Thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành về sức khỏe sinh sản vị thành niên của học sinh trường trung học phổ thông Bắc Kạn năm 2013
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành về sức khỏe sinh sản vị thành niên của học sinh trường trung học phổ thông Bắc Kạn năm 2013", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- thuc_trang_kien_thuc_thai_do_thuc_hanh_ve_suc_khoe_sinh_san.pdf
Nội dung text: Thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành về sức khỏe sinh sản vị thành niên của học sinh trường trung học phổ thông Bắc Kạn năm 2013
- THỰC TRẠNG KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, THỰC HÀNH VỀ SỨC KHỎE SINH SẢN VỊ THÀNH NIÊN CỦA HỌC SINH TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG BẮC KẠN NĂM 2013 BSCKII. Tạc Văn Nam Trung tâm Truyền thông GDSK Bắc Kạn Tóm tắt nghiên cứu Mang thai ngoài ý muốn, nạo phá thai, tảo hôn ở lứa tuổi vị thành niên để lại hậu quả nghiêm trọng về sức khỏe và tinh thần cũng như tương lại của vị thành niên. Để có biện pháp truyền thông kịp thời, phù hợp cho đối tượng vị thành niên chúng tôi đã tiến hành đề tài nghiên cứu “Thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành về sức khỏe sinh sản vị thành niên của học sinh trường trung học phổ thông Bắc Kạn năm 2013”. Kết quả nghiên cứu cho thấy có 58% đối tượng nghiên cứu có kiến thức tốt về sức khỏe sinh sản (SKSS), 28% có kiến thức trung bình và 15% có kiến thức yếu, điều này phản ánh thực tế tỷ lệ biết các nội dung như dấu hiệu dậy thì, thời điểm dễ thụ thai, các biện pháp tránh thai cũng như hậu quả của mang thai ngoài ý muốn đều rất thấp. Về thái độ: 48% đối tượng nghiên cứu có thái độ tốt, 41% có thái độ trung bình và 11% có thái độ yếu. Thái độ chưa tốt một phần do kiến thức của các em còn chưa đầy đủ dẫn đến những hành vi sai lầm hoặc “phó mặc” trong tình cảm yêu đương, quan hệ tình dục (QHTD) trong lứa tuổi học sinh và trên hết là có thể dẫn tới việc mang thai ngoài ý muốn ảnh hưởng nhiều đến kinh tế, sức khỏe, tương lai của các em. Kết quả về mức độ thực hành CSSKSS thì tốt chiếm 35%, trung bình lên tới 51% và 14% thực hành ở mức độ yếu, tập trung vào các hành vi như: QHTD sớm, không sử dụng BPTT khi QHTD. 1. Đặt vấn đề Trước thực trạng mang thai ngoài ý muốn, nạo phá thai, tảo hôn xảy ra nhiều ở lứa tuổi vị thành niên (VTN), đặc biệt là tại nhóm học sinh đang theo học tại các trường trung học phổ thông (THPT) trên địa bàn tỉnh, để lại hậu quả là ảnh hưởng đến sức khỏe, kết quả học tập và tương lai của các em. Nguyên nhân chính là do nhận thức, thái độ về lĩnh vực chăm sóc sức khỏe sinh sản (CSSKSS) còn hạn chế, dẫn đến có những hành vi không có lợi. Cũng đã có một số nghiên cứu về vấn đề kiến thức, thái độ, thực hành (KAP) liên quan tới sức khỏe sinh sản vị thành niên (SKSS VTN). Nhưng trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn, tính đến đầu năm 2013 