Tăng cường khả năng thực thi bảo hộ phần mềm máy tính đáp ứng EVFTA

pdf 15 trang Gia Huy 18/05/2022 2720
Bạn đang xem tài liệu "Tăng cường khả năng thực thi bảo hộ phần mềm máy tính đáp ứng EVFTA", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdftang_cuong_kha_nang_thuc_thi_bao_ho_phan_mem_may_tinh_dap_un.pdf

Nội dung text: Tăng cường khả năng thực thi bảo hộ phần mềm máy tính đáp ứng EVFTA

  1. TĂNG CƯỜNG KHẢ NĂNG THỰC THI BẢO HỘ PHẦN MỀM MÁY TÍNH ĐÁP ỨNG EVFTA IMPROVE THE IMPLEMENTATION OF INTELLECTUAL PROPERTY PROTECTION FOR SOFTWARE TO MEET THE REQUIREMENTS IN EVFTA ThS. Hàn Minh Phương Trường Đại học Thương mại Tóm tắt Trong bối cảnh Việt Nam ngày càng hội nhập mạnh mẽ vào nền kinh tế thế giới, bảo hộ các quyền SHTT thường là điều kiện tiên quyết để các nhà đầu tư quốc tế chia sẻ bí mật công nghệ với các đơn vị được cấp phép. Phần mềm máy tính (PMMT) là tài sản vô hình với hàm lượng chất xám đậm đặc và tuổi thọ có thể rất ngắn nên sản phẩm PMMT rất dễ bị vi phạm bản quyền. Do đó, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) đối với PMMT là vấn đề đặc biệt quan trọng, là điều kiện tiên quyết để các doanh nghiệp phần mềm và ngành công nghiệp phần mềm nói chung có thể tồn tại và phát triển. Bài viết ra đời trong bối cảnh Hiệp định Thương mại tự do thế hệ mới (EVFTA) vừa được phê chuẩn bởi Hội đồng châu Âu ngày 30 tháng 3 năm 2020. EVFTA đặt ra cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và doanh nghiệp trong ngành công nghiệp phần mềm nói riêng rất nhiều thách thức. Thông qua bài viết tác giả mong muốn cung cấp giải pháp phù hợp với cơ quan Nhà nước và doanh nghiệp Việt Nam nhằm hỗ trợ thực thi tốt hơn bảo hộ PMMT trong bối cảnh yêu cầu bảo hộ SHTT ngày càng ra tăng trong EVFTA. Từ khoá: Bảo hộ, Phần mềm máy tính, Sở hữu trí tuệ, EVFTA Abtract In the context of Vietnam's increasingly strong integration into the world economy, the protection of intellectual property rights is often a prerequisite for international investors to share technology secrets with licensing entities. Computer software (software) is an intangible asset, with a large amount of gray matter and a short lifespan, so they are very vulnerable to copyright infringement. Therefore, intellectual property protection for software is a very important issue and is a prerequisite for software enterprises and the software industry to exist and develop. The article was created in the context of the European-Vietnam Free Trade Agreement (EVFTA) was just approved by the European Council on March 30, 2020. EVFTA brings to Vietnamese enterprises, in general, also the enterprises in the software industry, in particular, a lot of challenges. Through the article, the author wishes to provide solutions suitable for State agencies and Vietnamese enterprises to support the better enforcement of intellectual property protection for software in the context of increasing intellectual property protection requirements in EVFTA. Keywords: Protection, Computer Software, Intellectual Property, EVFTA 712
  2. Đặt vấn đề Vai trò của bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) trong phát triển kinh tế, chuyển giao công nghệ và nâng cao tốc độ đổi mới, sáng tạo ngày càng được thừa nhận rộng rãi. Việc bảo hộ quyền SHTT tốt sẽ thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, thúc đẩy nghiên cứu, phát triển và chuyển giao công nghệ tại các quốc gia đang phát triển. Các quyền SHTT cũng là nhân tố chính trong rất nhiều ngành kinh tế, đảm bảo tăng trưởng các hoạt động giá trị gia tăng và phát triển thương mại quốc tế. Trong các lĩnh vực liên quan có sử dụng công nghệ dễ bị sao chép như phần mềm máy tính, sản phẩm số, sản phẩm trực tuyến, bảo hộ quyền SHTT thường là điều kiện tiên quyết để các nhà đầu tư quốc tế chia sẻ bí mật công nghệ với các đơn vị được cấp phép tại các quốc gia đang phát triển. Việt Nam, một quốc gia đang phát triển, ngày càng hội nhập mạnh mẽ vào nền kinh tế thế giới thông qua việc gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) và ký kết nhiều Hiệp định thương mại tự do (FTA). Gần đây nhất, ngày 30 tháng 03 năm 2020, Hội đồng Liên minh Châu Âu (EU) đã chuẩn y quyết định của Nghị viện Châu Âu, phê chuẩn Hiệp định Thương mại Tự do với Việt Nam (EVFTA). Trong đó, các cam kết bảo hộ quyền SHTT có những tiêu chuẩn cao hơn nhiều so với Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS/ WTO). Tuy nhiên, Việt Nam là quốc gia có tỉ lệ vi phạm quyền SHTT hiện vẫn ở mức cao, trong khi đó thực thi bảo vệ quyền SHTT lại ở mức thấp. Vì vậy, để đảm bảo thực thi các cam kết trong lĩnh vực này với Việt Nam là một thách thức lớn, cần phải vượt qua thì Việt Nam mới có thể hội nhập toàn diện và phát triển bền vững trong dài hạn. Thông qua nghiên cứu, tác giả mong muốn cung cấp giải pháp phù hợp với cơ quan Nhà nước và doanh nghiệp Việt Nam nhằm hỗ trợ thực thi tốt hơn bảo hộ quyền SHTT đối với PMMT gọi tắt là bảo hộ PMMT trong bối cảnh yêu cầu bảo hộ quyền SHTT ngày càng ra tăng trong EVFTA. Tổng quan tình hình nghiên cứu 1. ITC, WIPO (2009), Những điều cần biết về sở hữu trí tuệ, tài liệu hướng dẫn dành cho doanh nghiệp xuất khẩu vừa và nhỏ, Giấy phép số 110/GP-CXB Cục Xuất bản, Hà Nội. Tài liệu của Trung tâm thương mại quốc tế (ITC) và Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) được biên soạn dưới dạng câu hỏi và trả lời về các vấn đề liên quan đến SHTT hướng đến các doanh nghiệp xuất khẩu vừa và nhỏ và các tổ chức hỗ trợ thương mại - giải thích các khái niệm và nguyên tắc cơ bản về sáng chế, nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp, quyền tác giả, thông tin kinh doanh bí mật và chỉ dẫn địa lý. Tài liệu bao gồm các câu hỏi liên quan đến quyền sở hữu của người lao động, hợp đồng, chuyển giao quyền sử dụng (li- xăng) và chuyển giao công nghệ. Tài liệu cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của vấn đề SHTT khi soạn thảo chiến lược kinh doanh, kế hoạch tiếp thị và xuất khẩu và giải quyết vấn đề bảo hộ quyền SHTT ở nước ngoài; xem xét mối liên hệ giữa SHTT với các quy định về tiêu chuẩn và chất lượng, đóng gói và nhãn hàng, thương mại điện tử và ứng dụng công nghệ thông tin; xem xét vấn đề định giá và các khía cạnh liên quan đến tài chính của quyền SHTT; tập trung áp dụng các quy định của TRIPS. 2. ICC (2019), Thúc đẩy và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ tại Việt Nam, ICC- Phòng Thương mại quốc tế. 713
