Tái cấu trúc chuỗi cung ứng toàn cầu: Chiến lược nào cho thương mại Việt Nam?
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tái cấu trúc chuỗi cung ứng toàn cầu: Chiến lược nào cho thương mại Việt Nam?", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- tai_cau_truc_chuoi_cung_ung_toan_cau_chien_luoc_nao_cho_thuo.pdf
Nội dung text: Tái cấu trúc chuỗi cung ứng toàn cầu: Chiến lược nào cho thương mại Việt Nam?
- HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM 28 . 1 Tô Công Nguyên Bảo * Nguyễn Khắc Quốc Bảo* Nguyễn Thị Uyên Uyên* Hồ Thu Hoài* Tóm tắt Covid-19 là chất xúc tác khiến các bất ổn toàn cầu vốn dĩ đã tồn tại càng nghiêm trọng và khó lường. Đại dịch cũng giúp thế giới nhận ra những hạn chế từ chuỗi cung ứng hiện hữu, và những quốc gia tham gia tích cực vào chuỗi giá trị toàn cầu (GVC) như Việt Nam cần phải định hình lại chiến lược thương mại của mình. Khả năng đổ vỡ hệ thống hoàn toàn có thể xảy ra nếu chuỗi cung ứng phụ thuộc quá mức vào một mắt xích, đặc biệt khi mắt xích đó gặp phải những trục trặc. Hơn nữa, sự phát triển của công nghệ góp phần hình thành nhiều hình thái sản xuất mới, các công ty có xu hướng giảm sự phân tán sản xuất và dịch chuyển gần hơn đến thị trường tiêu thụ. Trong lúc này, đừng nhầm lẫn đại dịch là cơ hội, mà chỉ là thời khắc giải tỏa áp lực cho Việt Nam, khi mà việc tái cấu trúc chuỗi cung ứng toàn cầu là quy luật tất yếu. Cục diện thay đổi cho quốc gia nào đã chuẩn bị các giải pháp, nguồn lực và gia tăng nội lực từ trước. Kiểm soát tốt đại dịch và ổn định kinh tế vĩ mô có lẽ là chiến lược “marketing” tốt nhất cho Việt Nam hiện nay. Không có lợi ích nào là miễn phí, Việt Nam phải tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, đồng thời giảm mức độ thâm dụng nguyên liệu nhập khẩu trong hàng hóa xuất khẩu, đây là thước đo độ sâu và hiệu quả trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Từ khóa: Bất ổn toàn cầu, Covid-19, chuỗi cung ứng, thương mại. 1 *Trường Đại học Kinh tế TP. HCM | Email liên hệ: baotcn@ueh.edu.vn 401
- HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM 1. Bất ổn toàn cầu và sự đứt gãy chuỗi cung ứng Đại dịch khiến các bất ổn toàn cầu trở nên nghiêm trọng hơn Đã hơn 1 năm từ khi thế giới ghi nhận ca nhiễm Covid-19 đầu tiên, các quốc gia vẫn đang đối mặt với nhiều nguy cơ tiềm ẩn khi mà các làn sóng dịch bệnh từ nhiều biến chủng khác nhau vẫn đang xuất hiện, có khả năng dẫn đến những hệ lụy nghiêm trọng. Thời thế - Thích ứng - Tương lai là những vấn đề được xem xét trong bài tham luận này. Mọi thứ đang trở nên khác đi khi mà cú sốc phi truyền thống từ Covid-19 vẫn đang len lỏi đến từng ngõ ngách đời sống, làm thay đổi cục diện kinh tế, và chính trị toàn cầu. Có những thứ sẽ không bao giờ trở lại quỹ đạo cũ và không có giải pháp hay chính sách nào là hoàn hảo tuyệt đối, liệu chăng mỗi nền kinh tế, từ Chính phủ đến người dân cần phải chủ động thay đổi, thích nghi để cùng nhau mở ra một chu kỳ phát triển mới. Ngân hàng Thế giới (WB) từng nhận định đại dịch Covid-19 là một cú sốc dai dẳng và bất định bắt nguồn từ quá trình giãn cách, cách ly xã hội với quy mô lớn trên từng quốc gia, vùng lãnh thổ và lan rộng khắp toàn cầu. Tình thế hiện nay cho thấy các bất ổn toàn cầu càng trở nên nghiêm trọng hơn so với trước đây. Đại dịch có lẽ là chất xúc tác làm cho sự đối đầu vì mâu thuẫn lợi ích giữa các quốc gia trở nên căng thẳng hơn bao giờ hết, trong đó có sự trỗi dậy của chủ nghĩa bảo hộ. Minh chứng điển hình là cuộc chiến tranh thương mại Mỹ-Trung, quá trình Brexit ở Anh, hay hành động Mỹ đơn phương dán nhãn thao túng tiền tệ với các đối tác thương mại song phương, xen lẫn đó là cạnh tranh địa chính trị leo thang giữa các cường quốc nhằm thiết lập lại trật tự thế giới. Ở góc độ kinh tế, tính đến tháng 03/2021, các gói giảm đau kinh tế khổng lồ cũng lần lượt được các nước đưa ra, riêng nhóm nước là thành viên của Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) có tổng giá trị các gói hơn 30.000 tỷ USD (ADB, 2021). Gói hỗ trợ kinh tế lớn nhất thế giới với hơn 10.000 tỷ USD đến từ Mỹ, chiếm 47,05% GDP năm 2019 của nước này, Ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB) cũng đã tung ra các gói hỗ trợ kinh tế khoảng 5.608 tỷ USD. Tuy nhiên sự lan tỏa và mức độ hiệu quả của các gói hỗ trợ này cần phải có thêm thời gian kiểm chứng, và trong bối cảnh hiện nay các nền kinh tế vẫn đang “ngập” trong tiền, thanh khoản bị gián đoạn, tiềm ẩn nguy cơ về thâm hụt ngân sách, nợ công, nợ nước ngoài tiếp tục tăng cao. Quan trọng hơn, xuất hiện sự đứt gãy chuỗi cung ứng toàn cầu và sự đảo chiều của các dòng vốn quốc tế. Đồng thời, một bất ổn khác chính là chủ nghĩa đơn phương đang dần lớn mạnh. Dấu hiệu này có thể nhận biết thông qua sự suy yếu của các thiết chế đa phương như Liên Hợp Quốc (UN) và Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) trong cách thức phòng chống Covid-19; Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) trong vai trò giải quyết các tranh chấp thương mại. Những bất định hiện nay đi kèm với diễn biến phức tạp và khó lường, cùng với những thảm họa như Covid-19 càng khiến mỗi quốc gia phải chủ động tự cường trong mọi mặt 402
- HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM từ kinh tế đến chính trị. Mức độ chống chịu của các nền kinh tế đang suy yếu, áp lực cạnh tranh quốc tế càng lớn, thậm chí là phải cạnh tranh ngay trên chính sân nhà. Ngay lúc này, nếu một quốc gia nào phụ thuộc quá nhiều vào ngoại lực bên ngoài, điển hình như trường hợp các quốc gia đang phụ thuộc vào mắt xích Trung Quốc trong chuỗi cung ứng có thể phải đối mặt với những rủi ro từ các cú sốc như chiến tranh thương mại, Covid-19, hoặc sự trỗi dậy của chủ nghĩa đơn phương nhằm khẳng định vị thế cường quốc dẫn dắt thế giới. Hệ miễn dịch của các nền kinh tế đã suy giảm mạnh sau những làn sóng dịch bệnh, dư địa trong chính sách của các quốc gia cũng sụt giảm và khả năng chống chịu trong dài hạn sẽ càng trở nên khó khăn. Sự đứt gãy chuỗi cung ứng toàn cầu: Nguyên nhân tức thời hay quy luật tất yếu? Đại dịch đã gây ra cú sốc cung và cú sốc cầu cho các nền kinh tế trên thế giới, cộng hưởng ở nhiều lĩnh vực khác nhau từ thương mại, du lịch, cung cầu thị trường hàng hóa, tâm lý chi tiêu, và niềm tin của nhà đầu tư. Báo cáo của WB năm 2020 cũng đã ghi nhận hơn 93% các quốc gia có thu nhập bình quân đầu người giảm, một con số kỷ lục trong 150 năm qua. Các biện pháp phòng chống Covid-19 như đóng cửa biên giới, hạn chế xuất nhập cảnh khiến hoạt động thương mại và chuỗi giá trị toàn cầu bị gián đoạn và đứt gãy, đặc biệt là các đầu tàu của chuỗi cung ứng như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Đức, Liên minh Châu Âu (EU). Một cách trùng hợp ngẫu nhiên là các quốc gia này đều chịu sự tàn phá nặng nề từ Covid-19. Mức độ tập trung các cơ sở sản xuất, kinh doanh của 1.000 nhà cung ứng lớn nhất thế giới có đến 12.000 cơ sở tại các khu vực bị cách ly bởi Covid-19, phần lớn đều ở Trung Quốc (VRDF, 2020). Việc này giải thích tại sao lại có sự đứt gãy trong chuỗi cung ứng toàn cầu và tác động nghiêm trọng đến hoạt động thương mại, khi mà chuỗi giá trị toàn cầu (GVC) chiếm hơn 50% giá trị thương mại quốc tế. Ngoài ra, một yếu tố khác đáng cân nhắc đó là việc áp dụng chuyển đổi số trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, điều này có thể khiến các quốc gia tăng cường việc tự động hóa để cải thiện năng lực sản xuất và rút lui khỏi GVC nhằm nội địa hóa nền kinh tế. Đứt gãy chuỗi cung ứng làm tê liệt hoạt động sản xuất do thiếu nguyên vật liệu, thiếu lực lượng lao động, nhu cầu chi tiêu giảm, hệ thống và cách thức vận chuyển hạn chế, đây được xem như là một cú sốc cung của mỗi quốc gia. Nghiên cứu của nhóm chuyên gia từ WB đã cung cấp bằng chứng về năng suất toàn cầu giảm 4% sau ba năm khi bốn dịch bệnh SARS, MERS, Ebola và Zika xuất hiện từ năm 2000. Điều này hàm ý một viễn cảnh tồi tệ hơn với Covid-19, khi mà mức độ ảnh hưởng của đại dịch còn nguy hiểm hơn so với trước đây. Cũng cần nói rõ rằng, trước khi Covid-19 bùng nổ thì sự dịch chuyển và đứt gãy chuỗi cung ứng toàn cầu còn đến từ các đòn trừng phạt lẫn nhau trong thương chiến Mỹ - Trung. Có thể nhận thấy Trung Quốc đã trở thành mục tiêu bị hướng tới, các quốc gia như Mỹ và Nhật Bản đều có những chính sách hỗ trợ các công ty đang có cơ sở 403
- HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM sản xuất tại Trung Quốc hồi hương. Hành động này không chỉ trừng phạt nơi nghi ngờ bắt nguồn của Covid-19 mà sâu xa hơn là hạn chế sự phụ thuộc quá nhiều vào Trung Quốc, một hành động “tháo nút” khỏi nơi được xem là công xưởng của thế giới, một mắt xích lớn trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Thực tế cho thấy, các ngành công nghiệp trên thế giới đang quá phụ thuộc vào Trung Quốc, đặc biệt là các nhóm ngành công nghiệp chế tạo ô tô, máy tính, điện tử, dệt may, dược. Đại dịch càng khiến chuỗi cung ứng toàn cầu gặp khó khăn hơn so với trước, ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động thương mại, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và GVC. Nguyên nhân đến từ các quốc gia đóng vai trò mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng lại là những nơi bị ảnh hưởng nghiêm trọng nhất bởi đại dịch. Số liệu thống kê cho thấy, tăng trưởng thương mại toàn cầu giảm 9,5% trong năm 2020 (WB, 2021). Đồng thời chỉ số quản lý thu mua (PMI) sụt giảm đáng kể trong giai đoạn đầu của đại dịch (Hình 1), mặc dù có dấu hiệu phục hồi trong những tháng gần đây nhưng để quay lại như thời điểm đầu năm 2020 có lẽ cần phải có thêm thời gian và phải kiểm soát tốt Covid-19. Hình 1. Chỉ số PMI sản xuất và dịch vụ toàn cầu, T1.2020 - T11.2020 Dịch vụ Sản xuất 10 0 -10 -20 -30 -40 -50 -60 T1.2020 T2.2020 T3.2020 T4.2020 T5.2020 T6.2020 T7.2020 T8.2020 T9.2020 T11.2020 T10.2020 Nguồn: Tô Công Nguyên Bảo & cộng sự (2021), dữ liệu trích xuất từ WB. Chú ý: giá trị cơ sở là 50. Song song đó, các nền kinh tế cũng chứng kiến xu hướng “quay đầu” của dòng vốn quốc tế, đặc biệt là dòng vốn FDI (Hình 2), điều này cho thấy sự bi quan của các nhà đầu tư trước những bất ổn của thế giới. Số liệu cũng cho thấy dòng vốn tư nhân nước ngoài đổ vào các nền kinh tế đang phát triển đã giảm khoảng 700 tỷ USD trong năm 2020 vừa qua, cao hơn 60% so với cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008-2009. Những bất ổn toàn cầu, chủ nghĩa bảo hộ gia tăng, khuynh hướng ưu tiên thị trường nội địa, sự thoái trào của toàn cầu hóa và đứt gãy trong chuỗi cung ứng có thể được xem là những nguyên 404
- HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM nhân chính. Việc dòng vốn FDI suy giảm cũng đã được Hội nghị Liên Hiệp Quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD) dự báo ở mức giảm 40% trên toàn cầu, xuống dưới 1.000 tỷ USD so với 1.600 tỷ USD của năm 2019, đây là mức thấp nhất kể từ năm 2005. Như vậy, những ảnh hưởng vừa qua đã tạo ra một sự thoái trào trong làn sóng toàn cầu hóa. Điều này cộng hưởng với trào lưu khu vực hóa và sự quay lại thị trường nội địa của các nước sẽ có khả năng dẫn đến việc hình thành một xu hướng toàn cầu hóa theo kiểu mới, hình thành một vòng lưu thông hàng hóa mới. Nội dung này sẽ được trình bày chi tiết hơn ở phần tiếp theo. Hình 2. Dòng vốn FDI vào các nước đang phát triển và mới nổi (EMDEs) (%) EMDEs -21.4 9.4 SSA -5.2 25.6 SAR -11.6 18.7 MNA -36.3 10.0 LAC -20.3 8.8 ECA -26.3 12.3 EAP -21.9 12.5 -45 -30 -15 0 15 30 2020e Bình quân 2001-2019 Nguồn: Nguyễn Khắc Quốc Bảo & Tô Công Nguyên Bảo (2021), dữ liệu trích xuất từ WB, IMF, IIF. Chú ý: EAP = East Asia and Pacific, ECA = Europe and Central Asia, LAC = Latin America and the Caribbean, MNA = Middle East and North Africa, SAR = South Asia, SSA = Sub-Saharan Africa. 2. Thế giới dần định hình lại chuỗi cung ứng toàn cầu giai đoạn hậu đại dịch Phục hồi kinh tế hậu Covid-19: Trạng thái phân lập và điểm gãy xuất hiện Trong giai đoạn đầu của đại dịch, các quốc gia dường như “mắc kẹt” trong câu hỏi làm thế nào để thoát khỏi một trong những cuộc khủng hoảng nặng nề nhất lịch sử và khôi phục trở lại nền kinh tế. Có một sự thừa nhận rằng đại dịch mới là nguyên nhân trọng yếu ảnh hưởng tiêu cực đến kinh tế chứ không phải từ các biện pháp y tế được áp dụng. Do đó, việc ưu tiên chủ động phòng chống, kiểm soát Covid-19 mới thật sự là chìa khóa để trả lời liệu nền kinh tế có thể phục hồi và tăng trưởng, minh chứng là trường hợp hồi phục tăng trưởng chữ V của Việt Nam (2,91%), Trung Quốc (2,3%), những điểm sáng của bản đồ kinh tế thế giới năm 2020. Sự thành công trong công tác chống dịch, kết hợp với những giải pháp từ chính sách tiền tệ và tài khóa tiếp tục củng cố triển vọng phục hồi nền kinh tế ở các quốc gia này, 405
- HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM góp phần rút ngắn khoảng cách hoặc/và bỏ xa các quốc gia khác trong bản đồ kinh tế thế giới, đây chính là trạng thái phân lập trong phục hồi kinh tế hậu đại dịch. Bên cạnh đó, nhu cầu chi tiêu, đầu tư, và hoạt động thương mại toàn cầu đang có dấu hiệu phục hồi do các biện pháp phong tỏa đã được nới lỏng hoặc dỡ bỏ ở một số quốc gia. Tuy nhiên, không phải quốc gia nào cũng cho thấy sự phục hồi nhanh chóng, điều này có thể giải thích từ sự chần chừ trong công tác phòng chống đại dịch ngay từ ban đầu, đó là khi các quốc gia chưa dám đánh đổi kinh tế trong ngắn hạn để hướng đến thành quả dài hạn, xem thường mức độ nguy hại của dịch bệnh. Và câu chuyện ở thời điểm này chính là làm thế nào để có thể thực thi chiến dịch tiêm vắc-xin một cách đồng bộ, nhanh chóng, đồng thời kết hợp với những gói hỗ trợ kinh tế đã và sẽ tiếp tục đưa ra. Hình 3 và Hình 4 đã cho thấy sự khác biệt về tăng tưởng kinh tế của các nước và nhóm nước, kết quả này hàm ý sự khồng đồng đều trong khả năng phục hồi kinh tế giữa các quốc gia. Hình 3. Phục hồi kinh tế của thế giới và khu vực Đông Á-Thái Bình Dương (EAP) Nguồn: Haver Analytics & WB. Chú ý: thời điểm bắt đầu là Q4-2019 với giá trị cơ sở là 100. Trung Quốc và Việt Nam được kỳ vọng có mức tăng trưởng cao trong năm 2021, lần lượt là 8,1% và 6,6% (WB, 2021), và phục hồi về mức trước đại dịch trong những năm tiếp theo. Trong khi đó, một số quốc gia khác trong khu vực EAP dự kiến chỉ tăng trưởng ở mức 4,4%. Thương mại toàn cầu đã có dấu hiệu phục hồi trở lại sau thời gian lao dốc vì Covid-19, đây là một trong những động lực giúp các quốc gia có độ mở thương mại lớn có thể phục hồi nền kinh tế. 406
- HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM Hình 4. Kỳ vọng tăng trưởng kinh tế một số nhóm nước trên thế giới 120.0 115.0 110.0 105.0 100.0 95.0 90.0 85.0 80.0 2019-Q4 2020-Q1 2020-Q2 2020-Q3 2020-Q4 2021-Q1 2021-Q2 2021-Q3 2021-Q4 2022-Q1 2022-Q2 2022-Q3 2022-Q4 Trung Quốc Nhóm nước phát triển Nhóm nước EMDEs Nguồn: Tô Công Nguyên Bảo và cộng sự (2021), dữ liệu trích xuất từ IMF. Chú ý: thời điểm bắt đầu là Q4-2019 với giá trị cơ sở là 100. Kết quả từ các đồ thị trên hàm ý rằng khả năng phục hồi và tăng trưởng kinh tế thế giới và ở mỗi quốc gia phụ thuộc chính vào năng lực kiểm soát và khắc chế đại dịch, sau đó là tận dụng sự phục hồi trong hoạt động thương mại quốc tế khi mà nhu cầu chi tiêu đã quay trở lại, kết hợp với thực thi hiệu quả các chính sách tiền tệ và tài khóa trong nền kinh tế. Bên cạnh đó là tăng cường khả năng thích ứng trước những bất ổn khó lường trước của thế giới như thiên tai, chính trị, biến cố bất ngờ. Như trường hợp siêu tàu Ever Given mắc kẹt tại kênh đào Suez, một trong những tuyến hàng hải thương mại lớn nhất thế giới với khoảng 15% lưu lượng vận chuyển đã gây áp lực lớn lên chuỗi cung ứng toàn cầu, số liệu thống kê không chính thức cho thấy biến cố này làm giảm tăng trưởng thương mại khoảng 0,2-0,4%. Những mắt xích yếu thế sẽ ra sao? Các quốc gia có những quyết sách kiểm soát đại dịch mạnh mẽ như Việt Nam và Trung Quốc ở giai đoạn đầu, hay thực thi chiến dịch tiêm vắc-xin nhanh chóng, đồng bộ như ở Mỹ và Anh gần đây, kết hợp cùng các gói hỗ trợ kinh tế hiện có đã giúp đảo ngược phần nào những tác động bất lợi từ Covid-19. Tuy nhiên, không phải quốc gia nào cũng có đủ nguồn lực và sự mạnh dạnh để thực thi các chính sách trên, việc này khiến thế giới trở nên bị chia rẽ giữa nhóm các nước phục hồi với các nước chưa hoặc chậm phục hồi kinh tế. Tình trạng này cho thấy sự thiếu liên kết giữa các mắt xích trong hệ thống tài chính toàn cầu (WB, 2021). Điều này hàm ý, những tác động tích cực từ các gói kích thích kinh tế khổng lồ như trường hợp Mỹ, một sự trở lại mạnh mẽ bằng chiến dịch vắc-xin thần tốc có thể không con sức lan tỏa toàn cầu như trước khi mà không phải quốc gia nào cũng có 407
- HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM thể thực hiện chiến dịch tiêm vắc-xin toàn dân. Liệu chăng sự chia rẽ và tồn tại mất cân đối đang xảy ra, và hệ lụy này góp phần gây nên quá trình phân rã chuỗi cung ứng toàn cầu trước đây. Sự hồi phục kinh tế của Mỹ trong thời gian gần đây đã mang lại những sức bật cho kinh tế thế giới, nhưng không phải là cho tất cả các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang chống chọi với dịch bệnh. Số liệu tính toán từ ECB minh chứng việc Mỹ thực thi các gói kích thích kinh tế khổng lồ trong thời gian qua có thể làm gia tăng mức tăng trưởng kinh tế ở khu vực EU lên thêm 0,1% trong năm 2021 (đạt 4,1%), và thêm 0,2% vào năm 2022 (đạt 4,3%). WB (2021) cũng ghi nhận mức độ phục hồi kinh tế toàn cầu nhờ vào những kết quả tích cực gần đây của Mỹ có thể thúc đẩy mức tăng trưởng kinh tế bình quân lên 1 điểm phần trăm. Ở chiều ngược lại, các quốc gia không đủ tiềm lực cho công cuộc chống chọi với Covid-19 có thể sẽ bị loại khỏi “cuộc chơi” với các quốc gia khác, đặc biệt là trong hoạt động thương mại quốc tế, một nhân tố quan trọng trong GVC. Không phải ngẫu nhiên mà Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) đã hạ dự báo tăng trưởng kinh tế đối với các nhóm nước Châu Phi, trong khi kinh tế toàn cầu đang phục hồi. Dưới tác động của Covid-19, có lẽ các nước nghèo sẽ càng bị tụt hậu xa hơn, sự phân lập này làm gia tăng bất bình đẳng toàn cầu. Xu hướng tái cấu trúc chuỗi cung ứng toàn cầu và thiết lập lại trật tự quốc tế Covid-19 đã giúp các công ty nhận thấy tính rủi ro và đầy bất ổn của các chuỗi cung ứng toàn cầu, đặc biệt là khi phụ thuộc quá nhiều vào một nguồn cung duy nhất sẽ gây đổ vỡ hệ thống, như trường hợp phụ thuộc vào Trung Quốc hiện nay, một “công xưởng của thế giới”. Chuỗi cung ứng này dễ dàng bị một cú sốc như đại dịch bẻ gãy và không có gì chắc chắn rằng sẽ không lặp lại một cách tương tự trong tương lai. Vì vậy, xu hướng hiện nay cho thấy việc thiết lập các nguồn cung ứng và chuỗi giá trị về gần hơn là cần thiết để dễ kiểm soát, đồng thời tính đa dạng hóa cũng được đề cao hơn. Cuộc chiến tranh thương mại Mỹ-Trung trước đó cũng phần nào đã khởi động và thúc đẩy tiến trình này khi Trung Quốc nghĩ rằng cần có chiến lược làm suy yếu vai trò dẫn đầu của Mỹ trong thương mại toàn cầu. Covid-19 càng khiến cho Trung Quốc tin rằng vai trò trung tâm của Mỹ trong chuỗi cung ứng toàn cầu sẽ dần biến mất. Trung Quốc đã đưa ra chính sách kinh tế mang tên “vòng lưu thông kép” để thực hiện ý đồ chiến lược trên. Xu hướng toàn cầu hóa kiểu mới là một cấu trúc đa phương chứ không còn vị thế độc tôn của Mỹ như trước đây (Hình 5). Vòng lưu thông bên ngoài bao gồm ba khu vực là Châu Âu, Bắc Mỹ, và châu Á sẽ giao thương trên quy mô khu vực. Trong khi đó, "vòng lưu thông nội bộ" sẽ khẳng định vị thế chủ chốt của nền kinh tế Trung Quốc trong hoạt động giao thương ở khu vực châu Á. Một xu hướng theo kiểu Trung Quốc sẽ là “cửa ngõ” để các nền kinh tế trong khu vực tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Điều này khiến cho 408
- HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM vị thế của Trung Quốc được nâng tầm nhằm có thể sánh vai ngang hàng với Mỹ trong xu hướng toàn cầu hóa mới. Hình 5. Toàn cầu hóa và các đầu tàu trong chuỗi cung ứng mới Đông Âu Mexico ĐỨC MỸ PHÁP TOÀN CẦU Tây Âu Canada HÓA KHU VỰC KHU VỰC CHÂU ÂU BẮC MỸ KHU VỰC Trung tâm tiêu thụ CHÂU Á của khu vực Vòng lưu thông nội bộ của Nhật Bản Đông Âu Hàn Quốc TRUNG QUỐC Trung tâm chuỗi cung ứng của khu vực Nguồn: Nguyễn Khắc Quốc Bảo & Tô Công Nguyên Bảo (2021). Viễn cảnh một trật tự thế giới mới có thể được thiết lập hậu Covid-19. Điều này càng rõ ràng hơn khi xét trong bối cảnh thế giới vốn đã chứa đựng nhiều bất ổn, điển hình là sự so kè giữa Mỹ và Trung Quốc, đây là cuộc chiến cho vị thế ai sẽ cường quốc số một thế giới trong tương lai, chứ hoàn toàn không phải vì thâm hụt thương mại, đầu tư hay công nghệ. Sự cấu trúc lại trong nền kinh tế toàn cầu sẽ là thời cơ mà Trung Quốc có thể tận dụng để rút ngắn khoảng cách với các quốc gia khác trên phương diện kinh tế lẫn chính trị. Bằng việc kiểm soát quyết liệt dịch bệnh trong giai đoạn đầu, Trung Quốc đã đi trước trong quá trình khởi động các chính sách hồi phục và kích thích nền kinh tế so với Mỹ. Trong nguy có cơ, nền kinh tế ở vị trí số hai dường như đang tận dụng thời cơ ngàn năm có một để thu hẹp khoảng cách với Mỹ, cũng như nới rộng khoảng cách với các quốc gia đang bám sát phía sau như Nhật Bản, Đức, Ấn Độ, từ đó nâng tầm vị thế với phần còn lại của thế giới. Kỷ nguyên hậu Covid-19, thế giới sẽ phải trải qua thời kỳ quá độ để hình thành một trật tự thế giới mới, đây là một quy luật tất yếu trước những bất ổn hiện nay. Khi mà các quốc gia từng có vị thế quan trọng từ kinh tế đến chính trị bị suy yếu như Mỹ thì các quốc gia khác như Trung Quốc đang dần tạo ra sức ảnh hưởng nhằm định hình lại trật tự thế giới. 409
- HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM Hình thái sản xuất mới trong chuỗi cung ứng toàn cầu Đại dịch không phải là nguyên nhân duy nhất làm thay đổi cấu trúc của chuỗi giá trị toàn cầu, có lẽ chỉ là chất xúc tác làm quá trình này nhanh hơn. Kể từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008-2009 thì việc sản xuất thâm dụng nguyên liệu nhập khẩu trong xuất khẩu đã giảm rõ rệt (UNCTAD, 2020). Nhìn lại lịch sử hơn 30 năm qua, hệ thống sản xuất phi tập trung đã phát huy hiệu quả và đóng góp lớn vào GVC, nhưng lại phụ thuộc vào khả năng giao thương, vận chuyển, và các chính sách thương mại khác nhau của mỗi quốc gia. Covid-19 đã làm cho những yếu tố này bị triệt tiêu khi mà việc đóng cửa biên giới, giãn cách xã hội được áp dụng, khiến hoạt động sản xuất gián đoạn (Hình 6). Và sâu xa hơn là những cuộc cạnh trạnh địa chính trị của các cường quốc có tác động tiêu cực đến GVC. Một nguyên nhân khác được đưa ra đó là xu hướng hạn chế sản xuất phân tán của các công ty đa quốc gia, khi mà yếu tố công nghệ có thể giúp cải thiện năng lực sản xuất, giảm chi phí thay vì phải chuyển cơ sở sản xuất đến một quốc gia đang có thâm dụng lao động. Xét ở dài hạn, các quốc gia đang có lợi thế về lao động rẻ phải đối mặt với sự phát triển của công nghệ số, các công ty nước ngoài sẽ có xu hướng chuyển dịch về nơi gần với thị trường tiêu thụ hơn để giảm chi phí vận chuyển, và tăng tốc độ bán hàng. Kết hợp với những bất ổn hiện có, hoạt động sản xuất của các công ty thuộc chuỗi cung ứng sẽ phải tái cấu trúc, buộc các nhà điều hành công ty phải suy nghĩ về việc có nên tiếp tục phân tán sản xuất nữa hay không. Đại dịch đã khiến các hạn chế từ chuỗi cung ứng trước đây hiện rõ, liệu chăng tương lai sẽ còn nhiều cuộc khủng hoảng như vậy, và việc hình thành những mô hình sản xuất mới là cần thiết, khi mà quy luật “thay đổi hoặc bị đào thải” luôn tồn tại. Hình 6. Tăng trưởng thương mại toàn cầu và dòng vốn FDI đầu tư nước ngoài (%) 15.00 10.00 5.00 0.00 -5.00 -10.00 -15.00 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019 2020 2021 2022 2023 2024 2025 Thương mại toàn cầu (%) FDI (% GDP) Nguồn: Tô Công Nguyên Bảo & cộng sự (2021), dữ liệu trích xuất từ IMF. 410
- HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM Trung Quốc khẳng định vị thế trong thương mại quốc tế Trong năm 2020, kinh tế Trung Quốc đã phục hồi một cách mạnh mẽ khi mà thế giới vẫn đang đối mặt với cuộc đại suy thoái phong tỏa. Mặc dù chịu những tác động bất lợi từ Covid-19, thương chiến với Mỹ, và những bất ổn của thế giới nhưng thặng dư thương mại của Trung Quốc vẫn tăng trưởng và đóng góp khoảng 15% vào GDP trong 09 tháng đầu năm 2020. Với khối lượng thương mại toàn cầu giảm khoảng 9,5% trong năm 2020 (WB, 2021), Trung Quốc sẽ tiếp tục gia tăng chiếm lĩnh thị phần thương mại và khẳng định vị thế mới trên trường quốc tế. Cách thức vượt qua khủng hoảng của Trung Quốc trước sự tàn phá của Covid-19 và những bất ổn của thế giới đã cho thấy sự khác biệt với Mỹ trong năm 2020. Một điểm thú vị đó là hoạt động thương mại của Trung Quốc đã tăng vọt và đóng góp khoảng 15% vào GDP của 9 tháng năm 2020. Xuất khẩu lũy kế tăng 0,5%, kết quả này nhờ vào sự phục hồi nhanh chóng của công nghiệp sản xuất và giá trị gia tăng công nghiệp gần như quay lại mức ngang bằng so với trước đại dịch xảy ra, một yếu tố mà Mỹ đang gặp khó khăn. Trung Quốc đã cho thấy sự phục hồi công nghiệp nhanh chóng sau khi lao dốc ở mức khoảng -26% vào tháng 2/2020 (Hình 7), việc phục hồi đã mở đường cho triển vọng tăng trưởng xuất khẩu của quốc gia này. Cục Thống kê Quốc gia Trung Quốc (NBS) ghi nhận tăng trưởng trong giá trị gia tăng công nghiệp tháng 08, 09 lần lượt là 5,6% và 6,9% so với cùng kỳ năm 2019, lũy kế trong 09 tháng đầu năm 2020 tăng 1,2%. Tháng 10-2020 vẫn duy trì ở mức 6,9%, như vậy sự tăng trưởng công nghiệp đã quay lại ở mức gần như ngang bằng với trước khi đại dịch xảy ra. Điều này hàm ý nhu cầu của thế giới đối với hàng hóa Trung Quốc đang dần quay trở lại và tăng nhanh trong những tháng gần đây, đặc biệt là với các đối tác thương mại quan trọng như các quốc gia thành viên ASEAN, Liên minh Châu Âu (EU), Mỹ, Nhật. Kết quả này đã góp phần vào mức tăng trưởng kinh tế 2,3% trong năm 2020 của nền kinh tế lớn thứ hai thế giới. Sự phục hồi của kinh tế Trung Quốc, điển hình là hoạt động thương mại đến từ những quyết sách mạnh dạn để kiểm soát sự lây lan của đại dịch Covid-19, đây là nhân tố quyết định đến việc liệu nền kinh tế có phục hồi và tăng trưởng. Bên cạnh đó, hoạt động thương mại toàn cầu đang có dấu hiệu phục hồi do các biện pháp phong tỏa đã được nới lỏng hoặc dỡ bỏ ở một số quốc gia. Covid-19 đã gây ra sự đứt gãy trong chuỗi cung ứng và làm các hoạt động sản xuất tê liệt vì thiếu lao động, việc vận chuyển gặp phải khó khăn. Lượng cung hàng hóa toàn cầu vẫn đang thiếu hụt trong khi đó nhu cầu chi tiêu đã bắt đầu phục hồi. Do đó, các quốc gia nào càng kiểm soát tốt Covid-19 thì sẽ càng nhanh chóng quay lại “đường đua” chiếm lĩnh thị phần thương mại toàn cầu và Trung Quốc đang cho thấy điều đó. 411
- HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM Hình 7. Tăng trưởng trong giá trị gia tăng công nghiệp của Trung Quốc, T9.2019-T10.2020 15% 10% 5% 0% -5% -10% -15% -20% -25% -30% 2019M09 2019M10 2019M11 2019M12 2020M01 2020M02 2020M03 2020M04 2020M05 2020M06 2020M07 2020M08 2020M09 2020M10 Nguồn: Nguyễn Khắc Quốc Bảo & Tô Công Nguyên Bảo (2020), dữ liệu trích xuất từ NBS. 3. Vị thế của thương mại Việt Nam trong chuỗi cung ứng toàn cầu Những số liệu thống kê ấn tượng về thương mại Việt Nam Hoạt động thương mại của Việt Nam trong giai đoạn vừa qua đã có những chuyển biến tích cực mặc dù toàn cầu đang chịu sự tàn phá của Covid-19 và những bất ổn vốn dĩ đã tồn tại. Việt Nam có tổng kim ngạch xuất nhập khẩu trong năm 2020 đạt 543,9 tỷ USD, tăng 5,1% so với cùng kỳ, đạt mức xuất siêu kỷ lục là 19,1 tỷ USD kể từ năm 2016 (GSO, 2021). Đây là một dấu hiệu tích cực trong bối cảnh mà thế giới phải đối mặt với nhiều khó khăn do đại dịch Covid-19 và những bất định vốn đã tồn tại trước đây. Số liệu thống kê từ GSO cho thấy kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu hàng hóa tiếp tục gia tăng với mức 281,5 tỷ USD (tăng 6,5%) và 262,4 tỷ USD (tăng 3,6%). Các mặt hàng góp phần vào tăng trưởng thương mại chủ yếu là nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản (tăng 11,3%), nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp (tăng 2,4%). Ở chiều ngược lại, các mặt hàng nông, lâm sản, thủy sản đã chứng kiến sự suy giảm. Mỹ và Trung Quốc là hai thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch 76,4 tỷ USD (tăng 24,5%) và 48,5 tỷ USD (tăng 17,1%). Đối với những đối tác thương mại khác, xuất khẩu của Việt Nam sang EU, ASEAN, Nhật Bản, Hàn Quốc đã chứng kiến sự sụt giảm lần lượt là -2,7%, -8,7%, -5,7%, và -5,1%. Mối quan hệ giữa Việt Nam với Mỹ và Trung Quốc đang cho thấy sự trái ngược đáng kể, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ đang tăng nhanh và đạt thặng dư thương mại 62,7 tỷ USD so với thời điểm 2010 chỉ khoảng 12,4 tỷ USD. Việt Nam vẫn là một quốc gia nhập siêu từ Trung Quốc với kim ngạch nhập khẩu 83,9 tỷ USD (tăng 11,2%), thâm hụt thương mại ở mức 35,4 tỷ 412
- HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM USD. Bên cạnh đó, kim ngạch nhập khẩu ở các đối tác thương mại quan trọng khác lại giảm như Hàn Quốc (giảm 1,5%), ASEAN (giảm 6,9%), Mỹ (giảm 4,9%). Khi xem xét hoạt động thương mại của các nhóm nước thuộc khu vực Đông Á và Thái Bình Dương (EAP), dễ dàng nhận thấy Việt Nam là quốc gia có mức tăng trưởng về giá trị hàng hóa xuất nhập khẩu cao nhất (Hình 8), hàm ý khả năng phục hồi trong hoạt động giao thương quốc tế hậu Covid-19. Nhìn chung, xuất khẩu trong khu vực đang phục hồi nhanh hơn nhập khẩu, điều này phản ánh sự trở lại của hoạt động sản xuất từ các mắt xích trong chuỗi cung ứng, trong khi đó nhu cầu chi tiêu hàng hóa nhập khẩu trong nước vẫn yếu hơn. Hình 9 cũng đưa ra bằng chứng về nhóm các nước ASEAN-5 có xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ sang Mỹ nhiều hơn so với Trung Quốc và các đối tác thương mại lớn khác, trong khi đó nhóm nước này lại nhập khẩu từ Trung Quốc nhiều nhất. Các xu hướng này hoàn toàn tương đồng với các số liệu thống kê về hoạt động thương mại của Việt Nam trong năm 2020 đã trình bày. Quan sát chỉ số nhập khẩu hàng hóa từ Trung Quốc (IMPCH) và Việt Nam (IMP5520) trong giai đoạn 2015-2020 của Mỹ, kết quả đã cho thấy sự trái ngược đáng kể. Dựa trên số liệu của FRED, có thể nhận thấy xuất hiện sự chuyển dịch thương mại mạnh mẽ giữa Mỹ với Trung Quốc và Việt Nam kể từ khi thương chiến xảy ra vào đầu năm 2018, và đại dịch đầu năm 2020. Với giá trị cơ sở là 100 vào tháng 01-2015, chỉ số IMP5520 từ Việt Nam đạt mức cao nhất là 310,1 vào tháng 08/2020, trong khi đối với chỉ số IMPCH từ Trung Quốc chỉ 105,8 (Hình 10). Kết quả này cũng đặt ra nhiều thách thức cho Việt Nam khi mà Mỹ có thể đưa ra giả thuyết có tồn tại hiện tượng hàng hoá Trung Quốc chuyền tải qua Việt Nam, dán nhãn “Made in Vietnam” sau đó xuất qua Mỹ. Hình 8. Xuất khẩu và nhập khẩu của các nhóm nước EAP (%), T8.2018-T2.2021 Nguồn: Haver Analytics. 413
- HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM Hình 9. Xuất khẩu và nhập khẩu của ASEAN-5 với một số đối tác (%), 2019-2020 A. Tăng trưởng xuất khẩu B. Tăng trưởng nhập khẩu 15% 13.9% 15% 13.4% 11.8% 10% 7.5% 10% 8.0% 5% 3.3% 4.5% 0% 5% 2.2% -5% -2.6%-2.9% -3.3% 0.3% -10% 0% -9.4% -0.1% -15% -1.7% -5% -20% -17.1% Tổng Trung Quốc Mỹ EU Tổng Trung Quốc Mỹ EU T1-T12, 2019 T1-T12, 2020 T1-T12, 2019 T1-T12, 2020 Nguồn: Tô Công Nguyên Bảo & cộng sự (2021), dữ liệu trích xuất từ WB. Ghi chú: ASEAN-5 bao gồm các quốc gia Indonesia, Malaysia, Philippines, Thái Lan và Việt Nam. EU đại diện cho 27 quốc gia thuộc Liên minh Châu Âu. Hình 10. Chỉ số nhập khẩu hàng hóa của Mỹ từ Trung Quốc và Việt Nam, T1.2015-T9.2020 Nhập khẩu từ Việt Nam Nhập khẩu từ Trung Quốc 350.0 300.0 250.0 200.0 150.0 100.0 50.0 0.0 2015-01 2015-07 2016-01 2016-07 2017-01 2017-07 2018-01 2018-07 2019-01 2019-07 2020-01 2020-07 Nguồn: Nguyễn Khắc Quốc Bảo & Tô Công Nguyên Bảo (2020), dữ liệu trích xuất từ Fred. Chú ý: thời điểm bắt đầu là tháng 1-2015 với giá trị cơ sở là 100. Việt Nam liệu có trở thành “hạt nhân” mới của chuỗi cung ứng toàn cầu Việt Nam hiện là một trong những nền kinh tế có độ mở thương mại lớn nhất thế giới, với hơn 200% GDP, cao hơn 1,5 lần so với Thái Lan và 5 lần so với Trung Quốc. Việc ký kết 14 Hiệp định thương mại tự do (FTA) đã giúp Việt Nam tiếp cận với nhiều thị trường tiềm năng và đa dạng hóa chuỗi cung ứng. Các FTA quan trọng như Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Thương mại 414
- HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM tự do (EVFTA) và Hiệp định Bảo hộ đầu tư (EVIPA) với Liên minh Châu Âu, Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện khu vực (RCEP), và Hiệp định thương mại tự do Việt Nam- Vương Quốc Anh (UKVFTA). Cùng với đó, xu hướng thiết lập một cấu trúc đa phương theo kiểu toàn cầu hóa mới sẽ mở ra nhiều “sân chơi” cho thị trường gần 100 triệu dân thuộc khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, nơi đang đóng vai trò chiến lược và tiếp tục là động lực quan trọng của thương mại toàn cầu. Tuy nhiên, cần phải nhận thức rõ và tránh nhầm lẫn Covid-19 đang là cơ hội cho Việt Nam, đây chỉ là thời khắc để thay đổi cục diện và vị thế của các nước nếu đã có sự chuẩn bị sẵn sàng từ giải pháp đến nguồn lực cho một tương lai mới, vấn đề ở đây chính là phát huy nội lực trong nước và tránh phụ thuộc quá mức vào ngoại lực, đặc biệt là phụ thuộc vào một quốc gia nào đó bên ngoài. Việc kiểm soát tốt đại dịch được xem như là chiến lược “marketing” tốt nhất trong giai đoạn hiện nay, kết hợp với mức độ ổn định chính trị, các chính sách tạo điều kiện thu hút nhà đầu tư nước ngoài, Việt Nam kỳ vọng sẽ đón nhận xu hướng chuyển dịch của các công ty đa quốc gia (MNCs) từ công xưởng Trung Quốc do căng thẳng thương mại Mỹ-Trung, cũng như chi phí lao động ở Trung Quốc đang tăng cao (WB, 2020). Một trong những dấu hiệu đáng tin cậy có thể tin rằng các công ty đang dịch chuyển sản xuất sang Việt Nam chính là Chính phủ Việt Nam đang không ngừng cải thiện môi trường kinh doanh, cải cách chính sách, và thực hiện số hóa nền kinh tế, cùng với các hiệp định FTA được ký kết trong thời gian qua. Tuy nhiên, không có bất kỳ lợi ích nào là miễn phí, đi kèm với đó luôn là những thách thức phải đương đầu, đặc biệt trước những bất ổn hiện nay như cú sốc phi truyền thống từ đại dịch, sự trỗi dậy của chủ nghĩa đơn phương, gia tăng cạnh trạnh địa chính trị giữa các nước lớn, và một kỷ nguyên công nghệ số đang mở ra đòi hỏi Chính phủ, người dân phải thay đổi để thích ứng. Chiến lược “Trung Quốc+1” và giai đoạn chuyển mình cho Việt Nam Xu hướng trong giai đoạn vừa qua cho thấy các công ty MNCs đang áp dụng chiến lược “Trung Quốc+1” để phân tán rủi ro trong hoạt động sản xuất, bằng cách chuyển cơ sở sản xuất sang một quốc gia khác, nơi có chi phí sản xuất rẻ hơn (Hình 11). Bên cạnh đó, căng thẳng Mỹ-Trung làm môi trường đầu tư ở Trung Quốc càng trở nên rủi ro hơn, đồng thời cho thấy việc phụ thuộc quá nhiều vào một mắt xích thuộc chuỗi cung ứng sẽ đối mặt với nhiều rủi ro khi mắt xích này gặp phải trục trặc. Đại dịch dường như đang giải tỏa áp lực để giúp Việt Nam tiếp cận và tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu để có thể trở thành một “hạt nhân” mới trong chuỗi giá trị toàn cầu. Các những nhân tố đang góp phần làm nhanh hơn quá trình này đó là: (1) Hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam có những điểm tương đồng với hàng hóa xuất khẩu của Trung Quốc (Hình 12); (2) Chi phí lao động ở Việt Nam thấp hơn so với Trung Quốc (Hình 13); và (3) Môi trường kinh doanh và năng 415
- HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM lực cạnh trạnh ở Việt Nam được cải thiện (Hình 14). Tuy nhiên cũng cần phải nhìn nhận lại rằng, mặc dù chi phí lao động ở Việt Nam rẻ nhưng kèm với đó là năng suất lao động cũng thấp hơn so với Trung Quốc (WB, 2020). Đồng thời xếp hạng trong môi trường kinh doanh và chỉ số cạnh tranh dù có cải thiện so với trước đây nhưng vẫn còn khiêm tốn so với các quốc gia khác trong khu vực như Thái Lan, Malaysia. Hình 11. Điểm đến của các công ty điện tử đã rời khỏi Trung Quốc gần đây (số công ty) Đài Loan 10 Việt Nam 9 Thái Lan 4 Mexico 4 Cộng hòa Czech 3 Indonesia 1 Philippines 1 Ấn Độ 1 Mỹ 1 0 2 4 6 8 10 12 Nguồn: Tô Công Nguyên Bảo & cộng sự (2021), dữ liệu trích xuất từ WB. Hình 12. Tính tương đồng trong hàng hóa xuất khẩu của một số quốc gia so với Trung Quốc năm 2019 (%) 60.0% 53.4% 50.0% 47.1% 44.1% 43.6% 40.8% 40.4% 39.2% 40.0% 37.6% 30.0% 20.0% 18.2% 13.4% 9.3% 10.0% 0.0% Việt Nam Thái Lan Hàn Quốc Đài Loan Nhật Bản Malaysia Philippines Ấn Độ Camdodia Myanmar Lào Nguồn: Tô Công Nguyên Bảo & cộng sự (2021), dữ liệu trích xuất từ UNComtrade. 416
- HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM Hình 13. Mức lương lao động bình quân ngành chế tác năm 2019 ($1.000) Nguồn: Dữ liệu khảo sát từ JETRO (2019). Hình 14. Xếp hạng môi trường kinh doanh và chỉ số cạnh tranh của Việt Nam A. Xếp hạng môi trường kinh doanh B. Xếp hạng chỉ số cạnh tranh 144 87 133 122 75 68 64 67 93 95 89 54 50 49 70 73 63 40 36 29 28 24 27 31 23 21 12 12 2010 2020 2010 2020 Nguồn: Tô Công Nguyên Bảo & cộng sự (2021), dữ liệu trích xuất từ WB. Chuyển mình nhưng cần thận trọng: Câu chuyện về cáo buộc thao túng tiền tệ Ngày 29/5/2019, Việt Nam lần đầu tiên nằm trong danh sách theo dõi tiền tệ, thương mại của Bộ Tài chính Hoa Kỳ (USDT) và Bộ Thương mại Hoa Kỳ (USDC). Và động thái mạnh mẽ nhất vào ngày 16/12/2020, trong giai đoạn chuyển giao của chính quyền Donald Trump, Mỹ đã dán nhãn Việt Nam là quốc gia thao túng tiền tệ. Thao túng tiền tệ được hiểu là hành vi tích lũy quá nhiều ngoại tệ để giữ giá trị đồng tiền nhằm đạt được những lợi ích không công bằng trong thương mại toàn cầu. Cáo buộc của Mỹ đã gây ra rất nhiều tranh cãi và hầu hết các chuyên gia đều cho rằng Mỹ đã quá vội vàng. IMF cũng đã khuyến cáo các hành động bất thường như vậy sẽ gây ra những thách thức lớn trong cách 417
- HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM thức điều hành chính sách tiền tệ độc lập của một quốc gia và có thể dẫn đến căng thẳng thương mại ngày càng leo thang. Hành động của Mỹ tưởng chừng là gây bất ngờ nhưng thật sự lại không bất ngờ vì việc này có thể được dự báo trước, đặc biệt là đối với chính quyền của Tổng thống Trump lúc bấy giờ, ưu tiên giải quyết thâm hụt thương mại và tăng cường bảo hộ. Khi mà thặng dư thương mại của Việt Nam với Mỹ đã đạt 62,7 tỷ USD trong năm 2020, so với chỉ 10,5 tỷ USD ở năm 2010. Cụ thể, Luật Thương mại Hoa kỳ cho phép áp thuế đối kháng (CVDs) với các đối tác thương mại đang có hành vi trợ cấp cho hàng hóa xuất khẩu của họ. Ngày 1/11/2020, USDC cho rằng những hành động tiền tệ của Việt Nam có dấu hiệu trợ cấp cho xuất khẩu mặt hàng lốp xe hạng nhẹ với tỷ lệ từ 6,23% đến 10,08%. USDT cũng cáo buộc VND đang bị định giá thấp hơn khoảng 4,7% so với USD trong năm 2019. Cũng cần nói thêm rằng, để áp đặt CVDs, Ủy ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ cần phải cung cấp bằng chứng về việc các doanh nghiệp chịu thiệt hại từ những hành động trợ cấp của các đối tác thương mại song phương. Tuy nhiên, Mục 301 của Đạo luật Thương mại Hoa Kỳ năm 1974 lại cho phép Mỹ trả đũa các quốc gia có hành vi thương mại không công bằng. Cơ quan Đại diện Thương mại Hoa Kỳ (USTR) đã tiến hành một cuộc điều tra vào ngày 10/10/2020 về hành động tiền tệ của Việt Nam do nghi ngờ Việt Nam đã hạ giá trị đồng tiền của mình bằng cách mua 22 tỷ USD trong năm 2019. Phía Mỹ cũng ghi nhận từ tháng 6/2019 đến tháng 6/2020, Việt Nam đã mua thêm 16,8 tỷ USD ngoại tệ, tương ứng 5,1% GDP, những số liệu dẫn đến cáo buộc thao túng tiền tệ do Mỹ đưa ra. Cách mà Mỹ chỉ định Việt Nam là quốc gia thao túng tiền tệ thông qua tiêu chí thặng dư thương mai song phương (từ 20 tỷ USD), thặng dư cán cân vãng lai (từ 2% GDP), và việc mua ròng ngoại tệ trong 12 tháng (từ 2% GDP) là mang tính áp đặt và hoàn toàn không có cơ sở khoa học (Bao & Bao, 2021). Việc can thiệp vào thị trường ngoại hối để ổn định tỷ giá là cần thiết để kiểm soát lạm phát, không chủ đích để đạt các lợi thế cạnh trạnh không công bằng trong quan hệ thương mại song phương. Số liệu thống kê từ GSO cũng đã minh chứng SBV điều hành tỷ giá trung tâm có chừng mực, điều chỉnh từng bước và không hướng đến việc phá giá đồng tiền để hỗ trợ xuất khẩu như Mỹ cáo buộc. Hỗ trợ cho lập luận này là số liệu từ báo cáo của IMF đưa ra bằng chứng VND bị định giá cao đến 15,2%, áp dụng mô hình tỷ giá hiệu dụng thực. Bên cạnh đó, trong giai đoạn hỗ trợ khắc phục sự tàn phá của đại dịch, mức lãi suất ở Mỹ đã thấp kỷ lục gần tiến về 0 và do đó lý thuyết ngang bằng lãi suất sẽ cho thấy Mỹ mới là quốc giá giảm giá trị đồng tiền của mình. Đồng thời mức tỷ giá hối đoái thực sau khi hiệu chỉnh lạm phát của Việt Nam vẫn ổn định kể từ năm 2016 và có thể đang bị định giá cao (IMF, 2020). Xét ở tiêu chí dự trữ ngoại hối, IMF khuyến khích mức dự trữ trong khoảng từ 3 đến 6 tháng nhập khẩu. Do đó, với lượng dự trữ ngoại tệ khoản 100 tỷ USD năm 2020 của Việt Nam là hoàn toàn phù hợp. Kết quả có 418
- HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM được trong thời gian qua đến từ những quyết sách phòng chống dịch hiệu quả của Việt Nam, thực thi thành công mục tiêu kép để có thể phục hồi và tăng trưởng kinh tế, kết hợp với quá trình hội nhập quốc tế và đa dạng chuỗi cung ứng toàn cầu. Từ câu chuyện này, có thể thấy song song với những cơ hội và tiềm năng thì những thách thức vẫn luôn hiện hữu, câu chuyện về thao túng tiền tệ nêu trên là một trong những vấn đề như vậy. Đại dương thường phẳng lặng trước và sau những cơn bão tử thần, nếu không có sự chuẩn bị kỹ lưỡng từ việc định hướng chiến lược, dư địa chính sách, và nguồn lực thì việc ứng phó với những bất ổn sẽ càng khó khăn và dẫn đến những hệ lụy khôn lường. 4. Kết luận và những nguyên tắc trong thiết kế chính sách thương mại Những kết luận trọng tâm ▪ Covid-19 khiến các bất ổn toàn cầu trở nên nghiêm trọng hơn. Đại dịch có lẽ là chất xúc tác làm cho sự đối đầu vì mâu thuẫn lợi ích giữa các quốc gia càng trở nên căng thẳng, chủ nghĩa đơn phương đang dần chiếm ưu thế. ▪ Sự đứt gãy chuỗi cung ứng toàn cầu và các dòng vốn quốc tế đảo chiều. Các mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Đức, EU lại là những nơi bị ảnh hưởng nghiêm trọng nhất bởi đại dịch. Cùng với những bất ổn toàn cầu, chủ nghĩa bảo hộ gia tăng, sự thoái trào của toàn cầu hóa, và hạn chế phụ thuộc quá nhiều vào Trung Quốc, đây là một hành động “tháo nút”. ▪ Trạng thái phục hồi không đồng bộ giữa các nền kinh tế hậu Covid-19. Chủ động phòng chống dịch bệnh là chìa khóa để phục hồi và tăng trưởng kinh tế. Một số quốc gia đang rút ngắn khoảng cách hoặc/và bỏ xa các quốc gia khác trên bản đồ kinh tế thế giới. Các nước nghèo càng bị tụt hậu xa hơn và dẫn đến bất bình đẳng gia tăng. ▪ Xu hướng tái cấu trúc chuỗi cung ứng toàn cầu và thiết lập lại trật tự quốc tế. Đại dịch giúp thế giới nhận thấy tính rủi ro và đầy bất ổn của các chuỗi cung ứng toàn cầu, đặc biệt là khi phụ thuộc quá nhiều vào một mắt xích có thể dẫn đến sự sụp đổ của cả một hệ thống khi mắt xích đó gặp trục trặc. Kỷ nguyên hậu Covid- 19, thế giới sẽ hình thành một trật tự thế giới mới, đây là một quy luật tất yếu. ▪ Hình thái sản xuất mới trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Với sự phát triển của công nghệ số, các công ty đa quốc gia có xu hướng chuyển dịch về nơi gần với thị trường tiêu thụ để giảm chi phí vận chuyển, và tăng tốc độ bán hàng. Hoạt động sản xuất của các công ty thuộc chuỗi cung ứng sẽ phải tái cấu trúc, buộc các công ty cân nhắc chiến lược giảm sự phân tán sản xuất ở nơi có lao động giá rẻ. 419
- HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM ▪ Trung Quốc khẳng định vị thế trong thương mại quốc tế. Các quyết sách mạnh dạn được áp dụng ngay từ khi đại dịch bùng phát đã giúp kinh tế Trung Quốc phục hồi nhanh so với phần còn lại của thế giới. Nhu cầu hàng hóa Trung Quốc đang dần quay trở lại, kết quả này sẽ giúp nền kinh tế số hai thế giới tiếp tục gia tăng chiếm lĩnh thị phần thương mại toàn cầu. ▪ Việt Nam xuất siêu kỷ lục trong năm 2020. Với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 543,9 tỷ USD, trong đó xuất khẩu đạt 281,5 tỷ USD, và nhập khẩu đạt 262,4 tỷ USD, Việt Nam ghi nhận mức xuất siêu kỷ lục 19,1 tỷ USD trong năm vừa qua. Việt Nam là quốc gia có mức tăng trưởng về giá trị hàng hóa xuất nhập khẩu cao nhất khu vực Đông Á và Thái Bình Dương (EAP) trong năm 2020. ▪ Đừng nhầm lẫn đại dịch là cơ hội. Tái cấu trúc chuỗi cung ứng toàn cầu là quy luật tất yếu trong kỷ nguyên mới, đại dịch chỉ làm quá trình này trở nên rõ ràng và nhanh hơn. Đây là thời điểm để thay đổi cục diện và vị thế của các nước nếu đã có sự chuẩn bị sẵn từ giải pháp đến nguồn lực cho tương lai. Kiểm soát tốt đại dịch và ổn định kinh tế vĩ mô là chiến lược “marketing” tốt nhất cho Việt Nam. ▪ Giai đoạn chuyển mình cho thương mại Việt Nam. Đại dịch đang giải tỏa áp lực để Việt Nam tiếp cận và tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu, có thể trở thành một mắt xích mới của thế giới. Làn sóng các công ty dịch chuyển hệ thống sản xuất theo chiến lược “Trung Quốc+1”, sự tương đồng với hàng hóa xuất khẩu của Trung Quốc, chi phí lao động thấp, và cải thiện môi trường kinh doanh, năng lực cạnh trạnh sẽ giúp Việt Nam sẵn sàng “cất cánh” trong thời gian tới. ▪ Không có lợi ích nào là miễn phí. Luôn tồn tại sự đánh đổi giữa lợi ích và thách thức, đặc biệt khi mà các bất ổn toàn cầu trước đây càng nghiêm trọng hơn, chủ nghĩa bảo hộ và đơn phương gia tăng, cạnh tranh địa chính trị leo thang, các mô hình kinh doanh trền nền tảng số đa dạng và chính sách quản lý khó có thể bắt kịp, v.v. Các vấn đề này đặt ra những thách thức lớn cho mỗi quốc gia trong chiến lược tái cấu trúc nền kinh tế, cần nhiều hơn những chiến lược để thích ứng và mở ra một chu kỳ phát triển mới. 5 nguyên tắc thiết kế chính sách thương mại Nâng tầm vị thế mới của Việt Nam trong hoạt động thương mại toàn cầu không phải là câu chuyện một sớm một chiều mà đó là cả một quá trình từ giai đoạn chuẩn bị đến thời điểm thực thi, và sẽ cần những nghiên cứu chuyên sâu hơn để đánh giá thực trạng và đề xuất các chính sách chi tiết. Trong phạm vi bài tham luận, nhóm tác giả đề xuất 5 nguyên tắc cơ bản để định hình xây dựng các chiến lược phù hợp cho thương mại Việt Nam, cụ thể: 420
- HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM Nguyên tắc 1: Tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh Đây được xem là ưu tiên hàng đầu để thu hút sự dịch chuyển của các cơ sở sản xuất từ nước ngoài đặc biệt là các công ty đa quốc đang áp dụng chiến lược Trung Quốc+1. Việt Nam cần chủ động và định hình các chiến lược, chính sách nhằm thu hút đầu tư nước ngoài với lợi thế của 14 hiệp định FTA đã ký kết, và các Hiệp định xúc tiến và bảo hộ đầu tư giữa các quốc gia. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 cũng đã nêu bật lên hàm ý về chính sách thu hút và hợp tác đầu tư nước ngoài, thay vì chỉ ưu tiên số lượng thì cần tập trung nhiều hơn cho chất lượng, các dự án đầu tư nước ngoài mang lại giá trị gia tăng cao, lấy mức hiệu quả và yếu tố công nghệ làm kim chỉ nam, nhưng tuyệt đối phải đảm bảo môi trường và phát triển một cách bền vững. Cụ thể là cần thu hút và chọn lọc các dự án đầu tư nước ngoài có công nghệ tiên tiến, công nghệ cao, công nghệ mới, có khả năng kết nối với chuỗi cung ứng toàn cầu và phải có hiệu ứng lan tỏa, kết nối đồng bộ với nhiều chủ thể trong nền kinh tế. Thành tựu đạt được kỳ vọng sẽ định hình lại cơ cấu toàn ngành công nghiệp, nâng cao năng lực cạnh tranh, và có vị thế hơn trong chuỗi giá trị công nghiệp toàn cầu. Để đạt được điều đó, Việt Nam cần phải đầu tư nhiều hơn và cơ sở hạ tầng và thúc đẩy phát triển các khu công nghiệp, khu công nghệ cao, phát huy tối đa nội lực kết hợp linh hoạt cùng ngoại lực từ nước ngoài. Đồng thời, cần nhiều hơn những chính sách hỗ trợ các nhà đầu tư, tập trung vào chính sách thuế, thủ tục hành chính, quyền lợi của nhà đầu tư, hỗ trợ các kênh huy động vốn, tiếp cận nguồn nguyên vật liệu, v.v. Nguyên tắc 2: Cần nâng cao chiều sâu trong chuỗi cung ứng toàn cầu Mặc dù Việt Nam là một trong những nền kinh tế có độ mở lớn nhất thế giới, hơn 200% GDP, nhưng mức độ tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu vẫn thấp so với các nước trong khu vực như Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Singapore, Philippines (WB, 2020). Số liệu thống kê trong năm 2018 đưa ra bằng chứng Việt Nam chỉ tạo ra khoảng 20,4 tỷ USD khi tham gia vào chuỗi GVC, xếp hạng thứ 55/174. Trong khi đó Philippines tạo ra 84,8 tỷ USD và xếp hạng thứ 34. Do đó, việc tăng cường hợp tác quốc tế và xây dựng một hệ thống thương mại đa dạng là rất cần thiết, hướng đến mục tiêu phát triển nền kinh tế bền vững và bao trùm. Bên cạnh đó, để tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu đòi hỏi Việt Nam phải đào tạo lực lượng lao động có trình độ cao, tay nghề cao khi mà các đột phá công nghệ đang và sẽ làm giảm những lao động có kỹ năng thấp. Đội ngũ nhân lực chất lượng cao sẽ góp phần gia tăng năng lực tham gia hội nhập quốc tế nhằm vượt khỏi ranh giới lĩnh vực lắp ráp, hướng đến nội địa hóa các nhà cung cấp, phân phối hàng hóa và dịch vụ. Ghi nhận từ báo cáo của WB (2020) cũng cho thấy năng suất lao động của các thị trường mới nổi và nền kinh tế đang phát triển (EMDEs) chưa đến 20% so với các nền kinh tế phát triển, hàm ý này cho thấy để tiệm cận các nền kinh tế phát triển đòi hỏi vai trò của chất lượng nguồn lao động cũng như sức mạnh cộng hưởng từ thể chế. 421
- HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM Bên cạnh đó, hoàn thiện cơ sở hạ tầng liên quan đến hệ thống giao thông và logistics, hệ thống giáo dục, hạ tầng công nghệ có vai trò quan trọng. Quan trọng hơn, cần phải tạo lập và duy trì một môi trường kinh tế thuận lợi, an toàn, độc lập và tự chủ. Nguyên tắc 3: Cải thiện giá trị gia tăng của hàng hóa xuất khẩu trong chuỗi giá trị Hiện tại, Việt Nam vẫn còn những hạn chế nhất định về công nghệ và khả năng quản lý đối với chuỗi cung ứng, do đó mức độ thâm dụng nguyên liệu nhập khẩu trong hàng hóa xuất khẩu vẫn còn cao. Số liệu từ UNCTAD năm 2017 thống kê lĩnh vực chế biến chế tạo của Việt Nam có hàm lượng giá trị nhập khẩu đến 52%, lĩnh vực dịch vụ là 24%, con số này với Trung Quốc lần lượt là 17% và 8%. VRDF (2020) cũng đã nhận định tương tự cho lĩnh vực chế biến chế tạo của Việt Nam, điều này cho thấy mức độ tham gia vào các công đoạn tinh vi phức tạp hiện tại của Việt Nam vẫn còn thấp. Trong khi đó, Malaysia, Thái Lan, và Philippines đã đạt đến trình độ chế biến chế tạo và dịch vụ tiên tiến. Một ước tính cho thấy cứ 1% tăng lên từ việc tham gia GVC sẽ làm tăng khoảng 1% trong thu nhập bình quân đầu người của quốc gia đó, gấp 2 lần so với thương mại truyền thống. Việt Nam cần tập trung