Âm nhạc cung đình huế - Kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại
Bạn đang xem tài liệu "Âm nhạc cung đình huế - Kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- am_nhac_cung_dinh_hue_kiet_tac_truyen_khau_va_phi_vat_the_nh.pdf
Nội dung text: Âm nhạc cung đình huế - Kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại
- TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Trương Ngọc Thắng ÂM NHẠC CUNG ĐÌNH HUẾ - KIỆT TÁC TRUYỀN KHẨU VÀ PHI VẬT THỂ NHÂN LOẠI HUE ROYAL COURT MUSIC AS AN ORAL MASTERPIECE AND INTANGIBLE HERITAGE OF HUMANITY TRƯƠNG NGỌC THẮNG TÓM TẮT: Nhã nhạc cung đình Huế là thể loại nhạc của cung đình được biểu diễn vào các dịp lễ hội quan trọng trong năm của các triều đại nhà Nguyễn. Nhã nhạc cung đình Huế đã được UNESCO công nhận là Kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại vào ngày 7 tháng 11 năm 2003. Theo đánh giá của UNESCO, trong các thể loại nhạc cổ truyền ở Việt Nam, chỉ có Nhã nhạc đạt tới tầm vóc quốc gia, đến thời nhà Nguyễn, Nhã nhạc cung đình Huế đạt độ chín muồi và hoàn chỉnh nhất. Từ khóa: Nhã nhạc cung đình Huế; UNESCO; Di sản phi vật thể. ABSTRACT: Hue royal court music, a type of royal music, is performed at important festivals during the year of Nguyen Dynasty. Hue royal court music was recognized by UNESCO as a Masterpiece of oral and intangible Heritage of Humanity on November 7th, 2003. According to UNESCO, in the traditional music genres in Vietnam, only does Nha music reach national stature, in the Nguyen Dynasty, Hue royal court music reached the maturity and most complete. Key words: Hue royal court music; UNESCO; Intangible Heritage. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ UNESCO công nhận là Kiệt tác truyền khẩu và Nền âm nhạc Việt Nam ra đời sớm, đa dân phi vật thể nhân loại vào ngày 7-11-2003. Theo tộc, gắn liền với đặc sản các địa phương và đánh giá của UNESCO, “trong các thể loại cuộc sống lao động của các cộng đồng cư dân ở nhạc cổ truyền ở Việt Nam, chỉ có Nhã nhạc Việt Nam. Âm nhạc Việt Nam như Giáo sư Nguyễn đạt tới tầm vóc quốc gia”. “Nhã nhạc được Thụy Loan: “là ngọn nguồn tâm linh, tín hiểu như toàn bộ âm nhạc cung đình chính ngưỡng và phong tục tập quán của dân tộc”. thống chức năng chung của Nhã nhạc là loại Âm nhạc Việt Nam gắn với quá trình hình nhạc lễ và nghi thức” [4, tr.24]. thành và phát triển của nền âm nhạc dân gian Năm 2003, Nhã nhạc cung đình Huế là di phong phú - là nền tảng của âm nhạc chuyên sản văn hóa phi vật thể đầu tiên của Việt Nam nghiệp Việt Nam. Trong đó, có âm nhạc cung được UNESCO công nhận đạt tầm vóc quốc đình Việt Nam mà đỉnh cao là Nhã nhạc cung gia, từ đó đến nay Việt Nam tiếp tục được đình Huế được UNESCO công nhận là Di sản UNESCO công nhận thêm 12 di sản văn hóa Văn hóa phi vật thể thế giới. phi vật thể thế giới bao gồm: không gian văn Nhã nhạc