  3. Báo cáo của Phòng thương mại quốc tế ICC,tổ chức kinh doanh đại diện lớn nhất, tiêu biểu nhất thế giới với hàng trăm nghìn công ty thành viên thuộc hơn 130 quốc gia. Quá trình phát triển kinh tế phải đi kèm với khả năng khuyến khích, thúc đẩy và duy trì đổi mới sáng tạo. Để tối ưu hóa giá trị của đổi mới sáng tạo, mỗi nền kinh tế cần tập trung xây dựng hệ thống pháp lý rõ ràng, trong đó ghi nhận vai trò của SHTT, đồng thời xác định và bảo hộ các quyền SHTT cho tác giả và các nhà phát minh. Báo cáo giới thiệu về giá trị của quyền SHTT và lý do cần xây dựng hệ thống thực thi bảo hộ quyền SHTT hiệu quả để thúc đẩy quá trình hội nhập của Việt Nam vào thị trường toàn cầu đồng thời trình bày tình trạng hàng giả và vi phạm bản quyền tại Việt Nam, tập trung vào các lĩnh vực chịu nhiều tác động, giải thích tại sao đây là thời điểm phù hợp để Việt Nam tiếp tục hợp tác với các đối tác thương mại và thông qua các kênh hợp tác quốc tế để hoàn thiện hệ thống bảo hộ quyền SHTT. Các tổ chức này luôn sẵn sàng hỗ trợ Việt Nam thực hiện các cải cách về chính sách và pháp lý. Báo cáo cũng trình bày toàn bộ các khuyến nghị chính sách, pháp lý nhằm hỗ trợ Việt Nam xây dựng hệ thống thực hiện bảo hộ quyền SHTT hiệu quả, mang lại nhiều lợi ích kinh tế, xã hội. 3. Nguyễn Thị Thu Trang (2016), Rà soát pháp luật Việt Nam với các cam kết của Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU về Sở hữu trí tuệ, Nhà xuất bản Công Thương , Hà Nội. Báo cáo này được phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI) thực hiện với các phân tích về mức độ tương thích giữa pháp luật Việt Nam với các cam kết từ góc độ của doanh nghiệp và người sử dụng các sản phẩm trí tuệ, qua đó đề xuất giải pháp đảm bảo tuân thủ Hiệp định theo hướng có lợi nhất cho các doanh nghiệp và công chúng. Đây là rà soát nằm trong chuỗi rà soát pháp luật Việt Nam với các cam kết EVFTA trong 05 lĩnh vực quan trọng bao gồm Sở hữu trí tuệ, Đầu tư, Mua sắm công, Minh bạch, Hải quan và tạo thuận lợi thương mại do VCCI thực hiện trong khuôn khổ chương trình “Hệ thống pháp luật Việt Nam sẵn sàng để thực thi cam kết EVFTA” với sự hỗ trợ của Đại sứ quán Anh và Bắc Ai-len tại Việt Nam. 4. Trần Kiên (2018), Bảo hộ chương trình máy tính theo pháp luật Việt Nam, Tạp chí khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội: Luật học , Tập 34 , Số 4, 56-61. Bài viết đi sâu phân tích các quy định của pháp luật Việt Nam về bảo hộ chương trình máy tính hay PMMT. Bài viết chỉ ra rằng, học tập kinh nghiệm và thực tiễn lập pháp quốc tế Việt Nam đã lựa chọn cách thức bảo hộ chương trình máy tính với tư cách là một đối tượng của quyền tác giả. Tuy nhiên, cách thức bảo hộ này cũng có những hạn chế, nhược điểm nhất định khiến cho việc bảo hộ không có được kết quả như mong đợi. Các thách thức đó đặt ra yêu cầu cần phải sửa đổi, bổ sung pháp luật hiện hành hoặc là tìm kiếm một mô hình, cách thức bảo hộ khác, phù hợp hơn, hiệu quả hơn để bảo vệ chương trình máy tính trong pháp luật Việt Nam. 5. IIPA (2018), Special 301 Report On Copyright Protection And Enforcement, International intellectual property alliance, Wasshington D.C. Báo cáo đặc biệt 301 năm 2018 của Liên minh Sở hữu trí tuệ quốc tế (IIPA) về thực trạng bảo hộ và thực thi bản quyền của Việt Nam. Do tình trạng vi phạm bản quyền ngày càng nghiêm trọng và các rào cản tiếp cận thị trường dai dẳng làm thị trường hàng hóa và 714
  4. dịch vụ sáng tạo ở Việt Nam bị cản trở nghiêm trọng. Nhận ra mức độ nghiêm trọng của vấn đề vi phạm bản quyền đang ngày càng gia tăng, Chính phủ Việt Nam đã thực hiện một số hành động nhất định. Tại thời điểm thực hiện báo cáo, Việt Nam đã cam kết phê chuẩn các Hiệp ước kỹ thuật số của WIPO, chính phủ Việt Nam cũng đã hỗ trợ việc thực hiện tốt các cam kết chính trị và nghĩa vụ quốc tế nhằm cải thiện và bảo vệ bản quyền trong môi trường kỹ thuật số, đối mặt với những thách thức vi phạm bản quyền khổng lồ và xóa bỏ các rào cản còn lại đối với thị trường sáng tạo của mình. Tuy nhiên những hành động này được khuyến nghị cần được thực thi một cách mạnh mẽ hơn, ví dụ như ban hành các hình phạt hành chính răn đe và thực hiện truy tố hình sự đối với người vi phạm (bắt đầu bằng các hoạt động vi phạm bản quyền trực tuyến lớn có trụ sở tại Việt Nam). Các vấn đề vi phạm bản quyền của Việt Nam cũng sẽ được giảm bớt nếu Việt Nam gỡ bỏ các rào cản tiếp cận thị trường rất hạn chế, như hạn chế người tiêu dùng Việt Nam truy cập vào nội dung hợp pháp, đẩy họ tới các giải pháp thay thế bất hợp pháp. 6. WIPO (2007), International IP Protection of Software, history, purpose and challenges, WIPO Asia Pacific Regional Seminar on Intellectual Property and Software in the 21st Centrury: Trends, Issues, Prospects. Phát triển phần mềm trong những thập kỷ qua thể hiện một tốc độ thay đổi chưa từng thấy kể từ Cách mạng Công nghiệp. Phần mềm có sức lan tỏa, ảnh hưởng đến hầu hết mọi khía cạnh của cuộc sống con người ở mọi nơi trên thế giới. Từ góc độ quyền SHTT, thảo luận và tranh luận không chỉ tập trung vào cách bảo vệ phần mềm mà còn về vô số vấn đề phản ánh nhiều vai trò của phần mềm trong phân phối kỹ thuật số nội dung sáng tạo. Bài viết này tóm tắt một số vấn đề đó và cung cấp thông tin về các hoạt động hiện tại của WIPO giải quyết chúng. Phương pháp nghiên cứu Bài viết được thực hiện trên cơ sở sử dụng phương pháp thu thập dữ liệu thứ cấp, thông qua tổng hợp và phân tích một số công trình nghiên cứu khoa học, báo cáo trong nước và quốc tế đăng tải trên các tạp chí khoa học uy tín và trên các website chính thức của các tổ chức Việt Nam và quốc tế về thương mại, SHTT như VCCI, ICC, IIPA, ITC, WIPO. Những bài viết, báo cáo