chưa có nghiên cứu nào về lĩnh vực này, nhất là ở lứa tuổi học sinh THPT. Do vậy câu hỏi đặt ra ở đây là: Kiến thức và thái độ về lĩnh vực chăm sóc sức khỏe sinh sản của các đối tượng này ra sao? Từ kiến thức và thái độ như vậy thì vấn đề thực hành về sức khỏe sinh sản của các đối tượng này sẽ diễn ra như thế nào? Nhu cầu về cung cấp thông tin về sức khỏe sinh sản cho các đối tượng này có thực sự là cần thiết không? Xuất phát từ lý do đó chúng tôi tiến hành đề tài nghiên cứu "Thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành về sức khỏe sinh sản vị thành niên của học sinh trường trung học phổ thông Bắc Kạn năm 2013”. Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần hoạch định kế hoạch truyền thông giáo dục sức khỏe về CSSKSS cho VTN trên địa bàn. 30
- 2. Mục tiêu nghiên cứu 1. Mô tả thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành về sức khỏe sinh sản vị thành niên tại trường trung học phổ thông Bắc Kạn năm 2013. 2. Xác định nhu cầu truyền thông về chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên trong đối tượng nghiên cứu. 3. Phương pháp nghiên cứu 3.1. Địa điểm nghiên cứu: Trường THPT Bắc Kạn - Thành phố Bắc Kạn - Tỉnh Bắc Kạn. 3.2. Đối tượng nghiên cứu: Học sinh đang học của trường THPT Bắc Kạn (năm học 2013-2014). 3.3. Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 09/2013 đến tháng 11/2013 3.4. Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang Cỡ mẫu: Áp dụng công thức tính cỡ mẫu cho việc ước lượng một tỷ lệ trong quần thể 2 pq n Z1 / 2 . d 2 Trong đó: - n là cỡ mẫu tối thiểu cần nghiên cứu 2 - 1 / 2 = 1,96 ứng với = 0,05 - P = 0,5 (nghiên cứu chọn p= 0,5 để đạt cỡ mẫu lớn nhất) - d: Độ chính xác tuyệt đối của p (sai số tối đa cho phép so với trị số thực trong quần thể). Chọn d = 0,05 Như vậy cỡ mẫu tối thiểu là 385 học sinh. Trên thực tế để tránh những sai số do đối tượng chia sẻ thông tin thiếu hoặc không tốt thì chúng tôi phỏng vấn thêm 15 học sinh, vậy cỡ mẫu cuối cùng của chúng tôi là 400. Chọn mẫu: Theo phương pháp ngẫu nhiên có hệ thống: - Lập danh sách tất cả các học sinh trong trường (theo thứ tự các lớp từ 12, 11, 10 và theo A, B, C). - Xác định khoảng cách mẫu: k = N/n - Trong danh sách học sinh, chọn học sinh đầu tiên ngẫu nhiên n1<k - Chọn học sinh thứ 2: n2 = n1+ k - Tương tự như vậy chọn học sinh thứ 3, 4, 5 . 31
- 3.5. Công cụ thu thập số liệu: Thông tin thu thập bằng phiếu tự điền, khuyết danh. 3.6. Kỹ thuật thu thập số liệu: - Giới thiệu mục đích nghiên cứu. - Giới thiệu nội dung của phiếu tự điền, giải thích một số cụm từ học sinh chưa rõ. - Học sinh tự điền phiếu dưới sự hướng dẫn, giám sát của điều tra viên. 3.7. Xử lý số liệu: Toàn bộ số liệu được làm sạch trước và sau khi nhập vào máy tính bằng phần mềm EPI DATA. 4. Kết quả nghiên cứu 4.1. Kiến thức, thái độ, thực hành về SKSS của các đối tượng nghiên cứu 4.1.1. Kiến thức của VTN về SKSS Tỷ lệ VTN biết được 3 