Bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa của người cơ tu trong xây dựng bản/làng và nhà ở (trường hợp thôn Agrồng, xã Atiêng, huyện Tây Giang, tỉnh Quảng Nam)

pdf 7 trang Hùng Dũng 05/01/2024 50
Bạn đang xem tài liệu "Bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa của người cơ tu trong xây dựng bản/làng và nhà ở (trường hợp thôn Agrồng, xã Atiêng, huyện Tây Giang, tỉnh Quảng Nam)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfbao_ton_phat_huy_cac_gia_tri_van_hoa_cua_nguoi_co_tu_trong_x.pdf

Nội dung text: Bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa của người cơ tu trong xây dựng bản/làng và nhà ở (trường hợp thôn Agrồng, xã Atiêng, huyện Tây Giang, tỉnh Quảng Nam)

  1. VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN BẢO TỒN, PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA CỦA NGƯỜI CƠ TU TRONG XÂY DỰNG BẢN/LÀNG VÀ NHÀ Ở (TRƯỜNG HỢP THÔN AGRỒNG, XÃ ATIÊNG, HUYỆN TÂY GIANG, TỈNH QUẢNG NAM) Phạm Văn Lợi Viện Việt Nam học và Khoa học gày nay, khi xu hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa, đô phát triển Nthị hóa và hội nhập ngày càng sâu rộng, nguy cơ các yếu Email: ploivme@gmail.com tố văn hóa truyền thống bị biến đổi, mất dần giá trị đã, đang hiện hữu ở nhiều cộng đồng cư dân, dân tộc. Điều này không chỉ thấy Ngày nhận bài: 25/8/2019 ở các cộng đồng cư dân, dân tộc cư trú ven các thành phố lớn, các Ngày phản biện: 30/8/2019 trung tâm thương mại, công nghiệp lớn ở đồng bằng, mà còn ở các Ngày tác giả sửa:10/9/2019 cộng đồng cư dân, dân tộc sống cạnh các thị trấn, trung tâm dân Ngày duyệt đăng: 25/9/2019 cư, hành chính cấp huyện , ở khu vực biên giới, vùng sâu, vùng xa. Ngày phát hành: 30/9/2019 Bài viết tập trung làm rõ một số vấn đề đặt ra trong quá trình biến đổi văn hóa của cộng đồng người Cơ tu ở thôn Agrồng, xã Atiêng, DOI: huyện Tây Giang, tỉnh Quảng Nam, trong xây dựng làng/bản và nhà ở, dưới tác động của quá trình hình thành và phát triển trung tâm hành chính huyện, từ năm 2005 đến nay (2019), đồng thời, đề xuất một số giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của họ trong tương lai. Từ khoá: Bảo tồn; Phát huy; Giá trị văn hóa; Dân tộc Cơ tu; Bản/làng; Nhà ở. 1. Đặt vấn đề gần các thị trấn, trung tâm dân cư, hành chính cấp Trong thời đại ngày nay, khi xu hướng công huyện ở khu vực biên giới, vùng sâu, vùng xa rất nghiệp hóa - hiện đại hóa, đô thị hóa và hội nhập cần được nghiên cứu, tìm hiểu thực trạng, xu hướng (khu vực, quốc gia, quốc tế) ngày càng sâu rộng, biến đổi và đề xuất giải pháp nhằm bảo tồn và phát không chỉ các cộng đồng cư dân, dân tộc cư trú ở huy vai trò của các thành tố văn hóa truyền thống ven các thành phố lớn (từ cấp đặc biệt đến cấp 3), tốt đẹp trong thời điểm hiện tại và tương lai. cạnh các trung tâm thương mại, công nghiệp lớn ở Dựa trên tư liệu thu thập được từ những chuyến đồng bằng (chủ yếu là người Việt/Kinh và một số điền dã dân tộc học tại địa bàn các năm 2011, 2012, dân tộc có dân số lớn) có nguy cơ bị biến đổi văn 2019 và tư liệu thu thập từ các công trình nghiên hoá, mà ngay cả các cộng đồng cư dân, dân tộc có cứu đã được công bố, bài viết tập trung làm rõ một dân số ít và rất ít người, cư trú cạnh các thị trấn, số vấn đề đặt ra với văn hóa truyền thống của cộng trung tâm dân cư, hành chính cấp huyện ở khu vực đồng người Cơ tu ở thôn Agrồng, xã Atiêng, huyện biên giới, vùng sâu, vùng xa cũng chịu nhiều tác Tây Giang, tỉnh Quảng Nam, trong việc xây dựng động. Văn hóa/các thành tố văn hóa truyền thống làng/bản và nhà ở, dưới tác động của quá trình của họ đã, đang và sẽ bị biến đổi, mai một, mất dần hình thành và phát triển điểm trung tâm hành chính vai trò, giá trị vốn có. Thậm chí, các cộng đồng dân huyện, từ năm 2005 đến 2019 và đề xuất một số giải cư, dân tộc ở các thị trấn, trung tâm dân cư, hành pháp nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa chính cấp huyện thuộc khu vực biên giới, vùng sâu, truyền thống của chính họ, trong các lĩnh vực trên. vùng xa còn có xu hướng chịu tác động nhiều hơn, 2. Tổng quan nghiên cứu mạnh hơn, nhanh hơn do đó là các cộng đồng cư dân, dân tộc có dân số ít, trình độ phát triển kinh tế Các nghiên cứu về tác động của công nghiệp - xã hội chưa cao và khả năng chống chọi/phản ứng hóa - hiện đại hóa, đô thị hóa và hội nhập tới văn với các ảnh hưởng từ bên ngoài yếu hơn so với cộng hóa của các cộng đồng cư dân, dân tộc được tiến đồng cư dân, dân tộc có dân số đông, cư trú ở ven hành từ khá lâu trên thế giới, đặc biệt ở các nước các thành phố lớn, các trung tâm thương mại, công phát triển như Mỹ, Anh, Đức , nhưng mới xuất nghiệp lớn ở đồng bằng. Vì vậy, tình trạng biến đổi hiện ở Việt Nam từ năm 1986 đến nay, khi Đảng và văn hóa của các cộng đồng cư dân, dân tộc cư trú Nhà nước Việt Nam lựa chọn con đường đổi mới và Volume 8, Issue 3 115
