Tục thờ vật tổ và biểu hiện của nó trong đời sống cộng đồng dân tộc Thái

pdf 8 trang Hùng Dũng 05/01/2024 70
Bạn đang xem tài liệu "Tục thờ vật tổ và biểu hiện của nó trong đời sống cộng đồng dân tộc Thái", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdftuc_tho_vat_to_va_bieu_hien_cua_no_trong_doi_song_cong_dong.pdf

Nội dung text: Tục thờ vật tổ và biểu hiện của nó trong đời sống cộng đồng dân tộc Thái

  1. 28 Thông tin Khoa học xã hội, số 5.2018 Tục thờ vật tổ và biểu hiện của nó trong đời sống cộng đồng dân tộc Thái Lê Hải Đăng(*) Tóm tắt: Trong xã hội cổ truyền của các cộng đồng người, tục tôn kính một loài động vật hay thực vật nào đó với quan niệm như là nguồn cội lịch sử của tộc người, gọi là tục thờ vật tổ (sau đây sẽ sử dụng thuật ngữ phổ biến là totem). Bài viết giới thiệu và phân tích một số quan điểm của các nhà nghiên cứu về tục thờ totem; những biểu hiện và ứng xử của các cộng đồng người nói chung đối với totem và ý nghĩa xã hội của tín ngưỡng này. Đi sâu tìm hiểu một trường hợp cụ thể, bài viết bàn về tục thờ totem ở tộc người Thái ở Việt Nam - một trong những tộc người còn duy trì đời sống tâm linh khá phong phú. Từ khoá: Totem, Totem giáo, Tục thờ totem, Dân tộc Thái Abstract: In traditional societies, the custom of worshiping an animal or plant species as the origin of the ethnic people is called totem worship. The paper introduces and analyzes some viewpoints of researchers on totem workship, totemic manifestation and its social meanings as well as behaviors of the general population. The paper also provides a case study of totem worship in Thai ethnic group, one of the ethnic groups in Vietnam who retains a relatively rich spiritual life nowadays. Keyword: Totem, Totemism, Thai Ethnic Group 1. Nhận thức về totem*(*) về các nghi thức, nghi lễ, tín ngưỡng liên Vật tổ hay totem khởi nguồn từ phương quan đến totem. ngữ của người Ojibwa, một bộ tộc da đỏ Từ những tư liệu ghi chép này, James ở Mỹ. Totem trong ngôn ngữ của người Fraser đã thu thập, tổng hợp, phân tích và Ojibiwa là họ hàng hay có họ hàng. Thuật viết tác phẩm Totemmism and Exogamy ngữ này lần đầu tiên được biết đến vào (Thuyết totem và Ngoại hôn) gồm 4 tập, năm 1791 qua một thông ngôn của bộ lạc xuất bản năm 1910. Cuốn sách được xem Ojibwa là J.K. Long, và nhanh chóng thu là tác phẩm kinh điển của giới nghiên cứu hút mối quan tâm lớn của giới khoa học. khoa học xã hội và nhân văn, có tác động Thời gian sau đó, có nhiều tư liệu ghi chép rất lớn đến tình hình nghiên cứu tôn giáo tín ngưỡng thời bấy giờ. Một số nhà nghiên (*) PGS.TS., Viện Thông tin Khoa học xã hội; Email: cứu đón nhận tác phẩm này với tinh thần lehaidang74@gmail.com thừa nhận sự tồn tại một hình thức tôn giáo
  2. Tục thờ vật tổ 29 sơ khai - Totem giáo, nhưng cũng không ít Theo Sigmund Freud, totem là những người không đồng tình với những lý giải của con vật, có thể hiền lành cũng có thể đáng J. Fraser và đã cất công đi tìm cách giải mã sợ, được các bộ tộc ở châu Úc đặt cho các của riêng mình. Bàn về vấn đề này còn có bài chi họ của mình (Sippe), nhưng hiếm khi viết nổi tiếng “The Secret of the Totem” của là một cái cây hay hiện tượng tự nhiên như Andrew Lang xuất bản năm 1905, nhưng có mưa, nước Bái vật trước tiên là ông tổ lẽ công lao phát hiện ra ý nghĩa của totem của chi họ, nhưng đồng thời cũng là thần hộ giáo thuộc về J. Ferguson McLennan - nhà mệnh và cứu tinh của họ, người cho họ tiên dân tộc học người Scotland. tri, trong khi nó là vật nguy hiểm với các Những ý kiến trái chiều về totem tồn tại nhóm khác thì nó lại hiểu rõ và rộng lượng trong một thời gian dài. Nhiều tranh luận với con cháu mình. Những người thờ cúng khoa học liên quan đến vấn đề này đã nổ ra cùng một totem có nghĩa vụ thiêng liêng và và đến nay vẫn chưa có hồi kết. Những ý luôn tâm niệm không được giết và ăn thịt kiến trái chiều này tựu trung lại thể hiện hai totem. Trong các buổi lễ, những người cùng luồng quan điểm chính: Luồng quan điểm chung totem biểu diễn và tưởng nhớ đến các thứ nhất cho rằng đây là một hình thức tôn hành động và tính cách của totem thông qua giáo; Luồng quan điểm thứ hai cũng công các vũ điệu. Hầu như ở mọi nơi có totem đều nhận sự tồn tại của hình thức totem, nhưng theo quy luật là mọi thành viên cùng một không công nhận đó là hình thức tôn giáo totem không được phép có quan hệ giới tính mà chỉ coi totem như là cách tư duy phân với nhau, tức là không được phép lấy nhau. loại của người nguyên thủy. Đó chính là chế độ hôn nhân ngoại tộc đi Trở lại với thuật ngữ totem do J.K. liền với totem (Sigmund Freud, 2001: 45). Long đưa ra, tạp chí Handbook of North 2. Các dạng thức totem American Indians của Hội Dân tộc học Mỹ Có nhiều cách tiếp cận để phân loại cho rằng, J.K. Long đã nhầm lẫn giữa một totem, vì vậy việc phân loại không hoàn bên là cách gọi tên thị tộc (tên con vật ứng toàn giống nhau. Dù tiếp cận theo hướng với tên thị tộc) với những tín ngưỡng liên nào, về cơ bản có thể gom lại thành ba loại quan đến vị thần hộ mệnh cho cá nhân của totem như sau: người Ojibwa khi ông giới thiệu từ totem - Totem bộ tộc (Clantotem) mà cả bộ với nghĩa là thần hộ mệnh. Sự thật, theo tộc lệ thuộc vào và được truyền đời từ thế huyền thoại của người Ojibwa, giữa thị tộc hệ này sang thế hệ tiếp sau; và totem không có quan hệ trực tiếp, chỉ có - Totem giới tính thuộc về người đàn quan hệ gián tiếp. Tương tự trường hợp ở ông hay đàn bà của một bộ tộc; châu Úc, totem đôi khi mang một tên khác - Totem cá nhân thuộc về riêng một với con vật, do đó tên gọi của thị tộc thường người và không chuyển sang cho người không trực tiếp gợi lên trong đầu óc thổ dân khác được. loài vật hay loài thảo mộc nào. Tương quan Hai loại totem sau không ảnh hưởng gì như vậy rõ ràng khác với tương quan giữa đến totem của cả bộ tộc. Có thể nó hình cá nhân và vị thần hộ mệnh có tính cách thành muộn và không có nhiều ý nghĩa đối trực tiếp của mình. Vậy, cần phải phân biệt với hệ thống totem. totem chung cho tập thể và thần hộ mệnh Totem bộ tộc là đối tượng suy tôn của riêng của cá nhân (Trần Đỗ Dũng, 1967). một nhóm đàn ông và đàn bà cùng totem,