dấu hiệu dậy thì chiếm 97%; Tỷ lệ VTN nêu đúng về tuổi kết hôn chiếm 100%, nêu đúng về giai đoạn dễ có thai nhất trong chu kỳ kinh nguyệt chiếm 42%, không đúng chiếm 25%. Kiến thức của VTN về sử dụng bao cao su trong QHTD để tránh thai là (91%), vòng tránh thai (69%), sử dụng viên tránh thai khẩn cấp là 53%, xuất tinh ra ngoài âm đạo là 48%, biện pháp sử dụng thuốc tiêm và cấy tránh thai lần lượt là (21% và 17%). Tỷ lệ VTN biết về ảnh hưởng của nạo phá thai tới sức khoẻ chiếm 93%, tới tâm lý 72%, tới tương lai 63% và kinh tế 58%. VTN cơ bản đều biết về các tai biến sau nạo phá thai với các tỷ lệ lần lượt: chảy máu (52%); vô sinh (37%), nhiễm trùng huyết (35%), thủng dạ con (25%), chửa ngoài dạ con (21%), có 8% không biết gì về vấn đề này. Tỷ lệ VTN biết về các bệnh lây truyền qua đường tình dục (LTQĐTD) như: HIV/AIDS chiếm 78%, bệnh lậu là 65%, bệnh nấm là 40%, giang mai là 40%, các bệnh LTQĐTD như viêm gan B, bệnh trùng roi, Clamydia chiếm tỷ lệ thấp hơn lần lượt là (31%, 27% và 23%), Tỷ lệ VTN trả lời không biết về các bệnh lây truyền qua đường tình dục vẫn còn chiếm tỷ lệ là 12%. VTN biết các đường lây truyền HIV/AIDS cao nhất là do dùng chung bơm kim tiêm (85%); QHTD không dùng bao cao su (67%); truyền máu không an toàn (65%); Dùng chung dao cạo, kim xăm (62%); mẹ truyền sang con (42%); Chỉ có 22% số đối tượng cho rằng dùng chung bàn chải răng có thể làm lây truyền HIV/AIDS. Bên cạnh đó vẫn còn một số VTN vẫn cho rằng muỗi và côn trùng đốt vẫn có khả năng lây truyền HIV/AIDS (5%). Đánh giá chung về mức độ kiến thức tỷ lệ VTN có kiến thức tốt về SKSS chiếm 58%, trung bình là 28%, yếu chiếm 15%. 32
- 15% TỐT TRUNG BÌNH YẾU 28% 58% Biểu đồ 1: Đánh giá chung về kiến thức của VTN về CSSKSS 4.1.2. Thái độ của VTN về CSSKSS VTN cho rằng không nên có người yêu trong độ tuổi học sinh chiếm 38%; có cũng được chiếm tỷ lệ 36%; và chỉ có 6,5% cho rằng là rất cần thiết. 35% số VTN cho rằng tuyệt đối không QHTD trước hôn nhân, 13% cho rằng không nên QHTD, 21% cho rằng QHTD cũng được, 19% nên QHTD, 4% cho rằng rất cần QHTD trước hôn nhân. VTN đều cho rằng bắt buộc phải dùng các biện pháp tránh thai (BPTT) khi QHTD chiếm 56%, nên dùng 32%, có thể dùng chiếm 7%, vẫn có 2,25% cho rằng không nên dùng BPTT. Hầu hết VTN đều cho rằng việc giáo dục SKSS trong nhà trường là rất cần thiết (74 %), và cần thiết 22%, không cần thiết chỉ chiếm 1%, như vậy thái độ các em đều có xu hướng muốn được nhận những kiến thức thông tin về lĩnh vực này cho đầy đủ hơn. VTN có thái độ tốt về SKSS chiếm 48%, trung bình là 41%, yếu chiếm 11%. 11% 48% TỐT TRUNG BÌNH YẾU 41% Biểu đồ 2: Đánh giá chung về Thái độ của VTN về CSSKSS 4.1.3. Thực hành của VTN về CSSKSS 58% số đối tượng nghiên cứu đã có người yêu, 27,9% trong số đó đã QHTD (chiếm 16,75% trong tổng số đối tượng nghiên cứu). Phần lớn VTN có QHTD lần đầu ở khách sạn/ nhà nghỉ (43%). Tỷ lệ VTN sử dụng BPTT trong lần QHTD đầu tiên thấp chỉ chiếm 48%. Trong số VTN sử dụng các BPTT trong lần QHTD đầu tiên thì thuốc tránh thai khẩn cấp chiếm tỷ lệ cao nhất (59%); bao cao su (25%), tiếp đến là xuất tinh ra ngoài âm 33
