Ảnh hưởng của mật độ, chế độ ăn và điều kiện ánh sáng lên tăng trưởng, tỷ lệ sống của cá tra (pangasianodon hypophthalmus) ương trên bể
Bạn đang xem tài liệu "Ảnh hưởng của mật độ, chế độ ăn và điều kiện ánh sáng lên tăng trưởng, tỷ lệ sống của cá tra (pangasianodon hypophthalmus) ương trên bể", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- anh_huong_cua_mat_do_che_do_an_va_dieu_kien_anh_sang_len_tan.pdf
Nội dung text: Ảnh hưởng của mật độ, chế độ ăn và điều kiện ánh sáng lên tăng trưởng, tỷ lệ sống của cá tra (pangasianodon hypophthalmus) ương trên bể
- VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II ẢNH HƯỞNG CỦA MẬT ĐỘ, CHẾ ĐỘ ĂN VÀ ĐIỀU KIỆN ÁNH SÁNG LÊN TĂNG TRƯỞNG, TỶ LỆ SỐNG CỦA CÁ TRA (Pangasianodon hypophthalmus) ƯƠNG TRÊN BỂ Trần Hữu Phúc1*, Nguyễn Văn Sáng1, Hà Thị Ngọc Nga1, Võ Thị Hồng Thắm1, 1 1 1 1 Trần Thị Mộng Nghi , Nguyễn Thị Đang , Phạm Đăng Khoa , Nguyễn Huỳnh Duy , Nguyễn Trung Ký1, Huỳnh Thị Bích Liên1 TÓM TẮT Tỷ lệ sống và tăng trưởng của cá 10 ngày tuổi, ương trên bể xi măng 24 m2, được đánh giá qua ba thí nghiệm về mật độ ương, chế độ cho ăn và điều kiện ánh sáng của bể ương. Thí nghiệm được thực hiện ở (1) hai mật độ khác nhau 2.500 con/m2 (MĐ1) và 5.000 con/m2 (MĐ2) ở điều kiện thức ăn TA1, (2) hai thời điểm chuyển đổi thức ăn tự nhiên được khảo sát là TA1 (cho cá ăn Artemia 4 ngày) và TA2 (cho cá ăn Artemia 2 ngày) ở cùng MĐ2, và (3) hai nghiệm thức về điều kiện ánh sáng bể ương CT (che tối hoàn toàn bể ương) và KCT (không che tối hoàn toàn) được đánh giá trong điều kiện mật độ MĐ2 và TA2. Mỗi nghiệm thức được lặp lại ở 3 bể ương và bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên. Lượng thức ăn tự nhiên, quản lý chỉ tiêu thuỷ lý hoá và kiểm tra mầm bệnh thực hiện giống nhau ở các bể thí nghiệm. Số liệu được phân tích ANOVA trên phần mềm R. Về tăng trưởng, 2 yếu tố mật độ và thời điểm chuyển đổi thức ăn tự nhiên ảnh hưởng có ý nghĩa thống kê lên chiều dài và khối lượng của cá ở ngày tuổi thứ 7 và 10. Ở mật độ ương MĐ1 và lượng thức ăn công nghiệp TA1, cá tăng trưởng tốt nhất về chiều dài (14,9 cm) và khối lượng (25,3 mg/con) ở 7 ngày tuổi, và đạt 16,7 mm và 60,1 mg/con, tương ứng ở 10 ngày tuổi. Kết quả cho thấy tỷ lệ sống đạt cao (71,8 – 81,6%) và khác biệt không có ý nghĩa thống kê giữa các nghiệm thức cho cả 3 thí nghiệm mật độ, thời điểm chuyển đổi thức ăn và điều kiện ánh sáng, tỷ lệ sống đạt cao nhất (81,6%) ở nghiệm thức MĐ2-TA2-CT. Từ khoá: bể xi măng, cá tra hương, chiều dài, khối lượng, tỷ lệ sống. I. GIỚI THIỆU của cá, theo đó tỷ lệ sống đạt cao hơn tương ứng Quy trình ương cá tra bột lên hương trên bể với mật độ ương nuôi thấp hơn trong các nghiên đạt tỷ lệ sống cao là một giải pháp nâng cao hiệu cứu trước đây (Hechtand Appelbaum,1988; quả sản xuất, góp phần xây dựng chuỗi sản xuất Slembrouck và ctv., 2009; Baras,1999; Baras hàng hóa ổn định cho ngành hàng cá tra, đặc and d’Almeida, 2001; Nguyễn Thị Đang, 2011; biệt là trong các điều kiện môi trường bất thuận. Nguyễn Văn Sáng và ctv., 2018; Phạm Thanh Hiện nay thông tin nghiên cứu về kết quả thử Liêm và ctv., 2020). Theo Nguyễn Thị Đang nghiệm ương cá tra từ cá bột lên cá hương trên (2011) và Nguyễn Văn Sáng và ctv. (2018) cá bể còn nhiều hạn chế, đặc biệt là ở quy mô sản nuôi ở mật độ 2.000 con/m2 – 4.500 con/m2 và xuất và giai đoạn cá sử dụng thức ăn tự nhiên được cho ăn Artemia trong 4-6 ngày đầu với trước khi chuyển sang ăn hoàn toàn bằng thức lượng 9RFL, đạt tỷ lệ sống 22,6% - 42,9% sau ăn công nghiệp. Trong giai đoạn đầu này thì mật 21 ngày ương. Đối với chế độ cho ăn, một số độ ương nuôi ảnh hưởng trực tiếp đến tỷ lệ sống tác giả cũng đưa ra các giải pháp nhằm nâng 1 Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II * Email: tranhuuphuc30@gmail.com TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 20 - THÁNG 9/2021 19
- VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II cao tỷ lệ sống của cá tra ở giai đoạn này như kê (p>0,05). Trong thí nghiệm này, cá bột 20 giờ tăng số lượng Artemia với lượng 9RFL trong tuổi ngay sau khi được thả vào bể ương được bể ương và số ngày cho ăn liên tục trong 4, 6 xem là ngày ương thứ 1. và 8 ngày đầu của quá trình ương (Slembrouck 2.2. Phương pháp nghiên cứu và ctv., 2009; Nguyễn Thị Đang, 2011; Nguyễn Nghiên cứu được thực hiện với ba thí Văn Sáng và ctv., 2018), bên cạnh đó những nghiệm, mỗi thí nghiệm gồm hai nghiệm thức nghiên cứu về cung cấp đủ số lượng, với các với 3 lần lặp lại (tương đương 3 bể/nghiệm loại thức ăn tự nhiên phù hợp cỡ miệng cá khác thức), tương ứng với 6 bể ương cho mỗi thí như luân trùng, Moina và phiêu sinh vật khác nghiệm. Diện tích bể ương là 24 m2/bể, thể tích (Phạm Thị Hồng và ctv., 2012; Ân Văn Hóa, Vũ nước ương là 24 m3/bể. Tất cả các bể ương được Ngọc Út, 2018; Trần Văn Hương và ctv., 2018; đặt trong nhà kín bằng nhựa trắng trong để ổn Phạm Thanh Liêm và ctv., 2020) cũng làm tăng định nhiệt độ nước bể ương. tỷ lệ sống của cá ở giai đoạn đầu. Đối với môi 2.2.1. Thí nghiệm về mật độ ương trường ương, nghiên cứu che tối bể ương (đảm Thi nghiêm được bố trí ở hai mật độ ương, bảo ánh sáng ở cường độ 0,1 lux) của Mukai được gọi là MĐ1 với 2.500 con/m2 và MĐ2 với (2011) cho kết quả tỷ lệ sống cao hơn bể ương 5.000 con/m2. Cả hai mật độ đều bố trí cho cá có ánh sáng 100 lux, bên cạnh các nghiên cứu bột ăn Artemia từ ngày ương thứ 1 đến thứ 4 về sục khí bão hoà trên 90% và hàm lượng oxy (tức 4 ngày). Moina được bổ sung từ ngày ương hoa tan trên 6,4 mg/lít; nhiệt độ ương phù hợp là thứ 4 đến ngày thứ 10, thức ăn bột được cho ăn 310C (Baras và ctv., 2011a) cũng tác động trực từ ngày thứ 7 đến ngày thứ 10, gọi là chế