Ảnh hưởng của quản trị lợi nhuận lên chính sách cổ tức ở Việt Nam

pdf 8 trang Gia Huy 23/05/2022 1130
Bạn đang xem tài liệu "Ảnh hưởng của quản trị lợi nhuận lên chính sách cổ tức ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfanh_huong_cua_quan_tri_loi_nhuan_len_chinh_sach_co_tuc_o_vie.pdf

Nội dung text: Ảnh hưởng của quản trị lợi nhuận lên chính sách cổ tức ở Việt Nam

  1. Nguyễn Linh Giang 335 Ảnh Hưởng Của Quản Trị Lợi Nhuận Lên Chính Sách Cổ Tức Ở Việt Nam Trường Đại học Công nghệ ThôngNguyễn tin và LinhTruyền Giang thông Việt-Hàn – Đại học Đà Nẵng nlgiang@vku.udn.vn Tóm tắt. Nghiên cứu này được thực hiện với mục đích kiểm tra mối quan hệ giữa quản trị lợi nhuận và chính sách cổ tức của các công ty niêm yết tại Việt Nam. Dữ liệu nghiên cứu được thu thập từ hai sàn giao dịch chứng khoán HNX và sàn giao dịch chứng khoán HOSE tại Việt Nam từ năm 2006 đến 2015. Trong nghiên cứu đã sử dụng mô hình hồi quy dữ liệu bảng để chạy dữ liệu với các biến độc lập là quản trị lợi nhuận được đo bằng cách sử dụng khoản trích trước bất thường và biến phụ thuộc là chính sách cổ tức được đo lường bằng các chỉ số như DPR và DY. Ngoài ra, các biến kiểm soát như đòn bẩy, Tobin's Q, tài sản, dòng tiền và tốc độ tăng trưởng doanh thu cũng được đưa vào mô hình để có kết quả chính xác hơn. Kết quả cho thấy công ty có quản lý thu nhập cao hơn sẽ giảm chi trả cổ tức. Từ khóa: quản trị lợi nhuận, chính sách cổ tức, khoản trích trước bất thường, mô hình hồi quy dữ liệu bảng. Abstract. earning management and dividend policy of listed companies in Vietnam. Research data was collected from two stock exchangesThis study of the is HNX conducted and the with HOSE the purposein Vietnam of examiningfrom 2006 tothe 2015. relationship In the study, between a panel data regression model was used to run data with the independent variable is earning management measured using discretionary accruals, and the dependent variable is the dividend policy measured by metrics like DPR and DY. In addition, control variables such as leverage, Tobin's Q, assets, cash flow and revenue growth rate are also included in the model for more accurate results. The results show that the company with higher earning management reduces its dividend payout. Keywords: Earning management, dividend policy, discretionary accruals, panel data regression model. 1 Tính cấp thiết Quản lý thu nhập là một vấn đề của nhiều nhà nghiên cứu trong thời gian gần đây. Tại Việt Nam, dường như chưa có nhà nghiên cứu nào nghiên cứu về mối quan hệ giữa quản lý thu nhập và chính sách cổ tức. Gần đây nhất, Trang Nguyễn và Bùi Kim Phương (2019) đã nghiên cứu chính sách cổ tức và chất lượng thu nhập với dữ liệu từ các doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam trong giai đoạn từ 2010 đến 2016. Tuy nhiên, việc nghiên cứu này chỉ đề cập đến một phần nhỏ của quản lý thu nhập mà không đi sâu tìm hiểu mối quan hệ giữa quản lý thu nhập và chính sách cổ tức. Mặt khác, thị trường tài chính Việt Nam trong những năm gần đây có nhiều biến động, vấn đề này bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố dẫn đến tình hình kinh tế kém thuận lợi. Đặc biệt cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung trong thời gian qua đã ảnh hưởng tiêu cực đến doanh số bán hàng của một số doanh nghiệp, chính điều này đã tác động đến yếu tố chính sách cổ tức vốn đã kém ổn định ở Việt Nam, trong đó tỷ lệ doanh nghiệp