- đạo (16%), không ai áp dụng biện pháp tính vòng kinh và uống thuốc tranh thai theo tháng. Lý do VTN không sử dụng BPTT trong lần QHTD đầu tiên chủ yếu là không có phương tiện (66%) và không thích sử dụng (20%). Tuy nhiên vẫn còn tới 14% VTN cho rằng không biết cách sử dụng BPTT. Đánh giá về mức độ thực hành CSSKSS thì ở mức độ tốt chiếm 35%, trung bình chiếm 51%, yếu vẫn còn chiếm 14%. 14% 35% TÔT TRUNG BÌNH YẾU 51% Biểu đồ 3: Đánh giá chung về thực hành của VTN về CSSKSS 4.2. Xác định nhu cầu của đối tượng nghiên cứu về truyền thông và cung cấp kiến thức về SKSS Trong 400 đối tượng được phỏng vấn thì: 86,5% số đối tượng cho rằng rất cần thiết phải truyền thông và cung cấp kiến thức về SKSS cho VTN, 8,75% cho rằng cần thiết. Nguồn thông tin về SKSS mà VTN muốn nhận được tương đối phong phú từ các nguồn như cha mẹ, thầy cô, bạn bè, cán bộ y tế, cán bộ tư vấn Tỷ lệ mong muốn được nhận thông tin cao nhất từ cán bộ y tế (48%), từ cha mẹ 16%, từ thông tin đại chúng (12%), từ thầy cô giáo là 11%. 5. Bàn luận 5.1. Thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành trong việc chăm sóc SKSS của VTN 5.1.1. Kiến thức về SKSS của VTN Hiểu biết về dấu hiệu dậy thì: Qua nghiên cứu ta nhận thấy phần lớn số lượng VTN có kiến thức cơ bản về SKSS VTN, các em cũng đã nhận thức được những biến đổi của cơ thể cũng như nhận biết được các dấu hiệu trong độ tuổi dậy thì như ở nam là: mộng tinh, vỡ giọng, mọc lông mu, lông nách ; ở nữ là: cơ thể phát triển nhanh, bắt đầu có kinh nguyệt, phát triển vú, mọc lông mu và lông nách Tỷ lệ VTN nêu đúng về tuổi kết hôn chiếm 100%, nêu đúng về giai đoạn dễ có thai nhất trong chu kỳ kinh nguyệt chiếm 42%, không đúng chiếm 25%, không biết 33%. Kết quả này cao hơn kết quả nghiên cứu của Phạm Quang Ngọc và cũng cao hơn điều tra SAVY khi vị thành niên được hỏi về kiến thức thời điểm dễ có thai trong chu kỳ kinh nguyệt chỉ có dưới 27,8% trả lời đúng. Như vậy các em đều nắm vững về tuổi kết hôn 34
- theo luật định, tuy nhiên nêu đúng về giai đoạn dễ có thai nhất trong chu kỳ kinh nguyệt chỉ chiếm 42%, trong khi đó kiến thức này lại rất quan trọng trong việc phòng mang thai ngoài ý muốn. Hiểu biết về các biện pháp tránh thai: nghiên cứu cho ta thấy hầu hết VTN có thể kể tên được các BPTT và BPTT mà VTN biết đến nhiều nhất là sử dụng Bao cao su trong QHTD để tránh thai (91%), sau đó đến biện pháp vòng tránh thai (69%), sử dụng viên tránh thai khẩn cấp là 53%, xuất tinh ra ngoài âm đạo là 48%, Biện pháp sử dụng thuốc tiêm và cấy tránh thai thấp nhất (21% và 17%). Kết quả này cao hơn nghiên cứu của Trường Đại học Y Thái Bình. Hiểu biết các ảnh hưởng và các tai biến nạo phá thai ở tuổi VTN: Kết quả cho thấy đa số VTN trong