được sử dụng là cơ sở lý thuyết liên quan tới bảo hộ quyền SHTT, bảo hộ PMMT tại Việt Nam cũng như cung cấp các thông tin tham khảo về thực trạng đáp ứng của pháp luật Việt Nam trong Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới EVFTA. Các báo cáo cũng giúp tác giả có cơ hội đánh giá được thực trạng về vi phạm bản quyền PMMT tại Việt Nam để từ đó đưa ra được giải pháp phù hợp với cơ quan Nhà nước và doanh nghiệp Việt Nam nhằm hỗ trợ thực thi tốt hơn bảo hộ PMMT trong bối cảnh yêu cầu bảo hộ quyền SHTT ngày càng ra tăng trong EVFTA. Khái quát về Bảo hộ quyền Sở hữu trí tuệ và Bảo hộ phần mềm máy tính Toàn cầu hóa và tự do hóa thương mại là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thế giới. Với sự phát triển của khoa học và công nghệ, thương mại thế giới đã xuất hiện thêm các hình thức thương mại hàng hóa, dịch vụ xuyên biên giới hoặc nói một cách khác “xóa nhòa biên giới quốc gia” làm giảm vai trò của các lợi thế quốc gia so với trước đây. Tuy nhiên sự bất bình đẳng về lợi ích kinh tế giữa các quốc gia, giữa các khu vực, tầng lớp, 715
  5. thành phần xã hội trong mỗi quốc gia đã dẫn đến xu hướng chống toàn cầu hóa và tự do hóa thương mại. Một số quốc gia thúc đẩy các doanh nghiệp dịch chuyển trở về nước mình, gia tăng lợi ích của quốc gia mình khiến xu hướng bảo hộ thương mại quay trở lại và diễn ra mạnh mẽ. Bảo hộ thương mại là thuật ngữ kinh tế học, theo đó quốc gia áp đặt thuế nhập khẩu cao hoặc áp dụng các hàng rào kỹ thuật (yêu cầu cao về chất lượng, vệ sinh, an toàn, lao động, môi trường, xuất xứ ) đối với một hoặc một số mặt hàng, dịch vụ mà mình có lợi thế để hạn chế nhập khẩu, bảo vệ ngành sản xuất hàng hóa, dịch vụ của mình. Mục đích chính của các nước theo đuổi chủ nghĩa bảo hộ là kích thích nhu cầu mua bán, trao đổi hàng hóa nội địa, góp phần vào tăng trưởng kinh tế của nước đó, đồng thời tránh được thâm hụt thương mại với các đối tác trong quan hệ trao đổi thương mại giữa hai bên. Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 (CMCN 4.0) hội tụ nhiều công nghệ mới, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của thương mại điện tử, liên tục có những đột phá, ảnh hưởng không nhỏ tới phương thức tăng trưởng và phát triển của nhiều quốc gia trên thế giới. CMCN 4.0 khiến ưu tiên trong đàm phán tự do hóa thương mại thế giới dịch chuyển từ mua bán hàng hóa vật chất sang mua bán dịch vụ xuyên biên giới. Đàm phán về tự do hóa thương mại không chỉ còn giới hạn ở cắt giảm thuế, mà quan tâm nhiều hơn đến các hàng rào kỹ thuật mới, công nghệ số, chủ quyền số, thông tin người dùng. Bảo hộ thương mại hiện nay với sự gia tăng các điều khoản pháp lý ràng buộc về SHTT trong các FTA song phương và đa phương đã gây sức ép cạnh tranh lớn đối với các ngành sản xuất trong nước của các quốc gia. Dự báo sắp tới với những biến động nhanh chưa từng có của thế giới (như đại dịch COVID-19), xu hướng bảo hộ thương mại sẽ diễn ra mạnh mẽ hơn với cường độ áp đặt bảo hộ thương mại ngày càng tăng. Quyền SHTT là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng. Bảo hộ quyền SHTT được hiểu là nhà nước sử dụng các phương thức pháp lý để bảo vệ quyền sở hữu các đối tượng SHTT của mình, chống lại mọi sự xâm phạm để giữ nguyên vẹn quyền sở hữu các đối tượng này. Quyền SHTT được bảo vệ bằng các biện pháp hành chính, dân sự và hình sự. Chương trình máy tính hay PMMT là tập hợp các chỉ dẫn được thể hiện dưới dạng các mã lệnh, các mã, lược đồ hoặc bất kì dạng nào khác, khi gắn vào một phương tiện mà máy tính đọc được, có khả năng làm cho máy tính thực hiện được một công việc hoặc đạt được một kết quả cụ thể. Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ với PMMT thuộc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, mà cụ thể đó chính là quyền tác giả. Theo quy định của Pháp luật quốc tế, cụ thể Khoản 1 điều 10 Hiệp định TRIPS và điều 4 Hiệp ước của WIPO về quyền tác giả nêu rõ PMMT được bảo hộ như một tác phẩm văn học theo điều 2 của Công ước Berne. Hiệp định TRIPS là Điều ước quốc tế đa phương về sở hữu trí tuệ, thương mại trong lĩnh vực SHTT được ký kết vào ngày 15 tháng 12 năm 1993, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01năm 1995, là một trong các hiệp định cơ bản của WTO. Hiệp định TRIPS được xây dựng dựa trên các điều ước quốc tế hiện hành về Sở hữu trí tuệ như Công ước Paris 1967, Công ước Berne 1971, Công ước Roma 1981 và Hiệp định Washington 1989. Hiệp ước hợp tác về sáng chế (PCT), quy tắc 39/67 (vi) cho phép loại trừ PMMT được cấp bằng sáng chế. Điều 52 Công ước châu Âu về sáng chế (EPC) 716
  6. loại trừ khả năng PMMT được cấp bằng sáng chế. Vào năm 1985, Văn phòng sáng chế châu Âu (EPO) lại đề nghị loại bỏ hạn chế đã được nêu tại điều 52 EPC. Như vậy, mặc dù các nước trên thế giới bao gồm các quốc gia thành viên của EU, các quốc gia thành viên của WTO và WIPO áp dụng các mô hình bảo hộ pháp lý riêng đối với PMMT như quyền đặc biệt (ui generis right); quyền tác giả; các quy định về sáng chế (Trần Kiên, 2018), bảo hộ quyền tác giả đối với PMMT vẫn là quy phạm phổ biến hơn cả. Quyền tác giả được bảo hộ tự động ngay khi tác phẩm được tạo ra, hoặc ở một số nước, ngay khi tác phẩm được định hình dưới dạng vật chất bất kỳ (ITC, WIPO, 2009). Đối với quyền tác giả, một chủ sở hữu quyền sẽ thực thi quyền như thế nào? Theo hướng dẫn của ITC và WIPO (ITC, WIPO, 2009), một nước đã phê chuẩn các công ước quốc tế trong lĩnh vực quyền tác giả và quyền liên quan do WIPO quản lý như Công ước Berne hoặc là thành viên của WTO và đã thực hiện nghĩa vụ theo Hiệp định TRIPS, tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả sẽ hưởng lợi từ việc bảo hộ tự động trong một số lượng lớn các quốc gia (hơn 150 nước). Tác giả của một sản phẩm được bảo hộ quyền tác giả có quyền cho phép hoặc ngăn cấm người khác sử dụng sản phẩm của mình. Các độc quyền được cấp đối với tác giả gốc của một tác phẩm được bảo hộ bởi quyền tác giả gồm ngăn cấm hoặc cho phép tái bản, phân phối, cho thuê, biểu diễn trước công chúng, sao chép, phát sóng, dịch. Với các tác phẩm sáng tạo