trả cổ tức có xu hướng giảm dần từ năm 2010 trở lại đây. Để thu hút các nhà đầu tư, các doanh nghiệp đã bắt đầu có những động thái trong quản lý lợi nhuận, từ đó điều chỉnh chính sách cổ tức cho phù hợp với nhu cầu của các nhà quản lý. Vì vậy, nghiên cứu ảnh hưởng của quản lý thu nhập đến chính sách cổ tức ở Việt Nam thực sự mang tính cấp thiết. Hơn nữa, các nghiên cứu trước đây về các lĩnh vực liên quan đến quản lý thu nhập và chính sách cổ tức thường được thực hiện ở các thị trường phát triển và mới nổi (chủ yếu ở châu Á như Ấn Độ, Pakistan, Trung Quốc và Thái Lan). Do đó, việc điều tra mối quan hệ này trong một môi trường thể chế và chính trị khác biệt như Việt Nam có thể cung cấp bằng chứng hỗ trợ về quản lý thu nhập và giúp tổng quát hóa kết quả. Bài nghiên cứu nhằm sẽ làm rõ mối quan hệ giữa quản trị lợi nhuận và chính sách cổ tức của các doanh nghiệp niêm
  2. 336 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA CITA 2020 “CNTT VÀ ỨNG DỤNG TRONG CÁC LĨNH VỰC” yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam, qua đó hiểu thêm về mối quan hệ giữa quản lý thu nhập và chính sách cổ tức. 2 Khái quát chung về quản trị lợi nhuận và chính sách cổ tức 2.1 Khái niệm quản trị lợi nhuận Trong lĩnh vực nghiên cứu kinh tế hiện nay, quản trị lợi nhuận đang trở thành mối quan tâm của nhiều bên liên quan bao gồm các nhà nghiên cứu, nhà quản lý và nhà đầu tư sau nhiều vụ bê bối kế toán từ các công ty lớn trên thế giới. Năm 2017, El Diri tuyên bố trong nghiên cứu của mình rằng đây là một trong những lý do cơ bản cho một loạt vụ bê bối tài chính phổ biến, gây ra mối lo ngại lớn về chất lượng thông tin tài chính. Nhìn chung, quản trị lợi nhuận có thể được thực hiện thông qua hai phương pháp chính: tính toán khoản trích trước bất thường và quản lý thu nhập thực tế (Ko-thari et al, 2005). Theo định nghĩa cơ bản, quản trị lợi nhuận là một sự can thiệp có chủ ý trong quy trình báo cáo tài chính bên ngoài, với mục đích đạt được một số lợi ích cá nhân. Đây là sự tiến triển của việc thực hiện các bước có chủ ý trong các ràng buộc của các nguyên tắc kế toán được chấp nhận chung để mang lại mức thu nhập như mong muốn trong báo cáo thu nhập (Davidson, Stickney và Weil, 1987). Quản trị lợi nhuận có nhiều điểm chung với hiệu quả thu nhập và chất lượng thu nhập được quản lý thấp. Thu nhập chất lượng cao là một chỉ số phản ánh chính xác hiệu suất hiện tại của công ty và trong tương lai và là một cách đo lường tổng quan hữu ích để xem xét và đánh giá hiệu quả kinh doanh. Đặc biệt, chất lượng thu nhập là một trong những tiêu chí phản ảnh hiệu suất cơ bản của một công ty. 2.2 Khái niệm về chính sách cổ tức Về cơ bản, cổ tức được trả cho chủ sở hữu hoặc cổ đông của doanh nghiệp ở các giai đoạn cụ thể. Điều này dựa trên thu nhập khai báo của công ty và các khuyến nghị được đưa ra bởi ban điều hành hoặc người quản lý. Do đó, nếu doanh nghiệp không tạo ra lợi nhuận, cổ tức sẽ không được công bố (Nnadi và Akpomi, 2008). Các nhà quản lý thường đưa ra quyết định nên chia bao nhiêu lợi nhuận dưới dạng cổ tức và tái đầu tư vào công ty dưới dạng thu nhập giữ lại. Mặc dù thực tế việc trả cổ tức trực tiếp mang lại lợi ích cho các cổ đông, nhưng nó ảnh hưởng đến khả năng công ty tích lũy thu nhập giữ lại để tăng trưởng doanh thu. Giá trị cổ tức được đề xuất bởi hội đồng quản trị thường mang thông tin về kỳ vọng của các nhà quản lý đối với lợi nhuận và tương lai của