Bài giảng Thống kê kinh tế - Nguyễn Thị Mai Hương

pdf 177 trang Gia Huy 19/05/2022 1460
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Thống kê kinh tế - Nguyễn Thị Mai Hương", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfbai_giang_thong_ke_kinh_te_nguyen_thi_mai_huong.pdf

Nội dung text: Bài giảng Thống kê kinh tế - Nguyễn Thị Mai Hương

  1. THS. NGUYỄN THỊ MAI HƯƠNG THS. VÕ THỊ HẢI HIỀN THèNG K£ KINH TÕ TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP - 2017
  2. THS. NGUYỄN THỊ MAI HƯƠNG, THS. VÕ THỊ HẢI HIỀN BÀI GIẢNG THỐNG KÊ KINH TẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP - 2017 1
  3. LỜI NÓI ĐẦU Thống kê kinh tế là một trong những bộ phận quan trọng nhất, cấu thành khoa học thống kê, đồng thời cũng là một trong các hoạt động chính của cơ quan thống kê quốc gia với chức năng đảm bảo thông tin cho các cơ quan nhà nước, các tổ chức và doanh nghiệp cũng như toàn xã hội. Môn Thống kê kinh tế là môn học trong khung chương trình đào tạo ngành kế toán và các ngành kinh tế khác của trường Đại học Lâm Nghiệp. Nhằm trang bị cho sinh viên những kiến thức và kỹ năng cơ bản về thống kê kinh tế trong nền kinh tế. Kết cấu bài giảng gồm 5 chương nhằm phục vụ công tác giảng dạy cho sinh viên chuyên ngành kế toán và một số ngành kinh tế khác thuộc hệ đào tạo của trường Đại học Lâm Nghiệp. Bài giảng Thống kê kinh tế do tập thể tác giả Bộ môn Tài chính kế toán, biên soạn bao gồm: - Thạc sỹ Nguyễn Thị Mai Hương biên soạn chương 2, chương 3; - Thạc sỹ Võ Thị Hải Hiền biên soạn chương 1, chương 4 và chương 5; Trong quá trình biên soạn, tập thể tác giả đã cố gắng kết hợp cơ sở lý luận gắn liền với thực tiễn để đảm bảo tính thời sự và khoa học.Tuy nhiên không tránh khỏi những hạn chế còn gặp phải. Do vậy, tập thể tác giả kính mong nhận được sự đóng góp ý kiến của bạn đọc để lần xuất bản tới Bài giảng được hoàn thiện hơn. Nhóm tác giả 3
  4. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BHXH Bảo hiểm xã hội CCQD Của cải quốc dân CPI Chỉ số giá tiêu dùng CPSX Chi phí sản xuất DT Doanh thu ĐVT Đơn vị tính GDP Tổng sản phẩm trong nước GO Giá trị sản xuất IC Chi phí trung gian ICOR Hệ số sinh lời vốn đầu tư ISIC Hệ thống ngành kinh tế tiêu chuẩn quốc tế KTQD Kinh tế quốc dân KTXH Kinh tế xã hội KVTC Khu vực thể chế SNA Hệ thống tài khoản quốc gia TDCC Tiêu dùng cuối cùng TDTG Tiêu dùng trung gian TSCĐ Tài sản cố định TSLĐ Tài sản lưu động VA Giá trị gia tăng VAT Thuế giá trị gia tăng VĐT Vốn đầu tư VSIS Hệ thống ngành kinh tế Việt Nam 4
  5. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA THỐNG KÊ KINH TẾ 1.1. Những vấn đề chung về thống kê kinh tế 1.1.1.Vị trí, vai trò của thống kê kinh tế 1.1.1.1.Vị trí của thống kê kinh tế Sản xuất xã hội phát triển không ngừng theo sự phát triển của xã hội loài người. Sản xuất càng phát triển thì sự phân công lao động xã hội càng cao, sự hợp tác và liên kết trong sản xuất càng mở rộng. Sự hợp tác và liên kết trong sản xuất không chỉ diễn ra giữa các đơn vị kinh tế, các ngành, các địa phương trong nước mà còn mở rộng ra phạm vi thế giới theo các phương thức khác nhau.Trong bối cảnh đó, sự can thiệp và điều tiết của Nhà nước là hết sức quan trọng và cần thiết, nhất là trên bình diện vĩ mô. Muốn quản lý và điều tiết của nhà nước nền xã hội, nhất là trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước cần nắm vững được những thông tin kinh tế cần thiết. Vì thế, thống kê kinh tế - với tư cách là công cụ để nhận thức và quản lý quá trình sản xuất nói riêng, quản lý kinh tế nói chung, đã ra đời khá sớm và không ngừng phát triển. Thống kê kinh tế ra đời và phát triển theo sự phát triển của xã hội. Trong các chế độ nô lệ, phong kiến, thống kê kinh tế chỉ mới tiến hành thống kê các chỉ tiêu hiện vật, đơn giản. Thống kê kinh tế phát triển nhanh, phong phú cả về quy mô tổ chức cũng như phương pháp luận và hệ thống chỉ tiêu trong các nước xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa. Hệ thống thống kê kinh tế xã hội chủ nghĩa đã phục vụ đắc lực cho công tác kế hoạch hoá, cho quản lý trong một thời gian dài và đã đạt những thành tựu đáng kể. Tuy vậy, có rất nhiều hạn chế, chủ yếu tính các chỉ tiêu kinh tế trong lĩnh vực sản xuất vật chất, nặng nề về hình thái hiện vật, có nhiều khó khăn trong so sánh quốc tế. Hệ thống thống kê kinh tế theo cơ chế thị trường phát triển đa dạng, xâm nhập vào mọi lĩnh vực hoạt động của nền kinh tế, quan tâm cả hình thái hiện vật lẫn giá trị. Trong điều kiện mở rộng giao lưu hợp tác kinh tế quốc tế, đưa Việt Nam hoà nhập vào kinh tế thế giới và khu vực, việc nghiên cứu hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu và phương pháp luận tính các chỉ tiêu thống kê kinh tế theo hướng so sánh được với thống kê nước ngoài và quốc tế là nhiệm vụ hết sức cần thiết và cấp bách, góp phần đưa trình độ thống kê Việt Nam dần tiến 5
  6. kịp trình độ thống kê thế giới và khu vực. Thống kê kinh tế (theo nghĩa rộng) có nhiều bộ phận (ngành). Một bộ phận đi sâu nghiên cứu các hiện tượng kinh tế - xã hội diễn ra trong phạm vi doanh nghiệp gọi là Thống kê kinh tế vi mô (thống kê doanh nghiệp).Bộ phận khác nghiên cứu hiện tượng chung của nền kinh tế, phục vụ quản lý nền kinh tế trên bình diện vĩ mô. Đó là thống kê kinh tế vĩ mô (thống kê kinh tế). Thống kê kinh tế vi mô và Thống kê kinh tế vĩ mô có quan hệ chặt chẽ với nhau, thúc đẩy nhau phát triển. 1.1.1.2. Vai trò của thông tin kinh tế, xã hội trong nền kinh tế Trong hệ thống thông tin phục vụ quản lý, thông tin thống kê nói chung, thông tin thống kê kinh tế nói riêng (thông tin về nguồn lực của nền kinh tế, thị trường,liên doanh, liên kết, kết quả hoạt động sản xuất, hiệu quả sản xuất kinh doanh của nền kinh tế) giữ vị trí quan trọng. Thống kê nói chung thống kê kinh tế nói riêng, như Lê Nin nói, là một trong những công cụ sắc bén nhất, hùng mạnh nhất để nhận thức hiện tượng kinh tế - xã hội. Chúng cung cấp những thông tin cần thiết, kịp thời, chính xác để quản lý kinh tế, quản lý xã hội, quản lý nhà nước. Những thông tin này nêu rõ nguyên nhân ảnh hưởng đến tình hình kinh tế - xã hội, phản ánh mối quan hệ giữa các hiện tượng, khả năng tiềm tàng của nền kinh tế. Chúng cung cấp những thông tin về sự phát triển kinh tế - xã hội trong tương lai (dự đoán ngắn hạn) của đất nước trong mối liên hệ với thế giới bên ngoài. Đó là những thông tin cực kỳ cần thiết cho lãnh đạo và chỉ đạo nền kinh tế, làm căn cứ cho hoạch định chính sách phát triển kinh tế-xã hội. Chính vì vậy, tất cả các quốc gia, các tổ chức quốc tế đều có cơ quan thống kê riêng của mình. Trong cơ chế thị trường, yêu cầu thông tin nhanh, chính xác lại càng quan trọng đối với quản lý sản xuất- kinh doanh ở tầm vi mô cũng như ở tầm vĩ mô. Đặc biệt, tổ chức và quản lý kinh tế ở tầm vĩ mô đòi hỏi những thông tin kinh tế- xã hội tổng hợp, thu được từ nhiều nguồn khác nhau phục vụ hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô. Chính vì vậy, thống kê kinh tế - một bộ phận của khoa học thống kê ngày càng trở nên cần thiết, quan trọng trong nền kinh tế thị trường. 6
  7. 1.1.2. Đối tượng nghiên cứu của thống kê kinh tế Thống kê kinh tế là một bộ phận của thống kê học - một môn khoa học xã hội, tồn tại trong mối liên hệ hữu cơ với các bộ phận khác. Nó vừa giống vừa khác với bộ phận khác. Điều đó được thể hiện trước hết ở đối tượng và phương pháp nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu của Thống kê kinh tế là mặt lượng trong mối liên hệ mật thiết với mặt chất của các hiện tượng kinh tế - xã hội số lớn diễn ra trong toàn bộ quá trình tái sản xuất xã hội, trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân, trong điều kiện thời gian và địa điểm cụ thể. Đặc trưng của thống kê kinh tế là nghiên cứu mặt lượng. Nhưng mặt lượng và mặt chất của các hiện tượng kinh tế không tách rời nhau, trái lại giữa chúng có mối liên hệ biện chứng với nhau.Thống kê kinh tế nghiên cứu mặt lượng và thông qua mặt lượng (khối lượng, quy mô, tốc độ phát triển, quan hệ tỷ lệ ) của các hiện tượng kinh tế mà nêu lên bản chất và tính quy luật của hiện tượng nghiên cứu. Nói Thống kê kinh tế nghiên cứu mặt lượng trong sự liên hệ mật thiết với mặt chất có nghĩa là nghiên cứu các quy luật số lượng, không nghiên cứu mặt chất, cũng không nghiên cứu mặt lượng một cách tách biệt, mà dùng con số, số lượng để biểu hiện bản chất và tính quy luật của hiện tượng. Điều đó cũng có nghĩa là con số thống kê kinh tế là con số có nội dung kinh tế cụ thể, được xác định bởi nội dung kinh tế đó. Do đó, con số của thống kê kinh tế bao giờ cũng chứa đựng nội dung kinh tế - xã hội cụ thể, rõ ràng và bao giờ cũng có đơn vị tính phù hợp. Để tạo ra các con số của thống kê kinh tế, các nhà thống kê cần hiểu rõ nội dung kinh tế của con số cần xác định. Để sử dụng có hiệu quả con số thống kê, các nhà kinh doanh và quản trị cần hiểu đúng con số thống kê kinh tế xét về mặt nội dung kinh tế của nó. Đây là điểm khác biệt giữa thống kê nói chung và các khoa học khác. Quán triệt điều này để tránh việc biến hoạt động thống kê thành trò chơi con số và tạo ra các con số chính xác của một khối lượng không chính xác. Điều đáng chú ý là thống kê kinh tế phải nghiên cứu số lớn các hiện tượng để những nhân tố không bản chất được bù trừ và triệt tiêu, mặt bản chất của hiện tượng mới được thể hiện rõ nét, tính quy luật của hiện tượng mới được khẳng định. Như vậy, thống kê kinh tế nghiên cứu hiện tượng số lớn, không nghiên cứu hiện tượng cá biệt, bỏ qua các hiện tượng cá biệt, đặc thù mà có nghĩa là thống 7
  8. kê kinh tế chủ yếu nghiên cứu các hiện tượng số lớn. Thống kê kinh tế nghiên cứu mặt lượng trong mối liên hệ mật thiết với mặt chất của số lớn các hiên tượng kinh tế - xã hội. Điều này có nghĩa là thống kê kinh tế chỉ nghiên cứu hiện tượng tự nhiên và kỹ thuật. Nó chỉ nghiên cứu ảnh hưởng của các hiện tượng tự nhiên và kỹ thuật đến hiện tượng kinh tế - xã hội. 1.1.3. Một số khái niệm cơ bản 1.1.3.1. Tổng thể thống kê và đơn vị tổng thể Tổng thể thống kê là tập hợp các đơn vị (hay phần tử)thuộc hiện tượng nghiên cứu, cần quan sát, thu thập và phân tích mặt lượng của chúng theo một hoặc một số tiêu thức nào đó. Các đơn vị này gọi là đơn vị tổng thể, như vậy thực chất việc xác định tổng thể là xác định các đơn vị tổng thể. Ví dụ tổng thể dân số Việt Nam, đơn vị tổng thể là mỗi công dân Việt Nam; tổng thể các doanh nghiệp công nghiệp của Hà Nội, đơn vị tổng thể là từng doanh nghiệp sản xuất công nghiệp thường trú của Hà Nội tại một thời điểm xác định nào đó. Trường hợp các đơn vị cấu thành tổng thể có thể thấy được bằng trực quan gọi là tổng thể bộc lộ.Ví dụ số lượng sinh viên K61 Kế toán, dân số của huyện Chương Mỹ Trường hợp các đơn vị cấu thành tổng thể không thể thấy được bằng trực quan gọi là tổng thể tiềm ẩn.Ví dụ số lượng người yêu thích bóng đá Tổng thể bao gồm những đơn vị giống nhau ở một số đặc điểm chủ yếu liên quan đến mục đích nghiên cứu gọi là tổng thể đồng chất, ngược lại gọi là tổng thể không đồng chất. Tổng thể bao gồm tất cả các đơn vị thuộc phạm vi nghiên cứu gọi là tổng thể chung, chỉ bao gồm một bộ phận gọi là tổng thể bộ phận, tổng thể bao gồm một số đơn vị được chọn ra theo phương pháp lấy mẫu gọi là tổng thể mẫu.Tổng thể cũng có thể là hữu hạn, có thể là vô hạn, ví dụ tổng thể trẻ em sơ sinh, tổng thể khách hàng đã sử dụng sản phẩm của nhà máy Vì vậy khi xác định tổng thể thống kê không chỉ giới hạn về thực thể (tổng thể gì) mà còn phải giới hạn về không gian và thời gian. 1.1.3.2. Tiêu thức thống kê Tiêu thức thống kê là khái niệm dùng để chỉ các đặc điểm của đơn vị tổng thể.Ví dụ khi nghiên cứu dân số theo các tiêu thức giới tính, tuổi,khi nghiên cứu 8
  9. doanh nghiệp theo các tiêu thức vốn, lao động Theo đặc điểm tồn tại của hiện tượng tiêu thức thống kê chia thành hai loại: tiêu thức thời gian và tiêu thức không gian, nó phản ánh hiện tượng tồn tại bao giờ và ở đâu (của ai). Theo thực thể tức bản chất của hiện tượng, tiêu thức thống kê chia thành hai loại: tiêu thức thuộc tính và tiêu thức số lượng. Tiêu thức thuộc tính là tiêu thức phản ánh tính chất hay loại hình của đơn vị tổng thể, không biểu hiện trực tiếp bằng con số, ví dụ tiêu thức giới tính, nghề nghiệp Tiêu thức thuộc tính có thể biểu hiện trực tiếp (nam, nữ) hay gián tiếp (nhân cách ) Tiêu thức số lượng là tiêu thức biểu hiện trực tiếp bằng con số, ví dụ tuổi, chiều cao, sản lượng Các trị số cụ thể khác nhau của tiêu thức số lượng gọi là lượng biến.Ví dụ tuổi là tiêu thức số lượng,nhưng tuổi không phải là lượng biến, lượng biến là 15 tuổi, 20 tuổi Lượng biến có thể phân thành hai loại: lượng biến rời rạc và lượng biến liên tục. Lượng biến rời rạc là lượng biến mà các giá trị của nó có thể là hữu hạn hay vô hạn và có thể đếm được bằng số nguyên, ví dụ số lượng sinh viên nghỉ học, số vụ khủng bố Lượng biến liên tục là lượng biến mà các giá trị của nó có thể lấp kín cả một khoảng trên trục số, ví dụ trọng lượng, chiều cao của người, năng suất lao động Tiêu thức thực thể khi chỉ có hai biểu hiện không trùng nhau gọi là tiêu thức thay phiên, ví dụ giới tính nam, nữ. Tiêu thức giúp xác định rõ từng đơn vị tổng thể cũng như tổng thể thống kê, nhờ đó có thể phân biệt đơn vị này với đơn vị khác, tổng thể này với tổng thể khác. 1.1.3.3. Chỉ tiêu thống kê Chỉ tiêu thống kê phản ánh lượng gắn với chất của các mặt, các tính chất cơ bản của hiện tượng số lớn trong thời gian và địa điểm cụ thể. Chỉ tiêu thống kê có hai mặt khái niệm và mức độ. Khái niệm có nội dung là định nghĩa và giới hạn về thuộc tính, thời gian và không gian. Mức độ phản ánh quy mô, cường độ của hiện tượng và được đo bằng các thang đo khác nhau. Chỉ tiêu thống kê thường mang tính tổng hợp, phản ánh mặt lượng của nhiều đơn vị, nhiều hiện tượng cá biệt. Căn cứ theo các tiêu thức khác nhau để phân loại thì chỉ tiêu thống kê có 9
  10. thể được phân thành các loại khác nhau. Theo nội dung có thể chia các chỉ tiêu thành hai loại chỉ tiêu khối lượng và chỉ tiêu chất lượng. Chỉ tiêu khối lượng là các chỉ tiêu biểu hiện quy mô của tổng thể, ví dụ doanh thu lợi nhuận, dân số, lao động. Chỉ tiêu chất lượng là các chỉ tiêu biểu hiện tính chất, trình độ phổ biến, mối quan hệ so sánh của tổng thể, ví dụ giá thành biểu hiện quan hệ so sánh giữa tổng chi phí sản xuất với số lượng sản phẩm, đồng thời phản ánh trình độ phổ biến về mức chi phí cho một đơn vị sản phẩm đã được sản xuất ra. Chỉ tiêu chất lượng mang ý nghĩa phân tích, trị số của nó được xác định chủ yếu từ việc so sánh giữa các chỉ tiêu khối lượng. Theo đặc điểm về thời gian có chỉ tiêu thời điểm và chỉ tiêu thời kỳ. Chỉ tiêu thời điểm phản ánh quy mô của hiện tượng nghiên cứu tại một thời điểm. Chỉ tiêu thời kỳ phản ánh quy mô của hiện tượng nghiên cứu trong một thời kỳ nhất định. Theo hình thức biểu hiện (đơn vị tính), có chỉ tiêu hiện vật và chỉ tiêu giá trị. Chỉ tiêu hiện vật biểu hiện bằng đơn vị tự nhiên, chỉ tiêu giá trị biểu hiện bằng đơn vị tiền tệ. Ví dụ sản lượng sản xuất của công ty A năm 2015 là 2.050 sản phẩm, doanh thu là 20 tỷ đồng. 1.1.3.4. Thang đo trong thống kê Để lượng hóa hiện tượng nghiên cứu, thống kê dùng các loại thang đo phù hợp với tính chất của dữ liệu. Thống kê sử dụng 4 loại thang đo sau đây: Thang đo định danh là mã số các biểu hiện cùng loại của tiêu thức, thường dùng cho các tiêu thức thuộc tính.Ví dụ nam 1, nữ 2, hoặc các câu trả lời trong phỏng vấn “có – không”, các con số không có quan hệ hơn kém.Thang đo này dùng để đếm tần số của biểu hiện tiêu thức. Thang đo thứ bậc là thang đo định danh nhưng giữa các biểu hiện của tiêu thức có quan hệ thứ bậc hơn kém, nhưng sự chênh lệch giữa các biểu hiện không nhất thiết phải bằng nhau.Ví dụ: huân chương hạng nhất, nhì, ba, huy chương vàng, bạc, đồng Thang đo khoảng là thang đo thứ bậc có khoảng cách đều nhau nhưng không có điểm gốc là 0 nên không so sánh được tỷ lệ giữa các số đo. Ví dụ nhiệt độ 32oC < 35oC và 52oC < 55oC cho phép đo chính xác sự khác nhau giữa hai khoảng bất kỳ, việc cộng trừ các con số là có ý nghĩa. Khoảng cách đều là yêu 10
  11. cầu với thang đo nhưng biểu hiện của tiêu thức thì không nhất thiết phải bằng nhau. Thang đo tỷ lệ là thang đo khoảng với một điểm 0 tuyệt đối (số không là điểm gốc), để có thể so sánh được tỷ lệ giữa các trị số đó. Điểm 0 được coi là điểm xuất phát của số đó. 1.1.4.Các đại lượng thường dùng trong thống kê Mỗi đặc điểm cơ bản của hiện tượng kinh tế xã hội thường được biểu hiện ở các đại lượng (mức độ) khác nhau. Mức độ đầu tiên được biểu hiện trong thống kê là số tuyệt đối. 1.1.4.1. Số tuyệt đối a.Khái niệm - Số tuyệt đối trong thống kê là mức độ biểu hiện quy mô, khối lượng của hiện tượng kinh tế - xã hội trong điều kiện thời gian và địa điểm cụ thể. - Số tuyệt đối nói lên số đơn vị của tổng thể hay của bộ phận (số doanh nghiệp, số công nhân, số sinh viên ) hoặc các trị số một tiêu thức nào đó (giá trị sản xuất nông nghiệp, tổng chi phí sản xuất ). Ví dụ: Số lượng sinh viên lớp nguyên lý thống kê L05 – K60 kế toán là 95người, doanh thu của công ty A năm 2015 là 150 tỷ đồng Các con số thống kê trên đều là số tuyệt đối. b. Ý nghĩa - Số tuyệt đối trong thống kê có ý nghĩa quan trọng cho mọi công tác nghiên cứu kinh tế, vì thông qua số tuyệt đối sẽ có một nhận thức cụ thể về quy mô, khốilượng thực tế của hiện tượng nghiên cứu. - Nhờ số tuyệt đối có thể biết cụ thể nguồn tài nguyên, các tiềm năng của nền kinh tế quốc dân, các kết quả phát triển kinh tế, văn hoá, các thành quả lao động màmọi người đã phấn đấu đạt được. - Số tuyệt đối là cơ sở đầu tiên để tiến hành phân tích thống kê, đồng thời là cơ sở để tính các số tương đối và số bình quân. - Số tuyệt đối trong thống kê còn là căn cứ không thể thiếu được trong việc xây dựng các chương trình, dự án, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội và tổ chức chỉ đạo thực hiện chúng. Do có ý nghĩa quan trọng như vậy, thống kê học coi số tuyệt đối là loại chỉ tiêu cơ bản nhất. 11
  12. c.Đặc điểm - Mỗi số tuyệt đối trong thống kê đều bao hàm một nội dung kinh tế - xã hội cụ thể trong điều kiện thời gian và địa điểm nhất định và nó khác với các đại lượng tuyệt đối trong toán học. - Số tuyệt đối trong thống kê không phải là con số lựa chọn tùy tiện mà phải thông qua điều tra thực tế và tổng hợp một cách khoa học. Cũng có khi còn phải dùng các phương pháp tính toán khác nhau mới có được số tuyệt đối. Ví dụ: Muốn có được số liệu vềnguyên vật liệu tồn kho phải căn cứ vào sổ sách và kiểm kê thực tế. d.Đơn vị tính Tùy theo tính chất của hiện tượng và mục đích nghiên cứu, số tuyệt đối có thể được tính bằng đơn vị tự nhiên, đơn vị thời gian lao động và đơn vị tiền tệ. - Đơn vị tự nhiên (đơn vị hiện vật) là đơn vị tính toán phù hợp với đặc điểm vật lý của hiện tượng, các hiện tượng này có thể được tính theo chiều dài, theo diện tích, theo trọng lượng, theo dung tích, theo số đơn vị tổng thể (cái, con, chiếc ), số người, số sự kiện, số hiện tượng. Trong một số trường hợpphải sử dụng đơn vị kép để tính toán như sản lượng điện (kw/h). Trong sản xuất những sản phẩm giống nhau về giá trị sử dụng nhưng khác nhau về kích thước, trọng lượng, công suất người ta dùng đơn vị hiện vật tiêu chuẩn. Ví dụ: Máy kéo có công suất tiêu chuẩn 15 mã lực - Đơn vị thời gian lao động như giờ công, ngày công thường dùng để tính lượng lao động hao phí để sản xuất ra những sản phẩm không thể tổng hợp hoặc so với nhau bằng các đơn vị tính toán khác hoặc những sản phẩm phức tạp do nhiều người lao động thực hiện qua nhiều giai đoạn khác nhau. Đơn vị này thường dùng trong công tác định mức thời gian cho sản xuất, tính năng suất lao động, quản lý thời gian lao động của đơn vị. Đơn vị tiền tệ được sử dụng để biểu hiện giá trị sản phẩm. Nó giúp cho việc tổng hợp nhiều loại sản phẩm có giá trị sử dụng và đơn vị đo lường khác nhau. Tuy nhiên, do giá cả hàng hóa luôn thay đổi, đơn vị tiền tệ trở nên không có tính chất so sánh được qua thời gian. 12
  13. e. Các loại số tuyệt đối Tùy theo tính chất của hiện tượng nghiên cứu và khả năng thu thập tài liệu trong những điều kiện về thời gian khác nhau, có thể phân biệt 2 loại số tuyệt đối sau:  Số tuyệt đối thời điểm - Số tuyệt đối thời điểm phản ánh quy mô, khối lượng của hiện tượng nghiên cứu vào một thời điểm nhất định. Ví dụ: Giá trị hàng tồn kho của doanh nghiệp vào ngày 31/12/N là 20 triệu đồng. Số tuyệt đối thời điểm chỉ phản ánh trạng thái của hiện tượng tại một thời điểm nhất định. Các số tuyệt đối thời điểm không được cộng dồn vì trước và sau thời điểm nghiên cứu trạng thái của hiện tượng có thể khác.  Số tuyệt đối thời kỳ - Số tuyệt đối thời kỳ phản ánh quy mô, khối lượng của hiện tượng nghiên cứu trong một độ dài thời gian nhất định. Ví dụ: Sản lượng sản phẩm tiêu thụ của công ty trong năm 2015 là 2 nghìn tấn. Số tuyệt đối thời kỳ hình thành do sự tích lũy về mặt lượng của hiện tượng trong suốt thời gian nghiên cứu và có thể cộng lại được với nhau, thời gian càng dài thì trị số của chỉ tiêu (sự tích lũy về mặt lượng)càng lớn. 1.1.4.2. Số tương đối a.Khái niệm - Số tương đối trong thống kê biểu hiện quan hệ so sánh giữa hai mức độ nào đó của hiện tượng nghiên cứu. Đó có thể là kết quả của việc so sánh giữa 2 mức độ cùng loại nhưng khác nhau về điều kiện thời gian và không gian hoặc giữa 2 mứcđộ khác loại nhưng có liên quan với nhau. Ví dụ: So sánh tổng doanh thu của công ty A năm 2015 với năm 2014; cơ cấu giới tính lớp K60 kế toán là 95% nữ, 5% là nam b. Ý nghĩa - Trong phân tích thống kê, số tương đối được sử dụng rộng rãi để nêu lên kết cấu, quan hệ so sánh, trình độ phát triển, trình độ phổ biến của hiện tượng nghiên cứu trong điều kiện lịch sử nhất định. - Số tương đối trong thống kê cũng nêu lên mặt lượng trong mối quan hệ mật thiết với mặt chất của hiện tượng nghiên cứu.Tuy nhiên, trong khi các số 13
  14. tuyệt đối chỉ mới khái quát được qui mô, khối lượng của hiện tượng thì số tương đối giúp ta đi sâu vào đặc điểm của hiện tượng một cách có phân tích. - Trong công tác lập kế hoạch và kiểm tra thực hiện kế hoạch, số tương đối luôn giữ vai trò quan trọng. c.Đặc điểm - Số tương đối trong thống kê không phải là con số thu thập được qua điều tra mà là kết quả so sánh giữa hai chỉ tiêu đã có (nó phụ thuộc vào số tuyệt đối). - Bất kỳ số tương đối nào cũng có gốc so sánh, tùy mục đích nghiên cứu khác nhau mà ta chọn gốc so sánh khác nhau. Số tương đối được tính bằng phép so sánh,do đó phản ánh hiện tượng một cách có phê phán, trong khi đó số tuyệt đối thìkhông làm được. - Hình thức biểu hiện: số lần, %, đơn vị kép (ví dụ: kg/người, người/km2 ) Căn cứ theo nội dung mà số tương đối phản ánh,có thể chia thành 5 loại sốtương đối sau đây: d. Phân loại  Số tương đối động thái - Số tương đối động thái (tốc độ phát triển) là kết quả so sánh hai mức độ cùng loại của hiện tượng ở hai thời kỳ (hay thời điểm) khác nhau. - Số tương đối động thái biểu hiện sự biến động về mức độ của hiện tượng nghiên cứu qua một thời gian nào đó. - Số tương đối động thái được sử dụng rộng rãi trong phân tích thống kê vì nó xác định xu hướng biến đổi, tốc độ phát triển của hiện tượng qua thời gian. - Đơn vị tính của loại hình số tương đối động thái là số lần hoặc phần trăm. Công thức tính: y  % 1 100 Trong đó: y 0 θ(%): Số tương đối động thái; y1: Mức độ của hiện tượng ở kì nghiên cứu; y0: Mức độ của hiện tượng ở kì gốc; Kỳ gốc ở đây có thể là kỳ liền trước đó (gốc liên hoàn) hoặc là một kỳ nào đó được chọn để so sánh (gốc cố định). 14
  15.  Số tương đối kế hoạch Số tương đối kế hoạch dùng để lập và kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch vềmột chỉ tiêu kinh tế - xã hội nào đó. Có 2 loại số tương đối kế hoạch. * Số tương đối nhiệm vụ kế hoạch: Là quan hệ tỷ lệ giữa mức kỳ kế hoạch (tức là mức độ cần đạt tới của chỉ tiêu nào đó trong kỳ kế hoạch)với mức độ thực tế của chỉ tiêu này đạt được ở trước kỳ kế hoạch hoặc ở một kỳ nào đó được chọn làm gốc so sánh, thường được biểu hiện bằng đơn vị phần trăm (%). - Công thức tính: y  k 100 k y 0 Trong đó: θk: Số tương đối nhiệm vụ kế hoạch; yk : Mức độ đặt ra trong kỳ kế hoạch về chỉ tiêu nào đó; y0 : Mức độ đạt được ở kỳ gốc (kỳ trước) về chỉ tiêu tương ứng với chỉ tiêu so sánh.  Số tương đối hoàn thành kế hoạch - Số tương đối hoàn thành kế hoạch: Là quan hệ tỷ lệ so sánh giữa mức thực tế đạt được trong kỳ nghiên cứu với mức kế hoạch đặt ra cùng kỳ của một chỉ tiêukinh tế - xã hội nào đó, thường được biểu hiện bằng đơn vị %. - Công thức tính: y  1 100 T y k Trong đó: θT: Số tương đối thực hiện kế hoạch; y1: Mức độ thực tế đã đạt được trong kỳ kế hoạch về chỉ tiêu nào đó; yk : Mức độ đặt ra trong kỳ kế hoạch về chỉ tiêu nào đó. Chú ý: - Đối với những chỉ tiêu mà kế hoạch dự kiến tăng là chiều hướng tốt thì số tương đối trên 100% là hoàn thành vượt mức kế hoạch, dưới 100% là không hoàn thành kế hoạch. - Ngược lại,những chỉ tiêu kế hoạch giảm là chiều hướng tốt như giá thành,tiêu hao nguyên vật liệu cho một đơn vị sản phẩm thì số tương đối dưới 100% là hoàn thànhvuợt mức, trên 100% là không hoàn thành kế hoạch. 15
