Tập đoàn kinh tế tư nhân với tăng trưởng kinh tế Việt Nam

pdf 20 trang Gia Huy 18/05/2022 1980
Bạn đang xem tài liệu "Tập đoàn kinh tế tư nhân với tăng trưởng kinh tế Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdftap_doan_kinh_te_tu_nhan_voi_tang_truong_kinh_te_viet_nam.pdf

Nội dung text: Tập đoàn kinh tế tư nhân với tăng trưởng kinh tế Việt Nam

  1. TẬP ĐOÀN KINH TẾ TƯ NHÂN VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM TS. Phan Thế Công Trường Đại học Thương mại Tóm tắt Kinh tế tư nhân đã phát triển trên nhiều phương diện, được tự do kinh doanh và đối xử bình đẳng hơn với các thành phần kinh tế khác, nhất là trong tiếp cận các yếu tố sản xuất và các loại thị trường; hiệu quả, sức cạnh tranh dần được nâng lên; hoạt động đa dạng ở hầu hết các ngành, lĩnh vực và các vùng, miền; bước đầu đã hình thành được một số tập đoàn kinh tế tư nhân có quy mô lớn, hoạt động đa ngành, có khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Kinh tế tư nhân liên tục duy trì tốc độ tăng trưởng khá, chiếm tỷ trọng 39-40% GDP; thu hút khoảng 85% lực lượng lao động của nền kinh tế, góp phần quan trọng trong huy động các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng thu ngân sách nhà nước, tạo việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội. Tập đoàn kinh tế (TĐKT) tư nhân được hình thành bằng chính sự tăng trưởng quy mô và mở rộng phạm vi hoạt động của chính các doanh nghiệp. Tập đoàn có thể nắm giữ 100% vốn hoặc giữ cổ phần, vốn góp chi phối tại các công ty con. Công ty con được tổ chức dưới các hình thức: công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, công ty trách nhiệm hữu hạn nhiều thành viên, công ty cổ phần, công ty liên doanh trong và ngoài nước. Mô hình TĐKT tư nhân hiện nay chưa được thừa nhận. Các tập đoàn hiện nay buộc phải mang cái tên không chính danh “Công ty cổ phần tập đoàn”, hoặc Công ty “TNHH tập đoàn”. Việc thừa nhận các TĐKT tư nhân vẫn chỉ dừng lại ở mức độ chủ trương, hệ thống quy định chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của các TĐKT tư nhân, từ đó cũng chưa thể có những nghiên cứu sâu, cụ thể để thúc đẩy sự phát triển của mô hình này. Chính vì thế, các TĐKT tư nhân vẫn đang phải hoạt động một cách mò mẫm và chưa có những định hướng vĩ mô. 1. Các quan niệm và sự hành thành các tập đoàn kinh tế Quan niệm về TĐKT đã xuất hiện từ rất sớm với nhiều cách tiếp cận khác nhau. Tuy nhiên, quan điểm được nhiều nghiên cứu khoa học đồng tình là: “TĐKT là một tổ hợp doanh nghiệp lớn phức hợp nhiều loại hình sở hữu, nhiều 161
  2. chủ thể khác nhau tạo thành hệ thống các tổ chức kinh doanh thành viên theo mô hình công ty mẹ - công ty con, gắn kết nhau về lợi ích, tồn tại và phát triển thông qua các liên kết về vốn, công nghệ, thương hiệu hay thị trường”. TĐKT thường có 5 đặc điểm cơ bản như sau: (i) hoạt động trên phạm vi rộng lớn trong cả nước hoặc trên nhiều quốc gia; (ii) hoạt động đa ngành nghề, đa lĩnh vực nhưng thường có một ngành nghề chủ đạo; (iii) có quy mô rất lớn về nguồn vốn, nhân lực lao động và doanh thu; (iv) đa dạng hình thức sở hữu, thường là sở hữu hỗn hợp; (v) không có tư cách pháp nhân. Việt Nam là một trong số ít các quốc gia có định nghĩa về TĐKT được quy định trong Luật. Định nghĩa về TĐKT đã xuất hiện trong Luật Doanh nghiệp số 60/2005/QH113 nhưng vẫn chung chung và khá đơn giản, nên trên thực tiễn còn gây ra nhiều tranh cãi. Gần đây, Nghị định số 69/2014/NĐ-CP được ban hành ngày 15 tháng 7 năm 2014 về TĐKT nhà nước. Tổng công ty nhà nước đã đưa ra định nghĩa rất rõ về TĐKT nhà nước và các điều kiện thành lập tại Khoản 1 Điều 4 và Khoản 3 Điều 9 của Nghị định 4, bước đầu tạo nền tảng pháp lý cho sự phát triển của các TĐKT nhà nước trong thời gian sắp tới. Tuy nhiên, các quy định tương ứng về TĐKT tư nhân hiện nay vẫn chưa được ban hành. TĐKT thường được hình thành theo một trong hai phương thức sau: (i) tập trung và tích tụ vốn thông qua thành lập công ty con trực thuộc công ty mẹ hoặc sáp nhập và mua lại các công ty đang hoạt động; (ii) thành lập theo quyết định hành chính của nhà nước. Ở Việt Nam, những TĐKT lớn thuộc thành phần kinh tế nhà nước, do Chính phủ thành lập bằng các quyết định hành chính, nắm giữ các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế, trong khi đó, các TĐKT tư nhân hình thành do tập trung, tích tụ vốn còn mang tính tự phát và chưa được công nhận theo Luật. Cùng với sự phát triển của các TĐKT nhà nước, những năm qua, đã nổi lên một số DN tư nhân có tiềm lực mạnh, doanh thu, lợi nhuận lớn như Kinh Đô, Hòa Phát, Đồng Tâm, Hoàng Anh Gia Lai, Sacombank, đã và đang hoạt động theo mô hình TĐKT. Tuy nhiên, do chưa được thừa nhận về mặt pháp lý, các DN này phải hoạt động dưới những tên gọi rất khập khiễng như Công ty cổ phần Tập đoàn Hòa Phát, Công ty cổ phần Tập đoàn FPT, Mặc dù hình thành TĐKT thông qua con đường truyền thống được đánh giá là có nhiều ưu điểm hơn, nhưng thực tiễn đã kh ng định con đường hình thành không quyết định sự thành công của các TĐKT. Nhiều TĐKT trên thế giới ở Singapore, Hàn Quốc và Trung Quốc được hình thành bằng nguồn đầu tư của 162
