Sự phát triển khả năng phân biệt âm vị của trẻ từ mẫu giáo đến lớp một
Bạn đang xem tài liệu "Sự phát triển khả năng phân biệt âm vị của trẻ từ mẫu giáo đến lớp một", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- su_phat_trien_kha_nang_phan_biet_am_vi_cua_tre_tu_mau_giao_d.pdf
Nội dung text: Sự phát triển khả năng phân biệt âm vị của trẻ từ mẫu giáo đến lớp một
- TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Huỳnh Mai Trang ___ SỰ PHÁT TRIỂN KHẢ NĂNG PHÂN BIỆT ÂM VỊ CỦA TRẺ TỪ MẪU GIÁO ĐẾN LỚP MỘT HUỲNH MAI TRANG* TÓM TẮT Một nghiên cứu dọc về sự phát triển khả năng phân biệt âm vị đã được thực hiện trên 85 trẻ từ mẫu giáo đến lớp 1, thông qua trắc nghiệm phân biệt cặp từ tối thiểu. Kết quả cho thấy, khả năng phân biệt âm vị của trẻ phát triển rõ rệt từ cuối mẫu giáo cho đến cuối lớp 1. Tuy nhiên, trong khi khả năng phân biệt thanh và nguyên âm đã hoàn thiện từ cuối mẫu giáo thì khả năng phân biệt các phụ âm đầu vẫn còn khá thấp ở cuối lớp 1. Từ khóa: phân biệt âm vị, phân biệt cặp từ tối thiểu, tri giác lời nói. ASTRACT The development of children’s phonological discrimination capability from kindergarten to grade 1 The article presents a longitudinal study to assess the development of the phonological discrimination capability by a test of minimal pair discrimination which was conducted on 85 children from kindergarten to grade 1. Results showed that the phonological discrimination capability develops significantly from the end of kindergarten to the end of grade 1. However, while the vowel and tone discrimination capability has perfected since the end of kindergarten, the initial consonant discrimination is still quite low at the end of grade 1. Keywords: phonological discrimination, minimal pair discrimination, speech perception. 1. Đặt vấn đề lường những thao tác trí tuệ (phân tích, Ngôn ngữ nói, xét ở góc độ nhận tổng hợp, so sánh ) trên các đơn vị của thức, được đánh giá trên 3 phương diện lời nói. khác biệt sau: 1) Quá trình xử lí lời nói Bài viết này chỉ đề cập đến trắc đầu vào, chính là việc phân tích kết quả nghiệm đánh giá khả năng tri giác âm của hoạt động tri giác âm thanh mà người thanh (lời nói) và giới thiệu kết quả ta tiếp nhận được; 2) Quá trình hình nghiên cứu về khả năng phân biệt âm vị thành biểu tượng của lời nói cũng như của trẻ. Đây một nghiên cứu theo lối “bổ lưu trữ các biểu tượng này trong bộ nhớ dọc”, kéo dài 2 năm, nhằm đánh giá sự dài hạn; và 3) Quá trình xử lí lời nói đầu phát triển khả năng phân biệt âm vị của ra, chính là việc biểu đạt bằng lời nói cùng một nhóm trẻ từ mẫu giáo đến lớp 1 thông qua hoạt động phát âm. Ngoài ra, tại một số trường tại Thành phố Hồ Chí người ta còn đánh giá cả khả năng kích Minh. Ngoài ra, chúng tôi mong muốn hoạt các biểu tượng sẵn có cũng như đo chỉ ra những khó khăn trong tri giác lời * TS, Trường Đại học Sư phạm TPHCM; Email: huynhmaitrang@hcmup.edu.vn 17
- TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 3(68) năm 2015 ___ nói của trẻ trước khi vào lớp 1 cũng như bài tập hấp dẫn với trẻ nhưng kết quả của sau khi học xong lớp 1. Điều này một nó không chỉ ra được chính xác những mặt, nhằm góp thêm những tham số có ý khó khăn về tri giác âm thanh mà trẻ gặp nghĩa đối với sự phát triển ngôn ngữ của phải. trẻ em Việt Nam; mặt khác, nhằm cung 2.2. Lặp lại từ giả1 cấp thêm một phương tiện đánh giá về Trắc nghiệm này yêu cầu trẻ nghe khả năng phân biệt âm vị của trẻ để chẩn một từ không có thật và lặp lại một cách đoán chính xác hơn và sớm hơn những thật gần giống nhất với từ đó. Việc trẻ trường hợp trẻ có nguy cơ bị một rối loạn thành công với bài tập này cho thấy rằng chuyên biệt nào đó. trẻ có khả năng phân biệt âm thanh rất 2. Trắc nghiệm đánh giá khả năng tri tốt. Tuy nhiên, nếu trẻ gặp thất bại thì giác lời nói của trẻ cũng chưa thể kết luận là trẻ không có Để đánh giá chính xác khả năng tri khả năng tri giác âm thanh, bởi vì có thể giác lời nói, người ta sử dụng các trắc trẻ bị hạn chế ở trí nhớ lời nói hay có vấn nghiệm “thuần túy” về mặt âm thanh. Gọi đề ở mặt phát âm. Thực tế thì dạng trắc là trắc nghiệm “thuần túy” về mặt âm nghiệm này rất hiệu quả trong việc đánh thanh vì chất liệu sử dụng trong trắc giá khả năng nhớ lời nói (Gathercole, nghiệm chỉ là âm thanh, có nghĩa là trẻ 1995). chỉ nghe và không được nhìn thấy cử 2.3. Phân biệt cặp từ tối thiểu [2], [1] động môi của người phát âm. Theo F. Hạn chế của 2 trắc nghiệm trên Estienne & B. Piérart [5], [8], có 3 loại buộc người ta phải nghĩ đến một bài tập trắc nghiệm theo kiểu này đã được sử đo lường nào có khả năng định vị chính dụng trong các nghiên cứu được trình bày xác loại khó khăn mà trẻ gặp phải, mà ở dưới đây. đây là tri giác âm thanh dạng ngôn ngữ. 2.1. Ghép cặp giữa một từ được nghe Ở dạng trắc nghiệm thứ ba này, cặp từ với một hình tương ứng hoặc từ giả cần phân biệt chỉ khác nhau ở Mục tiêu của trắc nghiệm này là một điểm duy nhất (ví dụ, chỉ khác nhau nhằm khảo sát là trẻ có nghe chính xác ở âm đầu: /fa/ và /va/ hoặc chỉ khác nhau cũng như xử lí được âm thanh đầu vào ở âm cuối /tim/ và /tin/), vì vậy chúng hay không. Trắc nghiệm này còn được được gọi là “cặp từ tối thiểu”. Trẻ sẽ gọi tên là “trắc nghiệm về nhận thức âm được yêu cầu xác định các cặp từ này thanh”, vì ở đây, trẻ phải chọn trong 2 giống hay khác nhau bằng lời hoặc 3 hình một hình có tên gọi nghe gần (“giống” hoặc “khác”) hoặc thậm chí giống với từ được phát âm. Để làm được bằng cách chỉ vào một hình ảnh cụ thể bài tập kiểu này, trẻ phải có một vốn từ nào đó để thể hiện câu trả lời giống hoặc nhất định. Nói cách khác, nếu trẻ gặp thất không giống (nhằm giảm thiểu ảnh bại trong bài tập này cũng chưa thể kết hưởng nếu có của sự khó khăn khi biểu luận được là trẻ có vấn đề về tai nghe hay đạt). Việc sử dụng từ giả cũng được do thiếu vốn từ. Vì vậy, mặc dù đây là khuyến khích trong loại bài tập này nhằm 18
- TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Huỳnh Mai Trang ___ đảm bảo rằng trẻ không thể sử dụng vốn nhau lần lượt theo 3 yếu tố: phụ âm đầu từ sẵn có để trả lời. Vì vậy, từ thật cũng (ví dụ: tưi và cưi), nguyên âm (ví dụ: nhồ có thể được sử dụng nếu như đó là những và nhò), và thanh (ví dụ: gứu và gữu). từ không thông dụng đối với trẻ. Ngoài Một danh sách các từ giả được ghi ra, cũng cần lưu ý rằng xác suất trả lời âm trước bằng giọng nữ (Hà Nội), sau đó đúng ngẫu nhiên của loại bài tập này là các cặp từ giả mới được kết hợp với nhau 50%, vì vậy số lượng cặp từ cần phân bằng phần mềm Audacity. Vì