nghiên cứu đều biết được các ảnh hưởng của nạo phá thai ở tuổi VTN sẽ ảnh hưởng tới sức khoẻ, tới tâm lý, kinh tế và tới tương lai. Tỷ lệ VTN biết về ảnh hưởng của nạo phá thai tới sức khoẻ chiếm cao nhất 93%, tới tâm lý là 72%, tới tương lai là 63% và kinh tế là 58%. Kết quả của chúng tôi thấp hơn kết quả nghiên cứu của Trung tâm nghiên cứu Dân số và sức khỏe nông thôn thuộc đại học Y Thái Bình; nhưng cao hơn kết quả của Nguyễn Khắc Quyền nghiên cứu tại Yên Bái (2010). Đánh giá mức độ về kiến thức chung về SKSS cho thấy tỷ lệ VTN có kiến thức tốt về SKSS chiếm 58%, trung bình là 28%, yếu chiếm 15%. Điều này phản ánh thực tế từ hiểu biết về các dấu hiệu dậy thì, về thời điểm dễ thụ thai trong chu kỳ kinh nguyệt, về các BPTT, các tai biến do có thai ngoài ý muốn Như vậy, để nâng cao tỷ lệ VTN có kiến thức tốt về SKSS cần tăng cường các hoạt động tuyên truyền phổ biến kiến thức và nâng số giờ học ngoại khóa về lĩnh vực này. 5.1.2. Thái độ của VTN về các nội dung SKSS Thái độ VTN về việc có người yêu ở tuổi VTN, QHTD trước hôn nhân: Thái độ của VTN về việc có người yêu ở tuổi VTN phần lớn đều cho rằng không nên có (chiếm 38%). Tỷ lệ này thấp hơn nghiên cứu của Nguyễn Khắc Quyền (Yên Bái - 2010) (47,7%); có cũng được chiếm tỷ lệ 36%; chỉ có 6,5% cho rằng là rất cần thiết. Song VTN lại có vẻ dễ dàng chấp nhận có QHTD ở tuổi học trò khi có tới 21% cho rằng QHTD cũng được, 19% nên QHTD, 4% cho rằng rất cần QHTD trước hôn nhân. Kết quả nghiên cứu này phù hợp với kết quả nghiên cứu tại 3 tỉnh Hà Nội, Vĩnh Phú, Thái Bình. Về thái độ trong việc sử dụng BPTT trong QHTD ở lứa tuổi VTN: Qua nghiên cứu ta thấy thái độ của VTN đều cho rằng bắt buộc phải dùng BPTT khi QHTD chiếm 56%, Nên dùng 32%, có thể dùng chiếm 7%, nhưng vẫn có 2,25% cho rằng không nên dùng BPTT. Tỷ lệ này thấp hơn nghiên cứu của SAVY và nghiên cứu của Nguyễn Khắc Quyền (Yên Bái). Như vậy cho thấy thái độ của VTN về lĩnh vực này con nhiều hạn chế, việc bắt buộc phải dùng các BPTT là thực sự cần thiết tuy nhiên chỉ có hơn nửa số VTN được phỏng vấn cho rằng bắt buộc phải sự dụng BPTT (56%), vẫn có ý kiến cho rằng không nên sử dụng BPTT. Từ đây ngành y tế - ngành giáo dục đào tạo cũng cần tăng 35
- cường tuyên truyền để giúp học sinh có thái độ tích cực trong việc sử dụng các BPTT khi QHTD. Kết quả nghiên cứu tại biểu đồ 2 cho thấy tỷ lệ VTN có thái độ tốt về SKSS chiếm 48%, trung bình là 41%, yếu chiếm 11%. Kết quả này phản ánh sự tương đồng giữa kiến thức và thái độ, từ đó cho thấy muốn có thái độ tốt về lĩnh vực này trước hết cần cung cấp đầy đủ thông tin phải biết về vấn đề đó. Vẫn còn 11% tỷ lệ VTN có thái độ ở mức độ yếu, như vậy rất đáng lo ngại cho nhóm đối tượng này, vì khi thái độ chưa thực sự tốt, chưa tích cực có thể dẫn đến những hành vi sai lầm hoặc “phó mặc” trong tình cảm yêu đương, QHTD trong lứa tuổi học sinh và trên hết là có thể dẫn tới việc mang thai ngoài ý