  3. 30 Thông tin Khoa học xã hội, số 5.2018 giữ gìn cho hậu thế một tổ tiên chung và thế giới (ví dụ như nhiều bộ lạc có tục thờ liên hệ chặt chẽ, đối lập với nhau bằng totem nhưng không theo chế độ mẫu hệ), những nghĩa vụ chung cũng như hòa đồng nhưng lịch sử khoa học vẫn phải nhớ đến với nhau bởi tín ngưỡng đối với totem. ông như một người tiên phong khái quát Công trình Les formes élémentaires de hóa một hiện tượng tưởng như riêng lẻ la vie religieuse của Emile Durkheim tái thành một lý thuyết (Dẫn theo: Bùi Quang bản lần thứ 5 (năm 2005) phân biệt totem Thắng, 2004). như sau: Mc. Lennan dự đoán rằng đại bộ phận Totem tập thể: Cộng đồng coi một loài các phong tục tập quán trong các xã hội cổ vật, loài cây hay một đồ vật có quan hệ đặc đại và hiện đại phải được hiểu là những biệt với cộng đồng, đặc biệt là quan hệ họ phần còn sót lại của một giai đoạn totem hàng, là totem của cộng đồng. Những người giáo. Mc. Lennan đã có công phổ quát hóa cùng chung totem có thể là họ hàng nhưng và biến totem giáo thành một vấn đề quan cũng có thể không có quan hệ máu mủ, họ trọng của khoa học, làm khoa học phải công phải tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau, phải để nhận ý nghĩa của totem giáo, trong khi trước tang khi người khác chết, không được lấy đó vấn đề totem được xem là kỳ quặc. người trong cộng đồng cùng chung totem Trong tác phẩm The History of Totem cá thể: mỗi cá nhân còn có liên Melanesian Society, W.H.R. Rivers định hệ riêng với một vật nào đó tương tự như nghĩa tục thờ totem như là một thứ “tôn liên hệ giữa thị tộc và totem tập thể. Tuy giáo” được tạo nên từ 3 thành tố: nhiên, quan hệ totem cá thể khác với totem 1) Yếu tố xã hội: Có tương quan giữa tập thể. vạn vật với một đoàn thể trong bộ lạc, điển Totem tính dục: Ở một số bộ lạc, nơi mà hình là với một đoàn thể ngoại hôn hay với đàn ông một phe, đàn bà một phe, thường một thị tộc; thấy xuất hiện một hữu thể đóng vai trò một 2) Yếu tố tâm lý: Tin rằng người và biểu tượng cho phái của họ và che chở, phù vạn vật có họ hàng với nhau; Người sinh hộ cho họ (Dẫn theo: Trần Đỗ Dũng, 1967). ra vạn vật; 3. Totem giáo (totemism) 3) Yếu tố lễ nghi: Phải tôn kính vạn Từ những biểu hiện của tục thờ totem vật, điển hình là cấm xúc phạm đến những phổ biến ở nhiều cộng đồng người, năm vật được tôn kính đó (Dẫn theo: Trần Đỗ 1869, Mc. Lennan - nhà dân tộc học người Dũng, 1967). Scotland đã khái niệm hóa thành một thuật Năm 1900, S. Reinach khái quát 12 ngữ chuyên dụng của ngành dân tộc học - điểm trong cách ứng xử của các tộc người totem giáo (totemism). Ông đã định nghĩa với con vật totem như sau: totem giáo bằng một công thức nổi tiếng 1) Không giết và ăn thịt một số con vật; như sau: Con người nuôi nấng một số cá thể của loài Totemism = Thờ totem + kết hôn ngoại vật đó và chăm sóc chúng; tộc + mẫu hệ 2) Một con vật ngẫu nhiên bị chết được Công thức này của Mc. Lennan tuy để tang và được chôn cất như một thành không còn phù hợp với những dữ kiện dân viên của bộ tộc; tộc học mà sau này các nhà dân tộc học 3) Cấm ăn thịt con vật hoặc một bộ thu được từ những địa vực khác nhau trên phận nào đó của con vật;
  4. Tục thờ vật tổ 31 4) Nếu người ta ở trong hoàn cảnh phải là phát minh cực kỳ quan trọng trong tiến giết con vật, người ta xin nó tha lỗi và tìm trình lịch sử loài người. Theo ông, totem cách làm giảm thiểu sự vi phạm cấm kỵ là một đối tượng vật chất mà người man giết totem bằng các khái niệm nghệ thuật; rợ bày tỏ lòng sùng kính mê tín, vì họ tin 5) Khi con vật bị hiến tế, nó được khóc rằng có một mối liên hệ đặc biệt giữa họ và thương một cách long trọng; đối tượng vật chất kia. Mối quan hệ giữa 6) Trong một số dịp hội