phát triển để xây dựng năng lực nghiên cứu các mô hình sản xuất mới, đổi mới sáng tạo, những chiến lược đột phá về cải cách thể chế và chính sách. Trong số đó, phát triển kỹ năng của lực lượng lao động có thể giúp Việt Nam trở thành quốc gia có mức chế biến chế tạo và dịch vụ tiên tiến, góp phần giúp các doanh nghiệp trong nước có thể cạnh tranh sòng phẳng với doanh nghiệp nước ngoài. Ngoài ra, nội địa hóa là quá trình cần phải được quan tâm, cần xây dựng và nâng cao năng lực mạng lưới liên kết của các nhà cung ứng, phân phối nội địa, định hình các mô hình sản xuất với các sản phẩm phức tạp hơn trong tương lai, đa dạng hóa thị trường đầu ra. Nguyên tắc 4: Áp dụng công nghệ số cho các hoạt động kinh tế Cách mạng công nghiệp 4.0 (CMCN 4.0) đã lan tỏa đến mọi hoạt động và định hình lại cách thức vận hành, phương thức sản xuất, dịch vụ toàn cầu. Nền kinh tế Việt Nam đã cho thấy sự thích ứng tích cực trước những khó khăn. Khả năng ứng dụng công nghệ số, tự động hóa sản xuất, áp dụng các hoạt động đổi mới sáng tạo đã góp phần giúp các doanh nghiệp vượt qua khủng hoảng và hơn nữa là đóng vai trò trụ cột trong một kỷ nguyên mới cho nền kinh tế số. Trong giai đoạn qua, gia tăng năng suất ở Việt Nam phần lớn đến từ nâng cao trình độ quản lý, sản xuất và ứng dụng công nghệ hoặc các mô hình hiện có trên thế giới. Do đó, ngay lúc này, Việt Nam cần xem xét lại các chiến lược phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo để ứng dụng vào thực tiễn nhằm giúp các doanh nghiệp có khả năng tối ưu hóa năng lực sản xuất, cụ thể hơn là nội địa hóa chuỗi cung ứng để góp phần gia tăng chất lượng trong chuỗi giá trị toàn cầu. 422
- HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM Nguyên tắc 5: Thay đổi nhận thức để thích ứng “Bình thường mới” là cụm từ được nhắc rất nhiều trên cả phương diện chính sách lẫn truyền thông. Tuy nhiên, bình thường mới ở đây không phải là mọi thứ đều sẽ trở lại quỹ đạo cũ, mà là biết cách thích nghi với những khó khăn và bất ổn hiện có. Cụ thể hơn là cần sự thay đổi trong cách sống, cách làm việc, thay đổi trong chiến lược sản xuất và kinh doanh. Với Chính phủ, bình thường mới là cần phải thay đổi cả cách tiếp cận trong điều hành chính sách, phải tìm kiếm những động lực tăng trưởng mới để có thể thực thi mục tiêu kép “vừa quyết liệt phòng chống dịch với tinh thần “chống dịch như chống giặc”, vừa tập trung phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội. Nhà kinh tế học Keynes có một câu nói nổi tiếng “Trong dài hạn chúng ta đều phải chết”. Dẫu biết rằng mọi thứ khó đạt được sự hoàn hảo, thậm chí là cả về chính sách, nhưng chúng ta có quyền kỳ vọng vào những mặt tốt đẹp của thế hệ tiếp nối để thích ứng và sửa đổi những gì đang xảy ra hiện tại. Khi những liều vắc-xin chưa thể đến tận tay người dùng thì có lẽ hành động giá trị nhất mà bản thân mỗi chúng ta có thể làm là nâng cao nhận thức để thích ứng. Đây là hệ thống “phòng thủ” tự nhiên nhất mà chúng ta có thể làm, thay đổi cái “tôi” để đạt được cái “ta” nên là tư duy cần hướng đến. Thời thế - Thích ứng - Tương lai: Kỳ vọng nào cho một chu kỳ kinh tế mới Năm 2021 là năm khởi đầu cho những chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 10 năm của Việt Nam. Sự thành công từ Đại hội XIII của Đảng và kiện toàn bộ máy lãnh đạo đã đặt nền móng vững chắc cho những mục tiêu, nhiệm vụ đề ra. Những lãnh đạo tiếp nối được kỳ vọng sẽ tạo ra những sức bật mới nhằm hiện thực hóa mục tiêu đến năm 2030 đưa Việt Nam thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và tiến đến 2045 trở thành quốc gia phát triển, thu nhập cao. Có thể thấy, phát triển nhanh, bền vững và bao trùm luôn là mục tiêu quan trọng khi thực hiện những chiến lược kinh tế - xã hội. Việc nâng cao năng lực và chất lượng sản xuất, khả năng cạnh trạnh, chất lượng nguồn nhân lực là rất cần thiết. Các mô hình kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, tăng trưởng xanh đang được nhiều quốc gia hướng đến. Xu hướng ứng dụng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, mô hình đô thị hóa và đô thị thông minh, cùng với làn sóng từ cuộc CMCN 4.0 sẽ góp phần hiện thực hóa các mục tiêu không chỉ riêng cho thương mại mà cho cả quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam. Tài liệu tham khảo Asian Development Bank (2021). ADB Covid-19 Policy Database. Truy cập ngày 08/04/2021 từ Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2020). Dự thảo Báo cáo tổng kết thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011-2020, xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030. Truy cập ngày 14/01/2021 từ 423
- HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM vao-du-thao-cac-van-kien-trinh.aspx. Diễn đàn Cải cách và Phát triển Việt Nam (2020). Việt Nam: Hành động để phục hồi tăng trưởng theo hướng bền vững và bao trùm trong kỷ nguyên Covid-19. Hà Nội: VRDF. International Monetary Fund (2020). World Economic Outlook (October 2020). Washington, DC: IMF. International Monetary Fund (2021). World Economic Outlook Update (January 2021). Washington, DC: IMF. Nguyễn Khắc Quốc Bảo & Tô Công Nguyên Bảo (2020). Phản ứng chính sách của một số nước trên thế giới trong bối cảnh đại dịch Covid-19 và các tác động đến Việt Nam. Tài liệu trình bày tại Diễn đàn “Tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam 9 tháng năm 2020 và một số giải pháp”, do Ủy ban Kinh tế của Quốc hội và Văn phòng Quốc hội đồng tổ chức, tại Cần Thơ, ngày 24/09/2020. Nguyen Khac Quoc Bao, & To Cong Nguyen Bao (2021). Vietnam’s trade numbers aren’t evidence of currency manipulation. Australian National University: East Asia Forum. Tô Công Nguyên Bảo, Nguyễn Khắc Quốc Bảo, Đinh Thị Thu Hồng, Lê Văn, & Hoàng Thị Hồng Nhung (2020). Tác động của Covid-19 đến kinh tế thế giới và phản ứng chính sách của một số quốc gia. Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia “Chính sách vượt qua tác động của Covid- 19 để phục hồi và phát triển kinh tế”, Trường Đại học Kinh tế quốc dân, ngày 15/10/2020 (19-39). Hà Nội: NXB Đại học Kinh tế quốc dân. Tổng cục Thống kê (2021). Tình hình kinh tế - xã hội quý IV và năm 2020. Truy cập ngày 14/01/2021 từ hinh-kinh-te-xa-hoi-quy-iv-va-nam-2020. U.S. Department of Commerce (2020). U.S. Department of Commerce Issues Affirmative Preliminary Countervailing Duty Determination for Passenger Vehicles and Light Truck Tires from Vietnam. Truy cập ngày 14/01/2021 từ releases/2020/11/us-department-commerce-issues-affirmative-preliminary-countervailing. U.S. Department of the Treasury (2020). Macroeconomic and Foreign Exchange Policies of Major Trading Partners of the United States (December 2020). Washington, DC: USDT. U.S. Department of the Treasury (2020). Treasury Releases Report on Macroeconomic and Foreign Exchange Policies of Major Trading Partners of the United States. Washington, DC: USDT. United Nations Conference on Trade and Development (2020). Handbook of Statistics. New York: UNCTAD. United Nations Conference on Trade and Development (2021). Trade trends under the Covid-19 pandemic. New York: UNCTAD. World Bank (2021). Global Economic Prospects (January 2021). Washington, DC: WB. World Trade Organization (2020). World Trade Statistical Review 2020. Geneva: WTO. 424