độ cho tiếp đến tỷ lệ sống trong ương nuôi cá tra ở giai ăn TA1. Thành phần về loại và lượng của các đoạn trước 10 ngày tuổi. Vì vậy, trong nghiên loại thức ăn được trình bày tại Bảng 1. cứu này, các yếu tố ảnh hưởng đến tăng trưởng 2.2.2. Thí nghiệm về chế độ cho cá ăn và tỷ lệ sống của cá bột như mật độ cao, chế độ Thi nghiêm được bố trí với hai nghiệm cho ăn thức ăn tự nhiên, thức ăn công nghiệp và thức về số ngày cho cá ăn bằng Artemia, được điều kiện chiếu sáng được khảo sát nhằm tìm gọi là TA1 và TA2. Mật độ ương cho cả hai thí giải pháp nâng cao tỷ lệ sống cá tra ở giai đoạn nghiệm là MĐ2 (5.000 con/m2). Đối với nghiệm 10 ngày tuổi đầu, trong điều kiện ương trên bể, thức TA1, cá bột được cho ăn Artemia từ ngày với điều kiện môi trường kiểm soát được. ương thứ 1 đến thứ 4 (tức 4 ngày), Moina được II. VÂT LIÊU VA PHƯƠNG PHAP bổ sung vào các bể ương 1 lần vào buổi sáng NGHIÊN CƯU từ ngày thứ ương thứ 2 đến ngày thứ 10. Đối 2.1. Vật liêu với TA2, cá bột được cho ăn Artemia từ ngày Cá bột sử dụng trong nghiên cứu được sản ương thứ 1 đến thứ 2 (tức 2 ngày), Moina được xuất từ đàn cá bố mẹ chọn giống thế hệ thứ 3 bổ sung từ ngày ương thứ 2 đến ngày thứ 10. theo tính trạng tăng trưởng tại Viện Nghiên Chi tiết lượng Artemia bổ sung và Moina duy cứu Nuôi trồng Thủy sản II. Cá được đưa ra trì hàng ngày cho cả hai nghiệm thức được trình bể ương có khối lượng trung bình là 0,661 mg/ bày ở Bảng 1. Cả hai nghiệm thức thí nghiệm, con, sai khác về khối lượng cá bột thí nghiệm thức ăn bột được bổ sung vào ngày thứ 7. giữa các nghiệm thức không có ý nghĩa thống 20 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 20 - THÁNG 9/2021
- VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II Bảng 1. Lượng thức ăn Artemia và Moina cho ăn trong các nghiệm thức theo ngày ương. Nghiệm thức thức ăn 1 (TA1) Nghiệm thức thức ăn 2 (TA2) Thức ăn công nghiệp cho cả hai Ngày Artemia Moina Artemia Moina nghiệm thức ương Số lượng/ Số lượng/100.000 Số lượng/cá Số lượng/cá bột/ Số lượng/cá bột/ cá bột/ngày cá bột/ngày (g) bột/ngày (con) ngày (con) ngày (con) (con) 1 224 0 224 0 0 2 280 0 280 130 0 3 550 0 0 170 0 4 800 200 0 200 0 5 0 300 0 300 0 6 0 300 0 300 0 7 0 300 0 300 100 8 0 200 0 200 200 9 0 120 0 120 300 10 0 50 0 50 360 * Artemia bổ sung 8 lần ăn/ngày (giữa hai lần cho ăn cách nhau 3 giờ); moina bổ sung 1 lần/ngày; chi tiết về loại và cách cho ăn thức ăn bột được trình bày tại phương pháp cho ăn bên dưới. 2.2.3. Thí nghiệm về điều kiện ánh sáng ngày, mỗi lần cách nhau 3 giờ. Moina được cho bể ương bổ sung vào các bể ương 1 lần/ngày vào buổi Thí nghiệm được bố trí hai nghiệm thức gọi sáng. Moina được ương từ giống thuần trên bể là KCT (Không che tối) và CT (che tối). Theo xi măng. Artemia sử dụng là hàng thương phẩm, đó, nghiệm thức KCT được bố trí chỉ sử dụng nhãn hiệu INVE. Lượng Artemia được cho ăn lưới chắn 50-60% ánh sáng che phủ mái của nhà trong một ngày là 7 RFL cho ngày 1 và 2 và 9 ương (điều kiện ánh sáng không vượt quá 10.000 RFL ở ngày 3 và 4 được tham khảo từ kết quả lux ở thời điểm ánh sáng cao điểm; độ sáng, thời nghiên cứu trước (Slembrouck, 2009; Nguyễn gian chiếu sáng hoàn toàn theo sự thay đổi của Văn Sáng và ctv., 2018; Nguyễn Thị Đang, điều kiện ngày/đêm và thời tiết tự nhiên) trong 2011), chi tiết về lượng thức ăn cho hai nghiệm suốt quá trình ương. Nghiệm thức CT được bố thức TA1 và TA2 được trình bày tại Bảng 1. Chỉ trí che tối bể ương hoàn toàn bằng bạt nhựa màu số RFL được tính theo công thức sau Log (RFL) đen từ ngày ương 1 đến ngày ương 5, đảm bảo = 0,377 + 0,176A, trong đó, RFL (reference điều kiện ánh sáng trong bể ương là dưới 0,1 feeding level: thức ăn tham khảo) là số lượng lux, từ ngày ương thứ 6 trở đi thì điều kiện ánh ấu trùng Artemia được cung cấp trên một lần sáng tương đồng với nghiệm thức KCT. Mật độ ăn cho một cá bột và A là ngày tuổi của cá bột ương cho tất cả các bể là 5.000 con/m2 (MĐ2) (Slembrouck, 2009). và nghiệm thức về chuyển đổi thức ăn là TA2 Thức ăn công nghiệp và cách cho ăn: Từ được trình bày chi tiết ở thí nghiệm bên trên. ngày 7 đến ngày 8, cá được cho ăn bằng thức 2.2.4. Thức ăn và cách cho ăn cho cả ba ăn của ấu trùng tôm dạng hạt mịn (nhãn hiệu thí nghiệm Flake, sản phẩm của Ocean Star International, Thức ăn Artemia và Moina: Trong cả 3 thí thành phần Artemia sấy khô, bột cá, tảo khô; độ nghiệm, Artemia được chia đều theo 8 lần ăn/ đạm ≥40%), với lượng cho ăn 100 g/100.000 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 20 - THÁNG 9/2021 21
- VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II con bột ở ngày thứ 7, tăng lượng ăn 100% cho được tăng lên 50%/ngày (so với ngày thứ 8). ngày ương thứ 8. Ngày ương thứ 9, thức ăn Ngày ương thứ 10, lượng thức ăn cho ăn tăng công nghiệp cho cá ăn là hỗn hợp phối trộn của 20% so với ngày thứ 9 và cho ăn hoàn toàn thức ăn Flake và thức ăn cho cá dạng bột cho bằng thức ăn T501S. Cá cho ăn bằng cách rải cá (40% đạm, nhãn hiệu UP-T501S, sản phẩm đều thức ăn cho từng bể ương, từ ngày ương của công ty TNHH Uni-president VN), tỷ lệ thứ 7 và 10, cá được cho ăn 5 lần/ngày, mỗi lần phối trộn là 1:1, khối lượng thức ăn cho cá ăn cách nhau 4,8 giờ. Bảng 2. Chi tiết hai lượng thức ăn bột đậm đặc được bố trí thí nghiệm. Ngày ương Loại thức ăn Tổng khối lượng thức ăn Số lần cho ăn/ Độ đạm thức (g/ngày/100.000 cá bột) ngày ăn (%) Ngày 7 Thức ăn flake 100 5 42 Ngày 8 Thức ăn flake 200 5 42 Ngày 9 Thức ăn flake+ T501S 300 = 100 + 100 5 40 Ngày 10 T501S 360 5 40 * Sau khi đã kiểm tra tổng khối lượng và tỷ lệ sống từng bể ở ngày thứ 11, cá sẽ được cho ăn theo trọng lượng thân từ ngày thứ 11 của quá trình ương. 2.2.5. Chăm sóc và quản