Về tổ chức xã hội ở Việt Nam thời xưa

pdf 12 trang Hùng Dũng 04/01/2024 890
Bạn đang xem tài liệu "Về tổ chức xã hội ở Việt Nam thời xưa", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfve_to_chuc_xa_hoi_o_viet_nam_thoi_xua.pdf

Nội dung text: Về tổ chức xã hội ở Việt Nam thời xưa

  1. 51 CHUYÊN MỤC SỬ HỌC - NHÂN HỌC - NGHIÊN CỨU TÔN GIÁO VỀ TỔ CHỨC XÃ HỘI Ở VIỆT NAM THỜI XƯA NGUYỄN TÙNG Từ 1990 đến 2002, trong hơn mười năm, chúng tôi đã tham gia hai chương trình nghiên cứu về làng xã ở đồng bằng sông Hồng trong khuôn khổ hợp tác khoa học giữa Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia (Việt Nam) với Trung tâm Quốc gia Nghiên cứu Khoa học (Pháp), rồi với Viện Viễn Đông Bác cổ (Pháp). Các thành quả đã được công bố trong hai cuốn sách: Mông Phụ, un village du delta du fleuve Rouge(1) và Làng ở vùng châu thổ sông Hồng: vấn đề còn bỏ ngỏ(2). Trước đó, tôi cũng đã nghiên cứu làng Bảo An ở Quảng Nam(3). Sau đây, tôi xin ghi lại vài tâm đắc về làng xã Việt Nam đã được trình bày chủ yếu trong các cuốn sách nói trên. 1. LÀNG XÃ, VẤN ĐỀ THUẬT NGỮ định nghĩa cũng như bình luận về các Qua Dư địa chí của Nguyễn Trãi, ta từ nói trên. biết là ngay từ thế kỷ XV rất nhiều từ Xã: là từ thường gặp nhất (đến hơn Hán Việt được dùng để chỉ đơn vị 90% trong Các trấn tổng xã danh bị hành chính cơ sở ở Việt Nam: hương, lãm). Thông thường nó chỉ một làng giáp, phường, trại, động, sách, thôn lớn hay ít ra được chính quyền công và nhất là xã (Nguyễn Trãi, 1976, tr. nhận như thế. Nhưng nhiều xã ghi 209-246). Tình trạng đó đã kéo dài ít trong Các trấn tổng xã danh bị lãm chỉ ra cho đến đầu thế kỷ XIX như ta có chưa đến mười dân nội tịch(4). Vào thấy trong cuốn Các trấn tổng xã khoảng những năm 1930, ở Bắc Ninh danh bị lãm (1981), được viết vào khoảng 74% các làng thuộc loại “nhất khoảng các năm 1810-1813, nên cần xã nhất thôn” và 24% gồm từ hai đến bốn thôn (xem Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Tùng. Nhà nghiên cứu dân tộc học, 1996). Từ đầu thế kỷ XX trở đi, việc chuyên nghiên cứu về người Việt, trước dùng từ xã để chỉ các đơn vị hành đây từng dạy ở đại học Paris Diderot và làm việc tại Trung tâm Quốc gia Nghiên cứu chính cơ sở ngày càng trở nên phổ Khoa học (CNRS, Pháp). biến: vào năm 1928, tất cả các đơn vị
  2. 52 NGUYỄN TÙNG – VỀ TỔ CHỨC XÃ HỘI Ở VIỆT NAM hành chính cơ sở ở Bắc Kỳ đều được Trại: chỉ các làng lúc đầu gồm các lều gọi là xã (xem Ngô Vi Liễn, 1928). thô sơ để ở tạm do nhu cầu lao động. Thôn: chỉ một xã nhỏ với tất cả các Chẳng hạn, vào đầu thế kỷ XIX, Mông chức năng của một đơn vị hành chính Phụ (thuộc xã Đường Lâm, Hà Nội) có cơ sở. Nhưng, như vừa trình bày trên xóm Trại sẽ trở thành thôn Phụ Khang đây, thôn cũng là một đơn vị địa vực hiện nay có số dân gần bằng Mông nằm bên trong xã. Khác với xóm, thôn Phụ. thường có đình và một số tập tục Sở: nguyên xưa đây là các sở đồn riêng, nên có bản sắc khá đậm nét so điền mà dường như, theo Đại Việt sử với các thôn khác cùng xã. Từ thời ký toàn thư (1968, III, tr. 276), Lê Thánh Minh Mạng (1820 - 1840), các thôn Tông là vị vua đầu tiên đã cho lập vào thuộc xã do phó lý cầm đầu. năm 1481 để phát triển nông nghiệp. Phường: chỉ một xã ở đô thị hay một Châu: làng được lập trên đất bồi ở ven xã mà phần đông dân cùng làm một sông. nghề, thủ công hay buôn bán. Phường Vạn: làng chài. Trong từ điển của còn được dùng để chỉ một hội ngành Alexandre de Rhodes xuất bản năm nghề. Trước thời Pháp thuộc, phủ 1651, vạn được định nghĩa là “nơi tụ Hoài Đức (tức nội thành Hà Nội ngày tập nhiều thuyền bè để buôn bán”. Nó nay) có rất nhiều phường. còn chỉ tập hợp những người làm Phường thủy cơ (hay thủy cơ): là làng chung một nghề, như vạn buôn, vạn ở trên sông. Theo Pierre Gourou (1965, xe, vạn cấy tr. 437-442), vào những năm 1930, Giáp: từ này rất ít khi được dùng để nó “gồm toàn thuyền hay bè, dân làng chỉ đơn vị hành chính cơ sở, ngoại trừ sống bằng nghề đánh cá hay vận tải”. ở Thanh Hóa và nhất là ở Nghệ An Phường tứ chiếng: gồm toàn dân “tứ (xem thêm dưới đây phần viết về giáp chiếng”, tức là những người đến từ như là tổ chức bên trong xã). nhiều nơi, có gốc gác không rõ. Hai Phố: trong từ điển của Alexandre de thành ngữ trai tứ chiếng