  2. VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN hội nhập. Tuy nhiên, cho đến nay cũng đã có khá viết, tác giả đã quay lại Agrồng tìm hiểu, nghiên nhiều công trình nghiên cứu về tác động của đô thị cứu bổ sung trong 3 ngày. Tất cả các chuyến điền hóa (trong đó có cả vấn đề công nghiệp hóa - hiện dã thực tế đó đã tạo điều kiện cho tác giả quan sát đại hóa và hội nhập) tới các cộng đồng cư dân ven cuộc sống, sinh hoạt của hầu hết các gia đình cư dân đô Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng trong làng; kết hợp với việc phỏng vấn sâu hầu hết (Quyên, 2015; Tuấn, 2017); đã có nhiều công trình các gia đình cư dân trong làng, mỗi gia đình ít nhất nghiên cứu về tác động của việc di dân, tái định cư một người, một lần. Có lẽ người cung cấp nhiều tới các cộng đồng cư dân do xây dựng các nhà máy tư liệu nhất là ông Blup Ngôn, trước (những năm thủy điện (Lợi, 2014b) 2011-2012) là Bí thư Chi bộ thôn Agrồng), hiện nay Với dân tộc Cơ tu, từ năm 1954 đến nay, nhận (2019) là Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc xã Atiêng. được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu trong và Bên cạnh nguồn tư liệu thực tế, để hoàn thành ngoài nước, tiêu biểu là các công trình “Ka tu – Kẻ bài viết, tác giả cũng đã thu thập, phân tích, tổng sống đầu ngọn nước” (Thông, 2004), “Góp phần tìm hợp và sử dụng nhiều tư liệu từ các công trình hiểu văn hóa Cơ tu” (bản tiếng Việt) (Hùng, 2006) nghiên cứu của các nhà khoa học đi trước; từ các và “A contribution to Katu ethnography” (bản tiếng báo cáo, thống kê của Trưởng thôn, Bí thư Chi bộ Anh) (Hùng, 2007); 2 công trình nghiên cứu của thôn, Ủy ban Nhân dân xã A tiêng, Ủy ban Nhân 2 cha con nhà Dân tộc học/ Nhân học Thụy Điển, dân huyện Tây Giang cuốn: “In the sacred forest landcape, livehood and 4. Kết quả nghiên cứu spirit beliefs among the Katu of Vietnam” của Nikor 4.1. Quá trình hình thành, phát triển trung Arhem (con) (Arhem & Nikor, 2009) và “The Katu tâm hành chính huyện village an interpretive ethnography of the Avuong Katu in central Vietnam” của Kaj Arhem (cha) Tây Giang, Đông Giang và Nam Giang là 3 (Arhem & Nikor, 2009). Các công trình nghiên cứu huyện của tỉnh Quảng Nam, nằm ở khu vực miền này chủ yếu đều đề cập các sắc thái văn hóa truyền núi phía Tây thành phố Đà Nẵng, giáp với Lào. thống, từ văn hóa vật chất đến văn hóa tinh thần và Trước kia, đây là 3 huyện thuộc tỉnh Quảng Nam văn hóa xã hội của người Cơ tu. Gần đây nhất, có - Đà Nẵng. Cuối năm 1974, huyện Tây Giang sáp 2 luận án Tiến sĩ đề cập đến mối quan hệ giữa văn nhập với huyện Đông Giang thành huyện Hiên. hóa truyền thống với môi trường sống của người Cơ Ngày 20/6/2003, Chính phủ Việt Nam đã có Nghị định số 72/2003/NĐ-CP tách huyện Hiên thành tu trong thời điểm hiện nay, đó là luận án “Krung 2 huyện Đông Giang và Tây Giang. Theo đó, khi điêng của người Cơ tư ở tỉnh Thừa Thiên – Huế” chia tách huyện Đông Giang có 81.120ha diện tích (Hoàng, 2017) và luận án “Luật tục của người Cơ- tự nhiên và 20.798 nhân khẩu, với 11 đơn vị hành tu về sử dụng và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên ở chính trực thuộc, gồm 10 xã và một thị trấn; huyện huyện Tây Giang, tỉnh Quảng Nam” (Hoàn, 2019). Tây Giang có 90.120ha diện tích tự nhiên và 13.405 Chỉ duy nhất luận án của Trần Thị Mai An (2013) nhân khẩu, với 10 đơn vị hành chính trực thuộc, đều có một chương đề cập đến biến đổi của tổ chức xã là các đơn vị hành chính cấp xã: Ch’Ơm, A Xan, hội truyền thống (của người Cơ tu) từ sau năm 1975 Tr’Hy, Lăng, A Tiêng, Bha Lê, Ga Ri, A Nông, đến nay. Tuy nhiên, tất cả các công trình nghiên cứu Dang, A Vương. đó đều không lấy làng/bản Agrồng làm đối tượng nghiên cứu chủ yếu. Cho đến thời điểm hiện nay, Về địa giới hành chính, huyện Tây Giang phía chỉ có tác giả bài viết này công bố một nghiên cứu Đông giáp huyện Đông Giang; phía Tây giáp Lào; phía Nam giáp huyện Nam Giang; phía Bắc giáp đề cập đến biến đổi văn hóa-xã hội của người Cơ 1 tu làng Agrồng dưới tác động của sự hình thành và tỉnh Thừa Thiên - Huế . Ngay sau khi chia tách, do phát triển khu trung tâm hành chính huyện (Lợi, chưa xây dựng được điểm trung tâm hành chính 2014a). Vì vậy, đây là vấn đề mới, cần tiếp