cung đình Huế là thể loại nhạc hóa cồng chiêng tây nguyên - 2005, Quan họ của cung đình được biểu diễn vào các dịp lễ hội Bắc Ninh - 2009, Ca trù - 2009, Hội Gióng - hoàng gia (vua đăng quang, băng hà, các lễ hội 2010, Hát Xoan Phú Thọ - 2011, Tín ngưỡng tôn nghiêm khác ) trong năm của các triều đại thờ cúng Hùng Vương - 2012, Đờn ca tài tử nhà Nguyễn. Nhã nhạc cung đình Huế được Nam Bộ - 2013, Dân ca ví, giặm Nghệ Tĩnh - PGS.TS.NGƯT. Trường Đại học Văn Lang, thang.tn@vlu.edu.vn, Mã số: TCKH26-10-2021 25
- TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 26, Tháng 03 - 2021 2014, Nghi thức kéo co - 2015, Thực hành tín sáng tạo và biểu diễn Ðặc biệt vì không có ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của Việt Nam - bộ môn âm nhạc nào có nhiều loại nhạc khác 2016, Nghệ thuật Bài chòi Trung Bộ - 2017, nhau như Giao nhạc, Miếu nhạc, Ngũ tự nhạc, Thực hành Then của người Tày, Nùng, Thái - Ðại triều nhạc, Thường triều nhạc, Ðại yến 2019 làm giàu thêm kho tàng di sản văn hóa nhạc, Cung trung chi nhạc và Cứu nhựt nguyệt của Việt Nam, niềm tự hào của dân tộc. giao trùng nhạc. Ðặc biệt vì không có bộ môn 2. NỘI DUNG nào huy động nhiều diễn viên, nhiều nhạc khí, 2.1. Âm nhạc cung đình Huế cần nhiều xiêm y như nhạc Cung đình. [3, tr.1]. Cố đô Huế, mảnh đất mà các vua chúa một “Nhạc khí dùng trong nhạc cung đình rất thời đã chọn làm nơi đóng đô, vùng đất có đầy đẹp trong hình thức, đóng ráp kỹ, chạm trổ đủ “sơn thủy hữu tình”, một quê hương giàu khéo, đầy đủ màu âm, có tiếng kim, tiếng thổ, chất thi ca nhạc họa. Qua các đời chúa, mà lâu tiếng tơ, tiếng trúc, tiếng đồng, tiếng đá, tiếng dài nhất là các vua Nguyễn ngự trị trên vùng da, tiếng mộc. Dàn nhạc đa dạng: Đại nhạc gồm đất này, đã để lại cho Huế nói riêng và nhân đại hồng chung, trống đại, trống võ, bồng, mõ, loại nói chung một gia tài giá trị về di sản văn thanh la, chập chõa, sinh tiền, kèn, nhị; Tiểu hóa tinh thần hết sức cao quý. Nhà nước phong nhạc (hay Nhã nhạc) có đàn dây tơ: Đàn nguyệt kiến Việt Nam với giai cấp quý tộc đã dẫn tới (2 dây), đàn tam (3 dây), tỳ bà (4 dây), đàn nhị hình thành một bộ phận âm nhạc để phục vụ (2 dây có cung kéo); Có 2 sáo trúc, trống bảng mang tính chuyên nghiệp với quy mô tổ chức một mặt, 3 thanh la nhỏ, sinh tiền [3, tr.3]. khá lớn, phong phú về bài bản và tiết mục. Mặc 2.2. Các tổ chức dàn nhạc dù âm nhạc phục vụ cung đình nhưng âm nhạc Nhã nhạc hay còn gọi là âm nhạc cung cung đình Huế là một bộ phận của âm nhạc đình Huế dùng để phục vụ cho việc triều chính, truyền thống Việt Nam dùng trong cung đình một thể loại âm nhạc quý tộc, sang trọng, tao do những nghệ sĩ dân gian có tay nghề cao sáng nhã với 3 lĩnh vực lớn: hát, múa và tổ chức dàn tạo và biểu diễn nên vẫn có sự giao lưu khăng nhạc. Trong cung đình Việt Nam nói chung và khít với âm nhạc dân gian. Huế nói riêng thường sử dụng