công ty (Moghri & Galogah, 2013). Các nhà kinh tế học trên thế giới đã thực hiện nhiều nghiên cứu chuyên sâu về mối liên hệ giữa quản trị lợi nhuận và chính sách cổ tức. Liu et al (2014) đã điều tra xem liệu người trả cổ tức có kiểm soát lợi nhuận thông qua các hoạt động thực tế để giảm tỷ lệ cổ tức và tỷ lệ chi trả cổ tức hay không. Sử dụng cơ sở dữ liệu từ Compustat của Execucomp, ông đã phát hiện ra bằng chứng rằng chính sách cổ tức ảnh hưởng đến việc tăng giảm trong quản trị lợi nhuận thực tế. Hơn nữa, Liu tuyên bố rằng những người trả tiền thao túng thu nhập thông qua các hoạt động thực tế để giảm thiểu sự thiếu hụt thu nhập được quản lý so với cổ tức của năm trước khi các khoản thu nhập này thấp hơn mức chi trả cổ tức trong năm đó. Có thể thấy rằng mức cổ tức là một chuẩn thu nhập quan trọng. Trong một nghiên cứu khác, Haider và công sự (2012) đã nghiên cứu ảnh hưởng của quản trị lợi nhuận đối với chính sách cổ tức ở Pakistan. Dữ liệu từ một số công ty niêm yết từ Sở giao dịch chứng khoán Karachi (KSE) 100 đã được thu thập để phân tích mối quan hệ này từ năm 2005 đến 2009 tại quốc gia nói trên. Chính sách cổ tức được tính theo tỷ lệ chi trả cổ tức và tỷ suất cổ tức trong khi quản trị lợi nhuận được đo lường bằng các khoản trích trước bất thường được sử dụng như một chỉ tiêu để xác định quản trị lợi nhuận. Trong đó, các khoản trích trước bất thường được đo lường theo mô hình cắt ngang được sửa đổi của Jones (1995). Bên cạnh đó, Sava Savov (2006) đã cố gắng tìm ra mối liên hệ giữa quản trị thu nhập và đầu tư cũng như tác động của chúng đối với các khoản thanh toán cổ tức trong nghiên cứu của mình. Kết quả nghiên cứu đại diện cho rằng thao túng trong quản lý và đầu tư thu nhập là mối quan hệ tích cực trong khi thanh toán cổ tức có mối tương quan nghịch với thu nhập.
  3. Nguyễn Linh Giang 337 3 Giả thuyết và mô hình nghiên cứu 3.1 Phát triển giả thuyết Theo Ambarish et al. (1987), tăng cường quản trị doanh nghiệp có thể dẫn đến việc giảm thiểu khả năng quản trị lợi nhuận trong doanh nghiệp. Tuy nhiên, đôi khi quản trị lợi nhuận được yêu cầu để duy trì chỉ số DPR của công ty vì nó được coi là dấu hiệu của cơ hội tăng trưởng sắp tới cho công ty này trên thị trường. Điều tối quan trọng là quyết định về chính sách cổ tức đối với khối lượng và mức độ định kỳ được ước tính liên quan đến tất cả các phí bảo hiểm được áp dụng phù hợp với thị trường vốn về cổ tức (Lie và Li, 2005). Savov và cộng sự (2006) đã loại bỏ giả định này và ủng hộ rằng việc tăng cổ tức được coi là phần thưởng cho việc chi trả cho chủ sở hữu. Ngoài ra, các nhà quản lý không bắt buộc phải hoàn thành thu nhập đã nêu để đại diện cho giá trị cao hơn của công ty vì việc chi trả cổ tức cũng có thể bị ảnh hưởng bởi một số khía cạnh. Do đó, từ các nghiên cứu trước đây, nó cho thấy mối tương quan trực tiếp giữa quản trị lợi nhuận và chi trả cổ tức. Liên quan đến một số nghiên cứu trước đây, Ahmad et al (2009) đã phân tích mối quan hệ giữa quản trị lợi nhuận và chính sách cổ tức. Họ đã áp dụng mô hình của Lintner (1956) về cổ tức và phân tích hồi quy tuyến tính với dữ liệu bảng. Thu nhập trên mỗi cổ phần, đòn bẩy và chính sách đầu tư, quy mô doanh nghiệp cũng như vốn hóa thị trường là các biến kiểm soát được sử dụng trong nghiên cứu. Kết quả cho rằng sự phụ thuộc vào thanh toán cổ tức dựa trên thu nhập hiện tại và cổ tức trong quá khứ. Các công ty có quản lý thu nhập cao và hiệu quả