tục được huyện nên các cơ quan hành chính của huyện Tây nghiên cứu trong thời gian tới. Giang phải đóng tạm ở xã Lăng, cách điểm trung tâm hành chính huyện hiện tại khoảng 5km trên 3. Phương pháp nghiên cứu đường nối từ quốc lộ 14A ra cửa khẩu phụ Ch’Ơm. Để hoàn thành bài viết này, tác giả sử dụng chủ Ngày 05/09/2005, các cơ quan Đảng, Chính quyền, yếu nguồn tư liệu thực tế tại thực địa, được thu thập Mặt trận và đoàn thể của huyện chính thức chuyển bằng phương pháp điền dã dân tộc học, với các kỹ về địa điểm hiện nay, khu đất thuộc địa bàn thôn thuật cơ bản là quan sát (tham dự, không tham dự), Agrồng, xã Atiêng. Trung tâm hành chính của phỏng vấn (phỏng vấn sâu, phỏng vấn hồi cố) và huyện Tây Giang bắt đầu hình thành và những tác thảo luận nhóm. Trong 2 năm 2011 (tháng 3&4, động của quá trình hình thành và phát triển của 15 ngày) và 2012 (tháng 8, 7 ngày), tác giả đã tiến điểm trung tâm hành chính huyện tới các thôn, xã hành 2 chuyến nghiên cứu thực địa tại thôn Agrồng, xã A tiêng, huyện Tây Giang, tỉnh Quảng Nam. Gần 1. Nghị định số 72/2003/NĐ-CP, ngày 20 tháng 6 năm 2003 về việc đây nhất, tháng 6/2019, nhằm thu thập và kiểm tra chia tách huyện Hiên thành các huyện Đông Giang và Đông Giang, huyện Trà My thành các huyện Bắc Trà My và Nam Trà My, tỉnh lại một số thông tin, tư liệu được sử dụng trong bài Quảng Nam . 116 JOURNAL OF ETHNIC MINORITIES RESEARCH
  3. VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN trong khu vực cũng bắt đầu từ thời điểm này. 4.2. Một số vấn đề liên quan đến xây dựng Theo Nghị quyết Đại hội lần thứ IV của Huyện làng/ bản ủy huyện Tây Giang, năm 2013, nhân kỷ niệm 10 Như đã đề cập, khu cư trú tập trung của cư dân năm ngày tái lập huyện, thị trấn trung tâm của huyện làng/bản Agrồng trước đây ở khu đất hiện giờ là sẽ chính thức được thành lập. Tuy nhiên, do nhiều bệnh viện huyện. Sau đó, khi xây dựng con đường lý do, đến thời điểm hiện nay (tháng 8/2019) thị trấn từ Azứt lên xã Lăng, chạy qua điểm cư trú của làng, Tây Giang vẫn chưa được thành lập. Nhưng trung các gia đình người Cơ tu trong làng được vận động tâm hành chính huyện Tây Giang vẫn đang ngày dỡ nhà mang ra dựng ở 2 bên đường. Vào khoảng một phát triển, lớn mạnh trên đất thôn Agrồng, xã năm 2004-2005, sau khi ủi đất tạo mặt bằng xây Atiêng từ năm 2005 đến nay; đã và đang có những dựng khu trung tâm huyện, toàn bộ cư dân làng tác động trực tiếp và gián tiếp tới cư dân các làng/ Agrồng đã được chia đất làm nhà tập trung trong bản của người Cơ tu ở khu vực xung quanh, tạo nên khu đất cạnh trung tâm huyện, ngay bên khu đất những biến đổi mạnh mẽ và nhanh chóng trên nhiều xây dựng UBND, HĐND huyện và nhiều cơ quan mặt, từ kinh tế tới văn hóa, xã hội và môi trường. chính quyền khác. Với cách sắp xếp, bố trí của lãnh Trong đó, nơi chịu nhiều tác động nhất của quá trình đạo địa phương, các gia đình người Cơ tu trong này chính là thôn/bản Agrồng, cộng đồng cư dân làng vẫn được dựng nhà ở gần nhau, bao quanh một người Cơ tu đã nhường phần lớn diện tích đất của khu sân chung, nơi được hỗ trợ dựng một ngôi nhà họ cho việc xây dựng và phát triển điểm trung tâm gươl (nhà cộng đồng) vào năm 2008. Đây là một hành chính huyện; đã phải thu hẹp địa bàn cư trú và phương án quy hoạch khu cư dân không chỉ phù di chuyển địa điểm cư trú về vị trí hiện nay. hợp với hình thức cư trú tập trung ở các khu đô thị, Ông Bling Mia, người Cơ tu, Chủ tịch UBND nơi những ngôi nhà nằm kế tiếp nhau quay mặt ra huyện Tây Giang cho biết, khi chưa chia tách đường, tạo thành các dãy phố, mà còn phù hợp một huyện, khu vực thuộc huyện Tây Giang bây giờ cách tương đối với truyền thống cư trú của người nổi tiếng vì “5 không”: Không đường, không điện, Cơ tu: Các ngôi nhà nằm kề nhau, bao quanh một không trụ sở, không nước sinh hoạt và không điện khu sân chung. thoại. Khi đó cán bộ xã Tr’hy lên huyện họp (tại Từ những năm 2004-2005 đến nay, do diện tích thị trấn Prao, thị trấn – trung tâm hành chính huyện đất không được mở rộng (chỉ đủ để dựng 45 ngôi Đông Giang bây giờ) phải đi trước 2 ngày; mang nhà, trong đó có 3 ngôi nhà của 3 gia đình người theo cơm nắm, muối, thức ăn. Khi các đơn vị hành Kinh), trong khi cư dân của thôn ngày một tăng (tăng chính huyện đóng trên địa bàn xã Lăng, ô tô chỉ dân số cơ học và tăng dân số tự nhiên), khu cư trú có thể đến được xã vào mùa khô. Hiện nay, tình của làng trở nên quá chật chội. Đặc biệt, do số nam trạng “5 không” đã được loại bỏ hoàn toàn: Con nữ thành niên trong làng đến tuổi dựng vợ, gả chồng đường trải nhựa