được bảo hộ quyền tác giả cần có sự phân phối, truyền thông và đầu tư tài chính lớn để phổ biến, tác giả thường chuyển giao quyền sử dụng (li-xăng) các quyền đối với tác phẩm của mình cho các cá nhân hoặc công ty có khả năng tiếp thị tốt nhất các tác phẩm đó để nhận được thù lao. Những khoản thù lao thường được đưa ra phụ thuộc vào việc sử dụng thực tế các tác phẩm và do đó, được gọi chung là phí li-xăng. Nếu phát hiện ra người bất kỳ việc sử dụng tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả mà không được phép, tác giả có thể thực thi quyền của mình bằng biện pháp hành chính và kiện ra tòa. Ở một số nước, biện pháp kiểm soát biên giới cũng được áp dụng nhằm ngăn chặn việc nhập khẩu các sản phẩm xâm phạm quyền tác giả. Ý kiến tư vấn của đại diện SHTT hoặc luật sư, cơ quan quản lý quyền tác giả, cơ quan hải quan sẽ là rất quan trọng bất cứ khi nào chủ sở hữu quyền phát hiện ra rằng sản phẩm của mình đang bị xâm phạm. Đối với đối tượng sử dụng các sản phẩm được bảo hộ quyền tác giả, cần có một hợp đồng về quyền sử dụng hay hợp đồng li-xăng. Nhìn chung, mọi hành vi sử dụng PMMT hoặc khai thác thương mại các quyền đều phải có hợp đồng li-xăng hoặc chuyển nhượng quyền từ chủ sở hữu. Khi cần có hợp đồng li-xăng, người dùng phải tìm hiểu liệu các quyền được quản lý bởi tổ chức quản lý tập thể hoặc do tác giả hoặc nhà sản xuất trực tiếp quản lý, và đàm phán hợp đồng li-xăng trước khi sử dụng hoặc khai thác sản phẩm vì những vụ kiện liên quan đến hành vi xâm phạm quyền tác giả có thể rất tốn kém. Những sản phẩm như PMMT đóng gói thường có li-xăng ngay khi mua. Các điều khoản và điều kiện của hợp đồng li-xăng thường có trong gói PMMT và PMMT có thể được trả lại nếu người dùng không đồng ý với những điều kiện và điều khoản có liên quan. Một số sản phẩm PMMT có thể bao gồm biện pháp bảo vệ bằng công nghệ ví dụ, mật mã, hệ thống tiếp cận có điều kiện để bảo vệ chúng khỏi việc sử dụng không được phép. Những hệ thống như vậy là các công cụ mà chủ sở hữu quyền có thể giới hạn sự tiếp cận cho những khách hàng chấp nhận các điều kiện nhất định cho việc sử dụng sản phẩm và thanh toán một khoản phí cho việc sử dụng đó. 717
  7. Pháp luật hiện hành của Việt Nam bảo hộ quyền tác giả đối với PMMT theo luật về quyền tác giả của Việt Nam. Trong đó có thể đăng ký bảo hộ dưới dạng một tác phẩm, một sáng chế, bí mật kinh doanh, nhãn hiệu hoặc nếu PMMT đáp ứng được đủ các điều kiện để được bảo hộ dưới tất cả hình thức trên thì có thể đăng kí bảo hộ tập quyền sở hữu trí tuệ của PMMT. Cơ chế bảo hộ quyền tác giả đối với PMMT có một số đặc điểm chính như sau (Trần Kiên, 2018),: - Theo cơ chế bảo hộ tự động, quyền tác giả đối với PMMT phát sinh kể từ khi PMMT được định hình dưới một hình thức vật chất nhất định mà không cần thêm bất cứ điều kiện nào khác, kể cả đăng ký. Phạm vi bảo hộ đối với PMMT bao gồm cả mã nguồn và mã máy. - Chủ sở hữu quyền tác giả có thể đồng thời là tác giả hoặc một người khác, những người giao nhiệm vụ cho tác giả hoặc giao kết hợp đồng sáng tạo PMMT với tác giả. Chủ sở hữu quyền tác giả đối với PMMT cũng có thể là người được tác giả chuyển giao quyền tác giả hoặc được thừa kế quyền tác giả. - Quyền tác giả đối với PMMT được pháp luật bảo hộ bao gồm quyền nhân thân (liên quan đến quyền yêu cầu nêu tên là tác giả của tác phẩm ) và quyền tài sản. Các quyền tài sản này độc quyền do tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện. - Pháp luật Việt Nam bảo hộ vô thời hạn các quyền nhân thân của tác giả, trừ quyền công bố. Đối với quyền công bố và các quyền tài sản khác thì thời hạn bảo hộ quyền tác giả là suốt cuộc đời tác giả và năm mươi năm tiếp theo năm tác giả chết; trường hợp tác phẩm có đồng tác giả thì thời hạn bảo hộ chấm dứt vào năm thứ năm mươi sau năm đồng tác giả cuối cùng chết. Giả sử PMMT bị khuyết danh, tức là không xác định được tác giả là ai thì thời hạn bảo hộ là bảy mươi lăm năm, kể từ khi tác phẩm được công bố lần đầu tiên. Hoặc khi các thông tin về tác giả xuất hiện thì thời hạn bảo hộ được tính theo thời hạn bảo hộ quyền tài sản thông thường. - Luật quy định về việc tổ chức, cá nhân có quyền sử dụng hợp pháp bản sao PMMT có thể làm không quá một bản sao dự phòng, để thay thế khi bản sao đó bị mất, bị hư hỏng hoặc không thể sử dụng được. Ngoài ra, luật cũng hạn chế quyền cho thuê bản gốc hoặc bản sao PMMT khi bản thân chương trình đó không phải là đối tượng chủ yếu để cho thuê như PMMT gắn với việc vận hành bình thường các loại phương tiện giao thông cũng như các máy móc, thiết bị kĩ thuật khác. Bảo hộ quyền Sở hữu trí tuệ trong EVFTA và thực trạng thực thi bảo hộ phần mềm máy tính tại Việt Nam Bảo hộ quyền Sở hữu trí tuệ trong EVFTA Việt Nam là quốc gia tích cực hội nhập, tham gia đàm phán, ký kết nhiều FTA thời gian qua. Đối với các FTA mới, hiện tại các doanh nghiệp đã và đang phải đối mặt với những quy định về SHTT và thực thi quyền SHTT, phải đối mặt với những hàng rào kỹ thuật mới ngày càng tinh vi hơn theo các quy định riêng của một số nước. Một trong các nghĩa vụ chính về quyền SHTT mà các nước lớn yêu cầu các nước nhỏ như Việt Nam phải tuân thủ trong các FTA gần đây tập trung vào nâng cao mức độ bảo hộ và kéo dài thời hạn 718