và gái giang Rhodes xuất bản năm 1651, từ này hồ thường sóng đôi nhau với nghĩa rất chỉ một “con đường có các cửa hàng xấu. Phải chăng từ tứ chiếng phái sinh buôn bán” (Rhodes, 1651, tr. 602). từ tứ trấn bao quanh kinh thành Hiện nay ở các đô thị miền Bắc, các Thăng Long dưới triều Lê (Kinh Bắc, con đường vẫn được gọi là phố (phố Sơn Nam, Hải Dương và Sơn Tây)? Huế, phố Bà Triệu ), khác với cách Giáo phường: gồm những gia đình gọi ở miền Nam. Trong Các trấn tổng làm nghề hát xướng, đàn địch. xã danh bị lãm, các tỉnh miền núi Bắc Trang: chỉ các làng thời xưa (chủ yếu Bộ có rất nhiều phố: 5 ở An Quảng, 6 từ đời Lý Trần) vốn là điền trang do ở Tuyên Quang, 20 ở Cao Bằng, 40 ở các ông hoàng, bà chúa, các nhà quý Lạng Sơn. Ðiều đó chứng tỏ là vào tộc hay quan lớn lập ra. đầu thế kỷ XIX, trao đổi hàng hóa
  3. TAÏP CHÍ KHOA HOÏC XAÕ HOÄI soá 7 (203) 2015 53 bằng đường bộ giữa Việt Nam và Trong danh sách phủ huyện, làng xã Trung Quốc được thực hiện chủ yếu ở Đàng Trong do Lê Quý Đôn chép lại thông qua Cao Bằng và nhất là Lạng vào năm 1776 trong Phủ biên tạp lục Sơn. Ở hai tỉnh này, còn có nhiều chợ (1977, tr. 78-93), ta thấy ở hai xứ và quán được ghi như là các đơn vị Thuận Hóa và Quảng Nam, ngoài xã hành chính cơ sở. Ðiều đáng ghi nhận và thôn, còn có phường, trang, châu, là các tỉnh đồng bằng bao quanh phủ giáp, ấp, tộc, ty (?), man (làng của các Hoài Ðức (thuộc tỉnh Hà Nội, được lập dân tộc ít người?) và chợ (thị). sau này vào năm 1831) chỉ có một 2. VỀ TỪ XÃ VÀ CHẾ ĐỘ TỰ TRỊ XÃ phố duy nhất là Tân Hội (nằm trên địa THÔN phận của xã Ðường Lâm ngày nay). Trong thời Bắc thuộc, vào đời Đường Ðiều này cũng chứng tỏ là vào thời đó, (618-907), Giao Châu được chia ngoài Thăng Long ra, Đồng bằng sông thành châu, huyện, hương và xã. Hồng có rất ít phố. Các phố có lẽ rất Theo Cao Hùng Trưng trong An Nam nhỏ: chỉ gồm vài cửa hàng, quán ăn Chí Nguyên, đại hương gồm từ 160 và quán trọ. đến 540 hộ và tiểu hương từ 70 đến Ở các tỉnh miền núi, bản làng của các 150 hộ, đại xã gồm từ 40 đến 60 hộ dân tộc ít người thường được gọi là và tiểu xã từ 10 đến 30 hộ. Dưới triều sách hay động. Ngoài ra còn có nhiều Hàm Thông (860-874) đời Đường, từ khác như lũng, xưởng, mỏ, bến, Cao Biền chia Giao Châu thành 159 (5) chòm cũng được dùng để chỉ xã thôn. hương. Năm 907, Khúc Hạo đổi Ở Nghệ An và Thanh Hóa, ta còn gặp hương ra giáp do quản giáp điều nhiều từ khác nữa: nậu (làng do một khiển với sự trợ giúp của phó tri giáp; nhóm thợ hay lái buôn lập ra), tích cả nước có 344 giáp (Việt sử thông (làng của những người làm muối?)(6), giám cương mục, 1957, II, tr. 41; Phan đội (làng do một đội lính lập ra?), tộc Huy Lê, 1984, tr. 137). Vào thời này, (làng chỉ do những người cùng một theo Ngô Thì Sĩ, đơn vị hành chính cơ tộc lập ra?), lăng (làng có nhiệm vụ sở là xã do chánh lệnh trưởng và tá bảo vệ, tu bổ một lăng vua?) và nhất lệnh trưởng đứng đầu, ngoài ra còn có là giáp. Cuối cùng, trong Ðại Nam cả giáp trưởng, nhưng Ngô Thì Sĩ thực lục (1970, IX, tr. 123), ta thấy không nói gì đến giáp (Ngô Thì Sĩ, trong số các làng do Nguyễn Công 1997, tr. 138). Năm 1242, Trần Thái Trứ lập ra vào năm 1838, có 14 lý và Tông đặt các chức đại tư xã (từ ngũ 27 ấp. Về lý xin xem dưới đây phần về phẩm trở lên) và tiểu tư xã (từ lục giáp. Còn ấp thì đã xuất hiện trong phẩm trở xuống) cai trị từ hai đến bốn các thành ngữ thái ấp, thang mộc ấp, xã: mỗi xã do các xã quan quản lý thực ấp chỉ các điền trang mà các vua được gọi là xã chính, xã sử và xã Lý, Trần ban cho các vương hầu. Ở giám (Đại Việt sử ký toàn thư, 1967, II, Nam Bộ, ấp thường được dùng để chỉ tr. 17). Ngoài ra còn có chức câu các làng. đương lo giữ gìn an ninh trật tự (Đại
  4. 54 NGUYỄN TÙNG – VỀ TỔ CHỨC XÃ HỘI Ở VIỆT NAM Việt sử ký toàn thư, 1967, II, tr. 34). xã”. Như vậy hai từ này đã được dùng Năm 1297, Trần Anh Tông lại đổi giáp trước năm 1651, ít ra ở Đàng Trong? thành hương. Năm 1397, Trần Nghệ Ở Đàng Ngoài, vào năm 1658, các xã Tông “bãi các chức đại, tiểu tư xã” trưởng, xã sử và xã tư được các tri nhưng vẫn giữ chức quản giáp (Đại phủ chọn trong số các Nho sĩ và người Việt sử ký toàn thư, 1967, II, tr. 201). đậu sinh đồ. Năm 1670, dưới triều Trong thời Minh thuộc (1407-1427), Cảnh Trị (1663-1672), các xã trưởng vào năm 1419 Lý Bân lập ra một đơn được chọn trong số con em của các vị hành chính mới là lý gồm khoảng gia đình lương thiện có khả năng giáo 110 hộ, đặt dưới sự điều khiển của lý hóa dân; mỗi năm họ phải chịu khảo trưởng được chỉ định mỗi năm (Đại hạch và những người xuất sắc nhất Việt sử ký toàn thư, 1968, III, tr. 8). được thăng làm tri huyện. Năm 1720, Vào đầu đời Hậu Lê, năm 1428, Lê dưới triều Bảo Thái (1720-1731), họ được giao việc cai trị làng xã, thu thuế Thái Tổ cho các xã lớn (từ 100 nội tịch điền thổ và thuế thân; những người trở lên) được có ba xã quan, các xã được điểm cao trong nhiều cuộc sát trung bình (từ 10 đến 50 nội tịch) có hạch kế tiếp nhau được ban tước. Từ hai xã quan và các xã nhỏ (gồm 10 năm 1732 trở đi, xã trưởng được chọn nội tịch hay ít hơn) có một xã quan. trong dân, nên mất đi sự quan trọng Năm 1466, Lê Thánh Tông thay xã (Phan Huy Chú, 1992, tr. 479-480) và quan bằng xã trưởng (Đại Việt sử ký triều đình ngưng can thiệp trực tiếp toàn thư, 1968, III, tr. 198). Để chống vào công việc nội bộ của làng (Ngô nạn gia đình trị, vào năm 1488 vua Kim Chung, Nguyễn Đức Nghinh, quy định tri phủ hay tri huyện chỉ được 1987). Dường như cũng từ năm 1732 cử một người trong nhóm anh em ruột trở đi xã thôn trở thành “một cộng và anh em chú bác làm xã trưởng. đồng tự cai trị lấy mình, tự giải quyết Nhờ bi ký khắc vào năm 1543 ở chùa các tranh chấp giữa các thành viên, Hương Sơn (Phù Ninh, Phú Thọ) ta thu thuế cho nhà nước. Nhà nước biết được rằng các chức xã chính, xã không có quan hệ với dân làng mà với sử vẫn còn vào thế kỷ XVI (Đinh Khắc xã thôn. Và một khi hoàn thành được Thuân, 1996, tr. 68). Từ quan viên các nghĩa vụ đối với chính quyền, xã xuất hiện lần đầu trên bia của xã An tự cai trị một cách tự do” (Gourou, Trạch (Nam Xương, Hà Nam) dựng 1965, tr. 263). Như vậy sự tự trị của vào năm 1531 (Đinh Khắc Thuân, xã thôn có lẽ là một hiện tượng mới 1996, tr. 54), và sau đó ít lâu trên bia xuất hiện vào nửa đầu thế kỷ XVIII. của xã Đệ Nhị (Mỹ Lộc, Nam Định) Dường như dưới triều Minh Mạng (Đinh Khắc Thuân, 1996, tr. 77). (1820-1840), chức danh lý trưởng (do Điều đáng để ý là trong từ điển của Lý Bân đưa vào Việt Nam dưới thời Alexandre de Rhodes có ghi hai từ cai Minh thuộc) thay thế cho chức danh xã và ông xã như là “người đứng đầu xã trưởng và các chức danh tiên chỉ,
  5. TAÏP CHÍ KHOA HOÏC XAÕ HOÄI soá 7 (203) 2015 55 phó lý được đặt ra: hai chức danh sau hiện nay xã Ðường Lâm gồm cả thảy chỉ được ghi trong các địa bạ lập ra từ chín thôn (= xã dưới thời Pháp thuộc). năm 1832 trở đi. Hậu quả của cải cách hành chính nói Lý trưởng được giao thi hành các trên là khi gặp từ xã, lắm khi ta không quyết định với sự phụ giúp của phó lý biết đó là xã trước năm 1945 (= thành hay hương trưởng. Là người duy nhất phần của tổng) hay là xã hiện nay đại diện cho dân làng trước chính (tương đương với tổng thời xưa vì quyền, lý trưởng “thu và nộp lại thuế; gồm nhiều làng)! Ðể tránh lẫn lộn, tiến hành chia công điền; đóng dấu phải chăng nên gọi xã (mới) là tổng vào các văn tự bán hay cầm cố ruộng như trước Cách mạng tháng Tám? Có đất; các văn tự sẽ vô giá trị nếu không lẽ cũng nên nói thêm rằng việc dùng làm thủ tục đó; đảm nhận việc bảo vệ hai từ tổng và xã để chỉ hai đơn vị an ninh công cộng; trình báo lên quan hành chính không phải bắt chước của các tội phạm hay các sự kiện nghiêm Trung Quốc mà là một sáng tạo của trọng xảy ra trong làng, như giết người Việt. người, cháy nhà, mở sòng bạc, buôn Làng = xã? lậu, trộm cướp ” (Ory, 1894, tr. 190). “Lý trưởng có thể bị luật pháp trừng trị Theo Bùi Xuân Đính, “làng là đơn vị tụ vì việc thu và nộp lại thuế lên quan [ ] cư truyền thống của người nông dân Ông ta phải chịu tội thay cho dân làng. Việt, có địa vực riêng, cơ cấu tổ chức, Tài sản của ông ta - nếu không có thì cơ sở hạ tầng, các tục lệ (về cheo lấy tài sản của các kỳ mục - phải đền cưới, tang ma, khao vọng) thờ cúng bù vào số tiền thuế thu thiếu. Lý riêng, tâm lý tính cách riêng và cả “thổ trưởng giữ triện của làng”. (Pasquier, ngữ” (tiếng làng) riêng ”. Cho đến 1907, tr. 51-52). Vì chức lý trưởng cho đây, ta có thể đồng ý với tác giả. phép khi mãn nhiệm kỳ được tham gia Nhưng chúng tôi cho là ông đã lầm khi hội đồng kỳ mục, nên các gia đình viết thêm: “ làng có bộ máy quản lý kình địch thường tranh nhau chức vụ tức hội đồng kỳ mục (từ 1921 trở đi là này. Trái lại, một khi đã được bầu, các hội đồng tộc biểu)” (Bùi Xuân Đính, lý trưởng thường tìm cách từ bỏ càng 1998, tr. 97), vì từ làng không những sớm càng tốt chức vụ quá nặng nề chỉ các “nhất xã nhất thôn” mà cả các này, trước khi phạm lỗi. Tóm lại, thực thôn thuộc xã. quyền ở làng nằm trong tay tiên, thứ Các xã Kim Sơn, Chân Tảo, Linh Qui, chỉ và những người kỳ mục; còn lý Giao Tự, Giao Tất, Phú Thị, Tô Khê trưởng, phó lý và hương trưởng chỉ là của tổng Kim Sơn (Gia Lâm, Bắc Ninh) tay chân thân tín của họ. cũng được gọi, theo thứ tự, là làng Như ta biết sau năm 1945, chính quyền Then, làng Táo, làng Vụi, làng Chè, cách mạng đã lập ra xã (mới), tương làng Keo, làng Sủi, làng To (Nguyễn đương với tổng thời xưa (ít ra về số Văn Huyên, 1996, tr. 13), các làng này dân), gồm nhiều xã (cũ): chẳng hạn đều là “nhất xã nhất thôn”. Nhưng khi
  6. 56 NGUYỄN TÙNG – VỀ TỔ CHỨC XÃ HỘI Ở VIỆT NAM xã được chia thành hai hay nhiều thôn, gian canh tác. Do đó mà có các cụm thì sự lẫn lộn có thể xảy ra, vì làng từ đối lập nhau như vào làng/ra đồng, lắm khi được dùng cho cả các thôn trong làng/ngoài đồng. Ðầu làng là nơi nằm bên trong của xã. Sau đây là một có lối đi chính để vào làng từ đường số bằng chứng rút ra từ công trình thiên lý hay quan lộ. Thành ngữ cuối nghiên cứu của Nguyễn Văn Huyên: làng chỉ đầu bên kia, nơi tận cùng của - Xã Bố Hạ (Yên Thế, Bắc Giang) gồm làng. Thông thường thì địa phận của có bốn thôn là Bố Hạ hay làng Dinh, làng liền một dải. Nhưng đôi khi một Bố Sơn hay làng Bo Non, làng Ðông làng có nhiều công điền nằm trong địa hay Ðông Kênh, làng Thị hay Bo Chợ phận làng khác, được gọi là kỳ tại. (Nguyễn Văn Huyên, 1996, tr. 150). Chẳng hạn vào đầu thế kỷ XX, làng - Xã Thúy Cầu (Lạng Giang, Bắc Giang), Nhật Tảo (Từ Liêm, Hà Ðông) có công dù chỉ có 185 người dân, lại gồm đến điền nằm trong không gian cư trú của 11 thôn: Ðồng Bài, Ðồng Bằng, Ðồng làng Ðông Ngạc. Khi một xóm của Cây, Ðồng Hội, Ðồng Khanh, Ðồng làng này lại nằm trong địa phận của Nội, làng Sanh, làng Ngoài, làng Sai, làng khác, thì nó được gọi là lạc giới: làng Trong, làng Thị (Nguyễn Văn đó là trường hợp của một số làng (= Huyên, 1996, tr. 134). Khi các thôn thôn) của xã Hữu Thanh Oai (Thanh bên trong xã được gọi là làng, chúng Oai, Hà Ðông) vào đầu thế kỷ XX. Một thường có đình, miếu (nhiều khi cả số làng lại có ruộng đất, vườn tược chùa) và một số tập tục riêng, và vì lẫn lộn với nhau nên gọi là hỗn canh thế có được bản sắc riêng. hỗn cư. Như vậy, khác với ở Pháp (Rambaud, 1971, tr. 13-33), trong các Trước 1945, nếu phải dùng xã hoặc làng Việt Nam trước đây, không phải thôn trong các quan hệ chính thức với lúc nào “đơn vị không gian” cũng đồng chính quyền, thì trong cuộc sống hằng nhất với “đơn vị xã hội”. ngày, người Việt thường dùng từ làng vì nó có thêm một chút gì thân thương, Về “giáp” tình cảm hay, nói như nhà dân tộc học Nhà dân tộc học Nguyễn Từ Chi đã Nguyễn Từ Chi (1993, tr. 55), là có đặc biệt quan tâm đến vai trò quan “cảm xúc”. trọng của giáp trong các sinh hoạt Ngoài ra, cũng nên nói thêm là, theo làng xã, nhất là về tôn giáo (Nguyễn nghĩa rộng, làng còn được dùng trong Từ Chi, 1984). Nhưng ông chưa chú ý các thành ngữ làng văn, làng thơ, làng lắm đến nguồn gốc của giáp. chơi, hay làng bẹp (những người Phải chăng giáp phát xuất từ chính nghiện thuốc phiện). sách của Khúc Hạo, theo Đại Việt sử Ðối với người Việt Nam, từ làng gợi ký toàn thư (1967, I, tr. 269), vào năm ngay không gian cư trú mà họ gắn bó. 907 đã đổi hương - do Cao Biền lập ra Thuở trước, làng thường có luỹ tre dưới đời Hàm Thông (860-874) – ra vây quanh, phân cách nó với không giáp như đã viết trên đây trong phần