nối từ đường 14A đến trung tâm ngày càng tăng, nên ngay từ năm 2010, chính quyền hành chính huyện đã được hoàn thành; năm 2011 huyện, xã đã đầu tư kinh phí, san ủi tạo dựng mặt con đường trải nhựa lên xã A Xan (điểm xa nhất bằng để dựng nhà và làm ruộng nước cho cư dân trong huyện về phía Tây) cũng đã hoàn thành; 60% thôn Agrồng ở 3 địa điểm: Phía sau bến xe và chợ hộ gia đình trong huyện đã được sử dụng điện lưới trung tâm (cách làng chừng hơn 1km, diện tích san ủi quốc gia; 5/10 xã có điện; 10/10 xã có đường ô tô là 5ha, dành để dựng nhà ở); trong Tà Lê (cách làng vào đến UBND xã cả năm; 56/70 thôn có đường ô chừng 5km, đã san ủi đủ đất ở và diện tích ruộng tô vào, với gần 30% đường đã được bê tông hóa nước cho khoảng 30 hộ gia đình) và trong Ra Bướp Khu trung tâm hành chính huyện đã được xây dựng (cách làng chừng 3km, đã được san ủi cả đất ở và và mở rộng ra trên 300ha, với trụ sở làm việc khang đất trồng lúa nước). Tuy vậy, đến thời điểm tháng trang rộng rãi dành cho các cơ quan, ban ngành, 8/2012, chỉ có 13 hộ người Cơ tu làng Agrồng vào từ UBND, HĐND, Huyện ủy, Tòa án, Viện kiểm sống trong Ta Lê, một vài hộ dựng nhà ở trong khu soát, Mặt trận, bưu điện, bệnh viện, bến xe, chợ đất phía sau chợ và bến xe; 2-3 gia đình vào cư trú Đây cũng là địa bàn đứng chân của nhiều công ty, trong khu đất mới san ủi tại Ra Bướp. bao gồm cả các công ty tư nhân và các công ty của Cũng trong thời điểm đó, lãnh đạo Huyện ủy và huyện và tỉnh, hoạt động trong các lĩnh vực kinh UBND huyện Tây Giang đã có chính sách ưu tiên tế, văn hóa, xã hội, môi trường ; cũng là nơi hình phân đất ở cho các gia đình người Cơ tu, khi một thành các đường phố, dãy nhà, nơi ở của cán bộ, trong 2 vợ chồng công tác tại một trong các cơ quan công nhân viên làm việc trong các đơn vị đó. Không đầu não của huyện (Với các cặp vợ chồng người chỉ vậy, ở đây đã xuất hiện một số khách sạn, nhà Kinh chỉ được phân đất khi cả 2 vợ chồng đều là nghỉ, quán ăn, quán cà phê, hiệu cắt tóc, gội đầu, cán bộ, công chức, viên chức nhà nước; trường hợp phục vụ nhu cầu của cư dân và khách thập phương. chỉ có vợ hoặc chồng là cán bộ nhà nước nếu muốn Trên địa bàn khu trung tâm hành chính huyện, bao có đất ở tại điểm trung tâm hành chính huyện thì gồm cả thôn Agrồng, đã có dịch vụ internet phục vụ phải bỏ tiền mua ½ suất đất với giá 30 triệu đồng/ các nhu cầu giao tiếp, kết nối và thưởng thức văn suất). Tuy vậy, số lượng người Cơ tu là công chức, hóa, văn nghệ của cư dân. viên chức trong bộ máy hành chính/chính quyền Volume 8, Issue 3 117
  4. VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN huyện không nhiều, đặc biệt, số gia đình có cả vợ hộ tăng, người dân có thể dựng thêm nhà phía ngoài và chồng là công chức, viên chức nhà nước càng ít, vòng bầu dục hay vành khuyên ban đầu, tạo thành nên đến thời điểm hiện tại, cũng chỉ có một vài gia các vành khuyên/ bầu dục kế tiếp mở rộng ra. Như đình người Cơ tu gốc Agrồng có đất ở trong khu vậy khoảng sân chung có thể rộng - hẹp khác nhau vực trung tâm huyện (phía ngoài làng), như gia đình tùy từng bản/làng, nhưng về cơ bản vẫn được duy Riáh Trao, Hạt trưởng Hạt Kiểm lâm huyện; gia trì. Với Agrồng, do xung quanh là các đường phố đình Blúp Ben, chồng là người Cơ tu thôn Agrồng, đã được định sẵn (đổ bê tông hoặc nhựa), người dân đang làm hợp đồng tại Trung tâm Phát triển quỹ đất không thể dựng thêm nhà ra phía ngoài dãy nhà hiện thuộc UBND huyện; vợ là người Cơ tu, quê gốc xã tại. Do vậy, vào thời điểm tháng 6/2019, một phần Ballê, là nhân viên Phòng Lao động, Thương binh sân chung của làng về phía Nam và phía Tây đã bị & Xã hội huyện lấn chiếm làm vườn trồng rau, trồng cây ăn quả và Vì số lượng hộ gia đình (và cư dân) thôn Agrồng dựng chuồng chăn nuôi gia súc, gia cầm. Rất có thể ngày một tăng; số hộ vào sinh sống trong Ta Lê tăng khoảng sân chung này (và khoảng sân chung còn không đáng kể (do đất ruộng nước không đảm bảo), lại) sẽ trở thành nơi người dân dựng nhà ở và truyền khoảng năm 2016 có 17 hộ cư dân vào cư trú tại thống duy trì sân chung của cư dân nơi đây sẽ biến đây (tăng được 4 hộ so với năm 2012); điểm cư trú mất. Chính quyền xã, thậm chí UBND huyện, cần tại Ra Bướp đã hết chỗ, với gần 100 hộ gia đình (do có chính sách cụ thể, quyết liệt trong việc di chuyển cư dân từ nơi khác di cư tới, nhưng vẫn chỉ có 3 hộ các các hộ gia đình người Cơ tu mới xây dựng, từ người Agrồng) và cư dân toàn bộ khu vực Trung thôn Agrồng gốc tới các điểm định cư mới, tương tâm hành chính huyện về cơ bản vẫn được coi là tự