hè, nghi lễ con người và cái chết của họ là quan hệ qua tôn giáo, người ta trưng bộ da của con vật lại, totem hộ mệnh cho con người, và con totem; người chứng minh lòng tôn kính của mình 7) Các bộ tộc và các cá nhân lấy tên đối với totem bằng nhiều cách khác nhau, mình là tên con vật totem; chẳng hạn như không giết totem, không 8) Nhiều bộ tộc dùng hình vẽ con vật ngắt hái nếu như nó là cây cối. Totem khu làm huy hiệu trang trí cho vũ khí của họ; biệt với linh vật (fetish) ở chỗ, nó không khi đàn ông thì vẽ lên mình những hình ảnh nào là đồ vật riêng lẻ như linh vật, mà luôn con vật hoặc tự xăm; là một giống vật, theo quy luật là một loài 9) Khi totem là con vật nguy hiểm và động vật hay thực vật, hiếm khi là một lớp đáng ghê sợ, các thành viên bộ tộc được (klasse) các vật vô sinh và càng hiếm khi là miễn mang tên nó; đồ vật nhân tạo (Dẫn theo: Sigmund Freud, 10) Totem được bảo vệ và totem che 2001: 177). chở cho các thành viên bộ tộc; Có thể viện dẫn những nhận định của 11) Totem báo trước tương lai cho các S. Freud để khái quát lại totem giáo như thành viên bộ tộc và dẫn dắt đường đi cho họ; sau: Totem giáo vừa là một hệ thống tôn 12) Các thành viên của bộ tộc thường giáo, vừa là hệ thống xã hội. Trên phương tin rằng họ được gắn bó với con vật totem diện tôn giáo thì nó tồn tại trong các quan bởi mối liên hệ cùng nguồn gốc (Dẫn theo: hệ tôn kính và hòa hợp qua lại giữa một con Sigmund Freud, 2001: 174-175). người với totem của họ, trên phương diện Người ta cho rằng, ở đây S. Reinach đã xã hội thì nó đứng trong các nghĩa vụ đối đưa vào mọi dấu hiệu và hiện tượng còn lại lập của các thành viên trong bộ tộc cũng mà từ đó người ta có thể khai thác vài điểm như chống lại các bộ tộc khác. Trong giai gây tranh cãi của hệ thống totem giáo. Điều đoạn phát triển về sau của totem giáo, hai đáng chú ý của tác giả này là, ông đã đẩy phương diện trên có vẻ tách rời nhau; hệ một trong hai đặc trưng căn bản của totem thống xã hội thường vượt lên trên hệ thống giáo về phía sau và bỏ qua đặc trưng quan tôn giáo, và ngược lại, các bộ phận của trọng thứ hai của totem giáo đó là nguồn totem giáo vẫn còn lưu lại trong tôn giáo gốc của totem, những cấm kỵ nội hôn hay của những nước trong đó hệ thống xã hội loạn luân. ẩn mình trong totem giáo (Sigmund Freud, Những luận điểm của J. Frazer mang 2001: 177-178). lại cho người đọc bức tranh chân thực hơn Về khía cạnh tôn giáo, J. Frazer nhấn về các đặc trưng của totem giáo. Trong tác mạnh rằng, các thành viên của bộ tộc gọi phẩm Totemism and Exogamy, J. Frazer đã tên mình theo tên totem và theo quy luật chỉ ra, totem gắn liền với những cấm kỵ, cũng tin rằng họ ra đời từ đó. Vì vậy, với đặc biệt là sự loạn luân. Ông cho rằng đây niềm tin đó, họ không săn bắn totem, không
  5. 32 Thông tin Khoa học xã hội, số 5.2018 giết cũng như không ăn thịt totem và giữ của các thị tộc được coi là thiêng liêng và lời nguyền về tập quán của totem. Những sùng kính không phải bởi bất kỳ thuộc tính cấm kỵ về bắt và giết totem không phải là khách quan vốn có nào của totem, mà bởi cấm kỵ duy nhất, mà đôi khi còn cấm đụng nó biểu tượng hóa thị tộc (Dẫn theo: Bùi chạm và nhìn nó; trong một số trường hợp Quang Thắng, 2004). còn không được phép gọi đúng tên thật của L. Bruhl lại nhìn nhận