  3. Chính phủ vẫn đạt được những thành công lớn. Việc TĐKT hình thành theo con đường nào chủ yếu dựa vào điều kiện, hoàn cảnh kinh tế nhưng sự phát triển của các TĐKT này phải dựa vào nỗ lực của bản thân tập đoàn cũng như cơ chế chính sách phù hợp của nhà nước. Kinh nghiệm của các nước cũng cho thấy, vai trò của nhà nước đối với sự hình thành và phát triển của các TĐKT tư nhân thông qua các chính sách, chương trình, định hướng, ưu tiên của Nhà nước trong từng thời kỳ là rất quan trọng. Tuy nhiên, tại Việt Nam, vai trò của Nhà nước đối với sự hình thành và phát triển các TĐKT tư nhân còn chưa được thể hiện rõ. Hiện nay, ngoại trừ các quy định về TĐKT nhà nước, vẫn chưa hình thành được tiêu chí để nhận diện các TĐKT tư nhân như quy mô vốn, lao động, số lượng DN thành viên, dung lượng thị trường, Việc thừa nhận các TĐKT tư nhân vẫn chỉ dừng lại ở mức độ chủ trương, hệ thống quy định chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của các TĐKT tư nhân, từ đó cũng chưa thể có những nghiên cứu sâu, cụ thể để thúc đẩy sự phát triển của mô hình này. Chính vì thế, các TĐKT tư nhân vẫn đang phải hoạt động một cách mò mẫm và chưa có những định hướng vĩ mô. 2. Tập đoàn kinh tế tƣ nhân với tăng trƣởng kinh tế Việt Nam 2.1. Đ c điểm tập đoàn kinh tế tư nhân ở Việt Nam TĐKT tư nhân được hình thành bằng sự tăng trưởng quy mô và mở rộng phạm vi hoạt động của chính các doanh nghiệp. Việc hình thành tập đoàn hoàn toàn là do nhu cầu và nội lực của DN và không có bất cứ một quyết định chuyển đổi hay sắp xếp hành chính nào. Tập đoàn có thể nắm giữ 100% vốn hoặc giữ cổ phần, vốn góp chi phối tại các công ty con. Công ty con được tổ chức dưới các hình thức: công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, công ty trách nhiệm hữu hạn nhiều thành viên, công ty cổ phần, công ty liên doanh trong và ngoài nước. Mô hình TĐKT tư nhân hiện nay chưa được thừa nhận. Các tập đoàn hiện nay buộc phải mang cái tên không chính danh “Công ty cổ phần tập đoàn”, hoặc Công ty “TNHH tập đoàn”. Các TĐKT tư nhân trong nước đang phải áp dụng Luật Doanh nghiệp mà luật này cũng chưa có sự thừa nhận chính thức nào. Hầu hết Doanh nghiệp này mới được thành lập trong vòng 10 năm trở lại đây và vận hành bằng phương thức gia đình “tin cậy lẫn nhau” chứ chưa thực sự chuyên nghiệp. Bên cạnh đó là xu thế phát triển doanh nghiệp: cần liên doanh, liên kết, cổ phần hoá và niêm yết cổ phiếu, nên đòi có cách quản lý công khai, minh bạch và hiệu quả. 163
  4. Sơ đồ. Bối cảnh chiến lƣợc của các TĐKT Hiện nay, Việt Nam đã có nhiều doanh nghiệp hay nhóm doanh nghiệp mạnh, tích hợp, liên kết các thế mạnh để hoạt động dưới một bộ máy điều hành chung, một thương hiệu chung tạo ra sự phát triển vượt bậc. Đây chính sự liên kết, hình thành mô hình TĐKT tư nhân. Tiêu biểu như FPT, Đồng Tâm, Kinh Đô, Hòa Phát, Hoàng Anh Gia Lai, Vincom, Trung Nguyên, Các tập đoàn này đều có vốn góp, cổ phần chi phối lẫn nhau ở các công ty con, công ty liên kết, ngân hàng, đối tác chiến lược trong và ngoài nước với hàng ngàn cổ đông. 2.2. Đóng góp tập đoàn kinh tế tư nhân trong phát triển kinh tế Việt Nam Tất cả các nước phát triển đều dựa vào doanh nghiệp tư nhân (DNTN). Sau mở cửa, cải cách, Trung Quốc, Việt Nam, Lào chú trọng phát triển DNTN. Thực tế chứng minh DNTN có hiệu quả hơn h n doanh nghiệp nhà nước (DNNN). Nói cho cùng thì tư nhân kinh doanh chính là nhân dân làm kinh tế, chèn ép tư nhân là gây khó cho dân. Ở Việt Nam, trong những năm đầu đổi mới, DNTN còn rất e ngại. Năm 1999 nước ta mới ban hành Luật Doanh nghiệp, trao trả quyền tự do kinh doanh cho người dân, doanh nghiệp được kinh doanh những gì luật pháp không cấm, không hạn chế về quy mô, địa bàn nữa. Từ đó, mỗi năm vài vạn doanh nghiệp được thành lập trên khắp đất nước, vai trò và đóng góp của DNTN ngày một tăng lên, đặc biệt về mặt phát triển các ngành nghề, sản phẩm đa dạng cung cấp cho thị trường, tạo công ăn việc làm cho người lao động và đóng góp 164
  5. thuế cho ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, đến nay 97% DNTN ở Việt Nam vẫn là nhỏ và vừa, trong đó có tỷ lệ đáng kể doanh nghiệp siêu nhỏ. Quy mô trung bình của DN Việt Nam rất nhỏ bé, năng lực cạnh tranh cũng khá hạn chế. Tỷ lệ doanh nghiệp lớn trong tổng số doanh nghiệp Việt Nam còn rất thấp, quy mô so với các nước cũng chưa đáng bao nhiêu. Hàng năm Vietnam Report công bố danh sách Top 500 doanh nghiệp lớn nhất ở Việt Nam, tính cả các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và các DNNN. Số DNTN trong Top 500 và Top 100 có tăng lên, nhưng số đó vẫn chưa nhiều. Mong muốn có những tập đoàn kinh tế tư nhân (TĐKTTN) lớn của Việt Nam đến nay chủ yếu vẫn là kỳ vọng. Chúng ta phải đợi tương lai nhiều năm nữa. Trong số 500 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam, số tập đoàn thực sự rất ít. Tập đoàn kinh tế ở Việt Nam cũng không giống các tập đoàn trên thế giới, vừa nhỏ, vừa sơ khai, các lĩnh vực hoạt động còn hạn chế, nhất là trình độ kỹ nghệ, công nghệ và quản trị còn cách xa các nước khác. Điều quan trọng là tập đoàn kinh tế phải hình thành từ mối liên kết chặt chẽ giữa các công ty thành viên, trong khi từng công ty vẫn độc lập trong hoạt động kinh doanh, có giá trị riêng; các công ty có thể kết nối trong các chuỗi giá trị, hoặc cùng nhau tạo thêm giá trị cho tập đoàn. Tập đoàn kinh tế cũng phải có hệ thống quản trị theo những thông lệ quốc tế tốt, nền tảng sáng tạo cao và không ngừng cải thiện. Ở Việt Nam, vài TĐKTTN đã hình thành và ngày càng mang vóc dáng của một tập đoàn. Ví dụ như Vingroup, Hòa Phát, TH True milk, Masan, Sun Goup Trong khu vực nhà nước hoặc nửa nhà nước, có Viettel hùng mạnh là niềm tự hào của VN, có Vinamilk rất đáng kính nể, có PVN, EVN, TKV, FPT, nhưng họ là DNNN nên ta không bàn đến ở đây. Vingroup khởi đầu tập trung làm bất động sản (BĐS), tiếp đó, các dịch vụ thương mại bán lẻ, giáo dục, y tế, đầu tư vào ngành hàng nông sản lần lượt ra đời tạo nên vóc dáng tập đoàn kinh tế đa ngành. Cách làm của Vingroup cho thấy tầm nhìn về một tập đoàn phát triển từng bước các lĩnh vực bổ sung cho nhau. Như VinMart liên kết với hơn 200 doanh nghiệp sản xuất hàng công nghiệp nhẹ, VinEco tạo liên kết với nông dân, để đưa hàng Việt vào hệ thống siêu thị. Ban đầu, các liên kết này có thể chưa mang lại lợi nhuận, phải dựa vào lợi nhuận của tập đoàn từ BĐS, nhưng chính các ngành đó lại đang tạo thêm giá trị gia tăng và nâng năng lực cạnh tranh của ngành cốt lõi là BĐS. Hòa Phát thì bắt đầu bằng thép, nhưng lớn lên cũng bằng BĐS, sau này tham gia cả khai thác khoáng sản. Masan thì vừa hoạt động ngân hàng, vừa phát triển ngành hàng thực phẩm và 165