thanh nhạc vào “Nhạc cung đình chỉ có miền Trung, và các dịp tế lễ, hội hè như hát Ả Đào, hát Tuồng, đặc biệt tại Huế mới còn có di tích của một bộ hát Văn Cùng với Thanh nhạc là nghệ thuật môn âm nhạc rất độc đáo, tinh vi mà chúng ta Múa trong âm nhạc cung đình phát triển và đạt đến ngày nay chưa nhận thấy được hết cái giá đến đỉnh cao như: Múa Bát dật, Lục dật, múa trị của bộ môn đó. Ðặc biệt vì chẳng có bộ môn Ba mã, Bát tiên hiến thọ, Cành hoa, Độc âm nhạc nào được ghi vào sử sách Việt Nam từ bình Có các loại hình múa chiếm số lượng xưa đến giờ, trải qua bao nhiêu thăng trầm của nhạc công lớn: Múa Bát dật lên đến 64 vũ các triều đại, biến cố trong đất nước, vẫn còn công, múa Lục cúng hoa đăng hay Lục triệt lưu lại được một di sản đáng kể, có thể dùng hoa mã đăng 48 vũ công. làm những bài học cho chúng ta về nhiều mặt Có 7 thể loại trong âm nhạc cung đình triều nhạc khí đa dạng, sắp xếp dàn nhạc tinh vi, Nguyễn: Giao nhạc, Miếu nhạc, Ngũ tự nhạc, Đại nhạc ngữ độc đáo, bài bản phong phú và quan triều nhạc, Thường triều nhạc, Yến nhạc, Cung điểm thẩm mỹ rất sâu sắc. Ðặc biệt vì không có trung nhạc với những bài bản Đại nhạc, Tiểu nhạc, bộ môn nào bao gồm tất cả các bộ môn khác từ những Tổ chức dàn nhạc gồm: Dàn nhạc Huyền, nhạc lễ có thể dùng vào các cuộc tế lễ nhỏ to, Dàn Đại nhạc, Dàn Tiểu nhạc, Dàn Ty chung và thính phòng, sân khấu, kể cả các vũ điệu, mỗi Ty khánh, Dàn Ty cổ, Dàn Nhã nhạc, Ban Quốc bộ môn đều có những nghệ sĩ thượng thặng để nhạc (nhạc triều), Dàn nhạc Cung đình Huế. 26
- TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Trương Ngọc Thắng Việc thành lập những dàn nhạc đặt trọng công của một số dàn nhạc có khi lên tới 120 tâm vào chất lượng và sự phối hợp màu âm từ người như Tiểu nam, Tiểu hầu, Thanh Bình đàn nguyệt, tỳ bà, đàn nhị, đàn tam, sáo trúc, Thự Nghệ thuật biểu diễn âm nhạc thời tam âm, sinh tiền, trống bảng khi tấu 10 bài Nguyễn rất phong phú bao gồm âm nhạc không Ngự hay còn gọi là Thập thủ liên hoàn. Trình lời, có lời, múa, sân khấu. Nhạc lễ cung đình độ của các nhạc công, nhạc sĩ rất cao vì được thì có Đại nhạc và Tiểu nhạc mà ta vẫn quen tuyển chọn kỹ càng của Triều đình và những gọi là Nhã nhạc. Nhã nhạc cung đình Huế là quy định chặt chẽ cho việc hoạt động của tổ một thể loại âm nhạc dân tộc cổ điển, bác học chức Nhã nhạc. thật sự kế thừa một truyền thống ngàn năm. Nhạc khí trong âm nhạc cung đình Việt Nhã nhạc cung Đình Huế là một sự kế Nam - Triều Nguyễn bao gồm [1, tr.3]: 1) Nhã thừa và phát triển qua các triều đại phong kiến nhạc: Một bảng cổ, Một tỳ bà, Một đàn nguyệt, Việt Nam. Theo đánh giá của UNESCO, “trong Một đàn nhị huyền, Hai địch, Một tam âm, Một các thể loại nhạc cổ truyền ở Việt Nam, chỉ có phách tiền, Hai bìa tiêu, Hai tiêu, Hai địch, Hai Nhã nhạc đạt tới tầm vóc quốc gia”. “Nhã nhạc sênh, Hai huân, Hai trì, Một phách bảng. Dàn đã