  8. bảo hộ quyền tác giả và quyền liên quan cũng như siết chặt thực thi, đặc biệt là đối với quyền tác giả và quyền liên quan trong môi trường số (Ngô Tuấn Anh, 2019). Việt Nam mới đây đã ký kết EVFTA sau khi tuyên bố hoàn tất đàm phán đầu tháng 12 năm 2015. Đây là một trong hai FTA thế hệ mới lớn nhất của Việt Nam dự kiến có hiệu lực từ tháng 5 năm 2020. Sau khi Hiệp định có hiệu lực thi hành, Việt Nam sẽ được hưởng nhiều lợi ích, đặc biệt là việc tiếp cận 500 triệu người tiêu dùng trong khối EU - thị trường chiếm khoảng 20% kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu toàn cầu (ICC, 2019). Tuy nhiên, một trong số các vấn đề thể chế được nhấn mạnh trong EVFTA là vấn đề SHTT, trong đó bao gồm một hệ thống các cam kết theo hướng tăng cường các tiêu chuẩn bảo hộ quyền SHTT. Châu Âu là khu vực xuất khẩu các sản phẩm SHTT hàng đầu thế giới, do đó có nhu cầu tăng cường bảo hộ các quyền SHTT. Về phía Việt Nam, là một nước đang phát triển, chỉ sở hữu một số lượng rất ít các sản phẩm SHTT so với đối tác EU, lại rất cần tiếp cận các sản phẩm SHTT phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế, khoa học, xã hội với chi phí thấp nhất có thể. Do vậy các cam kết này tạo ra những khó khăn nhất định trong khả năng tiếp cận rộng rãi các sản phẩm SHTT so với mức của pháp luật Việt Nam hiện hành.Trong báo cáo rà soát pháp luật Việt Nam với các cam kết của Hiệp định thương mại tự do Việt Nam-EU về sở hữu trí tuệ, nhóm các cam kết EVFTA về SHTT mà pháp luật Việt Nam chưa tương thích một phần hoặc toàn bộ đã chỉ ra một số điều chưa tương thích có liên quan tới lĩnh vực PMMT như: Chương 12 EVFTA Điều 4 - Quyền tác giả và các quyền liên quan; Điều 4.2 - Tác giả: Cam kết bảo hộ quyền độc quyền của tác giả trong sao chép tác phẩm trực tiếp hoặc gián tiếp; Cam kết bảo hộ quyền độc quyền của tác giả trong phân phối bản gốc hoặc bản sao tác phẩm; Cam kết bảo hộ quyền độc quyền của tác giả trong truyền đạt tác phẩm đến công chúng; Điều 4.9 - Bảo vệ thông tin quản lý quyền: Định nghĩa thông tin quản lý quyền; Cam kết áp dụng các bảo hộ liên quan đối với cả các bản sao tác phẩm, chương trình, bản ghi được truyền đạt đến công chúng (Nguyễn Thị Thu Trang, 2016). Trong đó, với quyền sao chép, pháp luật Việt Nam chỉ ghi nhận “quyền sao chép bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào”, mà không nêu rõ “sao chép trực tiếp hoặc gián tiếp, một phần hoặc toàn bộ tác phẩm” như trong EVFTA. Hoặc khi nhắc đến khái niệm “biện pháp kỹ thuật chống xâm phạm quyền”, EVFTA có định nghĩa khá chi tiết trong khi pháp luật Việt Nam quy định chung chung “biện pháp kỹ thuật do chủ sở hữu quyền tác giả/quyền liên quan thực hiện để bảo vệ quyền tác giả/quyền liên quan của mình”. Phần lớn các quy định chi tiết được cho là tương thích với cam kết EVFTA đều được quy định trong Nghị định chứ không phải trong Luật. Do đó, khi thực thi sẽ không bảo đảm căn cứ pháp lý. Về các loại hành vi quy định trong cam kết tại khoản 2 Điều 4.8, pháp luật Việt Nam cũng quy định về các hành vi hẹp hơn so với EVFTA. Pháp luật Việt Nam đã phù hợp với quy định của Hiệp định trong việc ghi nhận các loại quyền của tác giả, tuy nhiên cách quy định không chi tiết, đầy đủ bằng Hiệp định. Như vậy bên cạnh việc mang lại cơ hội như giúp doanh nghiệp hưởng mức bảo hộ SHTT cao hơn với thành quả đầu tư cho hoạt động sáng tạo, các cơ chế thực thi rất nghiêm khắc buộc các cơ quan quản lý phải rà soát chính sách kỹ lưỡng, các tổ chức, doanh nghiệp ở Việt Nam phải tìm hiểu rõ, nếu không thì sẽ chịu gánh nặng đối với các thủ tục kiểm soát, đặc biệt là có thể vướng vào tranh chấp, kiện tụng. 719
  9. Thực trạng về vi phạm bản quyền phần mềm máy tính tại Việt Nam Vi phạm bản quyền phần mềm máy tính. Việt Nam hiện đứng 37/45 quốc gia được xếp hạng Chỉ số SHTT quốc tế do Phòng Thương mại Hoa Kỳ công bố và là một trong những quốc gia có tỉ lệ vi phạm bản quyền trực tuyến cao nhất trên thế giới. So với các quốc gia khác trong khu vực Đông Nam Á, Việt Nam đứng thứ 2 về tỉ lệ vi phạm bản quyền PMMT, sau Indonesia với 84%, trong khi các quốc gia khác trong khu vực như Malaysia và Singapore có tỉ lệ vi phạm thấp hơn, tương ứng 53 và 30%. Giá trị thương mại của các PMMT bị vi phạm bản quyền tại Việt Nam được ước tính khoảng 598 triệu USD, tương đương khoản thất thu về thuế, phí không được nộp vào ngân sách thông qua các kênh (ICC, 2019). Việc kinh doanh các bản sao trái phép các loại PMMT được thực hiện ngang nhiên và rộng rãi, đặc biệt là các doanh nghiệp buôn bán máy tính sao chép sẵn các PMMT bán cho khách hay cài đặt miễn phí bất cứ PMMT nào theo yêu cầu của khách hàng. Việc sao chép, phổ biến trái phép các PMMT như các chương tình ứng dụng, trò chơi vi tính của các chủ sở hữu trong nước cũng như nước ngoài không nhằm mục đích kinh doanh diễn ra rộng rãi, công khai và được coi là chuyện bình thường. Theo dữ liệu từ Liên minh Phần mềm Doanh nghiệp quốc tế (BSA), 78% phần mềm cài trên các thiết bị máy tính cá nhân tại Việt Nam năm 2015 đều không có li-xăng. Tỉ lệ này năm 2013 là 81% (ICC, 2019). Phần lớn các tổ chức, doanh nghiệp của Việt Nam hiện nay sử dụng các PMMT không có li-xăng trong hoạt động, sản xuất và kinh doanh của mình. Nhiều công ty, tổ chức xây dựng PMMT vi phạm bản quyền hoặc sử dụng bí mật thương mại cùng nhân viên của các tổ chức khác, nhất là cải biên, chuyển thể hay sao chép phần quan trọng các chương trình của nước ngoài và sử dụng các chương trình công cụ không có li-xăng. Theo bộ Văn hoá thể Thao và du lịch trong năm 2017, đã có hơn 2.4000 máy tính tại 63 doanh nghiệp phải chấp hành việc thanh tra, kiểm tra theo đơn yêu cầu xử lý xâm phạm quyền tác giả của chủ sở hữu. Trong đó, có 54 doanh nghiệp có hành vi sao chép chương trình PMMT của chủ sở hữu, sao chép chương trình PMMT mà không được phép của chủ sở hữu, xử lý vi phạm 1.65 tỷ đồng (Ngô Tuấn Anh, 2019). Vi phạm bản quyền trong môi trường trực tuyến Với khoảng 66% dân số sử dụng Internet và 84% thuê bao di động sử dụng điện thoại thông minh,Việt Nam là một thị trường tiềm năng và nhiều thách thức với các dịch vụ nội dung sáng tạo hợp pháp. Trong khi số lượng các nhà cung cấp nội dung số hợp pháp đang tăng dần mỗi ngày, Việt Nam vẫn gặp nhiều khó khăn trong quản lý tình trạng vi phạm bản quyền trực tuyến và qua mạng di động, bao gồm thông qua các kênh phát trực tuyến, trang web cho phép tải nội dung, mạng ngang hàng (P2P), trang web liên kết, trang web phát trực tiếp video, dịch vụ chia sẻ tệp của bên thứ ba, thị trường trực tuyến và mạng xã hội. Các trang mạng vi phạm bản quyền có số lượng người truy cập cao gấp 29 lần so với các trang chính thống (ICC, 2019).Tình trạng vi phạm bản quyền trực tuyến có hệ quả rất rõ ràng, khiến các nền tảng trực tuyến hợp pháp khó có thể cạnh tranh được với các trang mạng vi phạm bản quyền. 720