  6. khai thác khoáng sản. SunGroup cũng là tập đoàn kinh doanh BĐS lớn. TH True Milk không giống các tập đoàn khác, khi từ lĩnh vực ngân hàng mở sang ngành sữa với toàn bộ hoạt động khép kín từ chăn nuôi bò, tới thu hoạch, chế biến và phân phối sữa, và đang tiếp tục triển khai một số dự án nông nghiệp và các lĩnh vực khác. TH True Milk còn có dự án đầu tư ra nước ngoài rất lớn ở Nga trong ngành hàng sữa, cũng làm từ chăn nuôi bò trở đi. Nguồn: Tổng cục Thống kê Như vậy, phần lớn các TĐKTTN ở Việt Nam phát triển gắn với BĐS hoặc khai thác tài nguyên khoáng sản là tài sản quốc gia, theo luật pháp thì thuộc sở hữu toàn dân và do nhà nước thống nhất quản lý. Để tiếp cận với những tài nguyên này, doanh nghiệp thường phải xây dựng quan hệ đặc biệt tốt với các cơ quan, với các quan chức nhà nước có quyền quyết định về phân bổ, quy hoạch sử dụng đất hay cấp phép xây dựng hoặc tương tự trong lĩnh vực khai thác khoáng sản. Tài nguyên và BĐS là những nguồn lực quan trọng để phát triển kinh tế nếu các quy định và hệ thống thực thi minh bạch, có trách nhiệm giải trình, công bằng, đảm bảo lợi ích của cộng đồng và đông đảo người dân, phù hợp với yêu cầu phát triển dài hạn của các vùng và của cả nền kinh tế. Tuy nhiên nước ta chưa có những quy định và hệ thống thực thi như vậy. Phát triển BĐS ở Việt Nam đôi khi chứa đựng và gây ra nhiều vấn đề thể hiện những yếu kém về thể chế và năng lực, đạo đức trong quản trị của chúng ta. Phần lớn việc khai thác khoáng sản cũng vậy. Những vấn đề đó gây nên tai tiếng về tham nhũng, về chủ nghĩa thân hữu tạo nên những xung đột lợi ích phức tạp trong các quan hệ kinh tế, quan hệ giữa nhà nước, thị trường và xã hội. 166
  7. Các nước phát triển luôn khuyến khích các TĐKTTN lớn mạnh và phát huy sức lan tỏa của họ. Họ là những người có tầm nhìn xa trông rộng, có thể làm đầu tàu, dẫn dắt cuộc chơi, tạo ra thị trường và mạng lưới kinh doanh hay các chuỗi giá trị, để các thành viên khác trong cộng đồng DN có thể tìm thấy ở đó đường đi nước bước và chỗ đứng cho mình để tham gia. Cùng đổ xô ra thị trường theo tính bầy đàn mà không có “cột cờ” để căn chỉnh, đối chiếu thì nhiều khi các DN nhỏ và vừa (DNNVV) ít có khả năng xác định phương hướng, dễ dẫn đến hoạt động mù quáng, nhắm mắt theo trào lưu và khó có thể thành công. Thành công của các DNNVV đồng thời cũng mang lại lợi ích về nhiều mặt cho các TĐKTTN lớn. DNNVV là nơi để các TĐKTTN đặt hàng (outsourcing) là nguồn cung đối với các sản phẩm và dịch vụ mà các TĐKTTN lớn tự biết không có hiệu quả nếu tự làm lấy. Họ cũng là thị trường quan trọng trực tiếp tiêu thụ hoặc tham gia phân phối các sản phẩm của các TĐKTTN. Họ cũng có thể là nơi để TĐKTTN tổ chức nghiên cứu hoặc thực hiện những sáng tạo mới, ứng dụng công nghệ mới trong kinh doanh. Quan hệ hợp tác cùng có lợi giữa các TĐKTTN với các DN khác tạo nên sự phát triển mà cả phía doanh nghiệp cũng như xã hội và người dân đều được hưởng. Ở Việt Nam, vài TĐKTTN đã bắt đầu đóng được vai trò đầu tàu, tuy còn mới mẻ và ở quy mô hạn chế. Ví dụ giữa năm 2016 Vingroup chính thức bắt tay với hơn 200 DNNVV trong các DN Hàng Việt Nam Chất lượng cao để cung cấp sản phẩm Việt trên thị trường bán lẻ trong nước. Khi đó, BigC, Metro đã bị người Thái thâu tóm, tạo cơ hội cho hàng ngàn DN Thái Lan đưa sản phẩm vào Việt Nam để chiếm lĩnh thị trường hơn 90 triệu người tiêu dùng mà họ coi là cơ hội cực lớn. (Chúng ta cần biết rằng 6 trong 10 người giàu nhất Thái Lan là các nhà sản xuất nhu yếu phẩm bao gồm đồ ăn thức uống - PV). Các siêu thị Việt muốn bán hàng Thái thì không thể cạnh tranh với BigC, Metro; bán hàng Nhật thì không thể cạnh tranh với Aeon đã thâu tóm Fivimart; bán hàng Hàn thì không thể cạnh tranh với Lotte, K-Mart. Trong bối cảnh đó, VinMart hiểu muốn cạnh tranh thì phải có nguồn cung sản phẩm khác biệt, và siêu thị Việt bán hàng Việt là phương án hợp lý nhất. Trên thực tế, hàng Việt Nam chất lượng cao đã xuất khẩu được đi nhiều nơi, nhưng không ít sản phẩm lại khó tiêu thụ ở thị trường trong nước. Một trong những nguyên nhân lớn là do thiếu hệ thống phân phối tốt, thiếu chuyên nghiệp, chiến lược và năng lực thúc đẩy tiêu dùng sản phẩm nội địa chưa cao. VinMart sở hữu một hệ thống phân phối rộng lớn nên có khả năng giúp hàng Việt Nam 167
  8. phát triển trên thị trường trong nước. Hàng Việt tiêu thụ được sẽ có nguồn lực để cải tiến kỹ thuật, nâng cao chất lượng, tăng sức cạnh tranh, củng cố niềm tin của người tiêu dùng. Các hộ nông dân sản xuất riêng lẻ muốn tự làm rau sạch cũng khó do quy mô nhỏ, không có tổ chức, không đủ nguồn lực để đầu tư giống, kỹ thuật, công nghệ, các vật tư có chất lượng VinEco đứng ra tập hợp các hộ nông dân, hướng dẫn kỹ thuật và cách sử dụng đầu vào, kiểm soát quy trình để đảm bảo chất lượng sản phẩm và hỗ trợ tiếp cận thị trường. Làm được như vậy, người nông dân mới có thể có khả năng tồn tại bằng cách sản xuất các sản phẩm sạch. Ngược lại, việc liên kết với nông dân làm phong phú hơn sản phẩm của VinEco, cung cấp nguồn nông sản đảm bảo chất lượng và an toàn, tạo nên thế mạnh cạnh tranh cho thương hiệu VinEco và VinMart. Đó chính là cách TĐKTTN dẫn dắt, thúc đẩy, giúp các doanh nghiệp nhỏ hơn cùng phát triển. Đất nước Việt Nam thực sự cần những tập đoàn làm như vậy. TH True Milk cũng là một điển hình khi bà chủ Ngân hàng Bắc Á quyết