việc cấp đất thổ cư cho 31 hộ gia đình vừa qua, một thôn Agrồng thống nhất (khu vực làng Agrồng nhằm giảm bớt áp lực về hộ gia đình và dân số cho được gọi là thôn gốc); khu vực san ủi gần bến xe bản/làng, tạo điều kiện duy trì làng truyền thống. và chợ đã được chuyển sang mục đích khác, nên Đây là việc làm cần thiết nhằm bảo tồn và phát huy năm 2017 lãnh đạo huyện Tây Giang, xã Atiêng đã một trong những yếu tố văn hóa truyền thống tốt quyết định cấp cho cư dân Agrồng gốc 31 xuất đất đẹp của người Cơ tu, trong thời điểm hiện nay. thổ cư nằm trong khu vực nội thị, gần khu làng cổ, 4.3. Một số vấn đề liên quan đến việc xây dựng ở góc Tây - Nam khu Trung tâm hành chính huyện, nhà ở gần trường THPT huyện, cách khu cư trú của làng Làm và sinh sống trong các ngôi nhà sàn với 2 gốc chừng 500m. Theo quy định, các gia đình thôn chái uốn cong hình mai rùa, thậm chí là nhà sàn dài Agrồng gốc có trên 2 hộ được phép đăng ký (năm dành cho các đại gia đình, là truyền thống lâu đời của 2017) tham gia bốc thăm chọn 31 hộ chuyển đến cư người Cơ tu ở Việt Nam (Hùng, 2006; Lợi, 2013). trú ở khu vực mới (năm 2018). Nhờ vậy, vào tháng Truyền thống văn hóa này hiện nay đã và đang suy 6/2019, khu vực cư trú của thôn Agrồng gốc (chỉ) giảm. Người Cơ tu ở Agrồng cho biết, khoảng năm còn 82 hộ/ 45 ngôi nhà. Gia đình ông Riah Trơn 2004-2005 trong làng chỉ có 2 ngôi nhà sàn kiểu trước là nơi sinh sống của 5 hộ, lúc này còn 3 hộ với này (của gia đình ông Riah Lia và ông Hối Lưu). 11 khẩu (gồm hộ bố mẹ; hộ gia đình con trai, hộ gia Khoảng những năm 2011-2012, số nhà sàn trong đình con gái), do một hộ con trai với con dâu và một thôn đã tăng lên thành 6 ngôi. Nghĩa là có 4 gia đình hộ con gái và con rể đã chuyển sang khu cư trú mới. mới dựng thêm nhà sàn, nhưng đều là những ngôi Việc bố trí các ngôi nhà ở của cư dân kế tiếp nhà sàn mái tôn, chái hình thang, không phải kiểu nhau, bao quanh khoảng sân chung, chính giữa nhà sàn truyền thống. Đó là nhà của các gia đình là ngôi nhà cộng đồng (gươl), kiểu làng hình bầu bà Manuich Thị Nhu, các ông Bling Kriêu, Abiêng dục hay vành khuyên, là cách bố trí làng truyền Riêm và Alăng Nhơn. Ngoài ra, trong thôn khi đó thống của người Cơ tu và nhiều tộc người khác trên còn có 2 ngôi nhà gỗ 2 tầng, một dạng nhà kiểu mới, Trường Sơn - Tây Nguyên (Hùng, 1994, 2006). của gia đình bà Bling Thị Đê và ông Blúp Ngôn. Song, do tác động của quá trình xây dựng và phát Ngôi nhà của gia đình bà Alăng Thị Oh cũng là nhà triển điểm trung tâm hành chính huyện, làng/ bản, gỗ 2 tầng, nhưng xây tường gạch bao quanh. Tuy người Cơ tu ở Agrồng đã và đang chịu áp lực rất lớn nhiên, hiện nay, số nhà sàn ở Agrồng lại chỉ còn 2 về dân số, số hộ gia đình sinh sống trong một ngôi ngôi nhà cột gỗ, mái tôn, chái hình thang. Ngôi nhà nhà. Nếu không có giải pháp đúng đắn, kịp thời, gỗ 2 tầng của gia đình bà Bling Thị Đê đã bị phá bỏ, chắc chắn trong thời gian không xa, thôn Agrồng thay bằng ngôi nhà trệt xây bằng gạch, cát, xi măng, không thể giữ được cách bố trí làng theo kiểu truyền kiểu nhà cấp 4. Trong khu vực Ta Lê, 13/17 gia đình thống này. Đây cũng là tình trạng chung của các người Cơ tu đang sống trong các ngôi nhà trệt; chỉ làng/bản của người Cơ tu ở các huyện Tây Giang, có 4 gia đình sống trong nhà sàn gỗ, mái tôn, chái Đông Giang và Nam Giang (tỉnh Quảng Nam) và hình thang, được dựng vào những năm 2011-2012. các địa phương thuộc tỉnh Thừa Thiên - Huế hiện Sự thay đổi về loại hình nhà ở này chịu tác động rất nay (Hùng, 2006). Tuy nhiên, với các làng khác, do lớn từ quá trình hình thành khu hành chính trung diện tích đất thổ cư xung quanh khoảng sân chung tâm huyện và chính quyền địa phương (Lợi, 2014a). không bị hạn chế, cố định (như Agrồng) nên khi số Không chỉ có sự thay đổi về loại hình (từ nhà 118 JOURNAL OF ETHNIC MINORITIES RESEARCH
  5. VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN dài sang nhà ngắn; từ nhà sàn xuống nhà đất, từ nhà thanh niên người Cơ tu Agrồng tinh ý tự học hoặc có nóc mái hình mai rùa sang nhà 2 hoặc 4 mái 2 theo học các nhóm thợ người Kinh làm nhà ở đây mái phụ hình thang cân), ngôi nhà của người Cơ tu và trở thành “thợ” chuyên nhận làm nhà thuê cho Agrồng còn nhiều biến đổi liên quan đến kết cấu dân làng. Tiêu biểu nhất trong số này là Arất Dương (khung cột, nóc mái, vách), kỹ thuật, vật liệu, thợ (sinh năm 1977), bắt đầu biết làm và dựng nhà từ và không gian sinh hoạt. Tiêu biểu cho sự thay đổi khoảng năm 1998-1999. Anh học cách làm nhà từ về kết cấu của ngôi nhà là sự xuất hiện