  16. - Muốn tính số tương đối kế hoạch chính xác cần đảm bảo tính chất so sánh được giữa mức độ kế hoạch và mức độ thực tế (giống nhau về nội dung kinh tế, về phương pháp tính, về chỉ tiêu, về đơn vị tính, về phạm vi độ dài và thời gian màmức độ phản ánh).  Số tương đối kết cấu Số tương đối kết cấu xác định tỷ trọng của mỗi bộ phận cấu thành trong một tổng thể, là kết quả so sánh trị số tuyệt đối của từng bộ phận với trị số tuyệt đối của cả tổng thể, nó biểu hiện bằng đơn vị %. yi kc n 100  yi i 1 Trong đó: θkc: Số tương đối kết cấu (tỷ trọng); yi : Mức độ thực tế đã đạt được trong kỳ về chỉ tiêu nào đó; i = (1,2, ,n) là thứ tự các bộ phận.  Số tương đối cường độ - Số tương đối cường độ biểu hiện trình độ phổ biến của hiện tượng trong điều kiện lịch sử nhất định, được xác định bằng cách so sánh mức độ của hai hiện tượng khác nhau nhưng có quan hệ với nhau. - Mức độ của hiện tượng mà ta cần nghiên cứu trình độ phổ biến của nó được đặt ở tử số, còn mức độ của hiện tượng có quan hệ được đặt ở mẫu số. - Nhìn chung, khi tính số tương đối cường độ phải tùy thuộc mục đích nghiên cứu và mối quan hệ giữa hai hiện tượng để tiến hành so sánh cho phù hợp, đơn vị tính của nó là đơn vị kép, do đơn vị của tử số và mẫu số hợp thành.  Số tương đối không gian - Phản ánh sự biến động của hiện tượng qua không gian và được tính bằng phép so sánh, đánh giá chênh lệch về mức độ giữa hai bộ phận trong một tổng thể hoặc giữa hai hiện tượng cùng loại nhưng khác nhau về điều kiện không gian. Ví dụ: So sánh giá cả của một loại hàng hoá giữa hai thị trường, so sánh khối lượng sản phẩm giữa hai xí nghiệp trong cùng một ngành.Tác dụng của sự so sánh này nhằm nêu lên ảnh hưởng của các điều kiện khác nhau đối với mức 16
  17. độ của hiện tượng nghiên cứu. - Ngoài ra, còn có thể so sánh các chỉ tiêu cùng loại của hai nước khác nhau trong so sánh quốc tế. - Khi tính đến số tương đối không gian cần tính đến tính chất so sánh được giữa các chỉ tiêu. 1.1.4.3. Số bình quân a. Khái niệm - Số bình quân trong thống kê là mức độ biểu hiện trị số đại biểu theo một tiêu thức nào đó của một tổng thể bao gồm nhiều đơn vị cùng loại. - Việc tính toán số bình quân trong thống kê xuất phát từ tính chất của hiệntượng nghiên cứu.Một tổng thể thống kê thường bao gồm nhiều đơn vị, giữa chúng có những biểu hiện cụ thể về lượng theo các tiêu thức và thường chênh lệch nhau. Những chênh lệch này do nhiều nguyên nhân tác động tới. Bên cạnh những nguyên nhân chung quyết định đặc điểm cơ bản của hiện tượng, còn có những nguyên nhân riêng ảnh hưởng đến từng đơn vị mà cần tìm một mức độ có tính chất đại biểu nhất, có khả năng khái quát đặc điểm chung của cả tổng thể, mức độ đó chính là số bình quân. b. Ý nghĩa Số bình quân thông dụng trong lĩnh vực nghiên cứu kinh tế-xã hội như lập các chương trình, dự án, kế hoạch và kiểm tra tình hình thực hiện sản xuất kinh doanh, tính toán các chỉ tiêu kinh tế nhằm nêu lên đặc điểm điển hình của hiện tượng kinh tế - xã hội số lớn trong điều kiện thời gian và địa điểm cụ thể. Thống kê học thường dùng các loại số bình quân sau:  Số bình quân cộng Số bình quân cộng được tính bằng cách lấy tổng các lượng biến của tiêu thức chia cho tổng số đơn vị tổng thể. Công thức tính:  x x1 x2 xn xi n n Trong đó: xi(i = 1, 2, , n) - Các lượng biến; x 17
  18. - -Số bình quân; n - Số đơn vị tổng thể.  Số bình quân cộng gia quyền Vận dụng khi các lượng biến có tần số khác nhau. Nên muốn tính số bình quân cộng, trước hết phải nhân từng lượng biến (xi) với tần số (fi) tương ứng rồi cộng lại và đem chia cho tổng số các đơn vị tổng thể (tổng các tần số). Bằng cách tính này, ta tính được số bình quân cộng gia quyền (còn gọi là số bình quân cộng có trọng số). Công thức: x1 f x2 f f xn x 1 2 n f f f 1 2 n Trong đó: xi- Các lượng biến; fi- Tần số(i = 1, 2, , n); x- Số bình quân.  Số bình quân điều hòa Số bình quân điều hòa cũng có nội dung kinh tế như số bình quân cộng, tính bằng cách đem chia tổng các lượng biến của tiêu thức cho số đơn vị tổng thể. Số bình quân điều hòa gia quyền: Công thức: n  M i M1 M 2 M n i 1 X n M1 M 2 M n M  i X1 X 2 X n i 1 X i Trong đó: Mi : Quyền số(i = 1, 2, , n); Xi: Các lượng biến; X : Số bình quân. Số bình quân điều hòa giản đơn: Số bình quân điều hòa giản đơn là trường hợp đặc biệt của số bình quân điều hoà gia quyền khi các quyền số Mi bằng nhau tức là M1 = M2 = = Mn = M. 18
  19. Công thức: n x n 1  x i 1 i c. Số bình quân nhân Số bình quân nhân là số bình quân của những lượng biến có quan hệ tích số. Số bình quân nhân được dùng để tính tốc độ phát triển bình quân về mức độcủa hiện tượng trong một khoảng thời gian nào đó. Sự biến động về mức độ của hiện tượng qua thời gian được thống kê xác định thông qua số tương đối động thái (còn được gọi là tốc độ phát triển). Để có được trị số biểu thị tổng quát (chung nhất) về biến động mức độ của hiện tượng, cần sử dụng chỉ tiêu bình quân. Nhưng do các lượng biến (tốc độ phát triển từng kỳ)của tiêu thức nghiên cứu lại có mối quan hệ tích số với nhau nên ta không thể sử dụng mô hình số bình quân cộng. - Tùy thuộc vào sự xuất hiện của các lượng biến trong dãy số ta có: n y n t n 1 t .t t n 1 n 1 1 2 n  t i i 1 y 1 f  i f1 f2 fn t t1 .t2 tn m f  fi i t  t i i 1 Trong đó: y1: Mức độ của hiện tượng đầu tiên; yn: Mức độ của hiện tượng thứ n; ti: Tốc độ phát triển từng kỳ (i = 1, 2, , n); fi: Quyền số (Tần suất) (i = 1, 2, , n); t : Tốc độ phát triển bình quân. 1.1.4.4. Khoảng biến thiên Là độ lệch giữa lượng biến lớn nhất và lượng biến nhỏ nhất của tiêu thức nghiên cứu. R = xmax- xmin 19
  20. Trong đó: R : Khoảng biến thiên; xmax: Lượng biến lớn nhất; xmin: Lượng biến nhỏ nhất. 1.1.4.5. Phương sai Phương sai là số bình quân cộng của bình phương các độ lệch giữa lượng biến với số bình quân của các lượng biến đó. n n 2 2 xi x xi   2  2 i 1 i 1 x x n n n n 2 2 xi x fi xi fi   2  2 i 1 i 1 x x n n f f  i  i i 1 i 1 Trong đó: x: Số bình quân; xi: Lượng biến (i = 1, 2, , n); fi: Quyền số (i = 1, 2, , n); : Phương sai. 1.1.4.6. Độ lệch chuẩn Độ lệch chuẩn () là căn bậc hai của phương sai.Đây là chỉ tiêu hoàn thiện nhất, được ứng dụng rộng rãi trong phân tích thống kê trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội, tự nhiên, kỹ thuật. = 1.1.4.7. Hệ số biến thiên Hệ số biến thiên (Vx) được sử dụng khi giá trị bình quân của hai tổng thể so sánh khác nhau nhiều hoặc so sánh hai hiện tượng khác nhau.  V 100 x x 1.1.5. Các phương pháp thống kê thông dụng 1.1.5.1. Phân tích mối liên hệ giữa các hiện tượng  Liên hệ hàm số và liên hệ tương quan 20
  21. Xét theo trình độ chặt chẽ có thể phân thành 2 loại: liên hệ hàm số và liên hệ tương quan. Liên hệ hàm số là mối liên hệ hoàn toàn chặt chẽ và được biểu hiện dưới một dạng hàm số. Ví dụ y = f(x) nghĩa là x biến đổi thì theo một quy tắc nào đó có thể xác định y tương ứng. Liên hệ này thường xảy ra trong tự nhiên, dùng trong các môn tự nhiên như vật lý, hóa học Ví dụ: Quãng đường = Vận tốc xThời gian Liên hệ tương quan là một liên hệ không hoàn toàn chặt chẽ và được biểu hiện khi một hiện tượng biến đổi thì làm cho hiện tượng liên quan biến đổi theo nhưng không hoàn toàn quyết định sự biến đổi này.Ví dụ khi giá thành sản phẩm giảm thì làm cho giá bán giảm nhưng không hoàn toàn quyết định sự ảnh hưởng này. Liên hệ tương quan thường xảy ra trong đời sống xã hội. Khi nghiên cứu vấn đề này cần phải nghiên cứu trên nhiều đơn vị, tức nghiên cứu hiện tượng số lớn.  Hồi quy và tương quan tuyến tính giữa hai tiêu thức số lượng Xây dựng mô hình hồi qui tuyến tính như sau: y a bx Trong đó: x: Trị số của tiêu thức nguyên nhân; : Trị số của tiêu thức kết quả y được tính theo phương trình hồi quy; a: Tham số tự do nói lên ảnh hưởng của các nguyên nhân khác ngoài x đối với y. b: Hệ số hồi qui nói lên ảnh hưởng của x đối với y, cụ thể mỗi khi x tăng 1 đơn vị thì y tăng bình quân b đơn vị. Giá trị của các tham số được tính trực tiếp bằng công thức: xy x y b 2  x a y b x - Hệ số tương quan (r): Đánh giá trình độ chặt chẽ của mối liên hệ tương xy x.y quan tuyến tính. r  . x y  r b. x  y 21
  22. - Tính chất của r : -1 ≤ r ≤ 1 + r = ± 1: Giữa x và y có mối liên hệ hàm số; + r = 0: Giữa x và y không có mối liên hệ tương quan tuyến tính. + r càng tiến gần tới ± 1: Mối liên hệ giữa x và y càng chặt chẽ. 1.1.5.2. Phân tích xu thế biến động Mặt lượng của các hiện tượng kinh tế xã hội thường xuyên biến động qua thời gian. Để nghiên cứu sự biến động này người ta sử dụng dãy số thời gian. Dãy số thời gian là dãy các số liệu thống kê (trị số của chỉ tiêu thống kê) được sắp xếp theo thứ tự thời gian. Căn cứ vào đặc điểm tồn tại của hiện tượng nghiên cứu qua thời gian, có thể phân dãy số thời gian thành dãy số thời kỳ và dãy số thời điểm. Phân tích đặc điểm biến động của hiện tượng qua thời gian cụ thể như sau:  Mức độ bình quân qua thời gian Chỉ tiêu này phản ánh mức độ đại diện cho các mức độ tuyệt đối của dãy số thời gian. Tùy theo dãy số thời kỳ hay thời điểm mà cách thức xác định là khác nhau. - Đối với dãy số thời điểm: x1 xn x2 x3 x4 xn 1 x 2 2 n 1 n  x i - Đối với dãy số thời kỳ: x i 1 n  Lượng tăng tuyệt đối Chỉ tiêu này phản ánh sự thay đổi về mức độ tuyệt đối giữa hai thời gian. Tùy theo mục đích nghiên cứu mà có thể tính các chỉ tiêu về lượng tăng tuyệt đối sau: - Lượng tăng tuyệt đối liên hoàn (i ): i = xi – xi-1 (i=2,n) - Lượng tăng tuyệt đối định gốc ( i): i = xi – x1 (i=2,n) - Lượng tăng tuyệt đối bình quân () : 22
  23. n   i  i 2 n 1  n n 1  Tốc độ phát triển Chỉ tiêu này phản ánh tốc độ và xu hướng biến động của hiện tượng nghiên cứu qua thời gian. - Tốc độ phát triển liên hoàn (ti): Phản ánh tốc độ và xu hướng biến động của hiện tượng ở kỳ nghiên cứu và kỳ liền trước nó và được xác định bằng công thức: ti = xi/xi-1 (i=2,n) - Tốc độ phát triển định gốc (Ti): Phản ánh tốc độ và xu hướng biến động của hiện tượng kỳ nghiên cứu với kỳ gốc và được xác định bằng công thức: Ti = xi/x1 (i = 2,n) - Tốc độ phát triển bình quân ()̅ : Phản ánh mức độ đại diện của tốc độ phát triển liên hoàn n xn t n 1 t t n 1  i x i 2 1  Tốc độ tăng Phản ánh mức độ của hiện tượng nghiên cứu giữa hai thời gian đã tăng bao nhiêu lần hay phần trăm. - Tốc độ tăng liên hoàn (ai): Phản ánh tốc độ tăng ở thời gian i so với i-1và được tính theo công thức: i ai xi 1 ai ti 1 - Tốc độ tăng định gốc (Ai): Phản ánh tốc độ tăng ở thời gian iso với thời gian chọn làm gốc và được xác định bằng công thức sau: Ai = Δi/y1 = (yi – y1)/y1 = Ti – 1 - Tốc độ tăng bình quân (): Phản ánh tốc độ tăng đại diện cho các tốc độ tăng liên hoàn và được xác định bằng công thức: 23
  24. a t 1  Giá trị tuyệt đối 1% của tốc độ tăng liên hoàn (gi) Chỉ tiêu này phán ánh cứ 1% tăng của tốc độ tăng liên hoàn thì tương ứng với một qui mô cụ thể là bao nhiêu và được xác định bằng côngthức: i gi ai x g i 1 i 100  Dự báo dãy số theo thời gian Có 3 phương pháp thường được sử dụng, cụ thể: - Dự báo dựa vào lượng tăng giảm tuyệt đối bình quân Giả thiết lượng tăng của tương lai cũng đạt ở mức trung bình của thời kỳ quá khứ, ta có: Yn 1 Yn Y Trong đó: Yn : Mức độ của hiện tượng nghiên cứu của thời kỳ n; Yn 1 : Mức độ của hiện tượng nghiên cứu của thời kỳ dự báo n + 1; Y : Lượng tăng tuyệt đối trung bình của thời kỳ quá khứ. - Dự báo dựa vào tốc độ phát triển bình quân Giả thiết tốc độ tăng của tương lai cũng đạt ở mức trung bình của thời kỳ quá khứ, ta có: Yn 1 Yn t Trong đó: Yn : Mức độ của hiện tượng nghiên cứu của thời kỳ n ; Yn 1 : Mức độ của hiện tượng nghiên cứu của thời kỳ dự báo n + 1; t: Tốc độ tăngbình quân của thời kỳ quá khứ. - Dự báo bằng phương pháp hồi quy tuyến tính Thực chất của phương pháp này là xây dựng một phương trình lý thuyết để mô phỏng quy luật phát triển của hiện tượng nghiên cứu trên cơ sở lý thuyết 24
  25. thống kê toán học. Phương trình có dạng: yt a0 a1t Trong đó: t: Tiêu thức nguyên nhân theo thời gian; : Tiêu thức kết quả; ao: Tham số tự do; a1: Hệ số hồi quy.  yi a0 = n  y.t a1 =  t 2 1.1.5.2. Chỉ số kinh tế Chỉ số trong thống kê là số tương đối biểu hiện quan hệ so sánh giữa hai mức độ của một hiện tượng nghiên cứu. Chỉ số trong thống kê được xác định bằng cách thiết lập quan hệ so sánh giữa hai mức độ của hiện tượng ở hai thời gian hoặc không gian khác nhau nhằm nêu lên sự biến động qua thời gian hoặc sự khác biệt về không gian đối với hiện tượng nghiên cứu. Ví dụ: Giá trị sản xuất của công ty A năm 2015 so với năm 2014 bằng 120%.  Phân loại Căn cứ vào đặc điểm thiết lập quan hệ so sánh - Chỉ số phát triển: Biểu hiện quan hệ so sánh giữa hai mức độ của hiện tượng ở hai thời gian khác nhau. - Chỉ số kế hoạch: Biểu hiện quan hệ so sánh giữa các mức độ thực tế và kế hoạch của chỉ tiêu phân tích bao gồm chỉ số nhiệm vụ kế hoạch và chỉ số thực hiện kế hoạch. - Chỉ số không gian: Biểu hiện quan hệ so sánh giữa hai mức độ của hiện tượng ở hai điều kiện không gian khác nhau. Ví dụ: doanh số của công ty A trongquí I/2015 ở thị trường miền Trung so với thị trường miền Nam bằng 85%. Căn cứ vào phạm vi tính toán 25