lý thí nghiệm 6:00 giờ và 14:00 giờ. Giới hạn các chỉ tiêu này Bể ương được vệ sinh và tẩy sạch bằng trong ngưỡng cho phép, với pH trong khoảng chlorine 100 ppm, bể được để khô và phơi nắng 7-9, DO>4,0 mg/l, NH3 4,0 mg/l, cũng như đảo nước nhằm mủ (Edwardsiella ictaluri) bằng kỹ thuật xét giúp thức ăn và cá phân bố đều trong bể ương. nghiệm PCR (Polymerase chain reaction). Bắt đầu từ ngày ương thứ 1, các bể ương Kiểm tra mầm bệnh, vi khuẩn của Artemia, được bổ sung vi sinh chứa các loại thuộc chủng và Moina trước và trong khi thử nghiệm. Đối Bacillus và Pediococus (nhãn hiệu BioWish với Artemia tiến hành tẩy vỏ trước khi ấp AquaFarm) giúp chuyển hóa ammonia và nitrite bằng cách ngâm trứng Artemia vào dung dịch để cải thiện chất lượng nước, định kỳ xử lý 3 chlorine 200 ppm, khoảng 20-30 phút, sau đó ngày/lần với liều lượng theo khuyến cáo của rửa lại bằng nước cho đến khi hết chlorine. nhà sản xuất (5 g/m3 nước). Từ ngày ương thứ Đối với Moina được khử trùng bằng formol 5, định kỳ xi phông đáy bể 01 lần/ngày vào buổi 80 ppm trong 30 phut và rửa lại nhiều lần bằng sáng giữa hai lần cho ăn, xi phông đều khắp đáy nước sạch trước khi bổ sung vào bể ương. bể ương và thay 30% nước/ngày. Nước cấp mới Tại ngày thứ 3, 7 và 10 kiểm tra sự hiện cũng được xử lý như nước cấp ban đầu trước diện vi khuẩn A. hydrophila bằng phương pháp khi ương. Trong quá trình ương, kiểm tra các pha loãng trãi đĩa bậc 10; vi khuẩn F. columnare chỉ tiêu thủy lý hóa của nước 2 lần/ngày vào lúc bằng phương pháp nhuộm gram; và vi khuẩn E. 22 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 20 - THÁNG 9/2021
- VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II ictaluri bằng kỹ thuật PCR. Kiểm tra sự hiện ương trong tương lai. diện của ký sinh trùng bằng phương pháp soi 2.3.2. Xác định tăng trưởng của cá mẫu tươi qua kính hiển vi soi nổi và kính hiển Đo chiều dài tổng và cân khối lượng của 50 vi quang học (mẫu tươi là các bộ phận như cá thể được thu ngẫu nhiên trong từng bể sau vây, dịch nhớt, nội tạng gan, thận, ruột, được 7 và 10 ngày ương. Chiều dài chuẩn được đo cắt ra riêng biệt, với số lượng kiểm tra là 10 bằng thước phân độ 1,0 mm và khối lượng được cá thể/bể). Định loại ký sinh trùng theo khóa xác định bằng cân điện tử có độ chính xác đến phân loại của Schell (1985). Bắt đầu từ ngày 0,001g. thứ 3 tiến hành xử lý diệt khuẩn cho môi trường Xác định tỷ lệ sống: tại thời điểm cá đạt nước bể ương, sau đó định kỳ 5 ngày/lần cho 10 ngày ương và không bao gồm những cá thể từng bể ương bằng iodine (lượng 0,2 ppm) hoặc được thu mẫu đánh giá các thông số theo dõi bronopol (lượng 0,2 ppm), sử dụng luân phiên như trình bày bên trên. hai loại giữa các lần xử lý liền kê. Trong suốt Tỷ lệ sống Tổng cá thu được = × 100% thời gian thí nghiệm không phát hiện nội và được tính Tổng số cá thả ương ngoại ký sinh trùng. 2.3.3. Xử lý số liệu 2.3. Thu thập và xử lý số liệu Số liệu được lưu giữ và kiểm tra bằng phần 2.3.1. Khảo sát tính ăn của cá mềm Microsoft Excel 2013. Phương pháp phân Đánh giá cá đã ăn được từng loại thức ăn tích ANOVA một nhân tố được sử dụng cho (Artemia, Moina hoặc thức ăn bột) bằng cách đánh giá sự khác biệt giữa các nghiệm thức, sau thu ngẫu nhiên 10 cá/bể ương, tiến hành giải đó là kiểm tra so sánh theo cặp giữa trung bình phâu và kiểm tra ống tiêu hóa của cá trên kính các nhóm theo phương pháp Tukey’s HSD, số hiển vi. Cá được thu sau khi cho ăn 30 phút, liệu được xử lý bằng phần mềm xử lý thống kê đây là thời gian đủ để cá ăn tối đa (theo Baras, R (V 3.5.1). trích dẫn bởi Slembrouk (2009)), riêng đối với III. KÊT QUA NGHIÊN CỨU Moina do chỉ bổ sung 1 lần/ngày và Moina sống Các chỉ tiêu thủy lý hóa của môi trường được trong bể ương nên được kiểm tra lần 2 ở nước trong suốt thời gian thí nghiệm nhìn chung thời điểm 2 giờ sau khi bổ sung Moina vào bể không sai khác giữa các bể ương và nằm trong ương lần đầu. Mẫu cá được cố định trong dung khoảng cho phép đối với cá tra, cụ thể pH dao dịch 5% formalin ngay sau thu. Thời điểm kiểm động 7,5 – 8,0; độ kiềm 73-85 mg CaCO3/l; DO tra đánh giá cá đã ăn được loại thức ăn mới là dao động từ 4,5 – 5,2 mg/l; NH3 dao động 0,04 tại: (a) lần cho cá ăn Artemia đầu tiên, (b) lần – 0,05 mg/l, riêng chỉ tiêu NO2 (trung bình 1,1– cho cá ăn Moina đầu tiên và (c) lần cho cá ăn 1,8 mg/l) cao vượt mức cho phép trong ao nuôi thức ăn bột (ngày 7) đầu tiên. Việc kiểm tra cá tra (0,01 – 1,0 mg/l, theo Trương Quốc Phú này sẽ được thực hiện lập lại ở những lần cho (2000) và Lê Như Xuân và Phạm Minh Thành ăn (Artemia, Moina hay thức ăn bột) tiếp theo (1994) nhưng không ảnh hưởng gây chết cá và trong ngày và kết thúc kiểm tra đánh giá khi thấp hơn so với nghiên cứu về ngưỡng gây chết 100% cá của từng bể ương đã ăn được thức ăn LD50-96 giờ của NO2-N trên cá tra giống (15-20 bột (thông qua đánh giá trên mẫu thu giải phâu g) là 75,6 mg/l (Đỗ Thị Thanh Hương và ctv., và quan sát thực tế). Việc kiểm tra đánh giá tính 2011). ăn của cá sẽ xác định được thời gian và tỷ lệ cá 3.1. Tỷ lệ sống chuyển loại thức ăn cho việc điều chỉnh lượng 3.1.1. Ảnh hưởng của mật độ ương đến tỷ và loại thức ăn phù hợp cho xây dựng quy trình lệ sống của cá bột TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 20 - THÁNG 9/2021 23
- VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II Tỷ lệ sống sau ngày 10 ương (khi cá đã 3.1.3. Ảnh hưởng của điều kiện ánh sáng chuyển ăn 100% thức ăn công nghiệp) tại mật đến tỷ lệ sống của cá bột độ ương 2.500 con/m2 (MĐ1) và 5.000 con/m2 Tỷ lệ sống tại ngày ương thứ 10 của nghiệm (MĐ 2) đạt lần lượt là 71,8% và 77,7% (Bảng thức che tối 5 ngày ương đầu (CT) là 74,5% và 3), và khác biệt không có ý nghĩa thống kê khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) giữa hai nghiệm thức mật độ (p 0,05) và đạt lần lượt là 77,7% cho thức (của cả ba thí nghiệm) với nhau, cho thấy nghiệm thức TA1 và 81,6% cho nghiệm thức tỷ lệ sống khác biệt không có ý nghĩa thống kê TA2. Kết quả cho thấy việc cho cá ăn Artemia (p>0,05) giữa các nhiệm thức và đạt tỷ lệ cao trong hai ngày hoặc bốn ngày ương là không nhất (81,6%) ở nghiệm thức có mật độ ương ảnh hưởng đến tỷ lệ sống của cá (đến ngày ương 5.000 con/m2 (MĐ2), cho ăn theo chế độ thức thứ 10) trong điều kiện ương với anh sáng là CT ăn TA2 và ương trong điều kiện che tối 5 ngày và mật độ ương 5.000 con/m2 (MĐ2). đầu (Bảng 3). Bảng 3. Tỷ lệ sống của cá ương ngày 10 theo các mật độ, thời điểm thay đổi thức ăn tự nhiên và điều kiện ánh sáng khác nhau (trong từng khung là giữa hai nghiệm thức từng yếu tố thí nghiệm). Tỷ lệ sống 10 ngày Nghiệm thức Số bể ương tuổi (%) Thí nghiệm Điều kiến (N) Trung bình Độ lệch Mật độ Thức ăn sáng/tối * chuẩn Thí nghiệm về MĐ1 TA1 CT 3 71,8a 17,7 mật độ MĐ2 TA1 CT 3 77,7a 12,3 Thí nghiệm về MĐ2 TA1 CT 3 77,7a 12,3 chế độ cho ăn MĐ2 TA2 CT 3 81,6a 4,0 Thí nghiệm về điều MĐ2 TA2 CT 3 74,5a 4,4 kiện ánh sáng MĐ2 TA2 KCT 3 80,3a 2,3 (*) Trong cùng một cột, các giá trị có ký tự khác nhau là sai khác có ý nghĩa thống kê (p<0,05); ( ) kết quả của 3 bể của thí nghiệm MĐ2-TA2-CT được sử dụng cho đánh giá kết quả ở cả hai thí nghiệm về mật độ và thí nghiệm về chế độ cho ăn (các nghiệm thức của hai thí nghiệm này được thực hiện tại cùng thời gian và địa điểm). 3.2. Về tăng trưởng thức khác nhau được thể hiện trong Bảng 4 và Tăng trưởng chiều dài và khối lượng của Bảng 5. cá ương tại 7 và 10 ngày tuổi theo các nghiệm 3.2.1. Ảnh hưởng của mật độ ương lên tăng trưởng của cá 24 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 20 - THÁNG 9/2021
- VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II Hai nghiệm thức đánh giá là MĐ1 và MĐ2, của cá 7 và 10 ngày tuổi đạt lần lượt là 13,0 mg có cùng chế độ dinh dưỡng (TA1) và điều kiện và 36,1 mg. Ở nghiệm thức TA2, khối lượng tại ánh sáng là che tối ở 5 ngày đầu (CT), kết quả ngày thời điểm kiểm tra đạt 11,7 mg và 29,8 cho thấy cá nuôi ở mật độ thấp hơn có xu hướng mg. Đánh giá sự khác biệt về khối lượng thân tăng trưởng tốt hơn so với mật độ cao. Cụ thể, của hai nghiệm thức tại lần lượt cả hai thời điểm kết quả khi kiểm tra ở giai đoạn cá 7 ngày tuổi kiểm tra là không khác biệt có ý nghĩa thống kê (kết thúc cho ăn hoàn toàn bằng thức ăn tự (p>0,05). Kết quả cho thấy cá ăn Artemia nhiều nhiên) cá được nuôi ở MĐ1 (2.500 con/m2) có ngày hơn sẽ cho tăng trưởng tốt hơn về chiều khối lượng trung bình (25,3 mg/con) và chiều dài thân nhưng về khối lượng thân thì không dài trung bình (14,9 mm) lớn hơn ở nghiệm khác biệt trong cả thời gian sử dụng hoàn toàn thức MĐ2 (13,0 mg và 13,7 mm). Xu hướng thức ăn tự nhiên và ở giai đoạn đầu khi chuyển cũng tương tự khi kiểm tra tăng trưởng ở ngày sang cho ăn thức ăn công nghiệp. ương thứ 10 (cá chuyển sang ăn thức ăn công 3.2.3. Ảnh hưởng của điều kiện ánh sáng nghiệp) có khối lượng trung bình (60,1 mg/con) lên tăng trưởng của cá và chiều dài trung bình (16,7 mm) ở MĐ1 lớn Tại thời điểm cá 7 ngày tuổi và 10 ngày tuổi, hơn các nghiệm thức MĐ2 và cả ở các nghiệm kết quả đánh giá của nghiệm thức CT lần lượt là thức khác có mật độ 5.000 con/m2, các khác biệt 11,5 mm và 13,3 mm cho chiều dài và 8,8 mg và có ý nghĩa thống kê(P 0,05) với artemia lên tăng trưởng của cá kết quả của nghiệm thức KCT, đạt khối lượng Tại thời điểm cá đạt 7 và 10 ngày tuổi, cá và chiều dài là 10,1 mg và 12,1 mm ở ngày tuổi được ương ở nghiệm thức TA1 (cho ăn Artemia thứ 7 và 27,4 mg và 13,4 mm ở ngày tuổi thứ 10. trong 4 ngày), có chiều dài tổng đạt lần lượt là Kết quả cho thấy việc ương cá trong điều kiện 13,7 mm và 15,5 mm, lớn hơn ở thí nghiệm cho che tối hoàn toàn và không che tối hoàn toàn là cá ăn theo chế độ TA2 (Artemia 2 ngày) (11,9 không ảnh hưởng đến tăng trưởng của cá trong mm và 13,6 mm, tương ứng), các khác biệt có giai đoạn từ cá bột đến khi cá chuyển sang ăn ý nghĩa thống kê (p<0,05). Đối với tăng trưởng thức ăn công nghiệp dạng bột. về khối lượng ở nghiệm thức TA1, khối lượng Bảng 4. Tăng trưởng theo chiều dài và khối lượng của cá ương ngày 7 theo các nghiệm thức khác nhau. Chiều dài ngày 7 Khối lượng ngày 7 Nghiệm thức (mm) (mg) Thí nghiệm Thức Điều kiện Trung Độ lệch Trung Độ lệch Mật độ ăn ánh sáng bình * chuẩn bình * chuẩn Thí nghiệm về MĐ1 TA1 CT 14,9a 1,2 25,3e 13,8 mật độ MĐ2 TA1 CT 13,7b 1,3 13,0f 7,7 Thí nghiệm về MĐ2 TA1 CT 13,7b 1,3 13,0f 7,7 chế độ cho ăn MĐ2 TA2 CT 11,9c 0,9 11,7fg 5,9 Thí nghiệm về điều MĐ2 TA2 CT 11,5c 1,1 8,8g 2,4 kiện ánh sáng MĐ2 TA2 KCT 12,1c 1,3 10,1fg 5,1 (*) Trong cùng một cột, các giá trị có ký tự khác nhau là sai khác có ý nghĩa thống kê (p<0,05); ( ) kết quả của 3 bể của thí nghiệm MĐ2-TA1-CT được sử dụng cho đánh giá kết quả ở cả hai thí nghiệm về mật độ và thí nghiệm về chế độ cho ăn (các nghiệm thức của hai thí nghiệm này được thực hiện tại cùng thời gian và địa điểm). TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 20 - THÁNG 9/2021 25
- VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II Bảng 5. Tăng trưởng theo chiều dài và khối lượng của cá ương ngày 10 theo các nghiệm thức khác nhau. Chiều dài ngày 10 Khối lượng ngày 10 Nghiệm thức (mm) (mg) Thí nghiệm Điều kiện Trung Độ lệch Trung Độ lệch Mật độ Thức ăn ánh sáng bình * chuẩn bình * chuẩn Thí nghiệm về MĐ1 TA1 CT 16,7a 2,2 60,1e 23,9 mật độ MĐ2 TA1 CT 15,5b 1,9 36,1f 20,4 Thí nghiệm về MĐ2 TA1 CT 15,5b 1,9 36,1f 20,4 chế độ cho ăn MĐ2 TA2 CT 13,6c 3,1 29,8fg 14,2 Thí nghiệm về MĐ2 TA2 CT 13,3c 1,7 29,3fg 19,0 điều kiện ánh sáng MĐ2 TA2 KCT 13,4c 1,9 27,4g 15,1 (*) Trong cùng một cột, các giá trị có ký tự khác nhau là sai khác có ý nghĩa thống kê (p<0,05); ( ) kết quả của 3 bể của thí nghiệm MĐ2-TA1-CT được sử dụng cho đánh giá kết quả ở cả hai thí nghiệm về mật độ và thí nghiệm về chế độ cho ăn (các nghiệm thức của hai thí nghiệm này được thực hiện tại cùng thời gian và địa điểm). 3.3. Kết quả khảo sát sự bắt mồi của cá đường ruột cá). Ở lần bổ sung Moina thứ 2 (75 tại thời điểm chuyển đổi loại thức ăn giờ sau nở), cá đã chủ động bắt Moina tốt với 3.3.1. Kết quả xác định thời điểm cá ăn 100% mẫu cá ở tất cả các bể của các nghiệm được Artemia thức điều có Moina trong ruột cá, đồng thời việc Tại lần cho ăn thứ 1 (32 giờ sau khi nở), 30 đánh giá cảm quan cũng cho thấy cá có “bụng phút sau khi cho cá ăn kiểm tra cá chưa bắt mồi, to”, thời điểm 75 giờ sau nở đã không còn bổ noãn hoàng vẫn còn (100% còn noãn); bổ sung sung Artemia vào bể ương. Kết quả cũng tương Artemia lần thứ 2 (35 giờ sau khi nở), cá đã bắt tự cho các thí nghiệm bổ sung Moina cho cá ăn mồi dao động từ 5 - 10%/bể sau 30 phút cho ăn bắt đầu từ ngày thứ 4 (TA1). với số lượng Artemia có trong ống tiêu hóa của 3.3.3. Kết quả xác định thời điểm ăn được cá tại thời điểm kiểm tra có từ 1-4 con Artemia/ thức ăn dạng bột của cá cá, dao động theo từng bể ương khác nhau. Lần Bổ sung thức ăn bột dạng flake (ngày ương ăn thứ 3 (38 giờ sau khi nở) và lần ăn thứ 4 (sau thứ 7), sau 30 phút bổ sung thức ăn của lần đầu khi nở 41 giờ), quan sát cá đã ăn Artemia 100%, tiên, kiểm tra đường ruột cho thấy dưới 50% cá sau 30 phút cho ăn, ở tất cả các bể ương. có ăn thức ăn. Đến lần cho ăn thứ 2, 100% cá 3.3.2. Kết quả xác định thời điểm ăn được đã sử dụng thức ăn flake ở các bể kiểm tra. Ơ Moina của cá lần cho ăn thứ 3, sau 30 phút cho cá ăn thức ăn Tại lần cho cá ăn Moina lần thứ 1 của flake, 100% cá đã bắt thức ăn. nghiệm thức TA2 (cá đạt 51 giờ tuổi sau khi nở), IV. THẢO LUẬN Moina được bổ sung vào bể ương, kết quả kiểm Mật độ thả ương cao được xem là một trong tra đường ruột của cá cho thấy cá chưa ăn được những nhân tố quan trọng để tăng năng suất trong Moina, sau 30 phút bổ sung, tại thời điểm kiểm ương cá trên bể trong điều kiện kiểm soát nhằm tra sau khi cho ăn 2 giờ, cho thấy có hơn 70% giải quyết nguồn cung cá hương ở vụ nghịch và cá trong bể ương đã ăn được Moina (không xác điều kiện bất thuận của môi trường ương nuôi. định được tỷ lệ giữa Artemia và Moina trong Các nghiên cứu trước đây cho thấy, cá được 26 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 20 - THÁNG 9/2021
- VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II ương ở các mật độ khác nhau từ hơn 1.335 con/ từ 31,3% đến 45,4% và khối lượng của cá lớn m2 – 2.000 con/m2 (Nguyễn Văn Sáng và ctv., hơn (p 0,05), tối hoàn toàn (CT) và không che tối (KCT) có theo cả hai giai đoạn đánh giá là 7 và 10 ngày tỷ lệ sống và tăng trưởng là không khác biệt có tuổi. Với chế độ cho ăn được áp dụng cho cả ý nghĩa thống kê (p>0,05) trong cùng mật độ hai mật độ là như nhau về tổng số lượng con ương là MĐ2 và chế độ cho ăn TA2. Điều này mồi theo cá thể cá (Bảng 1), thì sự khác biệt về có thể được giải thích là do: thứ 1,(i) việc cho tăng trưởng này có thể được giải thích chủ yếu cá ăn Artemia với 8 lần/ngày đã hạn chế được là do các vấn đề tiềm ẩn liên quan đến mật độ tập tính mở miệng đơp ngẫu nhiên của cá, khi cá ương cao gây ra như áp lực trong sự cạnh tranh đã ăn no trong nhiều khung giờ trong ngày, lập nguồn thức ăn cao hơn, áp lực do phải tiếp cận luận về số lần ăn nhiều trong ngày cũng phù hợp với nguy cơ bị ăn cắn ngẫu nhiên bởi đồng loại với nghiên cứu của Baras và ctv. (2011b) nghiên cao hơn. Điều này có thể được giải quyết bằng cứu trên cá da báo mỏ vịt (Pseudoplatystoma cách tăng số lượng con mồi theo từng cá thể punctifer) cho rằng cho cá ăn Artemia với số lần lên cao hơn nhằm đảm bảo về tỷ lệ sống cũng cho ăn nhiều từ 6-7 lần/ngày cá sẽ lớn nhanh hơn như tăng trưởng khi ương cá ở mật độ cao hơn, và đủ để trốn thoát sự ăn thịt lẫn nhau trong quá như nghiên cứu của tác giả Út và ctv. (2020) đã trình ương cho với việc cho ăn 2 lần/ngày; thứ nâng tỷ lệ sống của cá tra hương 20 ngày tuổi 2, (ii) số lượng Artemia và số lượng Moina duy TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 20 - THÁNG 9/2021 27
- VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II trì cho cá ăn trong nghiên cứu này là đủ (không thức ăn tự nhiên cho nhu cầu của cá. Kết quả quá dư và không thiếu) cũng làm tăng tỷ lệ sống đánh giá tăng trưởng của cá ở thí nghiệm về số (giảm sự cắn nhau ngẫu nhiên do đủ mồi); và ngày cho cá ăn Artemia cho thấy cá được cho ăn thứ 3, (iii) cá bột sử dụng cho thí nghiệm này Artemia 2 ngày tuổi có tăng trưởng về chiều dài được sinh ra từ đàn cá bố mẹ chọn giống thế hệ tốt hơn so với cho ăn Artemia 4 ngày (p>0,05) G3, được gia hóa thế hệ đầu tiên từ năm 2001, ở 7 và 10 ngày ương, trong khi tăng trưởng về nên có thể tính ăn nhau của cá đã giảm sau một khối lượng thân và tỷ lệ sống thì không có khác thời gian dài được gia hóa và chọn lọc qua nhiều biệt (Bảng 4 và 5). Cùng với kết quả về khảo sát thế hệ. Kết quả cho thấy việc ương nuôi cá trong tính ăn của cá về việc cá ăn được Moina từ ngày điều kiện KCT của thí nghiệm là đáp ứng được thứ 2, từ đó có thể kết luận cho cá ăn Artemia yêu cầu về tỷ lệ sống và giảm chi phí bố trí cơ 2 ngày đầu nuôi kết hợp với Moina ở các ngày sở vật chất trong ương nuôi so với giả thuyết về sau của quá trình ương là vẫn đảm bảo năng suất ương nuôi trong điều kiện che tối hoàn toàn 5 và tỷ lệ sống của cá ở giai đoạn