  10. Như vậy, vấn đề vi phạm bản quyền PMMT nói chung vẫn diễn ra phổ biến. Hành vi vi phạm bản quyền xuất hiện ở tất cả các khâu liên quan tới PMMT như sản xuất, phân phối, quảng bá. Thực trạng về xác lập quyền sở hữu trí tuệ đối với phần mềm máy tính và thực thi quyền sở hữu trí tuệ đối với phần mềm máy tính tại Việt Nam Trước khi gia nhập WTO năm 2007, Việt Nam đã ban hành nhiều quy định pháp lý mới để tăng cường bảo hộ và thực thi các quyền SHTT theo yêu cầu của Hiệp định TRIPS. Theo đó, Bộ luật Dân sự (1995: 44-L/CTN (BLDS) (điều chỉnh 2005: 33/2005/QH11 và điều chỉnh 2015:33/2005/QH11), Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Thương mại, Luật Cạnh tranh và các văn bản hướng dẫn thực hiện liên quan đã tạo thành một khung pháp lý phù hợp để bảo hộ quyền SHTT theo tiêu chuẩn quốc tế (ITC,WIPO, 2009). Trong đó, Luật SHTT là nền tảng đưa hệ thống bảo hộ SHTT của Việt Nam đạt chuẩn mực theo TRIPS của WTO. Luật SHTT đã được Quốc hội thông qua năm 2005 (Luật số 50/2005/QH11) có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2006, được sửa đổi, bổ sung năm 2009 (Luật số 36/2009/QH12) và năm 2019 (Luật số 42/2019/QH14) là các văn bản pháp luật quan trọng, điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến loại tài sản đặc biệt - tài sản trí tuệ. Các văn bản hướng dẫn dưới luật để hướng dẫn thi hành luật này đối với các đối tượng quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật về thủ tục hành chính trong việc xử lý vi phạm, các thủ tục dân sự và hình sự theo Bộ luật tố tụng dân sự và Bộ luật tố tụng hình sự. Để hướng dẫn thi hành, Chính phủ đã ban hành một loạt các Nghị định và thông tư về SHTT, đặc biệt từ năm 2006 như nghị định 100/2006/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Dân sự, Luật SHTT về quyền tác giả và quyền liên quan; Nghị định số 105/2006/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật SHTT và quản lý nhà nước về SHTT; Nghị định 47/2009/NĐ-CP quy định xử phạt hành chính về quyền tác giả, quyền liên quan; Nghị định số 22/2018/NĐ-CP ngày 23 tháng 02 năm 2018 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật SHTT năm 2005 và luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật SHTT năm 2009 về quyền tác giả, quyền liên quan của Chính phủ. Việc xử lý vi phạm cũng được các cơ quan quản lý ban hành các văn bản liên quan như hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp trên Internet được quy định tại điều 10, điểu 21 của thông tư 11/2015/TT-BKHCN và Thông tư 46/2014/TT-BCT của Bộ Công thương Đối với PMMT, Điều 747 khoản 1 BLDS đã xác định phần mềm máy tính là một loại hình tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả. Quyền tác giả bao gồm các quyền tài sản và quyền nhân thân được ghi nhận tại khoản 1, khoản 2 Điều 751 BLDS. Các quyền tài sản có thời hạn bảo hộ tính theo đời tác giả và 50 năm sau khi tác giả chết hoặc 50 năm kể từ thời điểm công bố Điều 776, 777, 779 BLDS. Điều kiện xác lập quyền tác giả, tác giả và chủ sở hữu bản quyền được quy định trong Điều 754 BLDS và Điều 6 Nghị định 76/CP, Điều 745 BLDS và Điều 2 Nghị định 76/CP, Điều 746 BLDS, Điều 3 Nghị định 76/CP. Luật SHTT ghi nhận các độc quyền kinh tế thuộc chủ sở hữu bản quyền tác giả theo hình thức khai thác, sử dụng: Quyền sao chép, tái tạo tác phẩm (bao gồm cả các bản sao trong bộ nhớ của máy tính); Quyền phân phối, phổ biến tác phẩm thông qua phát hành, bầy bán, biểu diễn, cho thuê; Quyền phát sóng (bao gồm cả việc đưa tác phẩm lên mạng Internet); 721
  11. Quyền cho phép làm các tác phẩm phái sinh thông qua dịch, cải biên, chuyển thể Ngoài ra, để chống việc xâm phạm một sản phẩm phần mềm, chủ sở hữu có thể vận dụng các quy định luật pháp khác để bảo vệ sở hữu của mình như đăng ký nhãn hiệu hàng hoá, kiểu dáng công nghiệp hay quyền tác giả để bảo hộ trình bầy đóng gói cho sản phẩm của mình, đăng ký sáng chế hay giải pháp hữu ích nếu PMMT là một bộ phận không thể tách rời của sáng chế và đặc biệt là các điều khoản của hợp đồng lao động với các lập trình viên làm thuê, hợp đồng li-xăng, về chống cạnh tranh không lành mạnh và bí mật thương mại. Điều 6, điều 7 Nghị định số 54/2000/NĐ-CP của chính phủ ngày 03 tháng 10 năm 2000 quy định bí mật kinh doanh và chủ sở hữu quyền đối với bí mật kinh doanh là tổ chức, cá nhân đã đầu tư để tạo ra và là bên thuê trong trường hợp bí mật kinh doanh được bên làm thuê hay bên thực hiện hợp đồng tạo ra. Như vậy các bí mật liên quan đến PMMT thuộc quyền sở hữu của bên đầu tư xây dựng PMMT đó và bên làm thuê không có quyền tiết lộ hay sử dụng để xây dựng các PMMT cho người chủ khác. Ngoài các quy định của BLDS và Nghị định 76/CP, Bộ luật hình sự CHXHCN Việt nam năm 1999 cũng quy định một số hình phạt áp dụng trong các trường hợp vi phạm bản quyền mang tính chất nghiêm trọng. Đối với các trường hợp vi phạm bản quyền gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính hay đã bị kết án mà chưa được xoá án tích mà lại vi phạm thì người vi phạm có thể bị xử lý hình sự theo Điều 131 “Tội xâm phạm quyền tác giả”. Có thể nói các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực SHTT nói chung và PMMT nói riêng tương đối đầy đủ và càng ngày càng hoàn thiện. Tuy nhiên, các quyền pháp lý chỉ thực sự hữu ích nếu chủ sở hữu quyền SHTT có thể thực thi quyền lợi của mình. Theo các chủ thể nắm giữ quyền, Việt Nam đã thực hiện nhiều biện pháp quan trọng về thực thi quyền SHTT nhằm hạn chế vi phạm bản quyền trong những năm gần đây, thể hiện thiện chí hợp tác với các chủ thể nắm giữ bản quyền trong các giải pháp thực thi và hoạt động đào tạo, nâng cao năng lực về thực thi quyền SHTT. Tuy nhiên, các giải pháp thực thi quyền SHTT vẫn còn hạn chế để ngăn ngừa và xử lý các hành vi vi phạm bản quyền. Về khía cạnh này, một số nhà quan sát quốc tế cho rằngViệt Nam vẫn chưa đảm bảo một số điều kiện cần thiết (IIPA, 2018). Trong ấn bản thứ 5 của bảng xếp hạng Chỉ số sở hữu trí tuệ toàn cầu (GIPI), hệ thống bảo hộ quyền SHTT của Việt Nam đứng thứ 35 trong 43 hệ thống pháp luật quốc gia. Việt Nam đạt điểm đánh giá khá thấp về sử dụng và thực thi quyền SHTT do thiếu các hướng dẫn