  7. TAÏP CHÍ KHOA HOÏC XAÕ HOÄI soá 7 (203) 2015 57 về từ xã. Vấn đề đặt ra là giáp của Sơn Nam Hạ có tên: Đông, Trung Khúc Hạo (= hương) dường như tương Đông, Tây và Trung Tây (Đinh Khắc đương với đơn vị tổng về sau và gồm Thuân, 1996, tr. 106). nhiều làng (xem dưới đây đoạn về - Vào năm 1570, thôn Mỹ Long thuộc tổng). Theo chúng tôi, có lẽ giáp (= xã Cối Xuyên (Hội Xuyên, Hải Dương) làng và tổ chức bên trong làng) là hai có ba giáp Đông, Trung và Nam (Đinh “hóa thân” của giáp mà Lý Bân đặt ra Khắc Thuân, 1996, tr. 142). vào năm 1419 dựa theo chính sách Nhưng ngay từ nửa đầu thế kỷ XVI, “bảo giáp pháp” do Vương An Thạch tên giáp đã được đặt một cách khá tự đề ra vào năm 1074 dưới đời Tống: là do. Chẳng hạn, vào năm 1538, bốn tổ chức địa vực bên trong của lý (xem giáp của xã La Uyên (Thượng Phúc, phần về từ xã trên đây), giáp gồm Sơn Nam Thượng) có các tên rất hoa mười hộ và do giáp thủ điều khiển. mỹ: Kim Uyên, Ngọc Tĩnh, Cẩm Vào lúc ấy chắc có quan hệ mật thiết Đường, Lan Đình (Đinh Khắc Thuân, giữa giáp và xóm: tùy theo số hộ, một 1996, tr. 48). xóm có thể được tổ chức thành một hay nhiều giáp. Trong các thế kỷ sau, Càng về sau, giáp càng mất dần tính một số giáp đã biến thành làng, chủ địa vực. Lý do chính là sự tăng dân số: yếu ở Thanh Hóa và Nghệ An, nhưng vì thiếu đất thổ cư, con cháu các đa số vẫn là tổ chức bên trong làng. thành viên của giáp phải đến ở các Ở Đông Ngạc tên các giáp (hay phe) xóm khác. cũng là tên của ngõ (= xóm) ghép với Ở Mộ Trạch, lúc đầu có 6 giáp, sau một số thứ tự; theo địa bạ Gia Long, chia thành 18 giáp, rồi hợp lại còn 12 làng này có cả thảy tám giáp: Đông giáp; mỗi giáp gồm các đinh của một Giáp Nhất, Đông Giáp Nhì, Đoài Giáp hay vài họ nhỏ hoặc một chi, phái của Nhất, Đoài Giáp Nhì, Hòa Giáp Nhất, họ Vũ là họ đông nhất làng (Vũ Huy Hòa Giáp Nhì, Ngạc Giáp Nhất, Ngạc Phú, 1997, tr. 109). Còn ở Đông Ngạc, Giáp Nhì (Phan Huy Lê và cộng sự, trước năm 1945, từ 18 tuổi lên, đinh 1995, tr. 388-393). Vào những thập nào muốn vào giáp nào cũng được, niên trước 1945, các tên giáp được không có sự bó buộc (Phạm Văn rút gọn thành: Đông Nhất, Đông Nhì, Thuyết, 1963, tr. 183-185). Ngác Nhất, Ngác Nhì, Vẽ Nhất, Vẽ Theo P. Gourou, “giáp là một tập hợp Nhì, Đoài Nhất, Đoài Nhì (Phạm Văn có tính cách tôn giáo mà người ta Thuyết, 1963, tr. 183-184). thuộc vào do gốc gác gia đình và có Cách đặt tên giáp theo tên xóm hay trung tâm là một ngôi đền” (1965, tr. theo phương hướng như ta thấy ở 266). Nhưng ông cũng công nhận Đông Ngạc có thể là xưa nhất. Xin rằng định nghĩa này không đầy đủ. đưa thêm hai bằng chứng khác: Thật vậy, giáp phức tạp hơn nhiều, vì - Vào năm 1562, bốn giáp của xã cách tổ chức và chức năng của nó Phương Để (huyện Nam Chân, trấn thay đổi tùy theo làng.
  8. 58 NGUYỄN TÙNG – VỀ TỔ CHỨC XÃ HỘI Ở VIỆT NAM Theo G. Dumoutier, trong một số làng, thôn trưởng của tám giáp tạo thành giáp là một hội lo việc tang ma, tương hàng thôn trưởng hay hàng làng, trợ; trong một số làng khác “giáp sinh được cấy ruộng của giáp để thu hoa hoạt như một hội có mục đích cùng lợi và phải lo các công việc của làng: làm một số nghi thức tôn giáo hay tập sóc, vọng, vào đám (Phạm Văn tục”; giáp cũng có thể chính thức đảm Thuyết, 1963, tr. 183-185). nhiệm việc phân chia cho các gia đình Khác với Trần Từ (1984), chúng tôi trong giáp phần sưu thuế mà họ phải không nghĩ rằng giáp được tổ chức đóng, tiến hành thu thuế má (Dumoutier, theo lứa tuổi (classes d’âge), vì tuổi 1907, tr. 309-312). Trong nhiều làng tác hay đúng hơn theo ngày ghi tên khác nữa, giáp lo bảo vệ an ninh trật vào sổ giáp chỉ đóng vai trò phân định tự hoặc lo tổ chức hàng năm việc thờ ngôi thứ trong giáp, chứ không kéo cúng thành hoàng và các lễ hội của theo sự tổ chức thành lứa tuổi, nhất là làng. Chính ngày ghi tên vào sổ của theo nghĩa mà các nhà dân tộc học giáp quy định ngôi thứ của mỗi thành dùng khi nghiên cứu các xã hội ở viên trong giáp: nói khác đi, người ghi châu Phi hay Nam đảo. Hơn nữa tên trước dù là một trẻ sơ sinh có ngôi chúng ta cũng nhận thấy trong các thứ cao hơn người ghi sau cho dù giáp hầu như không có các nghi thức người này là một ông lão trên 80 tuổi! thụ pháp, kết nạp tập thể và chung Cũng theo G. Dumoutier, trong các xã sống biệt lập cho các thành viên cùng thôn theo thiên tước (hay trọng xỉ, tức ở vào lứa tuổi vị thành niên. là sắp xếp ngôi thứ theo tuổi tác) Giáp có của cải riêng bằng tiền và không có giáp: các chức năng của nó bằng ruộng đất: “tài sản đó là do các được các tổ chức theo địa vực (thôn, thành viên đóng góp, di