định đầu tư làm sữa, đi th ng vào xây dựng một hệ thống tổ chức kinh doanh hoàn toàn mới, hình thành chuỗi sản xuất hoàn chỉnh và thực hiện cách làm nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, hiện đại. Phải có doanh nghiệp cỡ lớn, có đủ nguồn lực tài chính, khả năng tổ chức và quản trị giỏi, có đủ phương tiện và cả các quan hệ cần thiết để vượt qua những cái khó khi làm nông nghiệp thì mới có sự phát triển đột phá như khi TH True Milk ra đời. TH true Milk đã nhanh chóng phát triển, trở thành đối thủ cạnh tranh tốt và tạo động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới liên tục trong các DN ngành sữa. Các thương hiệu sữa Việt đã cùng hướng tới những sản phẩm tốt hơn, đa dạng hơn, chiếm được niềm tin của người tiêu dùng, cạnh tranh được với sữa ngoại về các sản phẩm sữa tươi ở thị trường trong nước và vươn cả ra nước ngoài. Thực tế cho thấy vai trò của TĐKTTN là rất lớn. Với khát vọng và tầm nhìn của mình, họ luôn có thể chủ động liên kết, lôi cuốn, tạo tác động tích cực lan tỏa đến cộng đồng doanh nghiệp, các nhà sản xuất, hệ thống phân phối, người tiêu dùng và toàn bộ thị trường. Sau 30 năm, nền công nghiệp Việt Nam chưa tạo ra được sản phẩm gì đáng kể buộc chúng ta phải nhìn nhận th ng vào một sự thật khác, cũng đáng buồn không kém, là doanh nghiệp tư nhân Việt đang còn rất yếu, chưa thể trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế như kỳ vọng. Số lượng doanh nghiệp của Việt Nam (477.808 doanh nghiệp tính tới ngày 31/12/2016) không phải là ít, so với quy mô dân số cũng như trình độ phát triển kinh tế hiện tại. Hiện nay, chiếm đến 97% tổng số doanh nghiệp Việt Nam là doanh nghiệp vừa và nhỏ, 168
  9. trong đó gần 60% có quy mô rất nhỏ, vốn cũng như điều kiện kỹ thuật rất lạc hậu. Thực lực yếu cộng với việc các doanh nghiệp không tạo nên được chuỗi liên kết với nhau và liên kết với nước ngoài dưới danh nghĩa doanh nghiệp Việt nên dù số lượng không nhỏ, doanh nghiệp Việt không tạo được sức mạnh như đàn kiến, cố kết với nhau tạo thành một quả cầu để băng qua suối. Đồng nghĩa, chúng ta không đủ năng lực để cạnh tranh. Việt Nam thiếu những doanh nghiệp đầu đàn, những trụ cột, để các doanh nghiệp nhỏ liên kết vào, tạo thành một thế lực. Ở Việt Nam, kể cả nhiều doanh nghiệp lớn có tạo thêm được một vài doanh nghiệp thì cũng chỉ thuộc phạm vi những doanh nghiệp, tập đoàn ấy. Như vậy, cả về trụ cột lẫn năng lực liên kết, các doanh nghiệp Việt đều thiếu. Trong khi đó, thực tế hiện nay ghi nhận nỗ lực của các nhà quản lý trong các chính sách để tăng số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ mới thành lập. Tuy nhiên, theo số liệu của Tổng cục Thống kê, quý I/2017, cả nước có 26.478 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, song cũng có tới 23.904 doanh nghiệp đã giải thể, tương đương 10 doanh nghiệp khai sinh thì 9 doanh nghiệp khai tử. Từ một nền kinh tế thiếu doanh nghiệp, chuyển sang một nền kinh tế doanh nghiệp được coi là tăng trưởng tốt mà doanh nghiệp “chết” nhiều như vậy là rất bất thường. Và nếu doanh nghiệp cứ sinh ra rồi chết đi, sẽ có rất ít những doanh nghiệp trưởng thành, kéo theo nền kinh tế khó trưởng thành. Điều đáng lo ngại không kém là cách tiếp cận vấn đề như vậy có thể mang tới những rủi ro cho những nỗ lực thúc đẩy nội lực của kinh tế Việt Nam. Bởi một nền kinh tế chỉ có những nguồn lực nhất định về không gian chính sách, tiếp cận tín dụng , càng nhiều doanh nghiệp trông vào đó, cơ hội của các doanh nghiệp mới thành lập càng ít đi. Thực tế, tỷ trọng đóng góp GDP của kinh tế tư nhân luôn lớn nhất so với các thành phần kinh tế khác và duy trì ổn định ở mức 39-40%. Tuy nhiên, theo số liệu của Ban Kinh tế Trung ương, tốc độ tăng trưởng GDP của kinh tế tư nhân có xu hướng giảm trong những năm gần đây (giai đoạn 2003-2010 là 11,93%; giai đoạn 2011-2015 là 7,54%) có đến 97% doanh nghiệp tư nhân có quy mô nhỏ và siêu nhỏ, tỷ lệ thua lỗ, phá sản còn khá cao, bình quân giai đoạn 2007-2015 là 45%. 169
  10. Bảng 1: GDP và cơ cấu GDP theo giá thực tế phân theo thành phần kinh tế Kinh tế tư nhân (gồm Khu vực có vốn đầu Kinh tế Nhà nước Kinh tế tập thể cả cá thể) tư nước ngoài Năm TỔNG SỐ Tỷ Tỷ Tỷ Tỷ Giá trị (tỷ Giá trị Giá trị (tỷ Giá trị trọng trọng trọng trọng đồng) (tỷ đồng) đồng) (tỷ đồng) (%) (%) (%) (%) 2010 1,887,082 633,187 33.55 86,000 4.56 840,928 44.56 326,967 17.33 2011 2,461,442 806,425 32.76 110,679 4.50 1,108,946 45.05 435,392 17.69 2012 2,922,370 953,789 32.64 129,821 4.44 1,318,350 45.11 520,410 17.81 2013 3,221,887 1,039,725 32.27 144,296 4.48 1,415,445 43.93 622,421 19.32 2014 3,542,101 1,131,319 31.94 158,964 4.49 1,547,477 43.69 704,341 19.88 2015 3,772,552 1,202,850 31.88 167,913 4.45 1,644,239 43.58 757,550 20.08 2016 4,050,630 1,297,274 32.03 176,510 4.36 1,739,753 42.95 837,093 20.67 Nguồn: Tổng cục Thống kê Trong số 500 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam, số “tập đoàn” thực sự rất ít, các lĩnh vực hoạt động còn hạn chế, nhất là trình độ kỹ nghệ, công nghệ và quản trị còn ở khoảng cách rất xa so với thế giới. Điều này xảy ra, không phải vì họ không có tiềm lực. Vấn đề ở đây là doanh nghiệp lớn chưa có động lực để giữ vai trò trụ cột, dẫn dắt các doanh nghiệp nhỏ. Theo nhiều góc độ nhìn nhận, họ vẫn tận dụng được nhiều khe hở chính sách, cơ hội mang tính đầu cơ quá cao mà chưa lựa chọn những đầu tư dài hơi và bền vững. Việc thành lập mô hình TĐKTTN cần phải chú trọng đến những thế mạnh nội tại của chính doanh nghiệp. Đội ngũ các nhà quản trị kinh tế tư nhân phải được đào tạo bài bản, năng động để bắt kịp nhu cầu thị trường. Những doanh nghiệp muốn phát triển thành các TĐKTTN cần phải có thương hiệu đã được kh ng định trên thị trường, có nhận thức đầy đủ về vai trò của hợp tác kinh tế tư nhân. Và một điều không kém phần quan trọng, là các doanh nghiệp đó phải mang khát vọng vươn ra thị trường quốc tế nhằm kh ng định vị thế của các thương hiệu Việt Nam trên trường thế giới. Để thành một tập đoàn, một văn bản pháp lý không quan trọng. Doanh nghiệp cần cam kết của Chính phủ về sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân. Doanh nghiệp có thể tự đi, tự lớn nhưng nếu môi trường kinh doanh thực sự 170