muốn ảnh hưởng nhiều đến kinh tế, sức khỏe, tương lai của các em. 5.1.3. Thực hành về SKSS của VTN Trong tổng số 400 VTN kết quả cho thấy có 240 học sinh đã có người yêu chiếm 58% trong nhóm đối tượng nghiên cứu. Trong các độ tuổi của đối tượng nghiên cứu, kết quả cho thấy tỷ lệ VTN bắt đầu có người yêu ở độ tuổi còn nhỏ trước 16 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất (43,75%) thấp nhất ở độ tuổi trên 17 (25%). Tỷ lệ này cao hơn nghiên cứu của Nguyễn Khắc Quyền (Yên Bái - 2010) chỉ có 50%. Thực tế, trong điều kiện hiện nay, kinh tế, văn hoá, xã hội phát triển; môi trường sống sẽ tác động đến tình yêu của vị thành niên, học sinh nảy nở tình yêu đôi lứa sớm hơn. Đây là nội dung hết sức tế nhị, vì vậy khoảng 58% trả lời có người yêu theo chúng tôi đây là số liệu cũng tương đối phù hợp. Trong số 240 VTN trả lời đã có người yêu thì những hành vi mà VTN thường làm nhiều nhất khi đi chơi với người yêu lần lượt là: cầm tay (80%), ôm hôn (45,8%), không làm gì (20%). 27,9% trong số đã có người yêu đã có QHTD kết quả này cao hơn so với nghiên cứu của SAVY. Thực tế cho thấy việc “yêu sớm”, “yêu thoáng” ở lứa tuổi VTN đã dẫn đến việc QHTD sớm. Có thể do bị động nhưng cũng có thể do đòi hỏi từ phía bạn tình nhất là phía nam giới (thường có suy nghĩ thoáng hơn về QHTD). Kết quả cho thấy phần lớn VTN có QHTD lần đầu ở khách sạn/ nhà nghỉ (43%) – có nghĩa là có sự chủ động từ cả 2 phía trong QHTD lần đầu với nhau, ở nhà mình (16,5%); Nơi vắng người (12%); Nhà trọ 10,5%. Như vậy việc QHTD của nhóm đối tượng này với tỷ lệ nêu trên cũng là một tỷ lệ tương đối phù hợp, vì hiện nay công nghệ thông tin, phim ảnh trên mạng Internet rất phổ biến, việc lan tràn những sản phẩm phim ảnh đồi trụy đôi khi cũng tác động lớn đến thái độ và hành vi trong vấn đề QHTD, tác động đến trào lưu “yêu thoáng”, “QHTD thoáng” ảnh hưởng nhiều tới hành vi QHTD của nhóm đối tượng này. Do vậy cần có những hoạt động tuyên truyền sâu rộng trong VTN về lĩnh vực này. Tỷ lệ VTN không sử dụng BPTT trong lần QHTD đầu tiên cao 52%, tỷ lệ này cao hơn nghiên cứu của Phạm Quang Ngọc (38%). Như vậy tỷ lệ này rất đáng lo ngại khi VTN chưa có hành vi tích cực trong việc sử dụng BPTT trong QHTD, như vậy thể hiện chưa chuẩn bị về mặt tinh thần, về phương tiện tránh thai, bị động trong QHTD lần đầu tiên. Lý do VTN không sử dụng BPTT trong lần QHTD đầu tiên chủ yếu là không có 36
- phương tiện (66%) và không thích sử dụng chiếm 20%. Tuy nhiên vẫn còn tới 14% VTN cho rằng không biết cách sử dụng BPTT, điều này đáng “báo động”, do vậy cần có can thiệp sâu phổ biến kiến thức về các BPTT, cách sử dụng, đồng thời thể hiện trách nhiệm phối hợp giữa Gia đình - Nhà trường và Ngành y tế. Trong số VTN sử dụng các BPTT trong lần QHTD đầu tiên thì thuốc tránh thai khẩn cấp chiếm tỷ lệ cao (59%); BCS (25%), tiếp đến là xuất tinh ra ngoài âm đạo (16%). Kết quả thực hành này trái ngược với hiểu