có xu hướng trả cổ tức cao hơn bởi vì các công ty này có thể chi trả dòng tiền cao hơn. Bên cạnh đó, nghiên cứu của Mo-hammad (2019) đã đóng góp cho tài liệu nghiên cứu bằng cách điều tra mối liên hệ giữa chính sách cổ tức và cả quản lý thu nhập thực tế và tích lũy trong bối cảnh đất nước mới nổi như Jordan. Nghiên cứu này cung cấp bằng chứng hỗ trợ cho bài báo của ông rằng chính sách cổ tức có liên quan đến quản lý thu nhập dựa trên cơ sở dồn tích. Điều này hỗ trợ các nhà quản lý có khả năng thực hiện quản trị lợi nhuận và hành vi cơ hội để tăng thu nhập giữ lại từ đó trả cổ tức, vì áp lực đối với việc duy trì tính nhất quán trong việc chi trả cổ tức ngay cả khi phải đối mặt với thu nhập hoặc lợi nhuận giảm. Đối lập với các nghiên cứu chứng minh mối tương quan tích cực của quản trị lợi nhuận và chính sách cổ tức, một số tác giả cho rằng sự gia tăng các hành vi nhằm quản trị lợi nhuận có thể có tác động tiêu cực cũng như giảm tỷ lệ chi trả cổ tức và ngược lại. Một trong những nghiên cứu điển hình về vấn đề này là công trình của Haider et al, 2012. Ông đã tìm hiểu về ảnh hưởng của thu nhập đối với chính sách cổ tức và phân tích được thực hiện trên các công ty niêm yết của Pakistan. Phân tích hồi quy, phân tích mô tả và phương pháp cắt ngang sửa đổi đã được sử dụng. Trong nghiên cứu này, một trong năm biến là tỷ lệ chi trả cổ tức đã được sử dụng làm biến phụ thuộc và bốn biến khác là: DA, SFR, ROE và quy mô doanh nghiệp làm biến kiểm soát trong khi biến độc lập là quản trị lợi nhuận. Người ta đã phát hiện ra rằng mối tương quan tồn tại giữa cả hai biến nhưng hệ số cho thấy mối quan hệ thiếu liên kết tương đương với không có mối liên hệ nào. Đồng ý với Haider, Aurangzeb và Dilawer (2012) đã điều tra tác động của quản trị lợi nhuận đối với chính sách cổ tức trong các công ty công nghiệp in của Pakistan trong những năm 1966-2008. Kết quả nghiên cứu đã thể hiện đó là mối quan hệ tiêu cực giữa quản trị lợi nhuận và chính sách cổ tức. Ngoài ra, kết quả đã chứng minh rằng mối tương quan của biến kiểm soát liên quan đến lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu và chính sách cổ tức là tiêu cực và có ý nghĩa nhưng nhà nghiên cứu đã không quan sát thấy mối quan hệ đáng chú ý giữa biến kiểm soát quy mô doanh nghiệp và cổ tức trên mỗi cổ phiếu.Thông qua các bằng chứng trên, có thể đưa ra một giả thuyết như sau: => H0: Quản trị lợi nhuận có ảnh hưởng tích cực đến thanh toán cổ tức. 3.2 Mô hình nghiên cứu: Qua quá trình nghiên cứu và tham khảo các tài liệu về tác động của quản trị lợi nhuận đến chính sách cổ tức, một số phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong bài viết này. Hồi quy dữ liệu bảng (Panel data regression)
  4. 338 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA CITA 2020 “CNTT VÀ ỨNG DỤNG TRONG CÁC LĨNH VỰC” Hồi quy dữ liệu bảng (còn được gọi là dữ liệu chuỗi thời gian dọc hoặc cắt ngang) là một tập dữ liệu trong đó hành vi của các thực thể được quan sát theo thời gian. Nó liên quan đến các mô hình như Pooled OLS, FEM (mô hình hiệu ứng cố định) và REM (mô hình hiệu ứng ngẫu nhiên). Trong các kỹ thuật này, sử dụng mô hình hiệu ứng cố định với các biến giả để làm rõ tác động của việc quản trị lợi nhuận đối với chính sách cổ tức với dữ liệu thu thập được. Mô hình hiệu ứng cố định (FEM) Mô hình hiệu ứng cố định là một kỹ thuật ước lượng được sử dụng trong hồi quy dữ liệu bảng cho phép người ta kiểm soát các