  11. thuận lợi, bình đ ng trong các tiếp cận với các lợi thế kinh doanh, nguồn vốn thì bài toán hiệu quả kinh tế, tận dụng tối đa các nguồn lực kinh tế sẽ có lời giải tốt. Các doanh nghiệp có thể liên kết lại để tăng sức mạnh về vốn. Nếu như các doanh nghiệp tư nhân đủ lớn để trở thành đối tác cạnh tranh với tập đoàn nhà nước cũng sẽ là động lực để nâng cao hiệu quả kinh tế của khu vực tập đoàn kinh tế nhà nước theo hướng hiệu quả, minh bạch. Khi đó, các đầu tàu kinh tế sẽ thực sự mạnh, và việc giám sát hiệu quả của khu vực doanh nghiệp nhà nước sẽ theo hướng thị trường hơn. 3. Cơ hội, thách thức và những hạn chế đối với phát triển tập đoàn kinh tế tƣ nhân Phát triển tập đoàn kinh tế tư nhân lành mạnh, hiệu quả, bền vững, thực sự trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững, không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Mục tiêu quốc gia về phát triển tập đoàn kinh tế tư nhân bao gồm: Chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả kinh doanh trong khu vực kinh tế tư nhân. Phấn đấu đến năm 2020 có ít nhất 1 triệu doanh nghiệp; đến năm 2025 có hơn 1,5 triệu doanh nghiệp và đến năm 2030, có ít nhất 2 triệu doanh nghiệp. Tốc độ tăng trưởng của kinh tế tư nhân cao hơn tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế. Phấn đấu tăng tỷ trọng đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân vào GDP để đến năm 2020 đạt khoảng 50%, năm 2025 khoảng 55%, đến năm 2030 khoảng 60-65%. Bình quân giai đoạn 2016 - 2025, năng suất lao động tăng khoảng 4- 5%/năm. Thu hẹp khoảng cách về trình độ công nghệ, chất lượng nhân lực và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tư nhân so với nhóm dẫn đầu ASEAN-4; nhiều doanh nghiệp tư nhân tham gia mạng sản xuất, chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu. Nhận thức về vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân đã có những bước tiến quan trọng, ngày càng tích cực hơn. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách từng bước được hoàn thiện. Quyền tài sản, quyền tự do kinh doanh của cá nhân và tổ chức được thể chế hóa và được pháp luật bảo vệ. Phương thức quản lý của Nhà nước đối với kinh tế tư nhân được đổi mới phù hợp hơn với cơ chế thị trường. Cải cách hành chính, nhất là cải cách thủ tục hành chính được đẩy mạnh; môi trường 171
  12. đầu tư, kinh doanh từng bước được cải thiện, thông thoáng, thuận lợi hơn. Dân chủ trong đời sống kinh tế - xã hội ngày càng được phát huy. Đội ngũ doanh nhân ngày càng lớn mạnh, có khát vọng vươn lên làm giàu chính đáng, không ngừng nâng cao năng lực kinh doanh và quản trị doanh nghiệp. Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, đạo đức, văn hóa kinh doanh của doanh nhân dần được nâng lên. Tuy nhiên, việc triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách về khuyến khích phát triển tập đoàn kinh tế tư nhân còn hạn chế, yếu kém. Hệ thống pháp luật, các cơ chế, chính sách khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển còn nhiều bất cập, thiếu đồng bộ. Kinh tế tư nhân chưa thực hiện được vai trò là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Tốc độ tăng trưởng của kinh tế tư nhân có xu hướng giảm trong những năm gần đây. Kinh tế tư nhân có quy mô nhỏ, chủ yếu vẫn là kinh tế hộ kinh doanh; trình độ công nghệ, trình độ quản trị, năng lực tài chính, chất lượng sản phẩm và sức cạnh tranh thấp; cơ cấu ngành nghề còn bất hợp lý, thiếu liên kết với nhau và với các thành phần kinh tế khác; năng lực hội nhập kinh tế quốc tế còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu của các chuỗi giá trị sản xuất khu vực và toàn cầu. Nhiều doanh nghiệp tư nhân ngừng hoạt động, giải thể và phá sản. Vi phạm pháp luật và cạnh tranh không lành mạnh trong kinh tế tư nhân còn khá phổ biến. Tình trạng sản xuất, kinh doanh gây ô nhiễm môi trường, không bảo đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm; gian lận thương mại diễn ra nghiêm trọng, phức tạp. Nhiều doanh nghiệp của tư nhân không bảo đảm lợi ích của người lao động, nợ bảo hiểm xã hội, báo cáo tài chính không trung thực, nợ quá hạn ngân hàng, trốn thuế và nợ thuế kéo dài. Xuất hiện những quan hệ không lành mạnh giữa các doanh nghiệp của tư nhân và cơ quan quản lý nhà nước, can thiệp vào quá trình xây dựng, thực thi chính sách để có đặc quyền, đặc lợi, hình thành “lợi ích nhóm”, gây hậu quả xấu về kinh tế - xã hội, làm suy giảm lòng tin của nhân dân. Nhiều quy định của pháp luật về kinh tế tư nhân chưa được thực hiện nghiêm. Môi trường đầu tư kinh doanh, khởi nghiệp còn nhiều hạn chế, tiềm ẩn rủi ro cao và thiếu tính minh bạch. Quyền tự do kinh doanh và quyền tài sản, tiếp cận các cơ hội kinh doanh, nguồn lực xã hội chưa thực sự bình đ ng giữa kinh tế tư nhân và các thành phần kinh tế khác; chi phí trung gian, không chính thức còn nhiều. 172