và diễn giải ở con totem. Những vi phạm đến điều cấm kỵ một phương diện khác - phương thức tư nhằm bảo vệ totem sẽ bị trừng phạt bởi ốm duy đặc thù của con người trong xã hội đau, bệnh tật hoặc dẫn đến cái chết (Dẫn nguyên thủy - cái mà ông gọi là “tâm thức theo: Sigmund Freud, 2001: 178). nguyên thủy” (primitve mentality). L. Bruhl 4. Một số quan điểm về totem giáo giả định về một sự khác nhau cơ bản giữa Các nhà nhân học kinh điển cũng đã tâm thức nguyên thủy và tâm thức văn minh. dành khá nhiều thời gian và công sức để Ông đã chứng minh hệ thống tư duy của nghiên cứu sâu về hiện tượng totem giáo. người nguyên thủy hoàn toàn khác với tư Khởi đầu là những nghiên cứu nhằm vào duy logic và suy luận duy lý của khoa học việc diễn giải vai trò xã hội của totem như thực chứng ở nền văn minh phương Tây, là chiếc chìa khóa để mở cánh cửa vào thế ông gọi đó là tư duy thoại huyền (mystical) giới nguyên thủy, đặc biệt để tìm hiểu quá và tiền-logic (pri-logical). Điều quan trọng trình phát triển của tôn giáo. là ý tưởng: Kiểu tư duy này không hề thấp Trong cuốn Les formes élémentaires de kém hơn tư duy của con người hiện đại, mà la vie religieuse (Những hình thức sơ khai chỉ đơn giản là khác với cách tư duy của của đời sống tôn giáo) xuất bản năm 1912, chúng ta thời nay mà thôi. Ông đã đưa ra Emil Durkheim đưa ra lý thuyết chung về một khái niệm mang tính cách mạng - luật bản chất xã hội và tầm quan trọng của tôn tham dự (law of participation) - chính luật giáo, trong đó totem giáo được coi là dẫn này quy định/ chi phối tư duy tiền-logic. Có chứng sinh động đối với các luận điểm mà thể coi quan điểm của L. Bruhl là một bước ông đề xuất. Totem giáo là dạng sơ khai - tiến trong tiến trình của lịch sử khoa học, cơ bản nhất của tôn giáo. Ông không tìm cần phải có một cái nhìn khác về con người hiểu totem giáo ở khía cạnh nguồn gốc và xã hội nguyên thủy. Trong tâm trí của của tôn giáo mà đi sâu vào chức năng và người nguyên thủy không có chỗ cho những bản chất xã hội của nó. Theo ông, những khái niệm kiểu của chúng ta về luật nhân gì được biểu thị trong totem giáo đều diễn quả hay nguyên tắc không mâu thuẫn, mà ra tương tự ở tất cả các tôn giáo khác: Tôn thay vào đó là luật tham dự. Trong bản thể giáo nói chung và totem giáo nói riêng đều luận của người nguyên thủy, người và mọi là hiện tượng xã hội, xuất sinh từ thực tiễn vật liên kết với nhau, chia sẻ với nhau với xã hội chứ không phải từ tự nhiên. Luận cùng một bản chất (Theo: Hội Dân tộc học - điểm về cái thiêng của ông, với ý nghĩa là Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, 2004). “sự lý tưởng hóa cái xã hội” và tôn giáo Trong tác phẩm Totemism, Lévy Strauss thực chất là một hình ảnh cụ thể của “ý nhấn mạnh quan điểm cần xóa bỏ hố ngăn thức tập thể”, là tư tưởng cốt lõi và có giá cách có tính định kiến giữa tâm trí của trị nhất. Bằng những dẫn chứng từ thực tiễn người nguyên thủy và tâm trí của chúng ta. dân tộc học ở Úc, ông đã chỉ ra rằng, totem Ông phê phán rằng, những tác giả đi trước