biết của các em (Kiến thức về sử dụng Bao cao su trong QHTD để tránh thai là (91%), vòng tránh thai (69%), sử dụng viên tránh thai khẩn cấp là 53%, xuất tinh ra ngoài âm đạo là 48%) và cũng ngược với kết quả với nghiên cứu của Phạm Công Thu Hiền và cộng sự với tỷ lệ VTN sử dụng BPTT là BCS (42,1%), viên tránh thai khẩn cấp (40,4%). Tỷ lệ thực hành BPTT bằng viên khẩn cấp cao, điều này cũng dễ hiểu vì viên tránh thai rất sẵn có trên thị trường, dễ mua, tuy nhiên điều rất nguy hại đến tâm lý cũng như sinh sản của các em sau này, nhất là đối với VTN dùng nhiều lần trong tháng. Do đó cần phải có truyền thông nâng cao nhận thức của VTN về ưu và nhược điểm của các BPTT để các em cân nhắc thực hành. Đánh giá về mức độ thực hành trong CSSKSS (biểu đồ 3) thì ở mức độ tốt về thực hành chiếm 35%, trung bình chiếm 51%, yếu vẫn còn chiếm 14%. Như vậy so sánh với mức độ tốt về kiến thức, thái độ với thực hành ta thấy tương đối phù hợp. Đây là thực trạng đáng bàn trong lĩnh vực CSSKSS cho nhóm đối tượng này. Muốn có thực hành về CSSKSS tốt cần nâng cao kiến thức cho VTN về vấn đề này. Tuy nhiên giữa nhận thức và thực hành không hẳn đã tương đồng. Đôi khi có kiến thức tốt chưa hẳn đã thực hành tốt, cần phải nâng cao đồng bộ cả về kiến thức, thái độ mới mong có thực hành đúng, thực hành tốt. Do vậy khi tuyên truyền phổ biến chúng ta cần chú trọng tác động tới nhóm đối tượng này nâng cao đồng đều cả kiến thức, thái độ và thực hành. 5.2. Xác định nhu cầu về truyền thông, cung cấp kiến thức về CSSKSS VTN Việc đánh giá nhu cầu cần truyền thông về nội dung CSSKSS trong nhóm đối tượng nghiên cứu thì rất cần thiết 86,5%; cần thiết 8,75%; và 4,75% cho rằng có cũng được và không có cũng không sao, không có đối tượng nào cho là không cần thiết. Như vậy nhận thức của VTN về CSSKSS còn hạn chế nhưng các em có thái độ tích cực trong việc thu nhận kiến thức về vấn đề này thông qua các hoạt động truyền thông bằng các hình thức cụ thể thiết thực. Từ kết quả này cho thấy việc truyền thông về CSSKSS sẽ tác động vào đúng nhu cầu của VTN, đây là hoạt động chủ yếu nhằm nâng cao kiến thức cho VTN, từ đó thay đổi thái độ trong CSSKSS theo hướng tích cực, giúp các em thực hành được đúng đắn trong vấn đề liên quan tới SKSS VTN như: Yêu đương, QHTD trước hôn nhân, sử dụng các BPTT trong QHTD Kết quả về thăm dò nguồn thông tin về SKSS mà VTN muốn nhận được từ các kênh tương đối phong phú như: từ cha mẹ, thầy cô, bạn bè, cán bộ y tế, cán bộ tư vấn . Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỷ lệ mong muốn được nhận thông tin cao nhất từ cán bộ y tế (48%), cha mẹ chỉ 16%, từ thông tin đại chúng (12%), từ thầy cô giáo 11%. Như 37