của vì kèo, thợ người Kinh và bắt đầu làm nghề mới bằng việc dù chỉ là các kiểu vì kèo đơn giản. Về kỹ thuật đó sửa lại ngôi nhà của gia đình mình sau khi di chuyển là việc sử dụng các kỹ thuật liên kết bằng cả mộng tránh con đường Azứt - Lăng. Sau đó anh nhận sửa luồn, mộng thắt và các loại đinh kim loại thay thế và làm nhà mới cho dân làng. Anh cho biết, anh và cho liên kết truyền thống bằng ngoãm và dây buộc. nhóm thợ đã nhận và hoàn thành 10 ngôi nhà mới Về vật liệu là việc chuyển từ sử dụng cỏ tranh, lá cho dân làng. Cứ hoàn thành một ngôi nhà mới anh mây hay lồ ô/ tre đập dập bổ banh sang các loại vật lại mua bổ sung cho mình một chiếc máy (công cụ). liệu mới, như tôn và prôximăng (do chính quyền Tuy nhiên, do máy Trung Quốc nhanh hỏng nên địa phương cấp) để lợp mái; là từ sử dụng gỗ, tre, hiện tại (2012) trong tay anh chỉ còn 6 chiếc, gồm 1 nứa sang sử dụng gạch, đá, bê tông làm khung, máy chà, 1 máy cưa, 1 máy soi, 2 máy bào và 1 máy sàn và vách nhà; Về công cụ là việc chuyển từ các mài. Ngoài ra, anh vẫn sử dụng một số cưa, đục và công cụ thô sơ, đa năng, như dao, rìu, cuốc, liềm, các công cụ thủ công truyền thống. Hồi đầu tiền sang các loại máy móc hiện đại, như máy cưa, máy công làm một ngôi nhà mới mà anh nhận được chỉ bào, máy đục Về thợ, là sự xuất hiện các hiệp thợ chừng 2 - 3 triệu đồng. Năm 2002, giá cả đắt đỏ nên người Kinh từ đồng bằng lên nhận làm và dựng anh đã nâng giá lên thành 8 triệu đồng. Theo anh, nhà cho người dân Có thể khẳng định một trong với những ngôi nhà như thế này nếu thợ người Kinh những nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự thay đổi làm thì tiền công phải 12 triệu đồng. Ngoài làm nhà, này chính là nguồn tiền đền bù đất mà người dân Arất Dương còn nhận đóng bàn, ghế, giường, tủ cho Agrồng nhận được từ việc xây dựng trung tâm hành bà con (cả tủ búp phê và tủ đựng đồ - tủ đứng). Với chính huyện. bàn, ghế, giường, tủ về cơ bản anh chỉ đóng được Gia đình ông Riah Trơn là gia đình nhận được loại đơn giản, không đục đẽo hoa văn. Với nhà anh nhiều tiền đền bù đất nhất trong thôn Agrồng. Ông cũng chỉ làm những ngôi nhà nhỏ, các vì kèo đơn cho biết toàn bộ khu vực dựng làng hiện nay trước giản, có sự hỗ trợ của bu loong, ốc vít và không đục là đất trồng quế của gia đình ông (khoảng 10.000 đẽo hoa văn trang trí như thợ người Kinh. Vì vậy, m2). Ngoài ra, gia đình ông còn có đất ở một vài chỗ giá làm và dựng nhà của Arất Dương thường thấp khác (gồm cả đất trồng quế, ruộng trồng lúa và ao hơn giá do các nhóm thợ người Kinh thực hiện. thả cá). Với số tiền đền bù đất nhận được, ông dựng Những thay đổi mang tính vật chất trên đã dẫn nhà mới (nhà trệt - ngôi nhà gia đình ông đang ở tới thay đổi quan trọng liên quan trực tiếp đến ngôi hiện nay) ngay sau khi khu vực này được san ủi tạo nhà và những chủ nhân của nó: thay đổi về không mặt bằng và chia cho cư dân (năm 2004-2005). Gia gian sinh hoạt gia đình. Sự thay đổi đầu tiên, dễ đình ông đã chi 220 triệu đồng mua nguyên vật liệu nhận thấy nhất là bếp (gồm cả bếp chủ và bếp và hơn 20 triệu đồng thuê thợ người Kinh lên dựng khách) trong ngôi nhà sàn truyền thống đã được nhà. Ngôi nhà trệt của gia đình Riah Rinh, Phó thôn đưa ra khỏi ngôi nhà trệt. Bên cạnh nhà vệ sinh đã Agrồng (khoảng 2011-2012), cũng do một nhóm được chính quyền địa phương xây dựng cho (ở phía thợ người Kinh ở phía Bắc vào dựng năm 2008. ngoài ngôi nhà ở, trong mảnh đất chia cho mỗi gia Toàn bộ tiền mua nguyên vật liệu, thuê thợ làm đình) (Lợi, 2014a), hầu hết các gia đình sống trong và dựng nhà đều được lấy ra từ số tiền đền bù đất những ngôi nhà trệt đều tự dựng cho mình những của gia đình2. Gia đình Blúp Ngôn, Bí thư Chi bộ ngôi nhà nhỏ làm nơi nấu ăn, để các dụng cụ nấu thôn trước kia (2011-2012); Chủ tịch Mặt trận Tổ ăn. Ngoài 2 gia đình hiện vẫn ở trong các ngôi nhà quốc xã hiện nay, được đền bù hơn 50 triệu đồng. sàn với các khuôn bếp được đặt trên sàn nhà, có Gia đình đã vay ngân hàng thêm 40 triệu đồng để một số gia đình đã dựng những ngôi nhà sàn nhỏ mua nguyên vật liệu và thuê thợ người Kinh lên làm nơi nấu ăn (và ăn uống) của gia đình. Những dựng nhà. Gia đình ông là một trong 2 gia đình ngôi nhà sàn - nhà bếp này cũng có nhiều thay đổi dựng và ở trong ngôi nhà gỗ 2 tầng trong làng. Gia cả về vật liệu, kỹ thuật và loại hình: không còn là đình Alăng Ngược, Trưởng thôn (đã chết cuối năm nhà nhà nóc mái hình mai rùa mà chỉ là nhà 2 mái 2012), dù không có tiền đền bù đất, nhưng đã vay hoặc 4 mái, 2 mái phụ lớp bằng tôn tấm. Tuy nhiên, ngân hàng 40 triệu đồng mua nguyên vật liệu và sự thay đổi về không gian sinh hoạt gia đình quan thuê thợ người Kinh vào dựng ngôi nhà trệt 3 gian, trọng nhất ở đây là việc chuyển từ một không gian cột gỗ, mái tôn, nền bê tông, vẫn được gia đình sinh hoạt chung trên toàn bộ sàn nhà sang cách bố sử dụng vào thời điểm 6/2019. Dần dần, một số nam trí thành các không gian sinh hoạt riêng - các phòng: 2 Phòng khách (không gian tiếp khách và thờ cúng), . Phỏng vấn A lăng Thị Thêm, Vợ Phó trưởng thôn Ag rồng, ngày phòng để đồ và phòng ngủ, ở các ngôi nhà trệt. 1/4/2011. Volume 8, Issue 3 119