  26. - Chỉ số đơn(chỉ số cá thể): Là chỉ số phản ánh biến động của từng phần tử,từng đơn vị trong một tổng thể. Ví dụ: Chỉ số sản lượng của một loại sản phẩm. - Chỉ số tổng hợp: Là chỉ số phản ánh biến động chung của một nhóm đơn vị hoặc toàn bộ tổng thể nghiên cứu. Ví dụ: Chỉ số khối lượng sản phẩm công nghiệp. Căn cứ vào tính chất của chỉ tiêu nghiên cứu - Chỉ số chỉ tiêu khối lượng: Được thiết lập đối với chỉ tiêu khối lượng, là những chỉ tiêu biểu hiện qui mô, khối lượng chung của hiện tượng nghiên cứu. Ví dụ: chỉ số sản lượng sản phẩm tiêu thụ. - Chỉ số chỉ tiêu chất lượng: Được thiết lập đối với chỉ tiêu chất lượng. Ví dụ: như chỉ số giá, chỉ số giá thành. Sau đây, cụ thể các loại chỉ số sau: - Chỉ số đơn:Phản ánh biến động của từng phần tử, từng đơn vị cá biệt của hiện tượng phức tạp. Công thức: x 1 i x x 0 Trong đó: ix: Chỉ số đơn (chỉ số cá thể); x1: Mức độ hiện tượng kỳ nghiên cứu; x0: Mức độ hiện tượng kỳ gốc. - Chỉ số tổng hợp:Phản ánh biến động của tất cả các đơn vị, phần tử của hiện tượng phức tạp. - Hệ thống chỉ số: Là một dãy các chỉ số có liên hệ với nhau, hợp thành một đẳng thức. Cơ sở hình thành hệ thống chỉ số là mối liên hệ thực tế của các chỉ tiêu, thường có quan hệ tích số. Cấu thành một hệ thống chỉ số thường bao gồm một chỉ số toàn bộ (chung) và các chỉ số nhân tố (bộ phận). + Chỉ số chung phản ánh sự biến động của hiện tượng chung được cấu thành bởi nhiều nhân tố. Ví dụ: Doanh thu do ảnh hưởng của giá bán và lượng bán. DT = p x q + Chỉ số nhân tố phản ánh biến động của từng nhân tố và mức ảnh hưởng 26
  27. của nó tới hiện tượng chung. Ví dụ:- Chỉ số sản lượng = Chỉ số NSLĐ × Chỉ số qui mô lao động. - Chỉ số doanh thu = Chỉ số giá × Chỉ số lượng hàng tiêu thụ.  Các bước xây dựng hệ thống chỉ số Giả sử doanh số tiêu thụ sản phẩm (DT) chịu ảnh hưởng bởi nhân tố giá bán (p)và sản lượng sản phẩm tiêu thụ (q). Các chỉ tiêu nghiên cứu ở kỳ gốc được ký hiệulà 0 và các chỉ tiêu ở kỳ nghiên cứu ký hiệu là 1. Để thiết lập được hệ thống chỉ sốta cần thực hiện các bước sau: Bước 1: Phương trình kinh tế,sắp xếp các nhân tố theo thứ tự tính chất lượng giảm dần và tính số lượng tăng dần. Ta có: DT =p × q Bước 2: Viết chỉ số toàn bộ và chỉ số cho các nhân tố. Chỉ số D = Chỉ số p × Chỉ số q Ipq= Ip x Iq Bước 3: Xác định các mức biến động tương đối và tuyệt đối để xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố cấu thành đối với nhân tố kết quả. Lượng tăng giảm tuyệt đối: ∆pq = ∆(p) + ∆(q) Lượng tăng giảm tương đối: ∆pq ∆(p) ∆(q) = + ∑ ∑ ∑  Chọn quyền số cho chỉ tiêu tổng hợp Quyền số của chỉ số là những đại lượng được giữ cố định trong công thức chỉ số tổng hợp. Quyền số của chỉ số có 2 tác dụng sau: - Biểu hiện vai trò quan trọng của mỗi phần tử hay bộ phận trong toàn bộ tổng thể. - Làm cho các phần tử với đại lượng biểu hiện không thể trực tiếp cộng được với nhau được chuyển về cùng một đại lượng đồng nhất và có thể tổng hợp. Khi dùng chỉ số tổng hợp để nghiên cứu biến động của chỉ tiêu chất lượng thì quyền số thường là chỉ tiêu khối lượng có liên quan và cố định ở kỳ nghiên cứu. Còn để nghiên cứu biến động của chỉ tiêu khối lượng thì quyền số thường là chỉ tiêu chất lượng có liên quan và cố định ở kỳ gốc. 27
  28. 1.2. Thống kê tài khoản quốc gia 1.2.1. Khái niệm về SNA (System of National Accounts) SNA là một hệ thống thông tin kinh tế, bao gồm các tài khoản kinh tế, các bảng thống kê được xây dựng dựa trên những khái niệm, định nghĩa, quy tắc hạch toán thống nhất trên phạm vi toàn cầu. - SNA đáp ứng nhu cầu đo lường và so sánh quốc tế về thông tin kinh tế xã hội tại các quốc gia. - SNA là cơ sở để đánh giá tình hình kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. - SNA mô tả, phân tích các hiện tượng kinh tế cơ bản. - Đồng thời, là công cụ hỗ trợ đắc lực các nhà hoạch định chính sách, các nhà phân tích đưa ra những mô hình kinh tế, những chính sách điều chỉnh phù hợp và kịp thời trong quản lý kinh tế xã hội. 1.2.2. Một số khái niệm trong SNA Thống kê kinh tế nghiên cứu các hiện tượng diễn ra trong quá trình tái sản xuất xã hội. Nếu như các ý kiến trên về đối tượng nghiên cứu của thống kê kinh tế xác định nội dung phạm vi nghiên cứu của thống kê kinh tế. Thống kê kinh tế nghiên cứu toàn bộ quá trình sản xuất. Điều đó có nghĩa thống kê kinh tế nghiên cứu từ các yếu tố đầu vào, nguồn lực của sản xuất, sự kết hợp các yếu tố để tạo ra sản phẩm nghiên cứu, kết quả là hiệu quả của quá trình sản xuất. Nó không chỉ nghiên cứu việc tạo ra mà nghiên cứu các vấn đề trên một cách biệt lập mà đặt nó trong toàn bộ quá trình sản xuất. Sản xuất ở đây có thể được hiểu là hoạt động có mục đích của con người (có thể làm thay được) nhằm tạo ra sản phẩm vật chất và dịch vụ để thoả mãn nhu cầu nào đó của cá nhân hoặc xã hội. Kết quả của nó không chỉ bao gồm các hàng hoá cá nhân mà cả các hàng hoá công cộng. Cần phân biệt các phạm trù sản xuất và sản xuất vật chất là phạm trù chỉ bao gồm hoạt động tạo ra sản phẩm vật chất. Sản xuất được khái niệm như sau: Sản xuất là quá trình sử dụng lao động và máy móc thiết bị của các đơn vị thể chế để chuyển những chi phí là vật chất và dịch vụ thành sản phẩm là vật chất (hàng hóa) và dịch vụ khác. Các hàng hóa và dịch vụ được sản xuất ra phải có khả năng bán trên thị trường hoặc có khả năng cung cấp cho đơn vị thể chế khác có thu tiền hoặc không thu tiền. 28
  29. Như vậy, hoạt động sản xuất được xác định bởi các điểm sau đây: - Là hoạt động có mục đích, có thể làm thay được của con người. - Bao gồm cả hoạt động sản xuất sản phẩm vật chất và hoạt động sản xuất sản phẩm dịch vụ. - Thoả mãn không chỉ yêu cầu cá nhân mà cả nhu cầu chung toàn xã hội. Như trên đã nói, thống kê phải dùng con số để biểu hiện bản chất và tính quy luật. Để có thể đo lường (lượng hoá) chính xác các hiện tượng phù hợp với đặc điểm của các hiện tượng và trình độ tổ chức hoạt động thống kê hiện tại, cần có các quy định thêm, giới hạn phạm vi tính toán một cách rõ ràng. Theo đó, các loại hoạt động sau đây về bản chất là hoạt động sản xuất nhưng tạm coi là không sản xuất: - Các hoạt động sản xuất bất hợp pháp. - Các hoạt động dịch vụ tự sản tự tiêu(trừ nhà ở). Hiểu đúng phạm trù sản xuất là vấn đề hết sức quan trọng. Nó cho phép: - Phân định hoạt động nào là sản xuất, hoạt động nào là phi sản xuất. - Chi phí nào được tính vào chi phí sản xuất (tiêu dùng trung gian) và chi phí nào được tính vào tiêu dùng cuối cùng. - Kết quả nào được tính vào kết quả sản xuất. Thứ hai, về đơn vị thể chế: Là một thực thể kinh tế có quyền sở hữu tích sản, phát sinh tiêu sản, thực hiện các hoạt động, giao dịch kinh tế với những thực thể kinh tế khác. Có hai dạng đơn vị thể chế: Hộ gia đình và tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân. Đối tượng nghiên cứu của thống kê kinh tế khẳng định nền kinh tế vừa là đối tượng phục vụ vừa là phạm vi nghiên cứu của thống kê kinh tế.Theo lãnh thổ địa lý, nền kinh tế quốc dân là tổng thể các đơn vị kinh tế thường trú và không thường trú trong phạm vị lãnh thổ nghiên cứu, tồn tại trong mối liên hệ hữu cơ với nhau, thực hiện các chức năng khác nhau trong hệ thống phân công lao động xã hội. Theo lãnh thổ kinh tế, nền kinh tế quốc dân là tổng thể các đơn vị kinh kế thường trú của lãnh thổ nghiên cứu, tồn tại trong mối liên hệ hữu cơ với nhau, thực hiện các chức năng khác nhau trong hệ thống phân công lao động xã hội.Như vậy, cơ sở để phân biệt và xác định nền kinh tế quốc dân theo hai đơn 29
  30. vị thường trú hay không thường trú của quốc gia được nghiên cứu. Một đơn vị thể chế được gọi là thường trú trên lãnh thổ nghiên cứu nếu đơn vị đó có trung tâm lợi ích kinh tế là trụ sở làm việc, nơi sản xuất hoặc nhà ở, hoạt động sản xuất, giao dịch kinh tế tại đó với thời gian từ một năm trở lên. Được coi là đơn vị thường trú của một quốc gia là các đơn vị thể chế: - Có trung tâm lợi ích kinh tế trên lãnh thổ đó. - Đã thực tế hoạt động trên lãnh thổ đó từ 1 năm trở lên. -Tuân thủ luật pháp của lãnh thổ đó. - Các trường hợp ngoại lệ: Các tổ chức quân sự và ngoại giao của nước (quốc gia) A ở nước ngoài luôn là đơn vị thường trú của nước (quốc gia) A. Được coi là các đơn vị không thường trú là các đơn vị kinh tế không phải là (không được coi là) đơn vị thường trú của nước nghiên cứu. Các chỉ tiêu kinh tế thuộc hệ thống kinh tế, tức là theo các đơn vị thường trú. Lãnh thổ kinh tế của một quốc gia bao gồm lãnh thổ địa lý chịu sự quản lý của chính phủ mà ở đó dân cư, hàng hóa, vốn được tự do lưu chuyển. Lãnh thổ kinh tế của một quốc gia bao gồm: - Vùng đất, vùng trời và mặt nước, vùng lãnh hải có đặc quyền kinh tế. - Vùng lãnh thổ nằm ở nước ngoài sử dụng cho mục đích ngoại giao, mục đích quân sự, nghiên cứu khoa học. - Các khu chế xuất hoặc kho hàng, nhà máy ở bên ngoài nhưng hoạt động chịu sự kiểm soát của hải quan nước đó cũng thuộc phần lãnh thổ kinh tế của nước này. Hàng hóa và dịch vụ có mối liên hệ mật thiết và gắn bó khác nhau.Tuy nhiên, cần phân biệt sự khác nhau giữa chúng: Hàng hóa là kết quả sản xuất dạng hiện vật hữu hình, còn gọi là sản phẩm vật chất có đặc điểm là có quá trình sản xuất và tiêu dùng tách biệt nhau. Có thể giao dịch chuyển nhượng sở hữu trên thị trường. Dịch vụ là kết quả sản xuất có sản phẩm dạng vô hình có đặc điểm là quá trình sản xuất và tiêu dùng diễn ra đồng thời không thể tách khỏi người sản xuất để thiết lập quyền sở hữu. Bên cạnh đó, một số khái niệm về tiêu dùng, chuyển nhượng cần được lưu ý để phục vụ cho nội dung phân tổ trong SNA. 30
  31. Tiêu dùng trung gian: Là việc sử dụng hàng hóa, dịch vụ làm đầu vào cho quá trình sản xuất và đã được dùng hết trong một chu kỳ kế toán. Tiêu dùng cuối cùng: Là việc sử dụng hàng hóa và dịch vụ để thỏa mãn nhu cầu cuối cùng của hộ gia đình và xã hội. Chuyển nhượng là các giao dịch một chiều, bao gồm: + Chuyển nhượng hiện hành (Current transfer): Là chuyển nhượng liên quan tới thu nhập và tiêu dùng cuối cùng, ảnh hưởng đến mức sống dân cư. + Chuyển nhượng vốn (Capital transfer): Là việc chuyển quyền sở hữu hoặc sử dụng dạng tiền hoặc hiện vật từ đơn vị thể chế này cho đơn vị thể chế khác liên quan đến sản xuất. 1.2.3. Nội dung của SNA Tài khoản thống kê quốc gia SNA (System of National Accounts) là hệ thống thông tin kinh tế bao gồm các tài khoản kinh tế, bảng thống kê, các khái niệm, các quy tắc hạch toán thống nhất trên phạm vi toàn cầu do Liên hiệp quốc xây dựng. Điều đó có nghĩa là các chỉ số như GDP có định nghĩa và cách tính như thế nào đều có chuẩn quốc tế.Các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp cụ thể như sau: - Giá trị sản xuất ( GO); - Chi phí trung gian (IC); - Giá trị gia tăng (VA); - Tổng sản phẩm trong nước (GDP); - Tổng thu nhập quốc dân (GNI); - Thu nhập quốc dân thuần (NNI); - Thu nhập quốc dân khả dụng (NDI); - Tiêu dùng cuối cùng (C ); - Tiết kiệm (S); - Xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ (X ); - Nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ (M) Trong đó: - VA = GO – IC; - GDP = ∑ VA + ∑Thuế nhập khẩu; - GNI = GDP + Thu nhập thuần nhân tố sản xuất; - Thu nhập thuần nhân tố SX = Tổng thu nhân tố SX - Tổng chi nhân tố SX; 31
  32. - NNI = GNI – ∑ Tổng khấu hao TSCĐ; - NDI = NNI + chuyển nhượng hiện hành thuần; - Chuyển nhượng hiện hành thuần = Thu chuyển nhượng hiện hành- Chi chuyển nhượng hiện hành; - S = NDI – C; Tiết kiệm = đầu tư (S = I), nên có thể tính GDP:GDP = C + I + E – M. 1.2.4. Những phân tổ chính trong SNA Phân tổ là một trong các phương pháp cơ bản của nghiên cứu thống kê. Để thực hiện nhiệm vụ đo lường và phân tích kinh tế, thống kê kinh tế sử dụng rộng rãi phương pháp phân tổ.Tùy theo mục đích hay quan điểm, người ta phân chia nền kinh tế thành các tổ hay các nhóm khác nhau. Phân ngành kinh tế và phân khu vực thể chế là hai phân tổ chính của thống kê kinh tế nói chung và SNA nói riêng để xây dựng hệ thống chỉ tiêu, các tài khoản và phân tích kinh tế. Cụ thể như sau: 1.2.4.1. Phân khu vực thể chế  Khái niệm: Phân tổ theo khu vực thể chế là phân chia nền kinh tế quốc dân thành các tổ chức khác nhau (gọi là các khu vực thể chế) dựa vào các đặc điểm về nguồn vốn, mục đích và lĩnh vực hoạt động của chúng. Đối tượng phân chia (tổng thể được xem xét) ở đây là nền kinh tế quốc dân. Kết quả của phân chia là hình thành các khu vực thể chế. Khu vực thể chế là tập hợp các đơn vị kinh tế cơ sở có tư cách pháp nhân, có quyền ra các quyết định về kinh tế và tài chính, có nguồn vốn hoạt động, mục đích hoạt động và lĩnh vực hoạt động giống nhau. Nguyên tắc phân tổ theo khu vực thể chế: - Các đơn vị kinh tế cơ sở phải có tư cách pháp nhân. - Phải xét xem nguồn kinh phí hoặc nguồn thu nhập để xem chỉ tiêu chính của đơn vị kinh tế cơ sở lấy từ đâu? Căn cứ vào các nguyên tắc cơ bản trên, nền kinh tế quốc dân của mỗi quốc gia được phân chia thành khu vực thể chế sau: - Khu vực nhà nước: Bao gồm các đơn vị và tổ chức có chức năng điều hành, quản lý hành pháp và luật pháp, quản lý nhà nước, đảm bảo an ninh và quốc phòng Nguồn kinh phí để chi tiêu cho các đơn vị này do Ngân sách nhà 32