được phát triển từ thế kỷ XIII ở Việt Nam đến nhạc này dùng trong tế Lễ Nam Giao, Lễ đại trào thời nhà Nguyễn thì Nhã nhạc cung đình Huế và các lễ lớn khác; 2) Đại nhạc (Cổ xúy đại đạt độ chín muồi và hoàn chỉnh nhất”. Hy vọng nhạc): Hai mươi cổ, Tám minh ca, Bốn câu giốc, rằng với sự quan tâm của Nhà nước, cộng đồng Bố sa la, Bốn tiểu sa, Ba hải loa. Đại nhạc được quốc tế, chính quyền địa phương, cũng như dùng trong các lễ lớn; 3) Tế nhạc (Ti trúc tế những nghệ nhân còn sống và thế hệ trẻ sẽ cùng nhạc): gồm tám nhạc công và tám ca sinh. Năm chung tay góp sức khôi phục và phát triển dòng 1827 mang tên là Hòa thanh thự; 4) Ty chung và nhạc uyên bác này” [5, tr.1]. Ty khánh: Bác chung, Đặc khánh, Biên chung, Từ thời Lý, âm nhạc cung đình đã được Biên khánh Dùng trong lễ Nam Giao và Miếu định hình và được các triều đại kế tiếp phát nhạc; 5) Ty cổ: gồm 7 nhạc công tế Lễ Nam triển, rực rỡ nhất là ở triều Nguyễn. Thời Giao; 6) Quân nhạc: không rõ cấu trúc; 7) Những Nguyễn đã quy tụ được tất cả các nhạc sĩ, nhạc tổ chức dàn nhạc khác trong cung đình: dàn nhạc công tài hoa nhất. Bộ Lễ và Hàn lâm Viện đã phục vụ Hoàng Thái hậu: Trống bộc, Tiểu cổ, Đại biên soạn các nhạc chương phù hợp cho Lễ Tế cổ, Phách, Sinh tiền, Tranh huyền, Nguyệt cầm, giao, Lễ Tế xã tắc, Lễ Tế miếu Đặc biệt, tất cả Tỳ bà, Tam huyền, Nhị huyền, Địch, Quản. các nhạc khí có giá trị nhất của Việt Nam đều có Đầu thế kỷ XX còn có hai dàn nhạc trong mặt trong dàn nhạc cung đình Nguyễn với tiết Cung đình Huế: 1) Dàn nhạc thứ nhất do tấu phong phú và bài bản có nội dung sâu sắc. G.Knosp mô tả: Một đàn kéo, Hai kèn, Năm Dàn nhạc Cung đình thường có quy mô sáo, Một sinh tiền, Một tam âm la, Một cặp lớn và các chủng loại phong phú với nhóm phách, Một trống; 2) Dàn nhạc thứ hai: Một nhạc cụ hơi (sáo, kèn), dây (nhị, nguyệt ). Đại trống bộc, Hai sáo, Một sinh tiền, Một tam âm nhạc gồm 42 nhạc cụ, Tiểu nhạc gồm 8 nhạc la, Một phách hoặc sênh, Một nhị, Một tam, Một cụ, Huyền nhạc gồm 26 nhạc cụ, các nhạc cụ nguyệt, Một tỳ bà. màng rung (trống, chuông ). Tất cả chủng loại Về âm nhạc, nhà Nguyễn đã tiếp tục kế trên đã thể hiện trình độ tinh diệu về âm nhạc, thừa, phát triển âm nhạc các triều đại trước đó trình độ chế tác thủ công, mỹ thuật tạo hình và có nhiều cải cách với nhiều tổ chức như Cổ của những nhạc sư, những người thợ Việt Nam Xúy đại nhạc, Ty chung, Ty khánh, Ty trúc tế xưa. Cùng với nhạc cụ, các vũ điệu và ca hát nhạc, Nhạc huyền, Tiểu nhạc. Biên chế nhạc cũng chứa đựng những nội dung mang tính bác 27
- TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 26, Tháng 03 - 2021 học. Những giá trị này đã tạo cho âm nhạc cung chúng ta bị danh từ “hiện đại” đưa chúng ta đến đình có phong cách khác với các loại hình âm chỗ lòng muốn làm cho đẹp, cho hay hơn xưa, nhạc khác của Việt Nam và thế giới. làm giàu cho vốn cổ, mà thật sự làm biến chất 3. KẾT LUẬN cái hay của truyền thống, có khi đi đến chỗ phá Ngày 30-8-1945, Hoàng đế cuối cùng của tan truyền thống, làm mất bản sắc dân tộc và rơi Triều Nguyễn là Bảo Đại thoái vị, trong bản vào mảnh đất ngoại lai”. Chúng ta sẽ cùng nhau chiếu có câu nổi tiếng: “Từ nay Trẫm lấy làm lo công việc giữ gìn danh hiệu cao quý mà âm vui được làm dân một nước Độc-Lập”. Nhã nhạc cung đình Huế vừa nhận được” [2, tr.4] nhạc cung đình Huế không còn có cơ hội để sử Nhã nhạc được xem là một loại hình âm nhạc dụng và phát triển. Nhã nhạc cung đình Huế chính thống, mang tính bác học của các triều đại mất đi vị trí chức năng xã hội, môi trường diễn quân chủ trong xã hội Việt Nam suốt hơn 10 thế xướng nguyên thủy, đi vào suy thoái và có kỷ qua và góp phần làm phong phú cho sinh nguy cơ thất truyền. Tuy nhiên Nhã nhạc Cung hoạt văn hóa và tinh thần của dân tộc. Những đình Huế dần dần được phục hồi, và đạt được tinh hoa của loại hình nghệ thuật này được kết một vị thế mới trên trường quốc tế khi trở thành tụ rõ nét nhất vào triều đại nhà Nguyễn. Do đó, Kiệt tác di sản phi vật thể và truyền khẩu của vấn đề bảo tồn nhã nhạc cung đình Việt Nam - nhân loại vào tháng 11-2003. Công cuộc bảo Nhã nhạc triều Nguyễn trong giai đoạn hiện đại tồn và phát huy di sản Nhã nhạc còn không ít này được nhiều tổ chức, các nhà khoa học trong khó khăn đặt ra trước mắt. Việc nghiên cứu, và ngoài nước quan tâm [4, tr.1]. tìm hiểu về cội nguồn lịch sử của nó là một Ngày nay, Nhà hát Duyệt Thị Đường được trong những tiền đề quan trọng để di sản văn xây dựng vào năm 1826, cách đây 195 năm hóa thế giới này được bảo vệ một cách tốt nhất. được trùng tu thuộc Trung tâm Bảo tồn Di tích “Chúng tôi đã thường nói: “Di sản văn hóa Cố đô Huế đưa vào sử dụng đã kế thừa truyền của ông cha ta để lại có bề dày của lịch sử, bề thống của lịch sử về sự phát triển của Nhã nhạc sâu của nghệ thuật. Chúng ta nên vô cùng thận cung đình Huế tiếp tục giới thiệu Nhã nhạc trọng trong việc giữ gìn và nhất là trong công cung đình Huế đến với nhân dân Việt Nam và việc “phát triển”. Đừng để cho nhiệt tình của thế giới. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Vĩnh Phúc (2010), Nhã nhạc triều Nguyễn, Nxb Thuận Hóa. [2] Lê Văn Hảo (2004), Nhã nhạc Cung đình Huế, Tập san Đoàn Kết (Paris) số 492-193. [3] Trần Văn Khê (2009), Giá trị của Nhã nhạc Huế, Tạp chí Sông Hương, số 244. [4] Trương Ngọc Thắng (2004), Dự án lớp đại học Nhã nhạc tại Trường Đại học Nghệ thuật Huế do Japan Foundation Asia Center tài trợ - Trung tâm bảo tồn di tích cố đô Huế, Ủy ban quốc gia UNESCO Việt Nam, Viện Âm nhạc Việt Nam. [5] Lê Thị An Hòa (2016), Lịch sử hình thành và phát triển Nhã nhạc Cung đình Huế, su-hinh-thanh-va-phat-trien-nha-nhac-cung-dinh-hue.html, ngày truy cập: 11-12-2020. Ngày nhận bài: 16-01-2021. Ngày biên tập xong: 06-3-2021. Duyệt đăng: 25-3-2021 28