vậy, chúng biệt phải đủ lớn để đảm bảo rằng tỉ lệ câu tôi đảm bảo được chính xác 100% các trả lời đúng vượt qua mức ngẫu nhiên. cặp từ giống nhau, cũng như tránh được 3. Đánh giá sự phát triển khả năng hiện tượng vô tình quá cường điệu sự phân biệt âm vị của trẻ từ mẫu giáo khác nhau giữa các cặp từ trong quá trình đến cuối lớp 1 bằng trắc nghiệm phân ghi âm. Khoảng thời gian cách nhau giữa biệt cặp từ tối thiểu 2 từ được phát ra là 0,5 giây và toàn bộ 3.1. Phương pháp thời gian để nghe một cặp từ là từ 1 đến 2 3.1.1. Mẫu nghiên cứu giây. Có 85 trẻ tham gia trong nghiên cứu 3.1.3. Tiến trình nghiên cứu với tuổi trung bình là 5 tuổi 9 tháng Chúng tôi đã sử dụng cùng một nội (SD=.31) tại thời điểm cuối năm học dung của trắc nghiệm phân biệt cặp từ tối 2009-2010. Sang đến cuối năm học 2010- thiểu cho cả 2 lần khảo sát (cuối lớp lá và 2011, vì lí do chuyển trường từ mẫu giáo cuối lớp 1). lên tiểu học, 10 trẻ không tham gia nữa, Bài trắc nghiệm kéo dài trong chúng tôi còn 75 trẻ với tuổi trung bình là khoảng 7 đến 10 phút, được thực hiện 6 tuổi 10 tháng (SD=.31). Những trẻ này trên từng trẻ, tại trường nơi trẻ đang học. đến từ các trường mầm non 4A, Hoa Mai, Trẻ nghe các cặp từ giả qua tai nghe và Mầm non 1 và các trường tiểu học: trả lời bằng cách nói “giống” hoặc Lương Định Của, Lê Chí Trực, Phan Văn “khác”, hoặc thậm chí chỉ ra dấu (gật đầu Hân và Trần Danh Lâm thuộc các quận 3, hoặc lắc đầu). Nhằm đảm bảo trẻ hiểu 8 và Tân Bình ở Thành phố Hồ Chí thật rõ yêu cầu của bài tập, chúng tôi đã Minh. Thời điểm lấy số liệu là tháng 4 và tiến hành giải thích yêu cầu cũng như 5 của mỗi năm học. luyện tập cho trẻ. Số lượng cặp từ luyện 3.1.2. Công cụ tập cho từng yếu tố khảo sát là 6 và Trắc nghiệm phân biệt cặp từ tối chúng không được lặp lại trong bài trắc thiểu sử dụng trong nghiên cứu này được nghiệm chính thức. Bài trắc nghiệm phát triển dựa trên bài tập phân biệt âm vị chính thức được trình bày lần lượt theo của Bộ trắc nghiệm đánh giá khả năng các yếu tố: phụ âm đầu, nguyên âm và ngôn ngữ và tính toán cho trẻ từ 6 đến 9 thanh; thứ tự của các điều kiện này được tuổi 1. Trắc nghiệm của chúng tôi bao hoán chuyển để đảm bảo xác suất xuất gồm 90 cặp từ giả (45 cặp từ giống nhau hiện trước sau của chúng là ngang nhau. và 45 cặp từ khác nhau), các cặp từ khác Điều này nhằm giảm thiểu nguy cơ đánh 19
- TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 3(68) năm 2015 ___ giá sai lầm nếu như trẻ chỉ trả lời thật tốt cuối lớp 1); các biến số phụ thuộc lần cho một loạt các câu đầu hoặc cho một lượt là Yếu tố (phụ âm đầu, nguyên âm và loạt các câu sau, tùy theo hứng thú hoặc thanh), Loại phụ âm đầu (tắc và xát), sự mệt mỏi nếu có của trẻ. Loại nguyên âm (nguyên âm đơn, nguyên 3.2. Kết quả âm đôi và bán nguyên âm) Loại thanh Các số liệu của nghiên cứu được xử (cao và thấp2) và Loại cặp từ (giống, lí bằng SPSS và kiểm nghiệm thống kê khác). được sử dụng là GLM Anova (so sánh 3.2.1. Đánh giá khả năng phân biệt âm vị các trung bình qua nhiều lần đo liên tiếp). của trẻ theo phụ âm đầu, nguyên âm và Các biến số độc lập là Lớp (cuối lớp lá và thanh Biểu đồ 1. Tỉ lệ trung bình câu trả lời đúng xét theo phụ âm đầu, nguyên âm và thanh và theo loại cặp từ Biểu đồ 1 cho thấy điểm trung