  33. nước cấp phát. - Khu vực tài chính:Bao gồm các đơn vị, tổ chức có chức năng kinh doanh tiền tệ và bảo hiểm như ngân hàng ,công ty tài chính, công ty buôn bán cổ phần, tín phiếu, kho bạc, công ty xổ số, công ty bảo hiểm Nguồn kinh phí chủ yếu để chi tiêu của các đơn vị này dựa vào kết quả hoạt động kinh doanh tiền tệ và bảo hiểm. - Khu vực phi tài chính: Bao gồm các đơn vị là các công ty (hay doanh nghiệp) thuộc các thành phần kinh tế, các công ty trách nhiệm hữu hạn có chức năng sản xuất , kinh doanh sản phẩm (vật chất và dịch vụ).Nguồn kinh phí chủ yếu để chi tiêu dựa vào kết quả sản xuất kinh doanh. - Khu vực hộ: Hộ vừa là đơn vị tiêu dùng cuối cùng, vừa là đơn vị sản xuất có chức năng sản xuất ra sản phẩm. Được xếp vào khu vực hộ toàn bộ các hộ với tư cách là đơn vị tiêu dùng và các hộ sản xuất cá thể. Nguồn kinh phí chủ yếu của hộ để chi tiêu lấy từ kết quả sản xuất kinh doanh. - Khu vực vô vị lợi (các tổ chức hoạt động không vì lợi nhuận) gồm các đơn vị sản xuất, tổ chức có chức năng hoạt động sản xuất ra sản phẩm dịch vụ không vì mục đích kinh doanh thu lợi nhuận mà chủ yếu làm phục vụ nhu cầu sinh hoạt, tín ngưỡng, nhân đạo, từ thiện của dân cư. Nguồn kinh phí chủ yếu để chi tiêu của các tổ chức này dựa vào sự đóng góp tự nguyện của các thành viên tham gia vào quyên góp của dân cư. Phân tổ này được sử dụng khi lập bảng cân đối (tài khoản) thu nhập và chi tiêu, tài khoản vốn - tài chính, tài khoản quan hệ kinh tế với nước ngoài và bảng cân đối tổng hợp về sản xuất, phân phối lại và sử dụng cuối cùng GO và GDP của nền kinh tế quốc dân. 1.2.4.2. Phân ngành kinh tế Phân ngành kinh tế quốc dân là sự phân chia nền kinh tế quốc dân thành các tổ khác nhau (gọi là các ngành kinh tế quốc dân) dựa trên cơ sở vị trí, chức năng hoạt động của các đơn vị kinh tế hay chủ thể kinh tế trong hệ thống phân công lao động xã hội. Nền kinh tế quốc dân: Nền kinh tế quốc dân là toàn bộ các đơn vị kinh tế hay chủ thể kinh tế có chức năng hoạt động khác nhau, tồn tại trong mối liên hệ mật thiết với nhau được hình thành trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Cần phân biệt các khái niệm nền kinh tế quốc dân và nền kinh tế toàn 33
  34. quốc (có nền kinh tế toàn quốc, kinh tế vùng địa phương). Theo khái niệm đã được trình bày, nền kinh tế quốc dân cần được hiểu không chỉ theo phạm vi toàn quốc mà còn có thể được hiểu theo phạm vi địa phương. Nền kinh tế là khái niệm có tính lịch sử: Có nền kinh tế tự nhiên, nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, nền kinh tế hàng hoá, nền kinh tế thị trường. Ngành kinh tế quốc dân là tổng thể các đơn vị kinh tế hay chủ thể kinh tế cùng hoàn thành chức năng kinh tế nhất định hoặc cùng hoạt động giống nhau trong hệ thống phân công lao động xã hội. Nguyên tắc phân ngành kinh tế quốc dân: Để phân ngành kinh tế quốc dân thống nhất khoa học và đúng đắn phải tuân theo các nguyên tắc cơ bản sau: -Phải căn cứ vào học thuyết phân công lao động xã hội và trình độ phân công lao động xã hội. -Phải căn cứ vào yêu cầu và trình độ quản lý kinh tế của đất nước trong từng thời kỳ. Phải căn cứ vào đặc trưng của các đơn vị sản xuất - kinh doanh, các tổ chức có chức năng hoạt động giống nhau hoặc gần giống nhau. -Phải đáp ứng được yêu cầu của công tác so sánh quốc tế. -Đơn vị gốc tham gia phân ngành kinh tế quốc dân là các đơn vị sản xuất - kinh doanh, các tổ chức thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, có tư cách pháp nhân tức là có hạch toán kinh tế độc lập hoặc dự toán. -Phải dựa vào chức năng và đặc điểm chủ yếu của các đơn vị kinh tế. -Phải thường xuyên hoàn thiện hệ thống phân ngành kinh tế quốc dân. Cần phân biệt phân ngành kinh tế quốc dân với phân ngành sản phẩm và phân loại quản lý; phân biệt ngành kinh tế quốc dân với ngành sản phẩm; ngành kinh tế quốc dân với bộ, sở Phân ngành kinh tế quốc dân thống nhất, khoa học và đúng đắn có tác dụng rất lớn trong việc nghiên cứu cơ cấu kinh tế và kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân. Phân ngành kinh tế quốc dân có tác dụng rất lớn trong nghiên cứu kinh tế nói chung và nghiên cứu tổng sản phẩm trong nước (GDP) nói riêng. Cụ thể, phân ngành kinh tế quốc dân là: -Tiền đề cần thiết để hoạch định các chính sách kinh tế-xã hội hợp lý. Để phân phối và điều tiết nguồn tài nguyên con người và vốn; tạo cơ cấu đầu tư và cơ cấu kinh tế theo ngành hợp lý, cơ cấu lao động theo ngành kinh tế và sự biến động của nó, cơ cấu GDP theo ngành kinh tế; lập các biểu miêu tả hoạt động sản 34
  35. xuất của nền kinh tế quốc dân, qua đó cho phép nghiên cứu cơ cấu nền kinh tế quốc dân theo ngành kinh tế và sự chuyển đổi của chúng. -Để thống nhất nội dung, phạm vi tính các chỉ tiêu kinh tế. Đảm bảo việc so sánh quốc tế các chỉ tiêu kinh tế - xã hội giữa các quốc gia và các tổ chức quốc tế. -Giúp cho việc xử lý thông tin trên máy vi tính được thuận lợi. -Xem xét quá trình sản xuất theo quan điểm vật chất, lập và phân tích tài khoản sản xuất. -Tạo điều kiện cho ngành thống kê thu nhập được nguồn thông tin thống kê đầy đủ, chính xác và đỡ trùng lặp. Trong hệ thống tài khoản quốc gia (SNA),nền kinh tế quốc dân được chia thành 17 ngành (hoạt động) cấp I thuộc 3 nhóm (khu vực) lớn khác nhau theo quy trình và hình thức hoạt động tự nhiên. Cụ thể: -Nhóm I được gọi là nhóm ngành khai thác bao gồm các ngành khai thác. -Nhóm II được gọi là nhóm ngành chế biến, bao gồm các ngành chế biến khai thác từ tự nhiên như công nghiệp chế biến; sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước; xây dựng. -Nhóm III được gọi là nhóm ngành dịch vụ, bao gồm ngành dịch vụ, bao gồm các ngành sản xuất ra các sản phẩm dịch vụ (dịch vụ sản xuất và dịch vụ không sản xuất) như thương nghiệp, vận tải, kho bãi và thông tin liên lạc, giáo dục và đào tạo Ở Việt Nam dựa vào bảng phân loại tiêu chuẩn quốc tế các hoạt động kinh tế (ISIC) của hệ thống tài khoản quốc gia (SNA), ngày 27/10/1993 Chính phủ đã ra Nghị định số 75/CP ban hành hệ thống ngành kinh tế quốc dân gồm 20 ngành cấp I như sau: -Ngành công nghiệp và lâm nghiệp; -Ngành thuỷ sản; -Ngành công nghiệp khai thác mỏ; -Ngành công nghiệp chế biến; -Ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước; -Ngành xây dựng; -Ngành thương nghiệp, sửa chữa xe có động cơ, mô tô, xe máy đồ dùng cá nhân và gia đình;. 35
  36. -Ngành vận tải, kho bãi và thông tin liên lạc; -Ngành khách sạn và nhà hàng; -Ngành tài chính tín dụng; -Ngành hoạt động khoa học công nghệ; -Các hoạt động liên quan đến kinh doanh tài sản và dịch vụ tư vấn; -Ngành quản lý nhà nước và an ninh quốc phòng, bảo đảm xã hội bắt buộc; -Ngành giáo dục và đào tạo; -Ngành y tế và hoạt động cứu trợ xã hội; - Hoạt động văn hoá và thể thao; -Hoạt động Đảng, Đoàn thể và hiệp hội; -Ngành hoạt động phục vụ cá nhân và cộng đồng; -Ngành hoạt động làm thuê công việc gia đình trong các hộ tư nhân; -Ngành hoạt động của các tổ chức và đoàn thể quốc tế. 1.2.4.3. Phân tổ theo ngành sản phẩm Phân tổ theo ngành sản phẩm thực chất và chủ yếu là phân ngành kinh tế sạch (phân ngành thuần tuý) đảm bảo cho từng ngành được thuần khiết hơn so với ngành kinh tế. Theo hệ thống phân loại sản phẩm ở Việt Nam-TCTK 1997 thì toàn bộ sản phẩm được phân thành 5 cấp, gồm 10 loại sản phẩm cấp I, 68cấp II, 294 cấp III, 1047 cấp IV và 1813 cấp V. Nguyên tắc phân tổ theo ngành sản phẩm: - Dựa vào công dụng sử dụng của sản phẩm (hoặc chức năng sản xuất chính) giống nhau, nghĩa là lấy sản phẩm (hoặc loại hoạt động) làm đơn vị gốc để tham gia phân tổ. -Quy trình công nghệ để sản xuất ra sản phẩm giống nhau. -Dựa vào nguyên liệu, nhiên liệu,vật liệu dùng để sản xuất ra sản phẩm hoặc các hoạt động giống nhau . Tác dụng của phân tổ theo ngành sản phẩm: -Được sử dụng để lập bảng cân đối liên ngành (IO). -Phục vụ công tác kiểm kê đánh giá hàng hoá,vật tư, tài sản trong nền kinh tế quốc dân. 36
  37. Câu hỏi ôn tập 1. Nêu đặc điểm của liên hệ hàm số và liên hệ tương quan, lấy ví dụ? 2.Tại sao khi nghiên cứu mối liên hệ tương quan cần nghiên cứu hiện tượng số lớn? 3.Trình bày tác dụng của phương pháp phân tích hồi quy và tương quan?. 4. Nêu ý nghĩa của các hệ số trong mô hình hồi quy tuyến tính giữa hai tiêu thức số lượng? 5. Nêu các tính chất của hệ số tương quan (r)? 6. Nêu khái niệm, cấu thành và phân loại dãy số thời gian? 7. Nêu các chỉ tiêu phân tích đặc điểm biến động của hiện tượng theo thời gian và mối quan hệ giữa chúng? 8.Trình bày các phương pháp dự báo dựa theo dãy số thời gian và điều kiện vận dụng các phương pháp đó? 9.Trình bày khái niệm, đặc điểm và tác dụng của chỉ số thống kê? 10. Phân tích căn cứ để lựa chọn quyền số cho chỉ số tổng hợp. Liên hệ với các chỉ số kinh tế xã hội thông dụng và chỉ rõ chúng được áp dụng dựa theo chỉ số tổng hợp nào? 11. Khái niệm, cấu thành hệ thống chỉ số. Nội dung thành lập hệ thống chỉ số theo phương pháp liên hoàn? 12. SNA là gì? Nêu vai trò chủ yếu của SNA trong đời sống kinh tế xã hội? 13. Lãnh thổ kinh tế là gì? Phân biệt lãnh thổ kinh tế với lãnh thổ quốc gia? 14. Đơn vị thể chế là gì? Ví dụ minh họa? 15. Trình bày khái niệm và nguyên tắc phân ngành kinh tế? 16.Nêu mối quan hệ giữa ngành kinh tế với ngành sản phẩm trong thống kê kinh tế? 37
  38. Chương 2 THỐNG KÊ NGUỒN LỰC SẢN XUẤT XÃ HỘI Mỗi quốc gia khi hoạch định các mục tiêu, chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội cần đánh giá đúng năng lực, nguồn nhân lực sản xuất xã hội. Nguồn lực sản xuất xã hội bao gồm nhân lực, nguồn lực về tài chính và nguồn lực về vật chất. Nhân lực được thể hiện qua hai chỉ tiêu: dân số và nguồn lao động. 2.1. Thống kê dân số và lao động 2.1.1. Thống kê dân số. Dân số được xem xét trong thống kê kinh tế vừa như là một bộ phận của nguồn lực xã hội, vừa như là đối tượng phục vụ của quá trình sản xuất, liên quan đến câu hỏi sản xuất cho ai? Và từ đó liên quan đến các câu hỏi khác như: Sản xuất cái gì và sản xuất bao nhiêu? Tức là liên quan đến việc xác định nhu cầu. Khi xem xét dân số trong quá trình sản xuất phải chú ý xem xét theo cả hai quan điểm đó. 2.1.1.1. Các chỉ tiêu biểu hiện quy mô dân số  Dân số một nước, một địa phương thường được biểu hiện qua hai chỉ tiêu khác nhau: Dân số thường trú ( Stht) và dân số hiện có ( Shc). Dân số thường trú gồm những người được coi là cư trú thường xuyên trên lãnh thổ đó. Dân số hiện có gồm những người thực tế có mặt tại lãnh thổ vào thời điểm điều tra. Hai chỉ tiêu này có quan hệ với nhau qua các chỉ tiêu dân số tạm trú (Stt) và dân số tạm vắng (Stv). Cụ thể, ta có: Stht = ( Shc – Stt) + Stv Và Shc = ( Stht – Stv ) + Stt Nói cách khác, dân số thường trú gồm dân số thường trú hiện có (Shc – Stt) và dân số thường trú tạm vắng (Stv), còn dân số hiện có gồm dân số hiện có thường trú (Stht – Stv) và dân số hiện có tạm trú (Stt). Cũng có thể biểu hiện mối liên hệ trên theo cách khác: S tht = S hc + ( Stv – Stt ) VàShc = Stht + (Stt – Stv) Điều đó có nghĩa là hai chỉ tiêu biểu hiện quy mô dân số khác nhau một lượng bằng lượng biến động cơ học tạm thời. 38