đặc điểm riêng lẻ không được quan sát theo thời gian có thể tương quan với các biến độc lập được quan sát. Trong bài viết này, có thể áp dụng phương pháp hiệu ứng cố định thông qua việc sử dụng các biến giả. Mô hình nghiên cứu: Sau khi tham khảo và nghiên cứu mô hình hiệu ứng cố định, có thể đề xuất mô hình hồi quy đa biến với hồi quy dữ liệu bảng: DIVi,t = 0 + 1×EMi,t + 2×CONTROLi,t-1 + γnDn + δt + t Trong đó: - DIVi, t = Cổ tức là biến phụ thuộc trong đó i = thực thể, t = thời gian. - EMi, t = Quản trị lợi nhuận là biến độc lập (IV) - CONTROLi, t-1 = Biến kiểm soát - k = là hệ số tương quan cho IV - γn là hệ số cho các biến giả - Dn là biến giả - δt là hệ số cho các biến hồi quy thời gian giả - t là sai số 3.3 Xây dựng biến 4 Phương pháp nghiên cứu Phương pháp thu thập thông tin: dựa trên báo cáo tài chính đã được kiểm toán của các công ty. Phương pháp xử lý và phân tích thông tin: dựa trên dữ liệu thu thập được và các nghiên cứu thực nghiệm trước đó, tác giả xác định các biến chính và biến kiểm soát phù hợp, từ đó sử dụng phương pháp định lượng để phân tích và trả lời các câu hỏi nghiên cứu.
  5. Nguyễn Linh Giang 339 Các mô hình được sử dụng trong bài báo này bao gồm mô hình hồi quy tuyến tính, mô hình hiệu ứng cố định. Ngoài ra, để đo lường biến độc lập của quản lý thu nhập, tác giả sử dụng mô hình Jones đã sửa đổi (1995). Mẫu bao gồm 361 công ty niêm yết trên HNX và 306 công ty trên HOSE. Tổng số quan sát công ty là 6.610 quan sát. Nghiên cứu thống kê mô tả trong bài báo này bao gồm các biến phụ thuộc (chính sách cổ tức), biến độc lập (quản trị lợi nhuận) và biến kiểm soát của các doanh nghiệp trong giai đoạn 2006 - 2015. 5 Kết quả 5.1 Thống kê mô tả Bảng 1 cho thấy biến chi trả cổ tức có giá trị trung bình là 0,49 (giá trị lớn nhất là 1), có nghĩa là gần một nửa số công ty được khảo sát lo ngại về chính sách cổ tức phân phối cho cổ đông. Đặc biệt, các công ty trả cổ tức bằng khoảng 40% thu nhập trên mỗi cổ phiếu (DPR). Tuy nhiên, biến quản trị lợi nhuận có giá trị trung bình chỉ ở mức 0,15 (giá trị lớn nhất là 1) cho thấy không có nhiều doanh nghiệp sử dụng tác động đến báo cáo thu nhập trong kỳ khảo sát.
  6. 340 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA CITA 2020 “CNTT VÀ ỨNG DỤNG TRONG CÁC LĨNH VỰC” Bảng 2 liệt kê các đặc điểm của nhóm công ty trả cổ tức và không trả cổ tức dựa trên các tiêu chí nhất định trong nhóm biến kiểm soát. Kết quả kiểm định sự khác biệt giữa hai nhóm doanh nghiệp cho thấy những công ty có chính sách cổ tức có lợi cho cổ đông thường có chỉ số hoạt động tốt hơn trên thị trường chứng khoán (tobin's q), chủ yếu sử dụng tài sản và đòn bẩy hiệu quả. Ngược lại, những doanh nghiệp không tập trung trả cổ tức có dòng tiền tốt hơn và tăng trưởng doanh thu cao. Sự khác biệt về giá trị được tính bằng phép thử t với khoảng tin cậy là 95%. Các ký hiệu , và * cho biết mức độ quan trọng tương ứng ở các mức 1%, 5% và 10%. Bảng 3 cho thấy các công ty có quản trị lợi nhuận cao cũng có nghĩa là Tobin’s q cao hơn. Mặt khác, bằng cách giảm thiểu việc thao túng lợi nhuận trong quản lý, một số doanh nghiệp duy trì tài sản tốt hơn khi kinh doanh. Thay vào đó, tỷ lệ đòn bẩy của họ trung bình tốt hơn các doanh nghiệp quan tâm đến quản trị lợi nhuận. Sự khác biệt về giá trị trung bình được tính toán bằng phép thử T với khoảng tin cậy là 95%. Các ký hiệu , và * cho biết mức độ quan trọng tương ứng ở các mức 1%, 5% và 10%.