  13. Thủ tục hành chính còn rườm rà, phức tạp; tình trạng nhũng nhiễu, gây phiền hà, thiếu trách nhiệm, lạm dụng chức quyền, gây khó khăn cho doanh nghiệp vẫn còn khá phổ biến. Phân công, phân cấp, phối hợp giữa các bộ, ban, ngành, địa phương còn bất hợp lý, thiếu chặt chẽ. Hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động của kinh tế tư nhân còn thấp. Những hạn chế, yếu kém nêu trên có nguyên nhân khách quan và chủ quan, nhưng nguyên nhân chủ quan là chủ yếu, đặc biệt là: Vẫn còn một số vấn đề về phát triển tập đoàn kinh tế tư nhân cần tiếp tục được cụ thể hóa, làm rõ hơn cả về lý luận và thực tiễn. Thể chế về phát triển doanh nghiệp, doanh nhân còn nhiều bất cập. Công tác phổ biến, quán triệt và tuyên truyền chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển tập đoàn kinh tế tư nhân chưa được thực hiện thường xuyên, đầy đủ, sâu rộng. Hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước còn nhiều hạn chế. Việc thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển tập đoàn kinh tế tư nhân hiệu quả chưa cao, chưa nghiêm. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội chưa đáp ứng yêu cầu phát triển tập đoàn kinh tế tư nhân, nhất là hạ tầng giao thông và nguồn nhân lực. Xuất phát điểm phát triển và năng lực nội tại của kinh tế tư nhân còn thấp. Đội ngũ doanh nhân mới hình thành và đang trong quá trình phát triển, hạn chế về năng lực quản trị kinh doanh và văn hóa doanh nghiệp, đạo đức doanh nhân. 4. Nhóm các giải pháp phát triển tập đoàn kinh tế tƣ nhân 4.1. Tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi cho phát triển tập đoàn kinh tế tư nhân a) Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô Triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, đẩy nhanh quá trình cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng. Chủ động, linh hoạt điều hành chính sách tiền tệ theo cơ chế thị trường, kiểm soát lạm phát ở mức hợp lý. Phối hợp đồng bộ, hiệu quả giữa chính sách tiền tệ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác. Bảo đảm lãi suất và tỉ giá hối đoái ổn định, phù hợp với điều kiện kinh tế vĩ mô và thị trường. Đẩy mạnh cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu; cơ cấu lại ngân sách nhà nước gắn với giảm bội chi ngân sách, bảo đảm an toàn nợ công và nâng cao hiệu quả đầu tư công; khuyến khích đầu tư của khu vực tư nhân. 173
  14. b) Hoàn thiện cơ chế, chính sách thu hút đầu tư tư nhân và bảo đảm hoạt động của kinh tế tư nhân theo cơ chế thị trường Thể chế hóa đầy đủ và bảo đảm thực hiện nghiêm minh quyền tự do kinh doanh, quyền sở hữu tài sản, các quyền, nghĩa vụ dân sự của các tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật. Có các cơ chế, chính sách khuyến khích thành lập doanh nghiệp tư nhân; thu hẹp những lĩnh vực kinh doanh có điều kiện, tạo điều kiện để kinh tế tư nhân đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh trong những ngành, lĩnh vực, địa bàn mà pháp luật không cấm, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ. Khuyến khích, tạo điều kiện cho các hộ kinh doanh mở rộng quy mô, nâng cao hiệu quả hoạt động, tự nguyện liên kết hình thành các hình thức tổ chức hợp tác hoặc chuyển đổi sang hoạt động kinh doanh theo mô hình doanh nghiệp thông qua các chính sách như: miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, tiền sử dụng đất trong những năm đầu hoạt động; tư vấn, hướng dẫn thủ tục thành lập doanh nghiệp, xây dựng phương án sản xuất kinh doanh; tổ chức công tác tài chính, kế toán; cung cấp thông tin; hướng dẫn quản trị doanh nghiệp và tư vấn pháp luật. Hoàn thiện và bảo đảm thực thi minh bạch, hiệu quả chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, phong trào khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo; tạo tiền đề hình thành các tập đoàn kinh tế tư nhân sở hữu hỗn hợp, bao gồm cả việc góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước có tiềm lực vững mạnh, đủ sức cạnh tranh, tham gia mạng sản xuất, chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo, điện tử, nông nghiệp. Có chính sách khuyến khích sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp theo hướng chủ yếu dựa vào doanh nghiệp, hợp tác xã và trang trại có quy mô lớn, ứng dụng công nghệ cao. Chú trọng phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ hỗ trợ nông nghiệp. Đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả đào tạo nghề cho nông dân. Bảo đảm các cơ chế, chính sách khuyến khích, hỗ trợ phát triển tập đoàn kinh tế tư nhân phù hợp với cơ chế thị trường và thúc đẩy tính tự chủ, cạnh tranh của kinh tế tư nhân; không biến các cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển tập đoàn kinh tế tư nhân thành bao cấp, phục vụ “lợi ích nhóm” dưới mọi hình thức. Không biến việc chấp thuận, xác nhận, chứng nhận đáp ứng các điều kiện, tiêu chuẩn chuyên môn kỹ thuật thành giấy phép con, gây cản trở hoạt động của kinh tế tư nhân. 174
  15. Hoàn thiện và bảo đảm cơ chế thực thi nghiêm minh, có hiệu quả pháp luật về hợp đồng. Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả của các thiết chế giải quyết tranh chấp kinh tế, dân sự, trọng tâm là các hoạt động thương lượng, hòa giải, trọng tài thương mại và tòa án nhân dân các cấp, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của người dân và doanh nghiệp. c) Mở rộng khả năng tham gia thị trường và thúc đẩy cạnh tranh bình đẳng Phát triển mạnh mẽ, thông suốt, đồng bộ các thị trường, hệ thống lưu thông, phân phối hàng hóa, dịch vụ trên cả nước, đặc biệt là thị trường tư liệu sản xuất; đồng thời có biện pháp bảo vệ có hiệu quả thị trường trong nước gắn với đẩy mạnh phát triển thị trường quốc tế phù hợp với các cam kết quốc tế. Bảo đảm cạnh tranh lành mạnh trên thị trường. Làm tốt công tác quy hoạch mạng lưới phân phối phù hợp với quy mô dân số và đặc điểm địa phương. Định hướng phát triển sản xuất phù hợp với nhu cầu trong nước và tốc độ mở rộng thị trường ngoài nước. Có biện pháp hiệu quả ổn định thị trường tiêu thụ sản phẩm, đặc biệt là đối với hàng nông sản. Tăng cường công tác phòng, chống gian lận