  39. Lưu ý: Quy mô dân số là chỉ tiêu thời điểm. Cần lưu ý điều này khi biểu hiện dân số một thời kỳ (phải tính dân số bình quân theo thời gian), khi so sánh dân số với các chỉ tiêu thời kỳ và khi lựa chọn các phương pháp nghiên cứu (điều tra, phân tích).  Chỉ tiêu số dân trung bình Phản ánh mức độ điển hình của quy mô dân số trong 1 thời kỳ được tính theo công thức S S DK S CK 2 Hoặc S 1 Sn S2 S3 Sn 1 S 2 2 n 1 2.1.1.2. Các chỉ tiêu cấu thành và kết cấu dân số Thống kê là công cụ của nhận thức hiện thực khách quan. Quá trình nghiên cứu thống kê là quá trình nhận thức. Để nhận thức, cần biết các tiêu thức (đặc điểm được chọn làm cơ sở để nhận thức). Biết càng nhiều tiêu thức, nhận thức càng đầy đủ và sâu sắc. Phân tổ thống kê từ đó tính được các chỉ tiêu cấu thành và kết cấu là cơ sở để biết được nhiều đặc điểm của hiện tượng nghiên cứu. Có thể nghiên cứu cấu thành và kết cấu dân số trên cơ sở phân tổ dân số theo các tiêu thức chủ yếu sau: * Cấu thành và kết cấu dân số theo giới tính Chỉ tiêu này trong thống kê kinh tế được dùng để nghiên cứu năng lực sản xuất, tính toán nhu cầu. Hai tập hợp dân số có quy mô như nhau nhưng có cấu thành theo giới tính khác nhau sẽ có năng lực sản xuất và nhu cầu khác nhau. * Cấu thành và kết cấu dân số theo độ tuổi Tương tự như cấu thành và kết cấu dân số theo giới tính, chỉ tiêu này trong thống kê kinh tế được dùng để nghiên cứu năng lực sản xuất, tính toán nhu cầu. Hai tập hợp dân số có quy mô như nhau nhưng có cấu thành theo độ tuổi khác nhau sẽ có năng lực sản xuất và nhu cầu khác nhau. Người ta thường kết hợp nghiên cứu cấu thành dân số theo giới tính và độ tuổi. * Cấu thành và kết cấu dân số theo nơi cư trú: Thực chất là việc nghiên cứu phân bố dân cư. Nghiên cứu phân bố dân cư 39
  40. là việc phân tổ dân số theo không gian cư trú của họ. Không gian cư trú có thể chia theo quốc gia, vùng lãnh thổ. Đối với dân số quốc gia, phân tổ này là việc chia tổng số dân theo tỉnh thành, trong tỉnh thành lại chia theo huyện, theo quận, xã, phường, thôn, xóm, tổ dân số. Nghiên cứu mức độ tập trung của dân cư thống kê sử dụng chỉ tiêu mật độ dân số và được tính theo công thức sau: Mật độ dân số = Tổng dân số / Diện tích lãnh thổ * Cấu thành và kết cấu dân số theo các tiêu thức khác: Theodân tộc, theo trình độ văn hóa 2.1.1.3. Thống kê biến động dân số Dân số thường xuyên biến động. Người ta thường phân biệt hai loại biến động dân số là: Biến động tự nhiên (do sinh ra và chết đi) và biến động cơ học (do chuyển đi và chuyển đến). Cũng cần phân biệt biến động cơ học tạm thời và vĩnh viễn vì chúng có ảnh hưởng khác nhau đến các chỉ tiêu biểu hiện quy mô dân số. Trong thống kê kinh tế thường chú ý đến các chỉ tiêu sau đây: * Số sinh (N) và hệ số sinh (KN) Số sinh là chỉ tiêu thời kỳ biểu hiện số trẻ em sinh ra trong một thời kỳ nhất định (không kể số chết trong bụng mẹ). Thông thường số trẻ em được tính khi đã sinh ra từ 3 tháng tuổi trở lên (để phân biệt với số lượt sinh trong thống kê dân số và kế hoạch hóa gia đình) Hệ số sinh được xác định bằng cách so sánh số sinh với dân số bình quân. N K N S * Số chết (M) và hệ số chết (KM) Số chết là chỉ tiêu thời kỳ biểu hiện số người bị chết trong một thời kỳ nhất định (không kể số chết trong bụng mẹ). Hệ số chết được xác định bằng cách so sánh số chết với dân số bình quân. M K M S * Mức biến động tự nhiên (∆TN) và hệ số biến động từ nhiên (KTN) Mức biến động tự nhiên là chỉ tiêu thời kỳ được xác định bằng chênh lệch giữa số sinh và số chết. Chỉ tiêu thời kỳ biểu hiện lượng tăng (giảm) tuyệt đối 40
  41. dân số do sinh và chết. ∆TN = N - M Hệ số biến động tự nhiên được xác định bằng cách so sánh mức biến động tự nhiên với dân số bình quân hoặc chênh lệch giữa hệ số sinh và hệ số chết. Hệ số biến động tự nhiên là chỉ tiêu thời kỳ biểu hiện tỷ lệ tăng (giảm) tương đối dân số do sinh và chết. TN K TN S * Số đến (Đ) và hệ số đến (KĐ) Số đến là chỉ tiêu thời kỳ biểu hiện số người chuyển đến trong cùng một thời kỳ nhất định. Số người chuyển đến vĩnh viễn có ảnh hưởng đến quy mô dân số các vùng, địa phương. Số người chuyển đến tạm thời (dân số tạm trú) chỉ có ảnh hưởng đến chỉ tiêu dân số hiện có. Hệ số đến được xác định bằng cách so sánh số đến với dân số bình quân. Đ K Đ S * Số đi (đ) và hệ số đi (Kđ) Số đi là chỉ tiêu thời kỳ biểu hiện số người chuyển đi trong một thời kỳ nhất định. Số người chuyển đi vĩnh viễn có ảnh hưởng đến quy mô dân số các vùng, địa phương. Số người chuyển đi tạm thời (dân số tạm vắng) chỉ có ảnh hưởng đến chỉ tiêu dân số hiện có. Hệ số đi được xác định bằng cách so sánh số đi với dân số bình quân. đ K đ S * Mức biến động cơ học (∆CH) và hệ số biến động cơ học (KCH) Mức biện động cơ học là chỉ tiêu thời kỳ được xác định bằng chênh lệch giữa số đi và số đến. Chỉ tiêu thời kỳ biểu hiện lượng tăng (giảm) tuyệt đối dân số do đi và đến. ∆CH = Đ - đ Hệ số biến động cơ học được xác định bằng cách so sánh mức biến động cơ học với dân số bình quân hoặc chênh lệch giữa hệ số đến và hệ số đi. Hệ số biến động cơ học là chỉ tiêu thời kỳ biểu hiện tỷ lệ tăng (giảm) tương đối dân số do đi và đến. 41
  42. CH KCH S * Mức biến động chung (∆S) và hệ số biến động chung (KS) Mức biến động chung là chỉ tiêu thời kỳ được xác định bằng chênh lệch giữa dân số cuối kỳ và dân số đầu kỳ hoặc bằng tổng mức biến động tự nhiên và mức biến động cơ học. Mức biến động chung là chỉ tiêu thời kỳ biểu hiện hiện tượng tăng (giảm) tuyệt đối dân số do cả biến động tự nhiên và biến động cơ học gây ra. ∆S= Sck - SĐK ∆S = ∆TN + ∆CH Hệ số biến động cơ học chung được xác định bằng cách so sánh mức biến động chung với dân số bình quân hoặc bằng tổng hệ số biến động tự nhiên và hệ số biến động cơ học. Hệ số biến động chung là chỉ tiêu thời kỳ biểu hiện tỷ lệ tăng (giảm) tương đối dân số do cả biến động tự nhiên và biến động cơ học gây ra. S K S KTN K CH S Ngoài các phương pháp và mô hình phân tích trên, tuỳ theo nhiệm vụ nghiên cứu có thể vận dụng phương pháp dãy số thời gian (các dãy số thời kỳ), mô hình có dạng chỉ số tổng và hồi quy tương quan. Ví dụ: Có tài liệu về dân số một địa phương năm 2015 như sau: Chỉ tiêu Trị số Chỉ tiêu Trị số Đầu năm Trong năm Dân số thường trú 35.000 Số sinh 5.000 Dân số tạm trú 4.000 Số chết 2.000 Dân số tạm vắng 5.000 Số đến 3.000 Số đi 1.000 Cuối năm: Dân số tạm trú tăng so với đầu năm 1.000 Dân số tạm vắng giảm so với đầu năm 2.000 Dân số hiện có 32.000 Yêu cầu: a- Tính quy mô dân số thường trú cuối năm và bình quân năm? b- Tính quy mô dân số hiện có đầu năm, cuối năm và bình quân năm? 42
  43. c- Tính các chỉ tiêu phản ánh biến động dân số? Bài làm: a) Dân số thường trú cuối năm Stht (cuối năm) = Shc - Stt + Stv = 32.000 – (4.000 + 1.000) + (5.000 – 2.000) = 30.000 (người) Dân số thường trú bình quân năm: (đầ ă) + (ố ă) = 2 = (35.000+30.000)/2 = 32.500(người) b) Dân số hiện có đầu năm: Shc(đầu năm) = Stht(đn) + Stt(đn) – Stv(đn) = 35.000 + 4.000 – 5.000 = 34.000(người) Dân số hiện có cuối năm: Shc(cuối năm) = Stht(cn) + Stt(cn) – Stv(cn) = 30.000 + 5.000 – 3.000 = 32.000 (người) (đầ ă) + (ố ă) = 2 = (34.000+32.000)/2 = 33.000 (người) c)Các chỉ tiêu phản ánh biến động dân số * Theo dân số thường trú 5.000 = = = 0,1538 ầ = 15,38% 32.500 2.000 = = = 0,0615 ầ = 6,15% 32.500 ∆TN = N – M = 5.000 – 2.000 = 3.000 (người) ∆ 3.000 = = = 0,0923 ầ = 9,23% 32.500 Đ 3.000 Đ = = = 0,0923 ầ = 9,23% 32.500 43
  44. đ 1.000 đ = = = 0,0307 ầ = 3,07% 32.500 ∆CH = Đ – đ = 3.000 – 1.000 = 2.000 (người) ∆ 2.000 = = = 0,0615 ầ = 6,15% 32.500 ∆S = ∆TN + ∆CH = 3.000 + 2.000 = 5.000 người S K S KTN K CH S = 0,0923 + 0,0615 = 0,1538 lần = 15,38% * Theo dân số hiện có 5.000 = = = 0,1515 ầ = 15,15% 33.000 2.000 = = = 0,0606 ầ = 6,06% 33.000 ∆TN = N – M = 5.000 – 2.000 = 3.000 (người) ∆ 3.000 = = = 0,0909 ầ = 9,09% 33.000 Đ 3.000 Đ = = = 0,0909 ầ = 9,09% 33.000 đ 1.000 đ = = = 0,0303 ầ = 3,03% 33.000 ∆CH = Đ – đ = 3.000 – 1.000 = 2.000 (người) ∆ 2.000 = = = 0,0606 ầ = 6,06% 33.000 ∆S = ∆TN + ∆CH = 3.000 + 2.000 = 5.000 người S K S KTN K CH S = 0,0909 + 0,0606 = 0,1515 lần = 15,15% 44
  45. 2.1.2. Thống kê lao động 2.1.2.1. Xác định quy mô nguồn lao động Trong thống kê kinh tế, việc xác định nguồn lao động có ý nghĩa rất quan trọng vì nó liên quan trực tiếp đến xác định và đánh giá nguồn nhân lực, một trong những yếu tố cơ bản của nguồn lực sản xuất. Khác với dân số, nguồn lao động ở đây được xem xét chủ yếu trên giác độ nguồn lực sản xuất. Nguồn lao động là một bộ phận của dân số có khả năng lao động bao gồm dân số trong độ tuổi lao động có khả năng lao động và dân số ngoài tuổi lao động đang làm việc thường xuyên trong nền kinh tế quốc dân. Khả năng lao động của dân số phụ thuộc vào hai yếu tố: - Thể lực (sức khoẻ); - Trí lực của con người. Giới hạn tuổi lao động được quy định phù hợp với khả năng lao động và trình độ phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Số lượng và cơ cấu nguồn lao động được xác định theo sơ đồ sau: Dân số Trong độ tuổi lao động Ngoài độ tuổi lao động Không có khả Có khả năng Đang làm việc Không làm việc năng lao động lao động thường xuyên thường xuyên Nguồn lao động Nguồn lao động được xác định dựa vào nguồn tài liệu của tổng điều tra dân số, điều tra lao động và thống kê dân số thường xuyên. Nguồn lao động là bộ phận của dân số nên chỉ tiêu quy mô nguồn lao động cũng là chỉ tiêu thời điểm và việc sử dụng chỉ tiêu này cũng cần tuân thủ các yêu cầu tương tự như chỉ tiêu dân số. Để phản ánh quy mô điển hình của nguồn lao động trong một thời kỳ nhất định, phải tính chỉ tiêu nguồn lao động bình quân, theo các công thức sau: Các ký hiệu: T: Nguồn lao động bình quân; T ĐK – Nguồn lao động đầu kỳ; TCK - Nguồn lao động cuối kỳ nghiên cứu; Ti - Nguồn lao động tại thời điểm thứ I; 45
  46. ti ( i = 1,n) - Độ dài thời gian có mức độ Ti. Khi đó: T T DK T CK (1) 2 T 1 T n T 2 T n 1 T 2 2 (2) n 1 T T i t i (3)  t i Công thức (1) được áp dụng khi biến động nguồn lao động tương đối đều. Công thức (2) được áp dụng khi biến động nguồn lao động là không đều, có số liệu về nguồn lao động ở các thời điểm có khoảng cách bằng nhau. Công thức (3) được áp dụng khi biến động nguồn lao động là không đều, có số liệu về nguồn lao động ở các thời điểm có khoảng cách không bằng nhau. 2.1.2.2.Thống kê cơ cấu nguồn lao động Cơ cấu (cấu thành và kết cấu) nguồn lao động phản ánh đặc trưng nguồn lao động của từng quốc gia hoặc địa phương qua từng thời kỳ và được hình thành qua quá trình phân phối và sử dụng nguồn lao động. Nghiên cứu cơ cấu nguồn lao động có nghĩa là nghiên cứu sự phân chia nguồn lao động thành các nhóm khác nhau theo một hay một số tiêu thức nghiên cứu. Muốn vậy, cần áp dụng rộng rãi phương pháp phân tổ. Có thể nghiên cứu cơ cấu nguồn lao động theo các tiêu thức sau: * Theo giới tính, độ tuổi, dân tộc, trình độ văn hoá, vùng, địa phương Thường được sử dụng nhằm phản ánh khả năng lao động, đặc điểm sử dụng lao động và vai trò trong quá trình sản xuất của lao động nam và nữ theo các nhóm tuổi; thấy được sự biến động và vai trò của từng nhóm tuổi trong việc hình thành nguồn lao động * Theo nghề Cơ cấu nguồn lao động theo nghề là một trong những chỉ tiêu chất lượng quan trọng nghiên cứu nguồn lao động, cho phép nghiên cứu chất lượng, quá trình phân công và phân công lại lao động, nguồn lao động theo nghề; cho phép nghiên cứu xu hướng biến đổi cơ cấu nghề, cơ cấu giữa lao động trí óc và lao động chân tay trong nền kinh tế quốc dân; giúp đánh giá khả năng và nhu cầu 46
  47. đào tạo làm cơ sở lập kế hoạch đào tạo, đào tạo lại và nâng cao trình độ cho người lao động. Để phân tổ nguồn lao động theo nghề nghiệp được chính xác cần phải phân biệt việc làm, nghề nghiệp và tay nghề và phải xây dựng, sử dụng một danh mục phân loại nghề nghiệp chuẩn. * Theo ngành kinh tế Cơ cấu nguồn lao động theo ngành kinh tế cho phép nghiên cứu cơ cấu, quá trình phân phối và sử dụng nguồn lao động theo từng ngành kinh tế và toàn bộ nền kinh tế quốc dân, cho phép nghiên cứu xu hướng biến động của cơ cấu đó qua từng thời kỳ. * Theo trình độ chuyên môn (cấp đào tạo) Cơ cấu nguồn lao động theo trình độ chuyên môn cho phép nghiên cứu chất lượng của nguồn lao động, tính các chỉ tiêu bậc chuyên môn bình quân, phân tích ảnh hưởng của nó đến chất lượng sản phẩm và chi phí sản xuất cũng như khả năng cạnh tranh của các đơn vị trong cơ chế thị trường. Nó là cơ sở để lập kế hoạch đào tạo và nâng cao trình độ cho người lao động. * Theo thâm niên Có thể nghiên cứu thâm niên người lao động theo hai tiêu thức khác như: Thâm niên công tác và thâm niên nghề nghiệp. Chỉ tiêu cơ cấu nguồn lao động theo thâm niên cho phép đánh giá độ ổn định của lao động, đánh giá ảnh hưởng của nó đến các chỉ tiêu khác như hiệu quả sản xuất, chi phí sản xuất * Theo tiêu thức sử dụng nguồn lao động Theo tiêu thức này, nguồn lao động được chia thành hai nhóm: - Dân số hoạt động kinh tế gồm những người đang có việc làm (đang tham gia lao động ở một ngành nghề kinh tế nào đó của nền kinh tế quốc dân) và những người không có việc làm, thất nghiệp (đang tích cực tìm cách tham gia lao động ở một ngành nghề kinh tế nào đó). - Dân số không hoạt động kinh tế bao gồm những người làm việc nhà (nội trợ); học sinh, sinh viên, người hưởng lợi tức, hưởng thu nhập mà không phải lao động. Tất nhiên khái niệm dân số không hoạt động kinh tế rộng hơn bộ phận nguồn lao động đang hoạt động kinh tế. Nó lớn hơn bộ phận này một lượng bằng dân số không thuộc nguồn lao động. 47