bình giáo (khoảng 95%), nên sự phát triển khả của trẻ có sự khác biệt ở cả 3 yếu tố khảo năng phân biệt âm vị ở lứa tuổi này được sát cũng như ở lứa tuổi. Cụ thể là khả quan sát chủ yếu ở điểm trung bình phân năng phân biệt âm của trẻ ở nguyên âm biệt các cặp từ giả khác nhau. Thêm nữa, và thanh thì tốt hơn so với ở phụ âm đầu đến cuối lớp 1, việc trẻ vẫn còn gặp khó (F(2,316) = 164,4; p<.001). Kết quả này khăn đối với các phụ âm đầu cũng được đúng ở cả cuối mẫu giáo và cuối lớp 1. nhận thấy chỉ ở các cặp từ giả khác nhau. Sau một năm, điểm trung bình của trẻ Chúng tôi cho rằng khó khăn của trẻ tăng lên một cách có ý nghĩa: từ 86% đến trong việc tri giác âm thanh chủ yếu là 90% (F(1,158) =12,04; p=.001), nhưng nằm ở việc phân biệt các âm vị khác điểm trung bình ở điều kiện phụ âm đầu nhau, các kết quả sau đây cũng thống vẫn còn khá thấp (71%). nhất với kết luận này. Vì khả năng nhận ra các cặp từ giả 3.2.2. Đánh giá khả năng phân biệt âm giống nhau đã hoàn thiện từ từ cuối mẫu của trẻ theo âm tắc và xát 20
- TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Huỳnh Mai Trang ___ Biểu đồ 2. Tỉ lệ trung bình câu trả lời đúng xét theo các phụ âm tắc và xát và theo loại cặp từ Chúng tôi nhận thấy điểm trung bình của trẻ có sự khác biệt giữa âm tắc và âm xát (F(1,158)=64,1; p<.001), điểm số phân biệt giữa các âm tắc thì cao hơn so với âm xát ở cả 2 nhóm tuổi, hay nói khác đi, đến cuối lớp 1, trẻ vẫn còn gặp nhiều khó khăn trong việc phân biệt giữa các âm xát với nhau. Cũng như đã kết luận ở trên, những khó khăn này cũng được quan sát ở các cặp từ giả khác nhau. 3.2.3. Đánh giá khả năng phân biệt âm của trẻ theo nguyên âm đơn, nguyên âm đôi và bán nguyên âm Biểu đồ 3. Tỉ lệ trung bình câu trả lời đúng xét theo các nguyên âm đơn, nguyên âm đôi và bán nguyên âm và theo loại cặp từ 21
- TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 3(68) năm 2015 ___ Nhìn chung, điểm trung bình của trẻ trong việc phân biệt các cặp nguyên âm đơn và nguyên âm đôi đã rất cao (cả ở những cặp từ khác nhau) từ cuối lớp lá (trên 90%), trẻ chỉ còn gặp khó khăn khi phân biệt các cặp bán nguyên âm (F(2,316)=29,9; p 90%). Ngoài âm và thanh. Trong việc tri giác âm ra, nếu như trẻ cuối lớp lá vẫn còn một thanh, thời gian mà âm thanh tác động chút khó khăn ở các cặp thanh hỗn hợp vào tai nghe là một yếu tố quan trọng. thì đến cuối lớp 1, khả năng phân biệt các Trong khi đó, thời gian xuất hiện của âm thanh này của trẻ đã hoàn toàn hoàn đầu thường ngắn hơn so với âm chính và 22
- TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Huỳnh Mai Trang ___ thanh (theo quan sát trên các sơ đồ âm với các âm tắc, điều này đã vô tình làm thanh ghi được từ Audacity). Hơn nữa, cho việc phân biệt các âm xát trở nên khó trong cấu trúc âm tiết, âm đầu là yếu tố khăn hơn. có thể có mà cũng có thể không, trong 4. Kết luận khi đó âm chính và thanh thì lại là hai Nhìn chung, khả năng phân biệt âm yếu tố không thể thiếu được [4], [3]. Như của trẻ phát triển rõ rệt từ cuối mẫu giáo vậy, có thể nói âm đầu không gắn bó chặt cho đến cuối lớp 1, trên cả 3 yếu tố khảo chẽ với các thành phần khác trong cấu sát: phụ âm đầu, nguyên âm và thanh.Tuy trúc âm tiết. Vì vậy, trong tri giác lời nói, nhiên, trong khi khả năng phân