thương mại, thao túng, chi phối thị trường, bóp méo giá cả, quan hệ cung - cầu hàng hóa, dịch vụ. Xoá bỏ các rào cản, chính sách, các biện pháp hành chính can thiệp trực tiếp vào thị trường và sản xuất kinh doanh tạo ra bất bình đ ng trong tiếp cận nguồn lực xã hội, trọng tâm là vốn và đất đai, cơ hội kinh doanh ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của kinh tế tư nhân. Tăng cường tính minh bạch và kiểm soát độc quyền kinh doanh, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh trên thị trường. Xây dựng chính sách tạo điều kiện để kinh tế tư nhân tham gia vào quá trình cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước thông qua việc góp vốn, mua cổ phần; thúc đẩy liên kết theo chuỗi giá trị giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp của tư nhân Đẩy mạnh xã hội hóa, tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân tham gia cung cấp dịch vụ công. Có chính sách ưu tiên thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với các dự án đầu tư có công nghệ cao, các công ty đa quốc gia lớn, gắn với yêu cầu chuyển giao và lan tỏa rộng rãi công nghệ tiên tiến và quản trị hiện đại, liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị với các doanh nghiệp của tư nhân trong nước, nhất là trong phát triển ngành chế biến, chế tạo, công nghiệp hỗ trợ, nông nghiệp công nghệ cao. Hoàn thiện thể chế quản lý tài chính doanh nghiệp và minh bạch thông tin tài chính doanh nghiệp của tư nhân. 175
  16. d) Phát triển kết cấu hạ tầng Tập trung phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, hiện đại, nhất là giao thông, năng lượng, viễn thông, đô thị, cấp, thoát nước, thủy lợi, xử lý chất thải, dịch vụ hậu cần và tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư nhân tiếp cận, sử dụng bình đ ng, với chi phí hợp lý. Sớm hoàn thiện thể chế để đẩy mạnh thực hiện cơ chế hợp tác công - tư trong đầu tư, khai thác, sử dụng, kinh doanh các dự án, công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật. Kiểm soát chặt chẽ chi phí đầu tư, việc vận hành và thu hồi vốn của các dự án kết cấu hạ tầng để giảm chi phí sản xuất, kinh doanh cho người dân và doanh nghiệp. Tăng cường khả năng đáp ứng nhu cầu vận tải đa phương tiện cho các doanh nghiệp dựa trên hệ thống giao thông đồng bộ, có trọng điểm, kết nối giữa các trung tâm kinh tế lớn và giữa các trục giao thông đầu mối. Mở rộng đầu tư và hiện đại hóa giao thông đường bộ, đường sắt, hàng hải, thủy nội địa và đường hàng không; tăng cường kết nối các hệ thống giao thông liên kết vùng và địa phương, kết nối hệ thống giao thông trong nước với quốc tế; phát triển dịch vụ hậu cần, lưu thông, phân phối hàng hóa, dịch vụ thuận tiện, đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế. Rà soát, hoàn thiện quy hoạch và đẩy mạnh đầu tư phát triển đồng bộ các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, đáp ứng đầy đủ yêu cầu của doanh nghiệp về mặt bằng sản xuất, kinh doanh với hạ tầng kinh tế - kỹ thuật, dịch vụ hỗ trợ đầy đủ và chi phí hợp lý. e) Tăng cường khả năng tiếp cận các nguồn lực Khẩn trương hoàn thiện pháp luật về đất đai, tài nguyên và môi trường, tạo điều kiện thuận lợi để kinh tế tư nhân tiếp cận thị trường đất đai, tài nguyên một cách minh bạch, bình đ ng theo cơ chế thị trường. Sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan để bảo đảm quyền sử dụng đất thực sự là tài sản được chuyển nhượng, giao dịch, thế chấp cho các nghĩa vụ dân sự, kinh tế, để các tổ chức, cá nhân được thuê đất, giao đất lâu dài với quy mô phù hợp với nhu cầu sản xuất, kinh doanh. Cơ cấu lại và phát triển nhanh, an toàn, hiệu quả các thị trường tài chính, nhất là thị trường tiền tệ và thị trường vốn; tạo điều kiện bình đ ng, thuận lợi cho kinh tế tư nhân tiếp cận vay vốn ngân hàng, huy động vốn trên thị trường chứng khoán, nhất là phát hành trái phiếu doanh nghiệp và sử dụng các dịch vụ tài chính với chi phí hợp lý. 176
  17. Phát triển đa dạng các định chế tài chính, các quỹ đầu tư mạo hiểm, các quỹ bảo lãnh tín dụng, các tổ chức tài chính vi mô, các tổ chức tư vấn tài chính, dịch vụ kế toán, kiểm toán, thẩm định giá, xếp hạng tín nhiệm Đẩy mạnh cơ cấu lại và phát triển đồng bộ thị trường chứng khoán, thúc đẩy phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp và các thị trường chứng khoán phái sinh để thị trường chứng khoán thực sự trở thành một kênh huy động vốn trung và dài hạn quan trọng của các doanh nghiệp tư nhân. Phát triển hệ thống các tổ chức tín dụng an toàn, lành mạnh; bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người gửi tiền, khách hàng và của bản thân tổ chức tín dụng. Phát triển đa dạng và nâng cao chất lượng các dịch vụ ngân hàng, nhất là dịch vụ tín dụng và thanh toán cho nền kinh tế. Nghiên cứu, ban hành cơ chế, chính sách tín dụng phù hợp với các phương thức sản xuất kinh doanh, đối tượng khách hàng, tăng cường kết nối các khâu trong mạng sản xuất và chuỗi giá trị. Phát triển đa dạng và nâng cao chất lượng các sản phẩm, dịch vụ bảo hiểm để góp phần giảm thiểu rủi ro, tổn thất và ổn định sản xuất, kinh doanh, đời sống của người dân và doanh nghiệp. Chú trọng phát triển bảo hiểm trong lĩnh vực nông nghiệp. Có cơ chế, chính sách tạo điều kiện để kinh tế tư nhân tích cực tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Hỗ trợ kinh tế tư nhân tiếp cận, khai thác các cơ hội trong hội nhập quốc tế, mở rộng thị trường, đẩy mạnh đầu tư và thương mại quốc tế; xóa bỏ các rào cản bất hợp lý đối với kinh tế tư nhân khi tham gia thương mại, đầu tư quốc tế. Tạo điều kiện để kinh tế tư nhân phát triển, nâng cao năng lực, từng bước tham gia sâu, vững chắc vào chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu. 4.2. Hỗ trợ kinh tế tư nhân đổi mới sáng tạo, hiện đại hóa công nghệ và phát triển nguồn nhân lực, nâng cao năng suất lao động Khuyến khích, hỗ trợ kinh tế tư nhân đầu tư vào các hoạt động nghiên cứu và phát triển, ứng dụng, chuyển giao công nghệ tiên tiến. Hoàn thiện và bảo đảm thực thi hiệu quả pháp luật về sở hữu trí tuệ. Phát triển các quỹ hỗ trợ đổi mới sáng tạo và ứng dụng công nghệ. Áp dụng chính sách thuế, hỗ trợ tài chính, tiếp cận các nguồn vốn ưu đãi phù hợp với hoạt động nghiên cứu, đổi mới, hiện đại hóa công nghệ. Kết nối doanh nghiệp, ý tưởng khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo với các nhà đầu tư, quỹ đầu tư. 177