  6. Tục thờ vật tổ 33 thường khoét sâu thêm sự khác biệt và càng một bản cũng có nhiều dòng họ cùng cư làm xa cách thêm khoảng cách giữa người trú. Trong xã hội Thái cổ truyền, người ta nguyên thủy với chúng ta, giữa tôn giáo của phân biệt giữa dòng họ quý tộc và dòng họ họ với tôn giáo của ta, giữa phương pháp tư thứ dân. Dòng họ quý tộc gồm: họ Cầm, duy của họ với phương pháp tư duy của ta. Bạc, Sa, Đèo, Sầm, Lò, còn các dòng họ Diễn giải của những học giả đi trước về tục Vi, Lô, Quàng, Lường, Lương, Lộc, Ngân thờ totem (hay tôn giáo nói chung) là ngụy là các dòng họ thứ dân. Ở vùng Thanh tạo, bởi họ theo một logic - mà logic này Hóa, Nghệ An, có những dòng họ thứ dân lại không nằm trong những phong tục tập đã trở thành dòng họ quý tộc, mang thêm quán kỳ lạ của những dân tộc bản địa, mà chức vị được phong bên cạnh tên họ: Hủn nằm ngay trong tâm trí của chúng ta. Qua Vi, Mứn Quàng, những tư liệu dân tộc học, Lévy Strauss đã Mỗi dòng họ đều có một truyền thuyết đưa ra một cách diễn giải mới: Thực chất, về totem của mình. Khi vật totem gặp nạn, totem giáo là dạng thức phân loại trong đó những người trong dòng họ phải hết lòng vật thể tự nhiên được dùng để biểu thị các cứu giúp, mai táng, tuyệt đối không được đơn vị xã hội. Sự phân loại này có dụng ý làm hại đến những con vật được coi như sâu xa của nó: Với tư cách là một cách định tổ tiên của mình. Vì vậy, dấu hiệu riêng danh tập thể, người nguyên thủy đã sử dụng để phân biệt các dòng họ chính là tục thờ sự khác biệt để biểu đạt sự hợp nhất, tính totem. tổng thể của xã hội (Dẫn theo: Bùi Quang Theo các cụ già người Thái, các dòng Thắng, 2004). họ Thái thờ totem là những con vật trùng Một nhà nghiên cứu khác cần nhắc tên với dòng họ của mình. Tuy nhiên, cũng đến khi bàn về totem giáo là nhà phân tâm có một số dòng họ thờ totem có tên gọi khác học S. Freud. Mặc dù giới nhân học ngày với tên dòng họ. Ví dụ như họ Cà kiêng giết nay không thừa nhận ông như là một trong và ăn thịt chim cốt ca; họ Cầm kiêng ăn con những ông tổ của mình, nhưng nhiều tư quạ; họ Lô thờ chim nộc tằng lo; họ Quàng tưởng của ông đã được các nhà nhân học kiêng giết và ăn thịt hổ; họ Hà và họ Lang Mỹ tiếp nhận và hình thành nên trường không ăn thịt chim cuốc; họ Hà lại kiêng ăn phái nhân học - phân tâm học. thịt chim bìm bịp(*); họ Lương cũng thờ hổ, 5. Biểu hiện của tục thờ totem trong đời sống tín ngưỡng dân tộc Thái (*) Trong các tộc người thiểu số ở Việt Câu chuyện truyền thuyết về totem của họ Hà được kể như sau: họ Hà không ăn thịt chim bìm Nam, từ huyền thoại đến đời sống thực tiễn bịp bởi nó là ân nhân đã chỉ cho ông tổ của dòng hiện nay cho thấy biểu hiện của hình thức họ cách chữa gãy xương. Ngày ấy, có người trong thờ cúng totem tuy không còn phổ biến như dòng họ gãy chân, thần linh báo mộng bảo ông họ trước đây nhưng cũng không hiếm gặp. Đó Hà bẻ gãy chân bìm bịp con và xem cách nó chữa lành đoạn xương bị gãy mà làm theo. Sáng hôm sau, là những huyền tích về nguồn gốc tộc người ông lên rừng gặp ngay tổ bìm bịp và bẻ gãy chân mà cho đến nay vẫn còn lưu giữ trong ý một con trong đàn chim non. Một vài ngày sau ông thức của mỗi cộng đồng. trở lại thấy chân chú chim đã lành và quấn quanh Thái là một trong những cộng đồng chiếc chân gãy là một cái lá rừng. Ông cầm lên và nhận ra lá loài cây rất quen thuộc, bấy lâu không ai tộc người được cấu thành từ nhiều dòng biết được nó có tác dụng chữa gãy xương. Sau này, họ khác nhau. Ngay trong một mường, họ Hà có phương pháp bí truyền chữa gãy xương.