biệt thanh âm đầu có vẻ “mờ nhạt” hơn so với âm và nguyên âm đã hoàn thiện từ cuối mẫu chính và thanh và đó có thể là nguyên giáo thì khả năng phân biệt các phụ âm nhân làm cho việc phân biệt âm đầu trở đầu vẫn còn khá thấp ở cuối lớp 1. Kết nên khó khăn hơn. Giả định này cần có quả nghiên cứu cho thấy trắc nghiệm thêm những nghiên cứu khác để kiểm phân biệt cặp từ tối thiểu này có thể sử chứng. Cũng ở phụ âm đầu, chúng tôi dụng trong việc khảo sát khả năng phân nhận thấy khả năng của trẻ có sự khác biệt âm vị của trẻ mẫu giáo như một chẩn biệt giữa âm tắc và âm xát: điểm số phân đoán về khả năng tri giác lời nói của biệt giữa các âm tắc thì cao hơn so với những trẻ này. âm xát ở cả 2 nhóm tuổi, hay nói khác đi, Ngoài ra, việc cho trẻ nhỏ thường đến cuối lớp 1, trẻ vẫn còn gặp nhiều khó xuyên phân biệt các cặp từ tối thiểu cũng khăn trong việc phân biệt các âm xát với được xem là cách phát triển khả năng nhau. Tuy nhiên, kết quả này chưa cho nhận thức sự khác biệt, sự luyện tập này phép kết luận rằng việc phân biệt các âm cho phép trẻ lưu trữ được những âm xát thì khó khăn hơn so với các âm tắc, thanh ngôn ngữ chính xác để sẵn sàng bởi vì những âm xát mà chúng tôi sử cho việc sử dụng chúng sau này. dụng có vị trí cấu âm thường gần hơn so ___ 1 “Từ giả” là một thuật ngữ chuyên môn của tâm lí học ngôn ngữ, dùng mô tả những từ chỉ có thể phát âm được nhưng không mang một ý nghĩa nào. Trong tiếng Pháp có Pseudomot, trong tiếng Anh có Pseudoword. 2 Thanh cao bao gồm các thanh ngang, ngã, sắc và thanh thấp bao gồm các thanh huyền, hỏi, nặng (Vương Hữu Lễ, Hoàng Dũng, 1993; Hoàng Cao Cương 1989; Kirby, 2010). Sự phân loại này là dựa vào độ cao thấp của âm vực của thanh. 3 Thanh “hỗn hợp” là sự kết hợp giữa một thanh cao và một thanh thấp, ví dụ cặp thanh sắc và nặng trong “phé-phẹ”. 23
- TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 3(68) năm 2015 ___ TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Trần Quốc Duy, A.Content, Nguyễn Thị Ly Kha, Nguyễn Thị Hồng Phượng, Huỳnh Mai Trang, Hoàng Thị Vân (2007), “Bộ trắc nghiệm đánh giá khả năng ngôn ngữ và khả năng tính toán của trẻ từ 6 đến 9 tuổi”, Kỉ yếu Hội thảo khoa học quốc tế “Những khó khăn trong học tập ngôn ngữ và tính toán của học sinh tiểu học”, Trường Đại học Sư phạm TPHCM. 2. Nguyễn Quang Hồng (1994), Âm tiết và các loại hình ngôn ngữ, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 3. Vương Hữu Lễ, Hoàng Dũng (1993), Ngữ âm tiếng Việt hiện đại, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội. 4. Đoàn Thiện Thuật (1977), Ngữ âm tiếng Việt, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 5. Estienne & Piérart (2006), Les bilans de langage et de voix-Fondements théoriques et pratiques, Masson, Paris. 6. Kirby (2010), “Dialect experience in Vietnamese tone perception”, Acoustical Society of America, 3749-3757. 7. Morais, J., Alegria,J. & Content, A. (1987), “The relationships between segmental analysis and alphabetic literacy: an interactive view”, Cahiers de Psychogie Cognitive, 7, 415-438. 8. Piéart, B. (2005), Le langage de l'enfant: comment l'évaluer?, De Boeck, Bruxelles. (Ngày Tòa soạn nhận được bài: 05-10-2014; ngày phản biện đánh giá: 15-3-2015; ngày chấp nhận đăng: 20-3-2015) 24