  48. Như vậy, cần phân biệt cơ cấu nguồn lao động theo hai tiêu thức: hoạt động kinh tế và có việc làm. Phân tổ này phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lao động và là cơ sở để tính chỉ tiêu tỷ lệ huy động nguồn lao động là tỷ số giữa số lao động(người có việc làm) với nguồn lao động bình quân trong năm. 2.1.2.3. Thống kê thất nghiệp * Xác định quy mô thất nghiệp Thất nghiệp là một trong những vấn đề “nan giải” của nền kinh tế thị trường.Thất nghiệp là một bộ phận đặc biệt của nguồn lao động, cần được nghiên cứu chi tiết hơn trong một mục. Hiện còn tồn tại nhiều khái niệm khác nhau về thất nghiệp: - Thất nghiệp là người thuộc nguồn lao động(có khả năng lao động) nhưng hiện tại không có việc làm. - Thất nghiệp là người có khả năng lao động, có nhu cầu về việc làm nhưng hiện không có việc làm. - Theo Paul A. Samuelsơn: Thất nghiệp bao gồm những người không có việc làm nhưng đang tích cực tìm việc hoặc đang chờ đợi trở lại làm việc. - Theo tổ chức lao động Quốc tế (ILO): Thất nghiệp là tình cảnh của người lao động không có việc làm vì những lý do ngoài ý muốn của họ, do đó không có thu nhập. Cũng có thể hiểu thất nghiệp là mất việc làm, nghĩa là có thể hiểu đã có việc làm mà bị mất việc làm. Đơn giản hơn có thể hiểu: Được coi là thất nghiệp là những người có tên trong danh sách thất nghiệp, được hưởng trợ cấp thất nghiệp. Từ những khái niệm trên có thể đưa ra một khái niệm thống nhất về thất nghiệp như sau: Thất nghiệp là những người có khả năng lao động, có nhu cầu lao động nhưng hiện tại không có việc làm, đang tích cực tìm việc hoặc đang chờ đợi trở lại làm việc, có thể thống kê được. Để xác định chỉ tiêu thất nghiệp thường sử dụng hai phương pháp: - Đăng ký thất nghiệp(thống kê thường xuyên). - Điều tra thất nghiệp. 48
  49. *Thống kê cơ cấu thất nghiệp Tuỳ theo mục đích nghiên cứu, có nhiều cách phân loại thất nghiệp. Sau đây là một số tiêu thức chủ yếu thường được dùng để phân loại thất nghiệp: -Theo đặc điểm, toàn bộ thất nghiệp được chia thành: thất nghiệp hữu hình và thất nghiệp vô hình. - Theo tính chất, toàn bộ thất nghiệp được chia thành: thất nghiệp tự nguyện và thất nghiệp không tự nguyện. - Theo nguồn gốc, toàn bộ thất nghiệp được chia thành: thất nghiệp tạm thời, thất nghiệp có tính chất cơ cấu, thất nghiệp theo chu kỳ. * Phân tích thống kê thất nghiệp Số thất nghiệp là chỉ tiêu tuyệt đối thời điểm và thường không gắn chặt với con người cụ thể, bởi vì đối tượng thất nghiệp cụ thể thường xuyên biến động. Một người được coi là có việc làm trong thời kỳ điều tra có thể trở thành thất nghiệp trong thời điểm khác và ngược lại. Phân tích thống kê thất nghiệp các chỉ tiêu sau: - Tỷ lệ thất nghiệp thực tế Tỷlệ thất nghiệp thực tế được xác định bằng cách so sánh số người thất nghiệp với toàn bộ lực lượng lao động. Lực lượng lao động bao gồm: - Những người có việc làm, bao gồm: Những người làm một việc gì đó được trả công; những người có việc làm nhưng nghỉ vì ốm; đình công; nghỉ hè. - Thất nghiệp. Không nằm trong lực lượng lao động, bao gồm những người: - Đang đi học (học sinh, sinh viên). - Trông coi nhà cửa (nội trợ). - Về hưu. - Quá đau ốm không đi làm được hoặc đã thôi không tìm việc làm nữa. Như vậy, lực lượng lao động được nói ở đây có thể được hiểu là một bộ phận của nguồn lao động có khả năng huy động vào hoạt động kinh tế và thường được gọi là số lao động. Cũng cần phân biệt hai cách phân loại nguồn lao động theo tiêu thức sử dụng, có liên quan với nhau nhưng cũng có phân biệt với nhau. Đó là phân chia 49
  50. nguồn lao động thành đang làm việc và chưa hoặc không tham gia hoạt động kinh tế. Người ta cũng chia toàn bộ dân số thành dân số hoạt động kinh tế và dân số không hoạt động kinh tế. - Tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên: Là tỷ lệ thất nghiệp được xác định khi các thì trường lao động khác biệt nhau của đất nước ở trạng thái mất cân bằng nhưng thị trường lao động tổng thể ở trạng thái cân bằng, nghĩa là ở một số thị trường thì cầu quá mức (thiếu lao động, nhiều việc không có người làm), trong khi đó ở những thị trường khác cung quá mức (có thất nghiệp). 2.1.2.4. Thống kê biến động nguồn lao động Nguồn lao động là chỉ tiêu thời điểm và luôn biến động. Theo nguyên nhân có thể phân biệt hai loại biến động nguồn lao động: Biến động tự nhiên và biến động cơ học. * Thống kê biến động tự nhiên của nguồn lao động Biến động tự nhiên của nguồn lao động là biến động nguồn lao động do đến tuổi lao động, hết tuổi lao động, chết hoặc mất sức trong độ tuổi lao động. Nó phụ thuộc vào hai yếu tố: - Biến động tự nhiên của dân số, đặc biệt là bộ phận dân số trong độ tuổi lao động có khả năng lao động. - Biến động của các điều kiện kinh tế- xã hội của đất nước trong từng thời kỳ. Để phản ánh tình hình biến động tự nhiên của nguồn lao động, thống kê các chỉ tiêu sau: Số lượng bổ sung tự nhiên nguồn lao động (ký hiệu TB) bao gồm: - Những người đạt tuổi 15, có khả năng lao động. - Những người ngoài độ tuổi lao động được thu hút thêm vào lao động xã hội. Số lượng giảm tự nhiên các nguồn lao động (ký hiệu TG) bao gồm: - Những người đến tuổi nghỉ hưu. - Những người trong độ tuổi lao động bị chết và bị tàn phế trong năm. - Những người ngoài tuổi lao động trước đây có tham gia lao động nay rời khỏi nguồn lao động vì các lý do khác nhau. Biến động tuyệt đối tự nhiên nguồn lao động ( T ) là lượng tăng (giảm) TN thuần tuý tự nhiên nguồn lao động (NLĐ). Các ký hiệu: 50
  51. T - Lượng tăng (giảm) thuần tuý tự nhiên NLĐ; TN TB - Số lượng bổ sung tự nhiên NLĐ; TG - Số lượng giảm tự nhiên NLĐ; TCK - Nguồn lao động cuối kỳ; TĐK - Nguồn lao động đầu kỳ. Công thức tính: T = T – T TN B G Biến động tương đối tự nhiên NLĐ được biểu hiện qua chỉ tiêu hệ số tăng (giảm) tự nhiên nguồn lao động (ký hiệu TN ) K T T TN Biến động tương đối tự nhiên nguồn lao động TN được xác định K T T bằng cách so sánh biến động tuyệt đối tự nhiên nguồn lao động với nguồn lao động bình quân kỳ nghiên cứu. Cũng có thể tính các chỉ tiêu biến động tuyệt đối và tương đối nguồn lao động theo các nguyên nhân chi tiết hơn; ví dụ: Hệ số tăng thuần tuý NLĐ do biến động của dân số trong độ tuổi lao động có khả năng lao động * Thống kê biến động cơ học nguồn lao động Biến động cơ học của nguồn lao động là biến động dẫn đến sự thay đổi quy mô và cơ cấu nguồn lao động do sự di chuyển nguồn lao động về mặt không gian (lãnh thổ) từ nơi này đến nơi khác trong phạm vi một quốc gia (hoặc từ quốc gia này đến quốc gia khác). Để phản ánh tình hình biến động cơ học của nguồn lao động, thống kê tính các chỉ tiêu sau: - Nguồn lao động đến (ký hiệu TĐ). T K Đ Đ T - Nguồn lao động đi (ký hiệu Tđ). - Biến động tuyệt đối cơ học nguồn lao động được biểu hiện qua chỉ tiêu hệ số tăng (giảm) thuần tuý cơ học NLĐ (ký hiệu T T T ). CH Đ đ Hệ số tăng (giảm) thuần tuý cơ học nguồn lao động được xác định bằng cách so sánh biến động tuyệt đối cơ học nguồn lao động với nguồn lao động bình quân nghiên cứu. T CH CH K T T 51
  52. * Thống kê biến động chung của nguồn lao động Biến động chung của nguồn lao động bao gồm biến động tự nhiên và biến động cơ học. Thống kê biến động chung của nguồn lao động tính các chỉ tiêu sau: - Biến động tuyệt đối nguồn lao động là lượng tăng (giảm) thuần tuý nguồn lao động của nguồn lao động(ký hiệu T ) được xác định bằng hiệu số giữa nguồn lao động cuối năm và nguồn lao động đầu năm (hoặc bằng tổng số giữa lượng tăng giảm tự nhiên và lượng tăng giảm cơ học nguồn lao động). = T - T hoặc T T T CK ĐK T TN CH - Biến động tương đối nguồn lao động được biểu hiện qua chỉ tiêu hệ số tăng (hoặc giảm) chung của nguồn lao động [ký hiệu (∆)] là tỷ số giữa lượng tăng (giảm) thuần tuý với NLĐ với NLĐ bình quân [hoặc tổng hệ số tăng (giảm)thuần tuý NLĐ và hệ số tăng (giảm) cơ học NLĐ]. K T (1) T T CH TN KT KT KT Để phân tích biến động dân số và nguồn lao động, thường dùng phương pháp: chỉ số, bảng cân đối, dãy số thời gian Ngoài các phương pháp và mô hình phân tích trên, tuỳ theo nhiệm vụ nghiên cứu có thể vận dụng phương pháp dãy số thời gian (các dãy số thời kỳ), mô hình có dạng chỉ số tổng và hồi quy tương quan. 2.1.2.5. Dự báo nguồn lao động xã hội Dự báo nguồn lao động tương lai của một địa phương hay một nước là một trong những dự báo quan trọng, bởi vì các tài liệu của dự báo nguồn lao động là căn cứ để xây dựng các kế hoạch phát triển nền kinh tế quốc dân và là cơ sở để tiến hành các dự báo kinh tế - xã hội khác. Để dự báo nguồn lao động phải xuất phát từ chỉ tiêu dân số vì nguồn lao động là một bộ phận của dân số và phải xuất phát từ mối quan hệ giữa dân số và nguồn lao động Như đã biết: Dân số ngoài độ tuổi Nguồn lao Dân số trong độ tuổi lao lao động thực tế đang động = động có khả năng lao + làm việc thường xuyên (T) động(ST) trong nền KTQD(TNT) 52
  53. Xuất phát từ mối quan hệ trên, có thể dự báo nguồn lao động tương lai theo công thức sau: Tn = STn + TNT = Sn x D x H + Sn (100 – D)x d Trong đó: Tn - Số lượng nguồn lao động năm dự báo thứ n (n=1, 2, 3 ). Sn - Dân số năm dự báo thứ n (dự báo được bằng các phương pháp dự báo dân số ). D - tỷ trọng dân số trong độ tuổi lao động trong tổng số dân. d - Tỷ trọng lao động ngoài độ tuổi lao động trong dân số ngoài tuổi lao động . H - Hệ số có khả năng lao động của dân số trong độ tuổi lao động. n - Tầm dự báo. Ví dụ: Có số liệu thống kê năm 2015 của một địa phương như sau: Đầu năm: Dân số tổng độ tuổi lao động là 20.000 người, trong đó: dân số độ tuổi lao động có khả năng lao động chiếm 70%; Dân số ngoài độ tuổi lao động, thực tế đang làm việc 1.500 người. Trong năm: Trẻ em đủ 15 tuổi là 4.000; trong đó không có khả năng lao động chiếm 10%; người ngoài độ tuổi lao động thu hút thêm vào làm việc 500 người; nguồn lao động đến 500 người; nguồn lao động đi 1.000 người; những người thuộc nguồn lao động nghỉ hưu, mất sức, chết: 4.000 người. Yêu cầu: a) Tính quy mô nguồn lao động đầu năm, cuối năm và bình quân năm? b) Tính các chỉ tiêu phản ánh biến động nguồn lao động? Bài làm: a) Quy mô nguồn lao động đầu năm: Tđn = (20.000 x 70%) + 1.500 = 15.500 (người) Ttrong năm = (4.000 x 90%) + 500 + 500 – 1.000 – 4.000 = -400 (người) Tcuối năm = 15500 – 400 = 15.100 (người) T T DK T CK 2 = (15.500 + 15.100)/2 = 15.300 (người) b) Các chỉ tiêu phản ánh biến động nguồn lao động T = T – T TN B G 53
  54. = (4.000 x 90%) + 500 – 4.000 = 100 người T TN TN K T T = 100/15300 = 0,6536 % T T T = 500 – 1.000 = - 500 người CH Đ đ T CH CH K T T = -500/15.300 = -3,268% T T = 15.100 – 15.500 = -400 người T TN CH CH TN KT KT KT = 0,6536 – 3,268 = -2,6144% 2.2. Thống kê tài sản quốc dân 2.2.1. Khái niệm và cấu thành tài sản quốc dân * Khái niệm Của cải quốc dân là toàn bộ sản phẩm do lao động của con người tạo ra được tích luỹ lại (từ năm này qua năm khác đến một thời điểm nào đó cùng với những tài nguyên thiên nhiên đã được khảo sát, thăm dò, tính toán và có thể đem sử dụng vào những hoạt động kinh tế xã hội. Quy mô của cải quốc dân là chỉ tiêu tuyệt đối thời điểm, có thể được xác định theo đơn vị hiện vật và đơn vị giá trị. * Cấu thành của cải quốc dân - Theo nguồn gốc phát sinh Của cải quốc dân bao gồm 2 bộ phận: Bộ phận thứ nhất của của cải quốc dân là tài sản quốc dân. Đó là toàn bộ sản phẩm do lao động sáng tạo ra được tích luỹ lại, bao gồm: tài sản cố định, tài sản lưu động, tài sản quý hiếm Bộ phận thứ hai của của cải quốc dân là tài nguyên thiên nhiên, bao gồm: đất đai, các nguồn khoáng sản, năng lượng, nguồn nước, rừng, núi đã được khảo sát, thăm dò, tính toán và có thể đem sử dụng được. Nội dung nói trên của của cải quốc dân được xác định theo quan điểm thống kê, tức là chỉ tính đến các yếu tố có thể lượng hoá được. Đây không phải là khái niệm khái quát, phổ biến của của cải quốc dân. 54