  7. Nguyễn Linh Giang 341 Để kiểm tra tính bền vững của kết quả, nghiên cứu đã áp dụng mô hình hiệu ứng cố định. Như bảng 4 đã chỉ ra, không có sự khác biệt đáng kể với các kết quả của mô hình hồi quy tuyến tính. Quản trị lợi nhuận có ảnh hưởng tiêu cực đến chính sách cổ tức khi các doanh nghiệp có xu hướng kiểm soát, làm sai lệch mục tiêu lợi nhuận, mục đích nhằm tăng giá cổ phiếu trên thị trường trong khi không chú trọng cải thiện chính sách cổ tức của công ty. Như vậy có thể nói rằng kết quả từ mô hình hiệu ứng cố định bác bỏ giả thuyết H0. Bảng 5 cho thấy mối tương quan giữa các cặp biến trong nghiên cứu. Như có thể thấy từ bảng trên, quản trị lợi nhuận có tương quan nghịch với DPR (tại -0,01). Ngoài ra, dòng tiền, chỉ số tobin’s Q và tốc độ tăng trưởng doanh thu cũng có tương quan nghịch với các biến DPR. Mặt khác, biến tobin's q và tài sản có mối tương quan nghịch với biến độc lập là quản trị lợi nhuận. Từ kết quả, có thể dễ dàng nhận thấy rằng không có cặp biến nào có giá trị lớn hơn 80% hoặc thấp hơn -80%. Do đó, có thể kết luận rằng không có hiện tượng đa cộng tuyến nào xảy ra giữa các biến trong quá trình nghiên cứu. 5.2 Hàm ý chính sách Qua nghiên cứu này có thể đề xuất một số hàm ý chính sách đối với các nhà đầu tư và đặc biệt là các doanh nghiệp khi giải quyết các vấn đề liên quan đến quản trị lợi nhuận và chính sách cổ tức: Thứ nhất, các nhà quản lý cần tập trung xem xét kỹ vấn đề quản trị lợi nhuận, không để hiện tượng can thiệp, thao túng lợi nhuận doanh nghiệp gây ảnh hưởng xấu đến cổ đông và nhà đầu tư. Đặc biệt cần phân bổ hợp lý lợi nhuận để lại trong hoạt động kinh doanh và thanh toán cổ tức. Thứ hai, doanh nghiệp cần tập trung vào việc cải thiện tác động tích cực của việc tạo ra lợi nhuận bằng cách quản lý hiệu quả các khoản trích trước bất thường. Thứ ba, các doanh nghiệp cần xây dựng chính sách cổ tức hiệu quả và mang lại lợi ích cho cổ đông. Từ đó có thể cải thiện giá cổ phiếu trên thị trường để thu hút các nhà đầu tư. Chính sách này phần nào làm giảm tác động tiêu cực của quản trị lợi nhuận đối với chính sách cổ tức của các công ty tại Việt Nam. Cuối cùng, các công ty trả cổ tức cần giảm mức độ quản trị lợi nhuận của họ ngay cả khi họ có chính sách chi trả cổ tức cao. Sự cắt giảm này cũng có thể là do các công ty quan tâm đến việc thanh toán vốn chủ sở hữu, đây có thể được coi là một hình thức giảm thiểu xung đột đại lý, ngay cả trong bối cảnh các thị trường mới nổi, với mức độ bảo vệ nhà đầu tư thấp hơn các thị trường phát triển khác. Do đó, những khía cạnh này có thể mang lại lợi ích cho các cổ đông bằng cách thúc đẩy chất lượng thông tin kế toán tốt hơn để hỗ trợ các quyết định đầu tư của họ.