  7. 34 Thông tin Khoa học xã hội, số 5.2018 thậm chí là mèo; họ Lang thờ chim quốc, tộc Thái ở nước ta không còn sâu đậm như họ Ngân thờ rắn; có nơi kiêng dùng quạt trước đây. Ý thức thờ totem cũng đã mờ (vi) để quạt xôi nhạt trong cộng đồng tộc người này. Những Người Thái dòng họ Vi thờ con niềng huyền tích về dòng họ chỉ còn lưu lại trong niễng. Ngoài ra, họ Vi cũng không được trí nhớ của những người cao tuổi. phép giết hại con niếu vì - totem của dòng 6. Thay lời kết họ. Nếu thành viên nào đó trong dòng họ Dù cách thức tôn kính và thờ cúng nhìn thấy con vật đó bị thương thì phải đưa totem có những biểu hiện đa dạng ở các về chăm sóc đến khi lành hẳn thì thả vào cộng đồng người khác nhau, tuy nhiên điểm rừng, còn bắt gặp xác chết của con vật đó chung nổi bật nhất của tục thờ totem ở các thì phải chôn cất và làm lễ cúng cẩn thận. cộng đồng là đều có những cấm kỵ nghiêm Khi làm nhà, người Thái dòng họ Vi phải ngặt liên quan đến totem. Các thành viên nằm cội, nghĩa là phía gốc cây dùng để của một chi họ totem đều là anh chị em với làm xà và hạ của ngôi nhà phải hướng về nhau, có trách nhiệm giúp đỡ và bảo vệ lẫn phía đầu giường ngủ. Con dâu không được nhau; trong trường hợp một người trong chi buông tóc, ngồi ở gian nhà ngoài, chỉ trừ họ totem bị một thành viên ngoại tộc giết cha mẹ chết mới được ngồi đó. hại, cả bộ tộc của kẻ giết người kia phải Còn dòng họ Lò của người Thái có tục gánh chịu trách nhiệm về sự đổ máu đó, và thờ totem là con chim táng lò, vì vậy, các cả dòng họ của người xấu số đều đồng tâm thành viên của dòng họ này phải thực hiện như một yêu cầu trả “món nợ máu”. Liên điều cấm kỵ (tabu) là không được giết hiệp theo totem mạnh hơn nhiều so với hay ăn thịt chim táng lò, và không ăn thứ gia tộc theo cách hiểu của chúng ta; chúng măng lò không đồng nhất với nhau, bởi việc chuyển Đôi khi các dòng họ thờ totem không giao totem về nguyên tắc theo thừa kế mẫu trùng tên, nhưng có một số dòng họ cùng hệ và khởi thủy không hề có chuyện thừa thờ chung một totem như: họ Quàng, Lự, kế theo phụ hệ. Lường, Lộc đều cùng có kiêng kỵ giống Quy định cấm kỵ còn cấm các thành nhau là không giết và ăn thịt hổ; họ Lò, viên cùng một họ totem lấy nhau, tuyệt đối Vi kiêng giết, ăn thịt rắn, lươn; họ Lương không được quan hệ tính giao với nhau. Đó kiêng ăn to - nấm mọc trên các gốc cây đã chính là hiện tượng ngoại tộc hôn nổi tiếng đẳn trên rừng, và không đụng đến các gốc và huyền bí gắn kết với totem giáo. Có thể cây đó. nói, đây là biện pháp chống lại sự loạn luân Chính nhờ tục thờ totem mà người trong quần hôn, tránh loạn luân cho thế hệ Thái đã nhận thức khá rõ ràng về nguồn trẻ và tránh rắc rối cho thế hệ cao niên. gốc dòng họ và hạn chế tối đa tình trạng W. Wundt là người đầu tiên đưa ra hôn nhân cận huyết. Hiện nay, ý thức về những lý giải về mặt xã hội