pháp lý về đánh giá thiệt hại do vi phạm quyền SHTT trong khi các thủ tục khởi kiện lại rất phức tạp (IIPA, 2018). Báo cáo về bảo vệ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ ở các nước thứ ba của Liên minh Châu Âu năm 2015 đã “xếp Việt Nam vào nhóm các quốc gia Ưu tiên mức 3” nhấn mạnh vào điểm yếu trong hệ thống thực thi quyền SHTT của Việt Nam, trong đó cơ cấu thực thi chưa được xây dựng rõ ràng trong khi các chế tài xử phạt hành chính/hình sự còn yếu(ICC, 2019). Đối với PMMT, khi xây dựng, khai thác và sử dụng vẫn thường xảy ra các tình huống tranh chấp: Về quyền tác giả giữa các nhân viên lập trình và công ty phần mềm, về quyền đứng tên, nhận giải thưởng, quyền sở hữu, quyền cho phép chỉnh sửa, nâng cấp chương trình; Một cựu nhân viên làm thuê có thể sử dụng những gì thuộc các PMMT hay tài liệu của chủ cũ ? Người cựu nhân viên đó có được phép xây dựng một PMMT thực hiện 722
  12. các chức năng như chương trình mà anh ta đã viết cho chủ cũ? Các sản phẩm PMMT được xây dựng bằng các chương trình công cụ như MS Windows, MS Visual Studio, AutoCAD, Coreldraw không hợp pháp có bản quyền hay không? Phạm vi bảo hộ đến đâu? Những đối tượng nào như hiển thị trên màn hình, cấu trúc chương trình và file, hệ thống bảng chọn lệnh, các biểu tượng được bảo hộ? Có thể phân tích ngược hay không một PMMT để tìm hiểu cách nó làm việc hay tương tác với các chương trình khác hoặc với phần cứng của máy tính? Thông tin nhận được có thể sử dụng để thiết kế PMMT mới hay không? Các vi phạm diễn ra không chỉ đối với các PMMT của nước ngoài mà còn đối với rất nhiều PMMT của các chủ thể trong nước như Vietkey, MTD2002, MISA, LEMON 3 Như vậy, Việt Nam mới chỉ làm tốt việc xác lập quyền SHTT nói chung và quyền SHTT với PMMT nói riêng nhưng việc thực thi lại rất hạn chế. Nguyên nhân của những hạn chế Việt Nam là nước hội nhập muộn, vẫn là một nền kinh tế chuyển đổi, trình độ phát triển thấp, khoảng cách giữa đòi hỏi và năng lực thực tế của Việt Nam là không nhỏ. Nếu thực thi đầy đủ các cam kết về bảo hộ quyền SHTT thì người dân sẽ rất khó tiếp cận được với các sản phẩm có giá trị, góp phần nâng cao dân trí và khả năng tiếp cận khoa học công nghệ hiện đại của thế giới. Chính phủ Việt Nam hiện thiếu năng lực thể chế để giải quyết các vấn đề liên quan đến quyền SHTT, đây cũng là rào cản lớn đối với việc thực thi quyền SHTT. Khác với nhiều quốc gia khác, việc bảo hộ quyền SHTT nói chung và quyền sở hữu PMMT tại Việt Nam chủ yếu được thực hiện bằng cách áp dụng các hình phạt hành chính với hành vi vi phạm trong khi các giải pháp khởi tố hình sự và dân sự gần như không bao giờ được áp dụng hoặc áp dụng không hiệu quả. Số lượng vi phạm SHTT đã tăng lên rất nhanh trong khi năng lực của cơ quan thực thi bảo hộ quyền SHTT còn khá hạn chế ở cấp trung ương và địa phương. Các cơ quan quản lý thiếu cơ hội đào tạo, nguồn lực thực hiện. Đa phần tòa án và đội ngũ thẩm phán trong nước còn hạn chế về kinh nghiệm giải quyết các tranh chấp về quyền SHTT. Trong khi đó, thực thi quyền SHTT đáp ứng yêu cầu của các FTA có thể phải xử lý hình sự một số vi phạm liên quan đến SHTT, đây là yêu cầu cao hơn pháp luật hiện hành của Việt Nam. Giải pháp tăng cường khả năng thực thi bảo hộ phần mềm máy tính đáp ứng cam kết trong EVFTA Có nhiều khó khăn với Việt Nam trong thực thi cam kết về bảo hộ SHTT. Tuy nhiên, khi hội nhập kinh tế quốc tế, thực thi quyền SHTT là một cam kết buộc phải thực hiện. Vi phạm quyền SHTT sẽ ngăn trở việc thu hút đầu tư nước ngoài, đặc biệt đối với những ngành công nghệ cao và sử dụng công nghệ cao. Với các các lĩnh vực, ngành thâm dụng công nghệ tập trung vào hoạt động nghiên cứu & phát triển, năng suất lao động và đổi mới sáng tạo ví dụ như công nghệ phần mềm, doanh nghiệp sẽ sẵn sàng hơn để đầu tư vào Việt Nam hoặc giới thiệu các thiết kế mới vì không còn lo sợ bị trộm cắp bản quyền. Để thu hút được đầu tư nước ngoài thì các nhà đầu tư phải yên tâm khi tài sản trí tuệ của họ được bảo vệ. Về phía doanh nghiệp Việt Nam, dưới góc độ là chủ thể sở hữu sẽ yên tâm 723
  13. hơn trong quá trình sản xuất kinh doanh. Hệ thống bảo hộ sở hữu trí tuệ có thể bảo vệ sản phẩm sáng tạo và sáng chế của chủ thể sở hữu, mang lại các độc quyền sử dụng đối với các tài sản vô hình đặc biệt là PMMT, mang lại quyền sở hữu đối với tác phẩm sáng tạo hoặc đổi mới, hạn chế phạm vi sao chép và bắt chước của đối thủ cạnh tranh một cách đáng kể. Nếu xảy ra tranh chấp, có thể giải quyết thuận lợi. Đây chính là những lợi ích dài hạn sẽ đạt được nếu Việt Nam nghiêm túc thực thi cam kết SHTT. Việt Nam cần hy sinh các lợi ích trước mắt nhằm đạt được sự phát triển bền vững và hội nhập toàn diện trong tương lai. Sau đây là một số giải pháp với cơ quan Nhà nước và doanh nghiệp nhằm hỗ trợ tổ chức, doanh nghiệp thực thi được tốt bảo hộ SHTT sở hữu trí tuệ đối với PMMT hay bảo hộ PMMT nhằm đáp ứng được các yêu cầu của các FTA nói chung và EVFTA nói riêng. Thứ nhất là Về phía cơ quan nhà nước, Việt Nam sẽ phải sửa đổi, bổ sung nhiều văn bản pháp luật vì nhiều quy định của luật hiện hành chưa đáp ứng được yêu cầu rất cao của EVFTA, đặc biệt là các văn bản pháp lý liên quan tới bảo hộ và thực thi quyền SHTT với PMTT. Ví dụ: Bổ sung quy định vào Điều 28.14 và 35.7 Luật SHTT về các hành vi được đề cập tại cam kết khoản 2 Điều 4.8 Hiệp định hoặc cân nhắc bổ sung định nghĩa biện pháp kỹ thuật chống xâm phạm quyền vào Điều 4 Luật SHTT; Bổ sung các quy định cho phép cơ quan hải quan phối hợp làm việc với các chủ thể nắm giữ bản quyền; Xem xét sửa đổi Bộ luật Hình sự, trong đó quy định rõ tội danh liên quan đến SHTT và khung hình phạt với nội dung này. Thứ hai là Việt Nam cần thực hiện các giải pháp như tăng cường đào tạo thêm đội ngũ thẩm phán và tập huấn kiến thức chuyên môn về các vấn đề liên quan đến quyền SHTT do khả năng thực thi quyền SHTT của chính các chủ thể sở hữu vẫn phụ thuộc phần lớn vào kinh nghiệm và năng lực của đội ngũ thực hiện tố tụng. Việt nam cần xem xét thành lập các tòa án chuyên trách để xử lý các vấn đề liên quan đến SHTT, PMMT, tăng