  55. - Theo các tiêu thức khác Ngoài việc nghiên cứu cơ cấu của cải quốc dân theo nguồn gốc phát sinh còn có thể nghiên cứu cơ cấu của cải quốc dân theo các tiêu thức khác như: theo công dụng kinh tế, theo hình thức sở hữu, theo ngành kinh tế, theo vùng kinh tế (địa phương), theo mục đích sử dụng, theo hình thái sử dụng 2.2.2. Thống kê tài sản cố định 2.2.2.1. Xác định quy mô và cấu thành tài sản cố định * Xác định quy mô tài sản cố định Tài sản cố định (TSCĐ) là những tư liệu lao động có tính chất vật chất (hữu hình), có giá trị lớn và được sử dụng – kinh doanh hình thái vật chất của tài sản cố định hầu như không thay đổi, còn giá trị giảm dần trong suốt thời gian tồn tại và các tài sản không có hình thái vật chất (vô hình). Quy mô tài sản cố định là một bộ phận của của cải quốc dân, vì vậy nó là chỉ tiêu tuyệt đối thời điểm và có thể được tính theo đơn vị hiện vật và giá trị (tiền). - Thống kê số lượng tài sản cố định Số lượng TSCĐ được xác định dưới hình thái hiện vật. Dưới hình thái này, TSCĐ bao gồm nhiều loại khác nhau về công dụng, chức năng kỹ thuật, đơn vị đo lường, thời gian sử dụng Vì vậy, muốn thống kê số lượng TSCĐ cần phải phân loại TSCĐ. Phân loại TSCĐ là việc sắp xếp TSCĐ thành từng nhóm (loại) khác nhau theo những đặc trưng của nó. Theo hình thái hiện vật, TSCĐ của nền KTQD bao gồm các nhóm (loại) sau: + Nhà cửa và vật kiến trúc; + Máy móc thiết bị; + Phương tiện vận tải; + Thiết bị và dụng cụ quản lý; + Cây lâu năm, súc vật làm việc và súc vật cho sản phẩm; + Tài sản cố định phúc lợi; + Tài sản cố định khác. Xác định số lượng TSCĐ theo hình thái hiện vật có tác dụng rất lớn trong việc nghiên cứu quy mô của từng loại TSCĐ; là cơ sở để lập kế hoạch mua sắm, sửa chữa lớn, hiện đại hoá và tái sản xuất TSCĐ trong từng doanh nghiệp, từng 55
  56. ngành cũng như toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Nhưng nghiên cứu TSCĐ dưới hình thái hiện vật không cho phép tổng hợp được toàn bộ TSCĐ của từng doanh nghiệp, từng ngành và toàn bộ nền kinh tế quốc dân. - Thống kê giá trị tài sản cố định Thống kê giá trị TSCĐ thực chất là nghiên cứu TSCĐ dưới hình thái giá trị (tiền); cho phépphản ánh tổng hợp toàn bộ TSCĐ của từng doanh nghiệp, từng ngành và toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Muốn thống kê giá trị TSCĐ phải đánh giá TSCĐ theo các loại giá khác nhau: Giá ban đầu hoàn toàn (còn gọi là nguyên giá), giá khôi phục hoàn toàn, giá ban đầu hoàn toàn đã trừ hao mòn và giá khôi phục hoàn toàn đã trừ hao mòn (giá trị còn lại), giá hiện hành, giá so sánh và giá cố định. + Nguyên giá (Giá trị ban đầu hoàn toàn (ký hiệu Gbđ)) Giá trị ban đầu hoàn toàn của TSCĐ là toàn bộ chi phí để mua sắm hoặc xây dựng mới, chuyên chở, lắp đặt và chạy thử (nếu có) TSCĐ đó vào thời kỳ hình thành nó. Đánh giá TSCĐ theo giá ban đầu hoàn toàn phản ánh đúng số vốn đã thực tế bỏ ra để có TSCĐ, là cơ sở để tính khấu hao TSCĐ và lập bảng cân đối TSCĐ. Tuy nhiên, đánh giá TSCĐ theo giá trị ban đầu hoàn toàn không xác định được trạng thái và giá trị còn lại của TSCĐ, không cho phép nghiên cứu biến động thuần tuý về mặt khối lượng của TSCĐ. + Giá đánh giá lại (Giá trị khôi phục hoàn toàn (ký hiệu GKP)) Giá trị khôi phục hoàn toàn của TSCĐ là giá trị ban đầu hoàn toàn của TSCĐ cùng loại được tái sản xuất trong điều kiện hiện tại của nền sản xuất xã hội vào thời điểm nghiên cứu. Đó là tổng số tiền cần thiết phải chi ra để mua sắm, xây dựng, chuyên chở, lắp đặt và chạy thử TSCĐ(nếu có) trong điều kiện hiện tại vào thời điểm nghiên cứu. Đánh giá TSCĐ theo giá trị khôi phục hoàn toàn, thực chất là đánh giá lại giá trị của những TSCĐ cùng loại đã được sản xuất ở các thời kỳ khác nhau theo một giá thống nhất trong điều kiện hiện tại. Đánh giá TSCĐ theo giá trị khôi phục hoàn toàn cho phép xác định được số vốn cần thiết phải bỏ ra để tái sản xuất TSCĐ cùng loại trong điều kiện hiện tại; xác định được mức độ hao mòn vô hình của TSCĐ và lập bảng cân đối TSCĐ. Tuy nhiên, dùng giá này cũng 56
  57. không cho phép xác định được trạng thái và giá trị còn lại của TSCĐ. Thêm vào đó, để đánh giá TSCĐ theo giá khôi phục hoàn toàn cần phải tổ chức tổng kiểm kê TSCĐ. Đây là một công việc phức tạp, tốn nhiều công sức. + Giá trị còn lại (ký hiệu Gcl) Giá trị ban đầu (hoặc khôi phục) hoàn toàn đã trừ hao mòn là giá trị của TSCĐ còn lại tại thời điểm nghiên cứu. Công thức xác định: Gcl = Gbđ (kp) - Tổng số hao mòn của TSCĐ. Đánh giá TSCĐ theo giá còn lại cho phép phản ánh tương đối chính xác trạng thái, năng lực sản xuất của TSCĐ, phản ánh số tiền còn lại cần phải tiếp tục thu hồi dưới hình thức khấu hao. * Cơ cấu tài sản cố định Tuỳ theo mục đích nghiên cứu, cấu thành và kết cấu TSCĐ thường được xét theo các tiêu thức sau: - Theo công dụng kinh tế Theo công dụng kinh tế, TSCĐ gồm TSCĐ dùng cho sản xuất và TSCĐ dùng cho không sản xuất. Hai loại TSCĐ này khác nhau ở phương thức chu chuyển giá trị. Giá trị TSCĐ dùng cho sản xuất giảm và chuyển dần vào giá trị sản phẩm sản xuất và được thu hồi dần qua khấu hao, được tích luỹ lại hình thành quỹ (vốn) khấu hao để tái sản xuất giản đơn TSCĐ. Giá trị TSCĐ dùng cho không sản xuất giảm và mất dần. Nguồn vốn để tái sản xuất chúng là tiết kiệm (để dành) thuần. - Theo quyền sở hữu Theo quyền sở hữu, toàn bộ TSCĐ được chia ra: TSCĐ tự có, TSCĐ đi thuê dài hạn (còn gọi là thuê tài chính). - Theo công dụng và tình hình sử dụng Theo công dụng và tình hình sử dụng, toàn bộ TSCĐ được chia ra: TSCĐ dùng cho sản xuất, TSCĐ không dùng cho sản xuất, TSCĐ phúc lợi, TSCĐ chờ thanh lý. - Theo nguồn hình thành Theo nguồn hình thành, toàn bộ TSCĐ được chia ra: TSCĐ mua sắm, xây dựng bằng nguồn vốn pháp định; TSCĐ mua sắm xây dựng bằng vốn đầu tư xây dựng cơ bản; TSCĐ mua sắm xây dựng bằng nguồn vốn tín dụng (vay ngân 57
  58. hàng); TSCĐ xây dựng bằng nguồn vốn cổ phần, liên doanh liên kết. - Theo vai trò trong quá trình sản xuất Theo vai trò trong quá trình sản xuất, toàn bộ TSCĐ được chia ra: TSCĐ tích cực, TSCĐ thụ động. - Theo đặc tính Theo đặc tính, toàn bộ TSCĐ được chia thành TSCĐ hữu hình, vô hình. 2.2.2.2. Thống kê hao mòn và khấu hao tài sản cố định Trong quá trình sử dụng lâu dài, TSCĐ bị hao mòn, giảm dần giá trị, cũ kỹ và cuối cùng phải thanh lý, đối với tài sản cố định dùng cho sản xuất, giá trị của TSCĐ được chuyển dần dần vào giá trị của sản phẩm mà TSCĐ tham gia sản xuất ra theo mức độ hao mòn. Sau khi tiêu thụ sản phẩm phần giá trị chuyển dịch của TSCĐ vào giá trị của sản phẩm được thu hồi lại dưới dạng trích khấu hao. Thống kê hao mòn TSCĐ tính các chỉ tiêu sau: * Tổng mức khấu hao tài sản cố định (ký hiệu M) Tổng mức khấu hao TSCĐ là toàn bộ giá trị của TSCĐ chuyển vào sản phẩm và sẽ được thu hồi trong suốt thời gian (cả đời) hoạt động của TSCĐ. Công thức xác định: M = (Gbd(kp)– Glb) + (Gscl + Ghđh) Trong đó: M _Tổng mức khấu hao; Gbd(kp) – Giá trị ban đầu (hoặc khôi phục) hoàn toàn của TSCĐ; Glb – Giá trị loại bỏ; Gscl – Chi phí sửa chữa lớn TSCĐ dự kiến trong suốt thời gian hoạt động của TSCĐ; Gbhđh – Chi phí hiện đại hoá TSCĐ dự kiến trong suốt thời gian hoạt động của TSCĐ; Tổng mức khấu hao TSCĐ gồm hai bộ phận quan trọng: - Tổng mức khấu hao cơ bản ký hiệu MCB MCB = (Gbđ(kp) – Glb) - Tổng mức khấu hao sửa chữa lớn và hiện đại hoá (ký hiệu MSH) MSH= (Gscl + Ghđh) 58
  59. * Mức khấu hao tài sản cố định (ký hiệu A) Mức khấu hao được xác định phụ thuộc vào phương thức khấu hao. Có phương thức khấu hao TSCĐ phù hợp với đặc điểm từng loại TSCĐ: Khấu hao theo năm, theo ca, theo đoạn đường vận chuyển. Mức khấu hao năm là số tiền trích khấu hao bình quân hàng năm.Tuỳ thuộc vào phương thức khấu hao đều hay giảm dần mà công thức xác định mức khấu hao cũng khác nhau. Trong trường hợp khấu hao đều, công thức xác định mức khấu hao: M A = A T Trong đó: T - Thời gian sử dụng của TSCĐ (tính bằng năm). Tương tự tổng mức khấu hao, mức khấu hao cũng bao gồm hai bộ phận: - Mức khấu hao cơ bản năm (ký hiệu ACB) CB ACB = ACB M T - Mức khấu hao sửa chữa lớn và hiện đại hoá năm (ký hiệu ASH) SH ASH = ASH M T * Tỷ suất khấu hao TSCĐ (ký hiệu η) Tỷ suất khấu hao là tỷ lệ phần trăm (%) giữa mức khấu hao năm và giá trị ban đầu (hoặc giá trị khôi phục) hoàn toàn của TSCĐ. A M Công thức xác định: η = = GCB(KP) TGCB(KP) Tương tự tổng mức khấu hao và mức khấu hao, tỷ suất khấu hao (η) cũng bao gồm hai bộ phận: - Tỷ suất khấu hao cơ bản (ký hiệu ηCB): CB CB ηCB = A = M GCB(kp) TGCB(KP) -Tỷ suất khấu hao sửa chữa lớn và hiện đại hoá (ký hiệu ηSH) SH SH η SH = A = M GCB(KP) TGCB(KP) 2.2.2.3. Thống kê trạng thái của tài sản cố định 59
  60. Thống kê TSCĐ có nhiệm vụ phản ánh đúng đắn và kịp thời trạng thái TSCĐ của từng doanh nghiệp, từng ngành và toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Trạng thái TSCĐ ở đây thường được hiểu là cũ hay mới, hao mòn nhiều hay ít. Nghiên cứu trạng thái của TSCĐ, thống kê tính các chỉ tiêu sau: * Hệ số hao mòn tài sản cố định đầu hay cuối kỳ (ký hiệu Hhm) Hệ số hao mòn TSCĐ là tỷ số giữa tổng hao mòn TSCĐ (giá trị TSCĐ đã bị hao mòn) đầu hay cuối kỳ với giá trị ban đầu (hoặc giá trị khôi phục) hoàn toàn của TSCĐ vào đầu hay cuối kỳ. Công thức xác định: HM Hhm = GBD(KP) Trong đó HM - tổng số hao mòn. Chỉ tiêu này phản ánh mức độ hao mòn của TSCĐ ở các thời điểm thường là đầu hay cuối kỳ nghiên cứu, nó biểu hiện tỷ lệ giá trị TSCĐ đã chuyển vào giá trị sản phẩm và đã được thu hồi, có quan hệ tỷ lệ nghịch với trạng thái TSCĐ. * Hệ số còn sử dụng được (còn lại) của tài sản cố định đầu hay cuối kỳ (ký hiệu Hcl) Hệ số còn sử dụng được (còn lại) là tỷ số giữa giá trị còn lại (đã trừ hao mòn) của TSCĐ đầu hay cuối kỳ với giá trị ban đầu (hoặc giá trị khôi phục) hoàn toàn của TSCĐ có vào đầu hay cuối kỳ. Công thức xác định: GCL HCL = GBD(KP) Chỉ tiêu này phản ánh mức độ còn sử dụng được của TSCĐ ở đầu hay cuối kỳ, biểu hiện tỷ lệ giá trị TSCĐ chưa chuyển vào giá trị sản phẩm, chưa thu hồi, cần tiếp tục thu hồi là cơ sở để xác định năng lực sản xuất của các doanh nghiệp, các ngành của nền kinh tế quốc dân. Hệ số còn lại tỷ lệ thuận với trạng thái TSCĐ. * Hệ số đổi mới tài sản cố định (ký hiệu Hđm) Hệ số đổi mới TSCĐ là tỷ số giữa giá trị ban đầu (hoặc khôi phục) hoàn toàn của TSCĐ mới đưa vào hoạt động trong kỳ với giá trị ban đầu (hoặc giá trị khôi phục) hoàn toàn của TSCĐ có vào cuối năm. 60
  61. Công thức xác định: G moi Hđm = BD(KP) Gcuoi ky Chỉ tiêu này phản ánh phần TSCĐ hoàn toàn mới trong toàn bộ TSCĐ có vào cuối kỳ. Nó tỷ lệ thuận với trạng thái TSCĐ. * Hệ số loại bỏ tài sản cố định (ký hiệu HLB) Hệ số loại bỏ TSCĐ là tỷ số giữa TSCĐ bị loại bỏ do hao mòn, cũ kỹ trong kỳ theo giá trị ban đầu (hoặc giá trị khôi phục) hoàn toàn với giá trị ban đầu (hoặc giá trị khôi phục) hoàn toàn của TSCĐ có đầu kỳ. BD GLoai bo Hlb = BD(KP) Gdau ky Chỉ tiêu này phản ánh phần giá trị TSCĐ cũ, bị loại bỏ do hao mòn, cũ kỹ trong toàn bộ TSCĐ có vào đầu kỳ. Nó tỷ lệ nghịch với trạng thái TSCĐ. 2.2.2.4. Thống kê biến động tài sản cố định Tài sản cố định của từng doanh nghiệp, của từng ngành và toàn bộ nền kinh tế thường xuyên biến động cả về mặt hiện vật và giá trị do nhiều nguyên nhân: Một số TSCĐ mới đưa vào sử dụng, một số TSCĐ phải loại bỏ do các nguyên nhân khác nhau, sửa chữa lớn và hiện đại hoá TSCĐ trong quá trình sử dụng, khấu hao TSCĐ hàng năm. Để nghiên cứu sự biến động đó, thống kê TSCĐ sử dụng hai phương pháp: cân đối và chỉ số. * Phương pháp cân đối Vận dụng phương pháp cân đối để nghiên cứu biến động TSCĐ thường được thực hiện bằng cách lập bảng cân đối TSCĐ theo hình thái hiện vật hoặc giá trị. Bảng cân đối TSCĐ theo hình thái hiện vật được lập cho từng loại TSCĐ. Nó không cho phép nghiên cứu biến động nhiều loại TSCĐ khác nhau. Tuỳ theo mục đích nghiên cứu, bảng cân đối TSCĐ dưới hình thái giá trị được lập theo hai loại giá: giá ban đầu (hoặc khôi phục) hoàn toàn và giá còn lại. Sơ đồ (nội dung) của bảng cân đối TSCĐ gồm 2 phần: - Phần chủ đề (hay còn gọi là phần chủ từ, phân tổ): Phân tổ TSCĐ theo cấu thành hiện vật kết hợp với theo công dụng kinh tế. 61
  62. - Phần giải thích (hay còn gọi là phần tân từ, chỉ tiêu): Gồm các chỉ tiêu phản ánh TSCĐ có ở đầu năm, cuối năm và những nguyên nhân tăng, giảm TSCĐ trong năm. BẢNG CÂN ĐỐI TÀI SẢN CỐ ĐỊNH THEO GIÁ BAN ĐẦU Chỉ Tăng trong kỳ Giảm trong kỳ tiêu Biến động so đầu kỳ Mới Đầu đưa Cuối kỳ kỳ Chuyển Tổng Loại Chuyển Tổng Tương vào Tuyệt đối đến số bỏ đi số đối Loại hoạt TSCĐ động A 1 2 3 4=2+3 5 6 7=5+6 8=1+4-7 9=8-1 10=8:1 Toàn bộ BẢNG CÂN ĐỐI TÀI SẢN CỐ ĐỊNH THEO GIÁ CÒN LẠI Chỉ Tăng trong kỳ Giảm trong kỳ Biến động so đầu kỳ tiêu Mới Đầu SCL, đưa Cuối kỳ Chuyển HĐH Loại Chuyển Hao Tương kỳ vào Tổng số Tổng số Tuyệt đối đến hoàn bỏ đi mòn đối hoạt Loại thành TSCĐ động A 1 2 3 4 5=2+3+4 6 7 8 9=6+7+8 10=1+5-9 11=10-1 12=10:1 Toàn bộ Bảng cân đối TSCĐ theo giá ban đầu (hoặc khôi phục) hoàn toàn phản ánh cơ cấu và sự biến động về mặt khối lượng (hiện vật) của TSCĐ, nguyên nhân của sự biến động đó cho phép nghiên cứu quá trình tái sản xuất tài sản cố định về mặt hiện vật. Sở dĩ nói như vậy vì theo bảng này sự biến động hiện vật gắn liền với sự biến động về mặt giá trị. Có thể thông qua hình thái giá trị để nghiên cứu biến động về lượng của TSCĐ. Qua các số liệu trong bảng cân đối có thể tính được các chỉ tiêu: Mức tăng (hoặc giảm) tài sản cố định, hệ số đổi mới và 62