cá sử dụng hoàn ngày đầu khi ương. Nhận định này được củng toàn bằng thức ăn tự nhiên và việc này không ảnh cố vì theo Subagja và ctv. (1999) cho rằng mầm hưởng tiêu cực đến giai đoạn khi chuyển từ cho bệnh xâm nhập và gây chết trên cá bột có liên ăn Moina sang cho cá ăn công nghiệp dạng bột. quan đến cá bị tổn thương do hành vi cắn nhau So sánh kết quả tỷ lệ sống của 3 yếu tố thí (không chủ động) của cá bột, nhiều tác giả khác nghiệm (mật độ, số ngày cho cá ăn Artemia và cũng đồng quan điểm về tỷ lệ chết của cá bột là điều kiện ánh sáng trong ương nuôi) cho thấy hậu quả của việc nhiễm mầm bệnh hơn là của tỷ lệ sống không khác biệt có ý nghĩa thống kê việc ăn thịt đồng loại chủ động (Hardjamulia và (p<0,05) giữa các nghiệm thức. Bên cạnh đó, ctv., 1981; Campet, 1997; Lê Thanh Hùng và kết quả đánh giá tăng trưởng về khối lượng từ ctv., 2000; Slembrouck và ctv., 2009). ngày ương thứ 7 và thứ 10 trong từng yếu tố Thức ăn tự nhiên có ưu điểm chính là có thí nghiệm, cho thấy, cá tăng trưởng nhanh về kích cỡ đa dạng vừa với sự phát triển của cá khối lượng gấp 2 lần trong 03 ngày này, tăng theo từng giai đoạn và thức ăn tự nhiên sống trưởng từ mức 8,8, 10,1, 13,0 và 25,3 mg ở ngày giúp cá có thể tiếp cận được trong thời gian dài ương thứ 7 lên 29,3, 27,4, 36,1 và 60,1 mg ở hơn. Tuy nhiên, các loại thức ăn tươi sống được ngày ương thứ 10, tương ứng theo thứ tự các sử dụng phổ biến hiện nay cho ương nuôi cá tra nghiệm thức MĐ2-TA2-CT, MĐ2-TA2-KCT, như Artemia, Rotifer và Moina là rất đặc thù, MĐ2-TA1-CT và MĐ1-TA1-CT (Bảng 4&5). khó chủ động trong nuôi sinh khối tạo sản lượng Kết quả này và kết quả đánh giá về tính ăn của lớn, khó chủ động được thời vụ do quy trình nuôi cá khi chuyển từ thức ăn tươi sống sang thức ăn chưa ổn định ở quy mô sản xuất hàng hóa (như công nghiệp được trình bày bên trên đã khẳng Rotifer và cả Moina) và đắt tiền khi ứng dụng định cá ăn được thức ăn công nghiệp và tăng ương cá ở quy mô lớn (Artemia và Rotifer). Do trưởng của cá không bị chậm lại (hoặc không đó, bên cạnh việc lựa chọn đúng loại thức ăn tự tăng trưởng) tại thời điểm chuyển đổi từ cho ăn nhiên đóng vai trò vô cùng quan trọng đến tỷ lệ Moina sang thức ăn công nghiệp dạng bột, đều sống và tốc độ tăng trưởng của cá khi tiến hành đó đồng nghĩa với việc tổng lượng thức ăn tự ương nuôi cá trên bể với mật độ cao, thì việc nhiên bổ sung vào là phù hợp và đáp ứng với cho ăn đủ lượng, có sự kết hợp hài hòa giữa các nhu cầu của cá cho đạt kết quả tỷ lệ sống ở thí loại thức ăn tự nhiên rất có ý nghĩa cho mục tiêu nghiệm này (71,8% – 81,6%). Do đó, xét về tỷ giảm chi phí ương nuôi, chủ động được nguồn lệ sống và tăng trưởng ở giai đoạn 10 ngày tuổi 28 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 20 - THÁNG 9/2021
- VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II cùng các thảo luận bên trên, cho thấy nghiệm bị nhiễm tổng vi khuẩn A. hydrophila (5.103 – thức MĐ2-TA2-KCT (80,3% tỷ lệ sống) được 1.104 CFU). Tại ngày ương thứ 3, 7 và 10, kết chọn để tập trung nghiên cứu phát triển quy quả kiểm tra trên mẫu cá bằng phương pháp trình ương nuôi ở quy mô sản xuất hàng hóa vì PCR âm tính cho cả ba tác nhân gây bệnh nêu mật độ nuôi và tỷ lệ sống cao sẽ tạo ra được sản trên, tuy nhiên mật độ vi khuẩn A. hydrophila lượng con giống cao hơn, Artemia cho ăn trong vẫn cao (4,4.103 – 1,3.104 CFU) và kết quả PCR hai ngày đầu (tiết kiệm về chi phí, gánh nặng mẫu nước cá ương ở ngày 10 là dương tính với quản lý môi trường do Artemia chết gây ra), vi khuẩn A. hydrophila. Vấn đề vi khuẩn A. điều kiện ương là không che tối sẽ giảm thiểu hydrophila hiện diện trong môi trường nước ở được chi phí sản xuất, xây dựng nhà ương giống giai đoạn cho ăn thức ăn tự nhiên dẫn đến mối và tiết kiệm công lao động khi vận hành so với nguy hiểm tiềm tàng là việc sử dụng thức ăn các nghiệm thức còn lại. Tuy nhiên, cần được công nghiệp dạng bột (và mảnh nhỏ) các ngày đánh giá ở giai đoạn tiếp theo từ 11-21 ngày tuổi sau sẽ tác động trực tiếp đến sự tăng sinh của nhằm có những kết luận cho xây dựng quy trình nầm bệnh trong bể ương, dẫn đến bùng phát dịch hoàn chỉnh hơn cho cả giai đoạn từ cá bột đến cá bệnh trong các ngày ương ở giai đoạn sau. Bên hương 21 ngày tuổi. Kết quả của nghiên cứu này cạnh đó, với chỉ tiêu NO2 biến động cao trong cũng cho thấy tính khả thi cho định hướng nâng quá trình nuôi đặc biệt ở giai đoạn bổ sung thức cao mật độ ương lên hơn 5.000 con/m2 ở điều ăn bột, cho thấy (i) tần suất thay nước 30% và kiện sản xuất hàng hóa (có thể thử nghiệm ở mật xi phông đáy bể hàng ngày (bắt đầu ngày ương độ 10.000 con/m3 như nghiên cứu của tác giả Út thứ 5) và định kỳ xử lý nước ương (3 ngày/lần) và ctv. (2020) và Slembrouk và ctv. (2009) đã bằng hóa chất diệt khuẩn (iodines, probonol) đạt tỷ lệ sống 45,4% - 60% ở quy mô 20-30 lít/ của nghiên cứu này, tuy có hiệu quả khi đã kiểm bể ở mật độ này) nhằm tối đa hóa hiệu quả chi soát và kim hãm được sự bùng phát vi khuẩn phí đầu tư, theo hướng tăng mật độ thức ăn tự trên cá, nhưng trong môi trường nước ương thì nhiên như kết quả của những nghiên cứu trước vẫn chưa kiểm soát được, (ii) mầm bệnh này đây (thực hiện trên phạm vi nghiên cứu 20-500 được xác định rõ ràng là có liên quan đến nguồn lít) của các tác giả Slembrouk và ctv. (2019), thức ăn tự nhiên cấp vào là Artemia và Moina và Subagja (1999), Phạm Thị Hồng (2012), Mukai (iii) hiệu quả của vi sinh trong sự kim hãm khí (2011), Phạm Thanh Liêm và ctv, (2020), Út và độc (NO2, NH3) là chưa rõ. Do đó, xây dựng quy ctv. 2020 và nhiều tác giả khác. trình hoàn thiện về sản xuất nguồn thức ăn tự Nhiều nghiên cứu đã cho thấy Artemia, nhiên sạch bệnh (Rotifer và