  6. VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN Đặc biệt, người dân nơi đây đã bố trí nhà thành các trung tâm hành chính huyện, liên tục trong thời gian phòng ngủ riêng cho bố mẹ, ông bà, các con/ cháu từ 2005 đến nay (2019), văn hóa của người Cơ tu và khách. Đây là một trong những biểu hiện (và là làng Agrồng (xã A tiêng, huyện Tây Giang, tỉnh biểu hiện quan trọng) của văn hóa/ văn minh đô thị, Quảng Nam) đã có nhiều biến đổi. kết quả của quá trình đô thị hóa, đã và đang được Những biến đổi về cách thức xây dựng làng/ khẳng định ở thôn Agrồng. bản là tất yếu, phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh Rõ ràng, những biến đổi trong ngôi nhà hay văn tế, xã hội của khu vực và thời đại, không thể đảo hóa ở của người Cơ tu ở Agrồng trong 15 năm qua ngược, đã và đang diễn ra ở các vùng cư trú của rất nhiều và nhanh. Những thay đổi này đã ít nhiều người Cơ tu ở Quảng Nam và Thừa Thiên Huế. làm biến dạng văn hóa truyền thống của tộc người Làng/ bản hình bầu dục với các ngôi nhà kế tiếp Cơ tu ở Việt Nam. Tuy nhiên, đó là những biến đổi nhau bao quanh khoảng sân chung với ngôi nhà phù hợp với xu hướng phát triển của thời đại, với cộng đồng nằm giữa vẫn đang được duy trì ở thôn biến đổi của điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội trong Agrồng là kết quả của sự đầu tư, sự cố gắng rất lớn khu vực, không thể đảo ngược và cần được chấp của chính quyền địa phương và cư dân. Tuy nhiên, nhận. Đó là các thay đổi về loại hình nhà, từ nhà dưới áp lực gia tăng dân số; sự tăng nhanh số lượng sàn xuống nhà đất, từ nhà sàn hình mai rùa (lợp hộ gia đình (các cặp vợ chồng mới cưới), muốn duy tranh) sang nhà sàn 4 mái, chái hình thang, lợp tôn; trì thành tố văn hóa truyền thống này, chính quyền là những thay đổi về kết cấu kỹ thuật; những thay địa phương cần có những giải pháp cụ thể, hợp lý di đổi về nguyên liệu, thợ, Đó còn là sự xuất hiện chuyển bớt các hộ gia đình từ Agrồng đến các điểm của các kiến trúc phụ trợ (nhà bếp, nhà vệ sinh) cư trú khác. Nếu không làm như vậy, trong thời gian và việc bố trí không gian sinh hoạt gia đình thành sắp tới, cách thức xây dựng làng/ bản truyền thống những không gian riêng cho các mục đích khác sẽ bị phá vỡ. nhau; thành nhiều phòng ngủ riêng biệt dành cho Người Cơ tu làng Agrồng lựa chọn nhà trệt thay các thành viên trong gia đình và khách. Có lẽ truyền nhà sàn; nhà sàn chái hình thang, lợp tôn thay thế thống dựng nhà của người Cơ tu, từ loại hình nhà nhà sàn nóc mái hình mai rùa; lựa chọn các nguyên sàn hình nóc mái hình mai rùa, kết cấu khung cột, liệu, công cụ, kết cấu, kỹ thuật mới trong dựng nhà. kỹ thuật liên kết với ngoãm và dây buộc, nguyên Đặc biệt, việc xây dựng nhà vệ sinh, đưa khuôn liệu thực vật chỉ nên và cần được duy trì trong ngôi bếp ra khỏi ngôi nhà ở và chia không gian trong nhà cộng đồng của các làng/ bản, trong đó có cả nhà thành các phòng/ buồng dành cho các sinh hoạt làng/ bản Agrồng. Chính quyền địa phương cần khác nhau, của các cá nhân là những biến đổi tích có chính sách hỗ trợ về kinh phí, hỗ trợ trong khai cực, phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội; thác vật liệu, làm và dựng nhà giúp người Cơ tu phù hợp với cuộc sống mới, với văn minh đô thị đã thôn Agrồng nói riêng, người Cơ tu ở Việt Nam nói và đang hình thành và phát triển ở đây. Chính quyền chung, duy trì ngôi nhà cộng đồng (nhà gươl) trong địa phương chỉ có thể vận động còn người dân lựa thời điểm hiện tại và tương lai. chọn làm và ở trong các ngôi nhà truyền thống hay 5. Kết luận các ngôi nhà kiểu mới là quyền của họ. Tuy vậy, Là cộng đồng cư dân thuộc một tộc người thiểu chính quyền địa phương cần có chính sách cụ thể, số có số cư dân không lớn, cư trú ở vùng sâu, vùng phù hợp hỗ trợ làng Agrồng và các bản/ làng Cơ tu xa, vùng biên giới Việt-Lào, khu vực vừa chịu tác khác duy trì ngôi nhà cộng đồng theo kiểu truyền động của quá trình tái định cư (dành đất