tặng hay cho. xóm, ngõ) đảm nhiệm. Loại làng này ít Quỹ xã hội của giáp được dùng để hơn rất nhiều so với các làng theo cho các thành viên vay tiền hay thuê vương tước (ngôi thứ được sắp xếp ruộng đất. Thu nhập được dùng để tài theo tước vị vua ban hay tước vị mua). trợ các cuộc vui chơi công cộng, tiệc Ví dụ: vào năm 1907, ở huyện Thanh tùng, lễ hiến sinh hay cầu xin” Trì (Hà Đông) chỉ có tám làng (trên 99 (Nguyễn Văn Huyên, 1944, tr. 92). làng) theo vương tước. Nhưng thông thường việc sắp xếp ngôi thứ dựa trên Về đơn vị tổng cả tuổi tác lẫn tước vị. Là đơn vị hành chính nằm giữa huyện Ở Đông Ngạc vào khoảng nửa đầu và xã (cũ), theo nhận xét của Trần Từ thế kỷ XX, trong mỗi giáp, ngoài bốn (1984, tr. 147), tổng giống như một người thôn trưởng chính thức đứng miếng đất hoang chưa ai khai phá. Do đầu, còn có thêm mấy người bàn nhì đó, ngay cả hiện nay ta không biết vào hay thôn trưởng sĩ bổ (đã làm xong thời nào từ Hán Việt tổng được dùng mâm chay cỗ thờ). Những thành viên để chỉ đơn vị hành chính này, một khác được gọi là nhưng bàn. 32 người nghĩa không có trong tiếng Hán.
  9. TAÏP CHÍ KHOA HOÏC XAÕ HOÄI soá 7 (203) 2015 59 Trong một bài viết đăng vào năm 1990, năm 1651, tổng được định nghĩa là chúng tôi đã dựa vào một tư liệu trong “gồm chừng mười làng” và cai tổng là Phủ biên tạp lục (1977, tr. 44) mà Lê “ông quan cai trị mười làng” (Rhodes, Quý Ðôn lấy từ Thiên Nam dư hạ tập(7) 1651, tr. 827). Ðịnh nghĩa này khá phù để đưa ra giả thuyết là chính Lê hợp với tình hình được phản ánh Thánh Tông đã lập ra tổng vào năm trong Các trấn tổng xã danh bị lãm 1490 khi ông “định lại bản đồ trong (cho các trấn từ Nghệ An trở ra vào nước” hay nói khác đi là cải tổ hành khoảng năm 1813) cũng như danh chính (Nguyễn Tùng, 1990, tr. 22-24). sách phủ, huyện, tổng, xã của Thuận Tài liệu xưa nhất có dùng từ tổng như Hóa và Quảng Nam mà Lê Quý Đôn là một đơn vị hành chính có lẽ là bài chép lại vào năm 1776 trong Phủ biên văn bia chùa Thiên Phúc (Xã Ða Phúc, tạp lục (1977, tr. 78-93). Trong cả hai huyện Quốc Oai, Hà Tây), được khắc tư liệu này, tên tổng hầu như luôn vào năm 1538 (Ðinh Khắc Thuân, trùng với tên của một làng thành viên 1996, tr. 55). (được gọi là làng đầu tổng). Thí dụ: Ðại Việt thông sử của Lê Quý Ðôn có làng Cam Giá Thịnh là làng đầu tổng ghi là cha của Trịnh Khả (sinh năm của tổng Cam Giá Thịnh. 1403?), một đại công thần của Lê Lợi, Ðiều đáng ngạc nhiên là trong các bộ từng làm chánh tổng (1978, tr. 207). chính sử trước đây, người cai tổng Ðiều cần nói ngay là vào thời Lê Quý hay chánh tổng rất ít khi được nhắc Ðôn người đứng đầu một tổng được đến: chẳng hạn Đại Việt sử ký toàn gọi là cai tổng chứ không phải chánh thư chỉ ghi có một lần là vào năm tổng vì từ này chỉ được dùng từ đời 1618, triều thần làm tờ khải với Bình Minh Mạng (1820-1840). Cũng có thể An vương Trịnh Tùng xin cho hỏi “bọn là người sao chép sách này vào thế cai tổng cai xã” về “việc kiện về hộ kỷ XIX, đã sửa cai tổng thành chánh hôn điền thổ” (1968, tập IV, tr. 246). tổng. Nếu chi tiết trên đây là đúng thì Phải chăng vì thời xưa vua quan đơn vị tổng đã được lập trước thế kỷ thường dựa vào các xã trưởng hay lý XV, nhưng theo ý chúng tôi điều đó trưởng để thu thuế, bắt lính, bảo vệ an không lấy gì làm chắc. Mặt khác, cũng ninh trật tự , vì họ có được sự trợ có thể có tương quan nào đó giữa giúp hiệu quả của các tổ chức bên đơn vị tổng và các chức đại tư xã và trong của làng như thôn, xóm, giáp, tiểu tư xã do vua Trần Thái Tông đặt phiên , mà các chánh tổng không có ra vào năm 1242, cai trị hai, ba hoặc nên không đóng được vai trò của họ. bốn xã (Đại Việt sử ký toàn thư, 1967, Có lẽ chính trong cuốn Cours d'administation tập II, tr. 17); hoặc giữa tổng với giáp annamite (Giáo trình về hành chính (= hương) vì như đã nói trên đây đơn Ðại Nam) do E. Luro giảng vào năm vị này bao gồm nhiều làng. 1864, ta tìm thấy nhiều thông tin chính Trong từ điển của Alexandre de xác nhất về vai trò của người cai tổng Rhodes, được xuất bản ở Roma vào hay chánh tổng ở Nam Kỳ vào giữa