học đối với tục nguồn gốc dòng họ tại các cộng đồng dân thờ totem. Trong cuốn Những yếu tố của tâm lý học dân tộc (1912), W. Wundt nhận định: Con vật tổ (Totemtier) được coi là con Người đứng đầu dòng họ đặt ra tục kiêng ăn thịt vật tổ tiên (Ahnentier) của nhóm người. bìm bịp và nếu “ân nhân” có gặp nạn thì phải tận tình cứu giúp (Nguồn: http//baonghean.vn/bai-3- Totem một mặt là một tên gọi cội nguồn, và chuyen-cua-mot-gia-ban-46862.html). trong ý nghĩa sau tên gọi đó mang ý nghĩa
  8. Tục thờ vật tổ 35 huyền thoại (Mythodologische Bedeutung). quan hệ tính giao của nhóm. Những chuẩn Sự vận dụng khái niệm này bao hàm cả hai mực ấy trước hết liên quan đến quan hệ hôn nghĩa trên, mỗi ý nghĩa đều có thể khôi phục, nhân. Vì vậy, sự phân chia dòng tộc gắn kết cho nên trong một số trường hợp, totem với một hiện tượng quan trọng xuất hiện biến thành một danh mục tùy tiện của các lần đầu tiên trong kỷ nguyên totem giáo - chi trong dòng tộc (Stammesabteilungen), đó là ngoại tộc hôn (Sigmund Freud, 2001: mà đáng lẽ ra trước tiên nó phải biểu đạt 181-182). W. Wundt đã khái quát hóa chức về nguồn gốc hay ý nghĩa thờ cúng của năng xã hội của totem giáo là bộ luật không totem Khái niệm về totem trở thành tiêu thành văn xưa cũ nhất của nhân loại về hôn chí cho việc phân chia dòng họ và tổ chức nhân và gia đình  dòng họ (Hội Dân tộc học - Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, 2004). Tài liệu tham khảo Gắn liền với các tiêu chí trên và sự ổn 1. Trần Đỗ Dũng (1967), Luận lý và tư định của chúng trong tín ngưỡng và cảm tưởng trong huyền thoại (Một quan xúc của các thành viên trong dòng tộc, niệm văn minh mới theo C. L. Strauss), không phải ngẫu nhiên mà người ta xem Nxb. Trình bày, Sài Gòn. totem là tên cho một nhóm thành viên của 2. Bùi Quang Thắng (2004), trong Hội dòng tộc, và cũng thường được coi là tổ tiên Dân tộc học - Bảo tàng Dân tộc học của chi họ tương ứng Bởi vậy, tổ tiên con Việt Nam (2004), Tài liệu của lớp học vật đã là đối tượng của sự thờ cúng. Việc “Về thế giới quan bản địa”, ngày 11- thờ cúng con vật mang ý nghĩa totem, ngoại 14/05/2004 trừ một số nghi lễ nhất định và lễ hội nào 3. Sigmund Freud (2001) Nguồn gốc của đó: không phải một con vật riêng lẻ nào, mà văn hóa và tôn giáo (Totem và cấm kỵ), là đại diện của cùng một giống, trong một Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, chừng mực, đều được coi là những con vật tr.45. thiêng; người cùng totem bị cấm ăn thịt bái 4. Hội Dân tộc học - Bảo tàng Dân tộc học vật hoặc chỉ được phép ăn trong những dịp Việt Nam (2004), Tài liệu của lớp học nhất định. “Về thế giới quan bản địa”, ngày 11- Khía cạnh xã hội quan trọng nhất của 14/05/2004. việc phân chia cội nguồn theo totem nằm ở 5. http//baonghean.vn/bai-3-chuyen-cua- các chuẩn mực của phong tục tập quán về mot-gia-ban-46862.html.