- vậy, VTN mong muốn được tuyên truyền tư vấn trực tiếp từ những người có chuyên môn là CBYT, những người này có thể giúp cho các đối tượng nhận thức rõ ràng, đầy đủ hơn về CSSKSS, giúp tư vấn các BPTT, địa chỉ các dịch vụ liên quan CSSKSS. Các em ít tin tưởng với những người thân trong gia đình, thầy cô giáo trong vấn đề chia sẻ thông tin về CSSKSS. Qua đây nhà trường và gia đình cũng cần có những biện pháp giáo dục tuyên truyền một cách thân thiện, cởi mở để các em có thể tự tin chia sẻ những băn khoăn của mình về giới tính về QHTD từ đó mới góp phần cùng ngành y tế nâng cao kiến thức, thái độ và thực hành của các em trong lĩnh vực này. 6. Kiến nghị Nâng cao kiến thức, thái độ và thực hành về CSSKSS cho VTN: - Đưa nội dung CSSKSS vào chương trình giáo dục chính khóa hoặc ngoại khóa tại các trường trung học cơ sở, trung học phổ thông. - Có sự kết hợp chặt chẽ, thường xuyên giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong giáo dục và giải quyết các vấn đề SKSS. Đáp ứng cơ bản nhu cầu về TT GDSK lĩnh vực CSSKSS: - Ngành y tế giữ vai trò chủ đạo trong việc phối hợp với nhà trường, gia đình trong việc phổ biến, truyền thông các kiến thức, kỹ năng thực hành trong CSSKSS trong đối tượng VTN. - Tăng cường sản xuất, in ấn và cung cấp các loại tài liệu về CSSKSS phù hợp với VTN nhằm nâng cao kiến thức, thay đổi thái độ theo hướng tích cực và thực hành những hành vi có lợi trong CSSKSS với đối tượng VTN, nhất là giảm tỷ lệ chấp nhận yêu sớm, giảm tỷ lệ QHTD trong lứa tuổi VTN. - Cần triển khai những nghiên cứu can thiệp (cả định tính và định lượng) để đánh giá so sánh hiệu quả trước sau bằng việc TT-GDSK về SKSS. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Y tế (2009), Hướng dẫn chuẩn Quốc gia về các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản, Hà Nội. 2. Bộ Y tế, Tổng cục thống kê, Unicef (2003), Điều tra Quốc gia vị thành niên và thanh niên Việt Nam (SAVYI), Hà Nội, tr 14-55. 3. Nguyễn Linh Chi (2010), Kiến thức, thái độ, thực hành và các yếu tố liên quan trong phòng, chống lây nhiễm HIV/AIDS của sinh viên trường cao đẳng sư phạm Yên Bái năm 2010, Yên Bái. 4. Lê Cự Linh, Nguyễn Thanh Nga, Nguyễn Đức Thành, Lê Minh Thi, Đào Hoàng Bách. Nghiên cứu dọc về sức khoẻ sinh sản VTN và thanh niên tại một vùng đô thị hoá huyện Chí Linh tỉnh Hải Dương: kết quả sơ bộ mođun 1. Báo cáo nghiên cứu, Trường đại học Y tế Công cộng, Hà Nội. 5. Ngô Thị Lương (2010), Thực trạng kiến thức, thái độ, thục hành về sức khoẻ sinh 38
- sản của học sinh trung học phổ thông thành phố Bắc Giang và hiệu quả can thiệp, 6. Phạm Quang Ngọc (1999), Nghiên cứu sự hiểu biết một số kiến thức về sức khoẻ sinh sản tuổi vị thành niên ở thành phố Hải Phòng, Báo cáo khoa học Trường Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 7. Nguyễn Khắc Quyền (2011), Thực trạng kiến thức, thái độ, hành vi và kết quả can thiệp truyền thông GDSK về sức khỏe sinh sản của học sinh Trung học Phổ thông thành phố Yên Bái năm 2010-201. 8. Trường Đại học Y Thái Bình-Trung tâm nghiên cứu dân số và sức khoẻ nông thôn, Kết quả thí điểm chiến lược tăng cường sức khoẻ vị thành niên, Nxb Y học, Hà Nội, 2003. 39