  10. 60 NGUYỄN TÙNG – VỀ TỔ CHỨC XÃ HỘI Ở VIỆT NAM thế kỷ XIX. Dường như dưới thời Minh ghi lại các quan sát khá tỉ mỉ của họ Mạng từ chánh tổng được tạo ra để về xã hội Việt Nam, rồi nhiều khi viết thay thế cho từ cai tổng. thành bài báo hay sách. Từ năm 1860 Do các quan viên, kỳ mục trong tổng trở đi, các văn kiện chính thức, những bầu ra, người chánh tổng, theo E. báo cáo hành chính cũng đã được Luro có nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi lưu trữ tương đối đầy đủ (đặc biệt về của dân trong tổng, thi hành các trát tỉnh Hà Đông): đây là điều hoàn toàn của quan trên, phân bổ và thu thuế mới đối với Việt Nam. Hai nguồn tư má để nộp lên quan và giữ gìn an ninh liệu quan trọng khác là bi ký và địa bạ. trật tự trong tổng. Thông thường, Đáng tiếc là cho đến nay các nguồn chánh tổng được sự phụ tá của một sử liệu quý giá ấy dường như chưa phó tổng, và trong các tổng đông dân, được các nhà nghiên cứu Việt Nam của một bang biện hay sung biện phó khai thác đúng mức. Chính vì thế mà tổng. “Là một người quan trọng nhờ tài một số công trình nghiên cứu về “làng sản và thế lực”, chánh tổng đồng thời truyền thống” Việt Nam thường khá cũng là “người đóng vai trò hòa giải về mơ hồ, cho ta cảm tưởng nó không dân sự” (Luro, 1864, tr. 121-138). biến đổi gì mấy qua hàng nghìn năm, Vì vai trò của tổng quá mờ nhạt, thời kể cả trong thời Pháp thuộc. Khi xưa dường như người Việt ít quan nghiên cứu làng xã, chúng tôi đã băn tâm đến tổng: bằng chứng là các sách khoăn về vài câu hỏi sau đây: Phải viết về tiểu sử như Đại Nam liệt truyện chăng có sự liên tục giữa các tổng chẳng bao giờ nhắc đến tổng, mà luôn thời xưa và các xã hiện nay? Phải luôn ghi tên huyện, rồi lắm khi ghi chăng sau trên dưới năm mươi năm thêm tên làng và/hay tên tỉnh. hiện hữu, các xã [mới] đã tạo được cho mình một bản sắc rất mạnh, nên Khó khăn lớn nhất khi nghiên cứu làm lu mờ hoàn toàn bản sắc của làng làng xã Việt Nam là thiếu tư liệu lưu mà thực tiễn cách mạng xóa đi mọi trữ, ít ra cho đến thời kỳ Pháp thuộc. thực thể? Dù từ đầu những năm 1990 Chẳng những thế, vì các bộ biên niên có sự hồi sinh tự phát của làng truyền sử của Việt Nam chỉ quan tâm đến thống do tác động của nền kinh tế thị các biến cố liên quan đến triều đình, trường (chưa đầy đủ) ngày càng phát đời sống kinh tế và xã hội của nhân triển mạnh, nhưng rồi vai trò của thôn dân hầu như không được biết đến, làng sẽ là gì trong xã hội Việt Nam? nhất là ở mức độ địa phương. Từ nửa Thú thật là cho đến nay chúng tôi vẫn sau của thế kỷ XIX, một số sĩ quan, cứ phân vân về điều này.  linh mục và nhất là nhà cai trị Pháp đã CHÚ THÍCH (1) Do Nguyễn Tùng chủ biên. 1999. Paris, L’Harmatan. Được viết lại bằng tiếng Việt: Mông Phụ, một làng ở Đồng bằng sông Hồng. Hà Nội: Nxb. Văn hóa Thông tin, 2003. (2) Do Philippe Papin và Olivier Tessier chủ biên và do Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân
  11. TAÏP CHÍ KHOA HOÏC XAÕ HOÄI soá 7 (203) 2015 61 văn Quốc gia (Việt Nam) cùng với Viện Viễn Đông Bác cổ (Pháp) và Đại học Quốc gia Hà Nội xuất bản, Hà Nội, 2002. (3) Nguyễn Tùng. 1992. La reconstruction d’un espace villageois du Centre-Việt Nam) Xây dựng lại một không gian làng ở miền Trung Việt Nam) trong Jacqueline Matras-Guin et Christian Taillard, Habitations et habitat d’Asie du Sud-Est continentale (Nhà ở và kiểu cư trú ở Đông Nam Á lục địa), Paris, L’Harmattan, 1992. (4) Chẳng hạn, ở trấn Sơn Nam Thượng, các xã Hoa Chúc (huyện Kim Bảng), Tiền Đường và An Lãng (huyện Nam Xang) chỉ có – theo thứ tự - sáu, tám và mười nội tịch (Các trấn tổng xã danh bị lãm, 1981, tr. 56-57). (5) Ví dụ: lũng Lũng Lai (châu Thượng Lăng, Cao Bằng), xưởng Nam Luân (châu Bạch Thông, Thái Nguyên), mỏ Vũ Lăng (huyện Vũ Nhai, Thái Nguyên), bến Câu Vu (huyện Phúc Yên, Tuyên Quang), chòm Hồng Nương (huyện Phúc Yên, Tuyên Quang). (6) Ví dụ: nậu Bàng Vạn (Thanh Chương, Nghệ An), ngày nay vẫn còn thành ngữ đầu nậu; tích Ly Hà, tích Ngân Tượng (Kỳ Hoa, Nghệ An); đội Cồn Cát, đội Phan Long (Thanh Hà, Nghệ An); tộc Hoàng Nghĩa (Hưng Nguyên, Nghệ An); lăng Chú Lai (Yên Ðịnh, Thanh Hóa). (7) Sách này có lẽ được soạn trong khoảng thời gian từ 1483 đến 1486; hiện nay chỉ còn ba trong số 100 quyển (xem Trần Văn Giáp, 1970, tr. 201-202). TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 1. Bùi Xuân Đính. 1998. Bàn thêm về mối quan hệ giữa làng và xã qua qui mô cấp xã thời phong kiến, trong Đinh Xuân Lâm, Dương Lan Hải (chủ biên). Nghiên cứu Việt Nam, một số vấn đề lịch sử kinh tế-xã hội-văn hóa. Hà Nội: Nxb. Thế giới. 2. Dương Thị The và Phạm Thị Thoa dịch Các trấn tổng xã danh bị lãm thành Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX (thuộc các tỉnh từ Nghệ Tĩnh trở ra). 