cường hợp tác xuyên biên giới giữa các cơ quan thực thi trong nước và nước hoặc văn phòng SHTT của chính phủ các nước EU. Thứ ba là Chính phủ Việt Nam cần có những biện pháp hỗ trợ hợp lý để khuyến khích và tạo lập thói quen sử dụng PMMT hợp pháp. Việt Nam đang gặp khó khăn trong việc giải quyết mâu thuẫn giữa nhu cầu sử dụng PMMT phục vụ mục tiêu tin học hoá hệ thống quản lý xã hội và phát triển giáo dục, đào tạo và việc tôn trọng, bảo vệ quyền tác giả PMMT. Các cơ quan quản lý nhà nước, TC xã hội, DN và một bộ phận lớn công chúng có nhu cầu sử dụng các PMMT thông dụng, trong khi giá bán các PMMT này lại khá cao so với mức thu nhập chung. Do vậy, song song với các hoạt động phổ biến, tuyên truyền chính sách, pháp luật của Nhà nước về bảo hộ quyền SHTT, bảo hộ PMMT thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, hội thảo, đào tạo, trong dài hạn, Chính phủ Việt Nam cần phải có các chính sách hỗ trợ về thuế không chỉ đối với các DN sản xuất phần mềm mà với cả các DN mua/bán phần mềm để từ đó khuyến khích các hãng sản xuất mua/bán các loại phần mềm máy tính thông dụng đưa ra các mức hỗ trợ, giảm giá hợp lý đối với các đối tượng tiêu dùng Việt Nam, góp phần tạo lập thói quen sử dụng PMMT hợp pháp. Thứ tư là tổ chức, doanh nghiệp sử dụng PMMT, phải nhận thức được việc tuân thủ nghiêm túc vấn đề bản quyền PMMT là xu hướng tất yếu. Khi tổ chức, doanh nghiệp chưa đủ điều kiện thực hiện có thể thực hiện dần trong nhiều năm, bắt đầu từ các tổ chức, 724
  14. doanh nghiệp lớn. Một giải pháp khác đó là phần mềm mã nguồn mở. Song, thực tế cho thấy ý tưởng này không hẳn là tối ưu bởi người trong nước vốn thụ động trong việc tiếp cận và ứng dụng công nghệ, khó chuyển đổi thói quen khi sử dụng các nền tảng phần mềm mới chưa kể những rắc rối của vấn đề tương thích giữa các phần mềm. Về phía doanh nghiệp sản xuất phần mềm máy tính, việc chủ động và hợp tác trong việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình trong sở hữu PMMT luôn đóng vai trò quan trọng, nếu không muốn nói là thiết yếu. Sự hợp tác tích cực từ phía các doanh nghiệp này nhằm đẩy mạnh hơn nữa việc làm trong sạch môi trường kinh doanh PMMT ở Việt Nam. Các chuyên gia tin học, các công ty tin học và phần mềm cần tích cực tham gia vào các quá trình xây dựng, hoàn thiện khung pháp lý, hệ thống thực thi, giám định chuyên môn vi phạm Điều này đặc biệt quan trọng trong giai đoạn hiện nay khi Việt Nam tiến tới hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về bảo hộ và thực thi quyền SHTT. Ngoài ra, chính phủ có thể tăng cường áp dụng các giải pháp công nghệ như xây dựng cơ sở dữ liệu để quản lý thông tin quyền tác giả, quyền liên quan cho phép các tổ chức, doanh nghiệp luôn tiếp cận dễ dàng và khai thác thông tin hiệu quả. Kết luận Những hàng rào thuế quan và phi thuế quan mang hơi hướng bảo hộ ở các thị trường phát triển đang đòi hỏi doanh nghiệp Việt Nam phải không ngừng nâng cao khả năng cạnh tranh, khả năng thích ứng và đổi mới khoa học công nghệ. Hiệp định thương mại thế hệ mới như EVFTA mang lại cho Việt Nam nhiều thách thức hơn là những thuận lợi, đặc biệt trong lĩnh vực SHTT. Những thành tựu của CMCN 4.0 sẽ giúp giảm chi phí và cải thiện khả năng cạnh tranh cho doanh nghiệp Việt Nam nhưng để tiếp cận được công nghệ mới việc thực thi quyền SHTT trong môi trường số sẽ trở nên khó khăn hơn. Điều này yêu cầu Chính phủ phải nghiên cứu rất kỹ lưỡng để đề ra các chính sách và các biện pháp cho phép đảm bảo việc bảo hộ SHTT, bảo hộ PMMT được thực hiện thỏa đáng nhưng không ngăn cản sự phát triển khoa học công nghệ, đảm bảo được an ninh, bảo mật quốc gia, thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp trong ngành công nghiệp phần mềm nói riêng của Việt Nam. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. ICC (2019), Thúc đẩy và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ tại Việt Nam, ICC- Phòng Thương mại quốc tế. 2. IIPA (2018), Special 301 Report On Copyright Protection And Enforcement, International intellectual property alliance, Wasshington D.C. 3. ITC, WIPO (2009), Những điều cần biết về sở hữu trí tuệ, tài liệu hướng dẫn dành cho doanh nghiệp xuất khẩu vừa và nhỏ, Giấy phép số 110/GP-CXB Cục Xuất bản, Hà Nội. 4. Ngô Tuấn Anh (2019), Những thách thức trong thực thi quyền sở hữu trí tuệ trong bối cảnh hiện nay, Đại học Kinh tế quốc dân. 5. Nguyễn Thị Thu Trang (2016), Rà soát pháp luật Việt Nam với các cam kết của Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU về Sở hữu trí tuệ, Nhà xuất bản Công Thương , Hà Nội. 725
  15. 6. Trần Kiên (2018), Bảo hộ chương trình máy tính theo pháp luật Việt Nam, Tạp chí khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội: Luật học , Tập 34 , Số 4, 56-61. 7. WIPO (2007), International IP Protection of Software, history, purpose and challenges, WIPO Asia Pacific Regional Seminar on Intellectual Property and Software in the 21st Centrury: Trends, Issues, Prospects. 8. Tài liệu trực tuyến 9. Công ty thư viện pháp luật (2006). Thư viện pháp luật. [Trực tuyến]: 10. Lê Quang Thuận (2019), Các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới và tác động đối với kinh tế Việt Nam, Tạp chí tài chính [Trực tuyến]: cuu-trao-doi/cac-hiep-dinh-thuong-mai-tu-do-the-he-moi-va-tac-dong-doi-voi-kinh-te- viet-nam-309171.html 11. Lê Quang Thuận và Nguyễn Thị Phương, Xu hướng bảo hộ thương mại trên thế giới và kiến nghị với Việt Nam, Tạp chí tài chính [Trực tuyến]: gioi-va-kien-nghi-doi-voi-viet-nam-301021.html 12. Ngô Tuấn Anh, Nguyễn Cẩm Tú, Ngô Anh Thái (2019), Xu hướng mới trong bảo hộ thương mại trên thế giới và những khuyến nghị đối với Việt Nam, Tạp chí tài chính [Trực tuyến]: ho-thuong-mai-tren-the-gioi-va-nhung-khuyen-nghi-doi-voi-viet-nam-313435.html 13. Nguyễn Hoàn Thành, Luật sở hữu trí tuệ và bảo hộ phần mềm máy tính, [Trực tuyến]: 14. Quỳnh Như (2018), Bảo hộ phần mềm máy tính, Pháp lý khởi nghiệp, [Trực tuyến] Available at: tinh-133.html 15. Văn phòng Luật Newvision Law (2017), Quyền sở hữu trí tuệ đối với phần mềm, [Trực tuyến]: 726