Moina), đảm bảo số Rotifer và Moina hay các phiêu sinh vật khác lượng đủ lớn và ổn định cũng là cấp thiết phục cũng là vật chủ mang nầm bệnh trực tiếp cho hệ vụ cho quy trình ương nuôi cá trên bể ở quy mô thống ương cá (Ebert, 2005; HZnninen và ctv., hàng hóa nhằm đảm bảo tỷ lệ sống cao ở mật độ 1997; Pati và ctv., 2003). Cụ thể, tại nghiên cứu ương nuôi cao hợp lý và chi phí sản xuất ở mức này, mặc dù cá bột được kiểm tra và tầm soát chấp nhận được. bệnh tại thời điểm khởi đầu với kết quả PCR là V. KÊT LUÂN VA ĐÊ XUÂT âm tính cả ba vi khuẩn gây hại cho cá tra là A. 5.1. Kêt luân hydrophila, F. columnare và E. ictaluri. Moina Tỷ lệ sống sau ngày 10 ương (khi cá đã và kết quả trãi đĩa sau khi tắm formol cũng là chuyển ăn 100% thức ăn công nghiệp) của các âm tính với A. hydrophila, F. columnare. Chỉ nghiệm thức dao động từ 71,8% - 81,6% và duy nhất có Artemia sau khi nở kiểm tra kết quả không có sự khác biệt giữa các nghiệm thức của TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 20 - THÁNG 9/2021 29
- VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II ba thí nghiệm về mật độ, chế độ cho ăn và điều Lê Thanh Hùng, Slembrouck Jacques, Jojo Subagja kiện ánh sáng trong nghiên cứu này. và Marc Lagendre, 2000. Khảo sát hiện tượng chết hàng loạt trong ương nuôi cá tra (Pangasius Kết quả nghiên cứu này cho thấy nghiệm hypophthalmus, Sauvage 1886) và các biện pháp thức MĐ2-TA2-KCT (mật độ ương 5.000 con/ khắc phục. Hội thảo Khoa học toàn quốc về Nuôi m2, cho ăn Artemia 2 ngày đầu và bể ương trồng Thủy sản, 9/1998. không cần che tối trong các ngày đầu) đạt hiệu Lê Như Xuân và Phạm Minh Thành, 1994. Kỹ thuật quả cao về tỷ lệ sống (80,3 ± 2,3) và đạt tương nuôi cá nước ngọt. Sở Khoa học Công nghệ Môi trường An Giang, 266 trang. đồng về khối lượng thân (27,4 g) và khác biệt Nguyễn Thanh Phương, Bùi Minh Tâm, Vũ Ngọc không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) so với các Út, Bùi Thị Bích Hằng, Đỗ Thị Thanh Hương, nghiệm thức khác trong nghiên cứu ở cung mật Võ Nam Sơn, Phạm Thanh Liêm, Trần Thị Tuyết độ MĐ2. Hoa và Lam Mỹ Lan, 2020. Kết quả bước đầu về ứng dụng và hoàn thiện một số giải pháp kỹ thuật 5.2. Đê xuất trong tổ chức sản xuất giống và nuôi thương Sản xuất thức ăn tự nhiên như luân trùng phẩm cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) nước ngọt và Moina sạch bệnh và chi phí giảm, vùng Tây Nam Bộ: phần kỹ thuật nuôi cá. Khoa nhằm tiến đến thay thế Artemia trong quy trình Thủy sản Trường Đại học Cần Thơ. Nguyễn Thị Đang, 2011. Nghiên cứu ảnh hưởng của ương. mật độ cá và lượng ăn Artemia lên tỷ lệ sống cá Tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện quy trình tra (Pangasianodon hypophthalmus) ương từ bột giai đoạn ương từ ngày 11-21. đến hương trên bể composite. Báo cáo hết tập sự Lời cảm ơn nghiên cứu viên, 28 trang. Nghiên cứu được thực hiện trong khuôn Nguyễn Văn Sáng, Trần Hữu Phúc, Hà Thị Ngọc Nga, Nguyễn Thị Hồng Nhung, Nguyễn Huỳnh Duy, khổ đề tài KHCN tiềm năng “Hoàn thiện công Nguyễn Thế Vương, Đặng Văn Trường, 2018. nghệ ương giống cá tra, 2020-2021”. Chân Tăng trưởng và tỷ lệ sống cá tra (Pangasianodon thành cám ơn các anh, chị thuộc Viện Nghiên hypophthalmus) ương trên bể xi măng từ cá bột cứu Nuôi trồng Thủy sản II và Công ty Cổ phần đến cá ương 27 ngày tuổi. Tạp chí Nghề cá sông Cửu Long, số 12, trang 12-20. Nam Việt đã tham gia một số công việc liên Phạm Thanh Liêm, Võ Thanh Toàn và Nguyễn quan cùng nhóm nghiên cứu. Hồng Quyết Thắng, 2020. Ảnh hưởng của mật TAI LIÊU THAM KHAO độ và kích cỡ phiêu sinh vật lên tỉ lệ sống cá tra Tài liệu tiêng Viêt (Pangasianodon hypophthalmus) giai đoạn cá Âu Văn Hóa và Vũ Ngọc Út, 2018. Gây nuôi thức bột. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ. ăn tự nhiên trong ao ương cá tra (Pangasianodon 56 (Số chuyên đề: Thủy sản) (2): 12-20. hypophthalmus). Tạp chí Khoa học Trường Đại Phạm Thị Hồng, 2012. Khảo sát thành phần thức học Cần Thơ. Tập 54, Số chuyên đề: Thủy sản ăn tự nhiên trong ao ương và ống tiêu hoá cá (2018)(1): 153-160. tra (Pangasianodon hypophthalmus) giai đoạn Đinh Thị Thủy, 2017. Nghiên cứu các giải pháp kỹ từ bột lên hương. Luận văn tốt nghiệp cao học, thuật nâng cao tỉ lệ sống và chất lượng cá tra từ ngành Nuôi trồng Thuỷ sản, Khoa Thuỷ sản, Đại bột lên giống ở Đồng bằng sông Cửu Long. Báo Học Cần Thơ. cáo tổng kết, Kết quả Khoa học công nghệ đề Trần Văn Hương, Lê Văn Hậu, Vũ Thị Thanh Hương, tài. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 123 Nguyễn Quốc Bình, 2018. Báo cáo nghiệm thu trang. đề tài hoàn thiện quy trình ương cá tra giống Đỗ Thị Thanh Hương , Mai Diệu Quyên , Sjannie sạch bệnh quy mô sản xuất. Sở NN&PTNT Tp. Lefevre , Tobias Wang , Mark Bayley, 2011. Hồ Chí Minh, 33 trang. Ảnh hưởng của nitrite lên một số chỉ tiêu sinh Trương Quốc Phú, 2000. Giáo trình phân tích chất lý cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) giống. lượng nước và quản lý môi trường ao nuôi. 39 Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản lần 4: 166 – trang. 177, Trường Đại học Cần Thơ. 30 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 20 - THÁNG 9/2021
- VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II Tai liêu tiêng Anh Hecht, T., Appelbaum, S., 1988. Observations Baras, E., 1999. Sibling cannibalism among on intraspecific aggression and coeval sibling juvenile vundu under controlled conditions. I. cannibalism by larval and juvenile Clarias Cannibalistic behaviour, prey selection and prey gariepinus (Clariidae: Pisces) under controlled size selectivity. J. Fish Biol. 54, 82–105. conditions. J. Zool. Lond. 214, 21–44. Baras, E., d’Almeida, A.F., 2001. Size heterogeneity HZnninen, .M L., Oivanenb P., Hirvelg-Koski prevails over kinship in shgaping cannibalism V., 1997. Aeromonas speciesin fish, fish-eggs, among larvae of sharptooth catfish Clarias shrimp and freshwater. International Journal of gariepinus. Aquat. Living Resour. 14, 251–256. Food Microbiology 34 (1997) 17-26. Baras, E., Dustin, V., Silva del Aguila, Grace, V., Mukai, Y., 2011. Remarkably high survival rates Montalvan Naranjos, Rémi Dugué, Fred Chu under dim light conditions in sutchi catfish Koo, Fabrice Duponchelle, Jean-François Renno, Pangasianodon hypophthalmus larvae. Fisheries Carmen Garcia-Dávila and Jesus Nuñez, 2011b. Science 77: 107-111. How many meals a day to minimize cannibalism PatiA.C., BelmonteÆ G., 2003. Disinfection when rearing larvae of the Amazonian catfish efficacy on cyst viability of Artemia franciscana Pseudoplatystoma punctifer? The cannibal’s (Crustacea), Hexarthra fennica (Rotifera) and point of view.Aquat. Living Resour. 24, 379–390. Fabrea salina (Ciliophora). Marine Biology Baras, E., Raynaud, T., Slembrouck, J., Caruso, D., (2003) 142: 895–904. Cochet, C., Legendre, M., 2011a. Interactions Ruzicka, J. J., and Gallager, S. M., 2006. The between temperature and size on the growth, importance of the cost of swimming to the size heterogeneity, mortality and cannibalism in foraging behavior and ecology of larval cod cultured larvae and juveniles of the Asian catfish, (Gadus morhua) on Georges Bank. Deep Pangasianodon hypophthalmus (Sauvage). Sea Research Part II: Topical Studies in Aquaculture Research 42,p 260-276. Oceanography, 53(23), 2708-2734. Campet, M., 1997. Qualité des ovules d’un poisson Slembrouck, J., Baras, E., Subagja, J., Hung, L.T., chat élevé en cages flottantes dans le delta du Legendre, 2009. Survival, growth and food Mekong (Pangasius hypophthalmus) durant le conversion of cultured larvae of Pangasianodon processus de maturation ovocytaire. Mémoire hypophthalmus, depending on feeding level, prey DAA, ENSA-Rennes, France. density and fish density, Aquaculture 294: 52-59. Ebert, D., 2005. Ecology, Epidemiology, and Subagja, J., Slembrouck, J., Hung, T. L., Legendre, Evolution of Parasitism in Daphnia [Internet]. M., 1999. Larval rearing of an Asian catfish Bethesda (MD): National Library of Medicine Pangasius hypophthalmus (Siluroidei, (US), National Center for Biotechnology Pangasiidae): Analysis of precocious mortality Information. Available from: and proposition of appropriate treatments. Aquat. nlm.nih.gov/entrez/query.fcgi?db=Books. Living Resour. l 2 (I) p. 37-44. Hardjamulia, A., Djajadiredja, R., Atmawinata, Ut, N. Vu, Thi H. Pham, Phuoc V. Huynh, Truong G. S., Idris, D., 1981. Pembenihan jambal siam Huynh, 2020. Importance of the freshwater rotifer (Pangasius sutchi) dengan suntikan ekstraks Brachionus angularis forimproved survival rate kclenjar hipofise ikan mas (Cyprinus carpio), of early life history stages of pangasiuscatfish, Bull. Pen. Perik Darat, Bogor (Indonesia) I Pangasianodon hypophthalmus. Aquaculture (1981) 183-190. Research. 2020;00:1–10. TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 20 - THÁNG 9/2021 31
- VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II EFFECT OF THE STOCKING DENSITY, DURATION FOR ARTEMIA- FIRST FEEDING AND THE LIGHT CONDITION ON GROWTH AND SURVIVAL RATE OF STRIPED CATFISH (Pangasianodon hypophthalmus) FINGERLINGS IN CEMENT TANKS Tran Huu Phuc1*, Nguyen Van Sang1, Ha Thi Ngoc Nga1, Vo Thi Hong Tham1, 1 1 1 1 Tran Thi Mong Nghi , Nguyen Thi Dang , Pham Dang Khoa , Nguyen Huynh Duy , Nguyen Trung Ky1, Huynh Thi Bich Lien1 ABSTRACT Survival rate and Growth of striped catfish at 7 and 10-day fry in2 24m cement tanks were determined, following different levels of stocking density, duration ofartemia -first feeding and the dark/light conditions.This study determined (1) two level of stocking densities, 2.500 ind/m2 (MĐ1) and 5.000 ind/m2 (MĐ2) in the TA1 (feeding artemia in first 4 days), (2) two level of first feeding- days (TA1, feeding artemia in first fourdays, and TA2, feeding artemia in first two days) at MĐ2 and (3) the dark light condition (with and without light during the first five days) at MĐ2 and TA2. Every examination were randomly conducted in three replicates. The number and feeding level of artemia and moina, water quality management and pathogen testing were performed the same in the experimental tanks. The R software was utilized for ANOVA analysis. Survival rate was hight (71,8 – 81,6%) at the 10th nursing day and the difference was not statistically significant between all experiments, highest survival rate was at MĐ1, TA1 and CT (81,6%). Growth in terms of length and body weight at the 7th and 10th day of nursing were significantly different within the experiments of stocking density and between tanks of artemia feeding-day examination. In the experiment of MĐ1, TA1 and without light, the growth reached the highest value, with 14.9 cm in total length, and 25.3 mg in body weight at the 7th day of nursing, which trend was similar at the 10th of nursing-day, with 16.7 mm and 60.1 mg, respectively. Keywords: cement tank, striped catfish fry, body length, body weight, survival rate. Người phản biện: PGS. TS. Pham Thanh Liêm Người phản biện: TS. Nguyên Thi Ngoc Tinh Ngày nhận bài: 24/6/2021 Ngày nhận bài: 24/6/2021 Ngày thông qua phản biện: 24/7/2021 Ngày thông qua phản biện: 25/7/2021 Ngày duyệt đăng: 26/9/2021 Ngày duyệt đăng: 26/9/2021 1 Research Institute for Aquaculture No.2 * Email: tranhuuphuc30@gmail.com 32 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 20 - THÁNG 9/2021