  18. Ưu tiên phát triển các khu công nghệ cao, các vườn ươm công nghệ cao và các doanh nghiệp khoa học - công nghệ. Đẩy mạnh đầu tư, phát triển các cơ sở nghiên cứu khoa học - công nghệ, đội ngũ các nhà khoa học. Tăng cường hợp tác trong nước và quốc tế trong nghiên cứu phát triển, ứng dụng khoa học, công nghệ; mua bán, chuyển giao các sản phẩm khoa học, công nghệ mới. Đẩy mạnh thương mại hóa các sản phẩm nghiên cứu khoa học, công nghệ. Đẩy mạnh thực hiện chiến lược quốc gia về phát triển nguồn nhân lực. Đổi mới căn bản, toàn diện và nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, nhất là đào tạo nghề, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao để đáp ứng đủ nhu cầu số lượng và chất lượng nhân lực cho phát triển tập đoàn kinh tế tư nhân. Tăng cường hợp tác, liên kết chặt chẽ giữa doanh nghiệp và cơ sở đào tạo; quy hoạch và phát triển đào tạo theo nhu cầu sử dụng của doanh nghiệp và thị trường. Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng và phát triển đội ngũ doanh nhân có trình độ chuyên môn cao, kỹ năng quản lý, quản trị hiện đại, có đạo đức kinh doanh và tinh thần trách nhiệm đối với quốc gia, dân tộc. Khuyến khích, động viên tinh thần kinh doanh, ý chí khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo trong toàn xã hội, nhất là trong cộng đồng doanh nghiệp. Đẩy mạnh phổ biến, tuyên truyền, giáo dục kiến thức kinh doanh, khởi nghiệp trong toàn xã hội. 4.3. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước Xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; phát triển đội ngũ cán bộ, công chức liêm chính, có tư tưởng chính trị vững vàng, trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao. Nâng cao năng lực xây dựng và tổ chức thực hiện có hiệu quả pháp luật, cơ chế, chính sách, kế hoạch, quy hoạch, chiến lược phát triển, tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, an toàn cho kinh tế tư nhân phát triển lành mạnh, đúng định hướng. Tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra, trách nhiệm giải trình của các bộ, ngành, chính quyền địa phương các cấp đối với việc chấp hành chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển tập đoàn kinh tế tư nhân; kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật, bảo đảm không làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh và tạo gánh nặng tâm lý đối với người dân và doanh nghiệp. Đổi mới và 178
  19. nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư pháp trong việc giải quyết các tranh chấp kinh tế, thương mại, dân sự. Đẩy mạnh cải cách hành chính mà trọng tâm là tạo bước đột phá trong cải cách thủ tục hành chính. Đơn giản hóa, rút ngắn thời gian xử lý các thủ tục hành chính, nhất là về thành lập doanh nghiệp, đăng ký kinh doanh, cấp phép, thuế, xuất khẩu, nhập khẩu, giải quyết tranh chấp, tố tụng, xét xử, thi hành án, phá sản, Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, hiện đại hóa dịch vụ hành chính công để tiết kiệm thời gian, chi phí thực hiện các thủ tục hành chính cho người dân và doanh nghiệp. Phát triển các kênh tiếp nhận kiến nghị, phản ánh, thắc mắc, khiếu nại, tố cáo; đồng thời tăng cường cơ chế đối thoại có hiệu quả giữa cơ quan quản lý nhà nước với người dân, doanh nghiệp nhằm nắm bắt và xử lý kịp thời các nhu cầu, nguyện vọng, vướng mắc liên quan đến phát triển tập đoàn kinh tế tư nhân. Nâng cao năng lực, hiệu quả phối hợp quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực và địa phương đối với kinh tế tư nhân, bao gồm cả việc bảo đảm hiệu quả quản lý nhà nước đối với các tổ chức xã hội - nghề nghiệp. Đẩy mạnh phân cấp đi đôi với bảo đảm sự quản lý thống nhất, phối hợp liên thông, gắn kết giữa các cơ quan hành chính cùng cấp, giữa Trung ương và địa phương. Hoàn thiện và công khai, minh bạch hệ thống thông tin kinh tế - xã hội, cơ sở dữ liệu, văn bản quy phạm pháp luật, các quy hoạch, kế hoạch, chiến lược phát triển, cơ chế, chính sách quản lý để tạo điều kiện cho người dân và doanh nghiệp tiếp cận khai thác và sử dụng. Khẩn trương xây dựng và phát triển hệ thống cơ sở dữ liệu tập trung, thống nhất, tích hợp về khu vực kinh tế tư nhân. 179
  20. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đoàn Ngọc Phúc. (2017), Kinh tế tư nhân ở Việt Nam: Thành tựu, hạn chế và giải pháp phát triển, Tạp chí Lý luận chính trị số 09 năm 2017. 2. Nghị quyết 10-NQ/TW Phát triển tập đoàn kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. 3. Nguyễn Đình Luận. (2015), Vai trò của kinh tế tư nhân với tăng trưởng kinh tế của Việt Nam, Tạp chí Phát triển & Hội nhập, số 25(35), tr.24-28. 4. Nguyễn Hồng Sơn. (2017), Phát triển khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam: những rào cản và giải pháp khắc phục. 5. Nguyễn Hữu Đạt, Ngô Tuấn Nghĩa. (2013), Tập đoàn kinh tế trong việc thúc đẩy tái cơ cấu kinh tế. Hà Nội: Khoa học Xã hội. 6. Trần Kim Chung. (2017), Vai trò của khu vực kinh tế tư nhân trong mô hình phát triển kinh tế Việt Nam giai đoạn 2016-2020 và tầm nhìn 2035, Tạp chí Quản lý kinh tế số 80, trang 4-13. 180