1981. Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội, 3. Quốc sử quán triều Nguyễn (Viện Sử học dịch). 1970. Ðại Nam thực lục, IX. Hà Nội: Nxb. Sử học. 4. Dumoutier, Georges. 1907.Essai sur les Tonkinois (Luận về người Bắc Kỳ). Revue Indochinoise. 5. Quốc sử quán triều Nguyễn (Viện Sử học dịch). Đại Nam liệt truyện (4 tập). 1993. Huế: Nxb. Thuận Hóa. 6. Quốc sử quán triều Nguyễn (Phạm Trọng Điềm phiên dịch, Đào Duy Anh hiệu đính). 1971. Đại Nam nhất thống chí. Tập 4. Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội. 7. Ngô Sĩ Liên (biên soạn). 1967-1968. Đại Việt sử ký toàn thư (4 tập). Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội. 8. Đinh Khắc Thuân. 1996. Văn bia đời Mạc. Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội. 9. Gourou, Pierre. 1965. Les paysans du delta tonkinois (Nông dân châu thổ sông Hồng) (in lần thứ hai). Paris: La Haye, Mouton. 10. Hoàng Xuân Hãn. 1920. Lý Thường Kiệt. Hà Nội: Nxb. Sông Nhị. 11. Lê Quý Ðôn. 1977. Lê Quý Đôn toàn tập, tập III: Ðại Việt thông sử. Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội. 12. Lê Quý Ðôn. 1978. Lê Quý Đôn toàn tập, tập I: Phủ biên tạp lục. Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội.
  12. 62 NGUYỄN TÙNG – VỀ TỔ CHỨC XÃ HỘI Ở VIỆT NAM 13. Luro, Émile. 1864. Cours d’administration annamite (Giáo trình về hành chính Đại Nam) (bản chép tay). 14. Ngô Kim Chung, Nguyễn Đức Nghinh. 1987. Propriété privée et propriété collective dans l’ancien Việt Nam (Sở hữu tư nhân và sở hữu tập thể ở Việt Nam thời xưa). Paris: L’Harmattan. 15. Ngô Thì Sĩ. 1997. Đại Việt sử ký tiền biên. Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội. 16. Ngô Vi Liễn. 1928. Nomenclature des communes du Tonkin (Tên làng xã ở Bắc Kỳ). Hà Nội: Lê Văn Tân xuất bản. 17. Nguyễn Tùng. 1990. Tìm hiểu về Tổng. Đoàn Kết, số 427. 18. Nguyễn Từ Chi. 1993. Le làng traditionnel au Bắc Bộ, sa structure organisationnelle, ses problèmes (Làng truyền thống ở Bắc Bộ, cơ cấu tổ chức, các vấn đề), trong Le village traditionnel au Vietnam (Làng truyền thống Việt Nam). Hà Nội: Nxb. Thế Giới. 19. Nguyễn Trãi. 1976. Dư địa chí trong Nguyễn Trãi toàn tập. Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội. 20. Nguyễn Văn Huyên. 1996. Ðịa lý hành chính Kinh Bắc. Tableau de géogaphie administrative d’une province vietnamienne: Le Bắc Ninh (ou Kinh Bắc). Hà Nội: Nxb. Văn hóa. 21. Ory, Pierre. 1984. La Commune annamite (Làng xã Đại Nam). Paris: Augustin Challamel. 22. Pasquier, Pierre. 1907. L’Annam d’autrefois, Essai sur la constitution de l’Annam avant l’intervention française (Đại Nam thời xưa, Luận về sự cấu tạo của Đại Nam trước khi Pháp can thiệp). Paris: Augustin Challamel. 23. Phạm Văn Thuyết. 1963. Đông Ngạc tập biên. Sài Gòn. 24. Phan Huy Chú. 1992. Lịch triều hiến chương loại chí. Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội. 25. Phan Huy Lê, Vũ Minh Giang, Vũ Văn Quân, Phan Phương Thảo. 1995. Địa bạ Hà Đông. Hà Nội, Trung tâm Hợp tác Nghiên cứu Việt Nam. 26. Phan Huy Lê. 1984. Về tính chất và chức năng của nhà nước thời Khúc-Dương- Ngô-Đinh-Tiền Lê), trong Thế kỷ X, những vấn đề lịch sử. Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội. 27. Rambaud, Placide. 1971. Sociologie du village (Xã hội học về làng), trong Villages en développement. Contribution à une sociologie villageoise (Làng mạc trên đà phát triển. Đóng góp cho một môn xã hội học về làng mạc). Paris: La Haye, Mouton, 28. Rhodes, Alexandre de. 1651. Dictionnarium annamiticum lusitanum, et latinum (Từ điển Việt-Bồ-La). Roma. 29. Trần Từ. 1984. Cơ cấu tổ chức của làng Việt cổ truyền ở Bắc Bộ. Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội. 30. Quốc sử quán triều Nguyễn (Viện Sử học dịch). 1957. Việt sử thông giám cương mục. Tập 2. Hà Nội: Nxb. Văn Sử Địa. 31. Vũ Huy Phú. 1997. Mộ Trạch, làng tiến sĩ. Hải Dương: Bảo tàng Hải Dương.