên, tổng xã hội, H.1976, tr.217. Thanh Nhàn, tổng Hoàng Mai, tổng Phúc Lâm. [12] Nguyễn Viết Chức (chủ biên). H, 2010. Từ điển đường phố Hà Nội. Nxb Hà Nội. Theo Quyết định ngày 10/12/1914 của Toàn [13] Phan Huy Lê. Lịch sử Thăng Long-Hà Nội. quyền Đông Dương, bắt đầu từ 1/1/1915, bãi bỏ Tr.331. vùng ngoại ô Hà Nội, sáp nhập huyện Hoàng [14] Ngô Vi Liễn. Tên làng xã và địa dư các tỉnh Bắc Kỳ. Nxb Văn hóa thông tin.
  11. N.T.V. Thanh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 31, Số 1 (2015) 29-39 39 Change of Administrative Place-names Structure in Thăng Long - Hà Nội of Nguyễn Dynasty (1802-1945) Nguyễn Thị Việt Thanh VNU - Institute of Vietnamese Studies and Development Sciences, 336 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hanoi, Vietnam Abstract: On the basis of the circumstances and historical conditions of Nguyễn dynasty which were full of turbulence, especially Minh Mạng’s major administrative reforms and the occupation of French that aims to turn Hanoi into a colonial city, the paper aims to introduce the characteristics of the system of the administrative places names of Thăng Long - Hanoi in three periods: 1802 - 1831, 1831 – 1887, and after 1888. Along with describing the general characteristics of the administrative place-name system, from the number of syllables, origin of words to the characteristics of typical structures compared to other areas, the paper focuses on clarifing the important differences between the periods, highlighting on the construction methods and the structures of new names under the influence of the “Hán cultural” – policy of using beautiful words of the Dynasty and reducing the number of administrative units by merging them. Through documentation and analysis, the paper wants to provide a panorama of administrative place-names picture of Thăng Long - Hanoi for more than a century of the Nguyễn Dynasty, which reflects the historical, cultural, social characteristics of Thăng Long - Hanoi during this historical period. Keywords: Places administrative, administrative units, Thang Long - Ha Noi, place - name complexes, method of composition, historical periods.