xây dựng thống, sử dụng các nguyên liệu, kỹ thuật làm và khu trung tâm hành hình huyện) vừa chịu tác động dựng nhà truyền thống. Đây là việc làm cần thiết của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị góp phần bảo tồn và phát huy những yếu tố văn hóa hóa và hội nhập (quốc tế, quốc gia, vùng - khu vực) truyền thống tốt đẹp của người Cơ tu thôn Agrồng liên quan đến quá trình hình thành và phát triển khu nói riêng, người Cơ tu ở Việt Nam nói chung, trong xây dựng bản/ làng và nhà ở, trong tương lai./. Tài liệu tham khảo An, T. T. M. (2013). Tổ chức xã hội truyền thống Arhem, & Nikor. (2009). In the sacred forest của người Cơ tu huyện Nam Đông tỉnh Thừa landcape, livehood and spirit beliefs among Thiên – Huế. Luận án Tiến sĩ ngành Nhân học the Katu of Vietnam. Sweden by Intellecta văn hóa, Học viện KHXH, đã bảo vệ. Infolog. Arhem, K. (2010). The Katu Village An interpretive Hoàn, P. T. (2019). Luật tục của người Cơ-tu về Ethnography ò Avuong Katu in Central sử dụng và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên ở Vietnam. Sweden by Intellecta Infolog. huyện Tây Giang, tỉnh Quảng Nam. Luận án NCS ngành Nhân học, đã bảo vệ. 120 JOURNAL OF ETHNIC MINORITIES RESEARCH
  7. VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN Hoàng, H. V. (2017). Krung điêng của người Cơ Lợi, P. V. (2014b). Nghiên cứu những biến đổi tư ở tỉnh Thừa Thiên – Huế. Luận án NCS điều kiện sống, đề xuất giải pháp ổn định cuộc ngành Việt Nam học, đã bảo vệ. sống, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội các Hùng, L. (1994). Buôn làng cổ truyền xứ Thượng. cộng đồng cư dân khu vực tái định cư thủy Hà Nội: Nxb. Văn hóa Dân tộc. điện Sơn La, tỉnh Sơn La. Báo cáo tổng kết Hùng, L. (2006). Góp phần nghiên cứu văn hóa đề tài khoa học & công nghệ cấp tỉnh (mã số Cơ-tu. Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội. KX-09-2013), đã được nghiệm thu. Sơn La. Hùng, L. (2007). A contribution to Katu Quyên, H. T. T. (2015). Biến đổi về tổ chức xã hội ethnography. Hà Nội: Nxb. Thế giới. ở các làng nghề sơn ngoại thành Hà Nội (qua Lợi, P. V. (2013). Ngôi nhà hình mai rùa: sự giao nghiên cứu tại Hạ Thái, Bình Vọng và Sơn thoa, tiếp biến văn hóa giữa các tộc người Đồng). Luận án Tiến sĩ Nhân học Văn hóa. nhóm ngôn ngữ Môn – Khơme và Tày – Thái. Thông, N. H. (chủ biên, 2004). Ka tu – Kẻ sống Tạp chí Khoa học Xã hội Tây Nguyên, (Số 2), đầu ngọn nước. Huế: Nxb. Thuấn Hóa. 25–35. Tuấn, B. V. (2017). Biến đổi xã hội vùng ven đô Lợi, P. V. (2014a). Một số biến đổi về văn hóa – Hà Nội trong bối cảnh đô thị hóa. Luận án xã hội của người Cơ tu ở thôn Agrồng dưới Tiến sĩ Việt Nam học, bảo vệ và lưu tại Viện tác động của của sự hình thành và phát triển Việt Nam học và Khoa học phát triển, Đại học khu trung tâm hành chính huyện Tây Giang, Quốc gia Hà Nội. tỉnh Quảng Nam. Tạp chí Dân tộc học, (Số Tụng, N. K. (1996). Nhà ở cổ truyền các dân tộc 1+2), 65–74. Việt Nam. Hà Nội: Nxb. Xây Dựng. PRESERVING AND PROMOTING THE CULTURAL VALUES OF THE CO TU PEOPLE IN THE CONSTRUCTION OF HAMLET/VILLAGES AND HOUSE (AGRONG HAMLET, ATIENG COMMUNE, TAY GIANG DISTRICT, QUANG NAM PROVINCE) Pham Van Loi Institute of Vietnamese Studies and Abstract Development Sciences Nowaday, when the trend of industrialization - Email: ploivme@gmail.com modernization, urbanization and integration becomes more and more extensive, the risk of traditional cultural Received: 25/8/2019 elements is changed and gradually lost its value exist in Reviewed: 30/8/2019 many resident communities, ethnic groups. This is not only Revised: 10/9/2019 found in the resident communities, ethnic groups residing Accepted: 25/9/2019 along big cities, large commercial and industrial centers Released: 30/9/2019 in the plains, but also in the resident communities, ethnic groups living next to the towns, population centers, district DOI: administration , in border areas, remote areas. This paper focuses on clarifying some of the issues raised during the cultural transformation of the Co Tu community in Agrong village, Atieng commune, Tay Giang district, Quang Nam province, in the construction of villages/hamlets and houses, under the impact of the process of forming and developing district administrative centers, from 2005 to the present (2019), at the same time, proposing some solutions to preserve and promote the traditional cultural values of them in the future. Keywords Conservation; Promotion; Cultural values; Co Tu ethnic group; Village/Hamlet; House. Volume 8, Issue 3 121