  8. 342 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA CITA 2020 “CNTT VÀ ỨNG DỤNG TRONG CÁC LĨNH VỰC” 6 Kết luận Tóm lại, bài nghiên cứu này tìm hiểu mối tương quan giữa quản lý thu nhập và chính sách cổ tức của các doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam trong một khoảng thời gian nhất định từ 2006 đến 2015. Kết quả từ nghiên cứu đã chỉ ra rằng quản lý thu nhập có ảnh hưởng tiêu cực đến chính sách cổ tức. Kết quả từ nghiên cứu sẽ hữu ích cho các nhà đầu tư có thể sử dụng chúng để đưa ra quyết định đầu tư. Khi các nhà đầu tư có thêm thông tin về các doanh nghiệp niêm yết, họ có thể tự tin và quyết định đầu tư vào thị trường. Hơn nữa, kết quả từ nghiên cứu sẽ rất hữu ích cho các cơ quan chức năng, các công ty, doanh nghiệp tại Việt Nam hoặc các doanh nghiệp nước ngoài muốn nghiên cứu và đầu tư vào thị trường Việt Nam. Đặc biệt, các cơ quan, ban ngành có thể sử dụng dữ liệu từ nghiên cứu để xây dựng và thực hiện các chính sách phù hợp nhằm giám sát và kiểm soát các doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam, nhằm hạn chế các doanh nghiệp quản lý thu nhập cao, xây dựng được uy tín tốt hơn và cuối cùng là sự tăng trưởng bền vững của thị trường. Tài liệu tham khảo 1. Ambarish et al.,(1987). Efficient signaling with dividends and investments. Journal of Fi-nance, pp. 321-343. 2. Ahmad et al (2009). N. Board Independence, Ownership Structure, Audit Quality and In- come Smoothing Activities: A Study on Malaysian Market. Journal of Modern Account-ing and Auditing, 5(11), pp.1-13. 3. Aurangzeb and Dilawer (2012). Earnings Management and Dividend Policy: Evidence from Pakistani Textile Industry. International Journal of Academic Research in Business and Social Science, Vol. 2, No. 10, pp.362- 372. 4. Davidson, S., Stickney, C. and Weil, R. (1987) Accounting: The Language of Business, 7th ed., Thomas Horton and Daughter, Arizona, in Schipper (1989). 5. El diri (2017). Introduction to Earnings Management. 6. Haider. J, Ali. A & Sadiq. T. (2012). Earning management and dividend policy: empirical evidence from Pakistani listed companies, “European Journal of Business and Manage-ment”, Vol. 4 (12), pp. 2222-1905. 7. H. Kent Baker and Gary E. Powell (1999). Quarterly Journal of Business and Economics, Vol. 38, No. 2, pp. 17-35. 8. Kothari, S. P., Leone, A., & Wasley, C. E. (2005). Performance matched discretionary ac-crual measures. Journal of Accounting and Economics, 39(1), pp 163-197. 9. Liu, N. and Espahbodi, R. (2014), “Does dividend policy drive earnings smooth-ing?”,AccountingHorizons, Vol. 28 No. 3, pp. 501-528. 10. Lintner, J. (1956) Distribution of Incomes of Corporations among Dividends, Retained Earnings, and Taxes. The American Economic Review, 2, 97-113. 11. Merton Miller and Franco Modigliani (1961). Dividend Policy, Growth, and the Valuation of Shares, The Journal of Business, vol. 34, pp. 411. 12. Mohammad Aladwan (2019). Accrual Based And Real Earning Management Association With Dividends Policy “The Case Of Jordan”. Italian Journal Of Pure And Applied Math-ematics, pp. 691–707. 13. Nnadi A &Akpomi, M (2008). The effect of taxes on dividend policy of banks in Nigeria. International Resource Journal of Financial Economic,19, pp. 48-55. 14. Savov, S. (2006). Earnings Management Investment, and Dividend Payments. Working paper university of Mannheim. 15. Trang et al., (2019). "Dividend policy and earnings quality in Vietnam", Journal of Asian Business and Economic Studies, Vol. 26 No. 2, pp. 301-312.