Các trường phái kịch phương Tây và sự ảnh hưởng đến Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975

pdf 9 trang Gia Huy 22/05/2022 2050
Bạn đang xem tài liệu "Các trường phái kịch phương Tây và sự ảnh hưởng đến Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfcac_truong_phai_kich_phuong_tay_va_su_anh_huong_den_viet_nam.pdf

Nội dung text: Các trường phái kịch phương Tây và sự ảnh hưởng đến Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975

  1. 16 Journal of Science – Phu Yen University, No.27 (2021), 16-24 CÁC TRƯỜNG PHÁI KỊCH PHƯƠNG TÂY VÀ SỰ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1945 - 1975 Phạm Ngọc Hiền* Trường Đại học Sài Gòn Ngày nhận bài: 12/04/2021; Ngày nhận đăng: 28/05/2021 Tóm tắt Trong thế kỷ XX, ở phương Tây có nhiều trường phái kịch. Bên cạnh trường phái kịch cổ điển Pháp còn có kịch hiện sinh - phi lý, kịch tự sự biện chứng, chính kịch xã hội chủ nghĩa và hệ thống sân khấu Stanislavski Các trường phái này đều có ảnh hưởng đến kịch nói Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975, bao gồm cả hoạt động sáng tác của nhà soạn kịch và diễn xuất của diễn viên. Từ khóa: kịch cổ điển, kịch tự sự, kịch phi lý, kịch nói Việt Nam, 1945-1975 Nhắc đến kịch Phương Tây, người ta trường phái Aristote, thể hiện rõ nhất trong thường nghĩ ngay đến kịch cổ điển Pháp và kịch cổ điển Pháp. những nguyên lý kịch Aristote. Nhưng từ Kịch cổ điển coi trọng lý trí, đề cao các sau Cách mạng tháng Mười, thế giới có thêm phẩm chất: trung, hiếu, tiết hạnh, nhân chính kịch XHCN và phương pháp sân khấu nghĩa Nhân vật trung tâm của bi kịch là Stanislavski. Sau Thế chiến II, ở châu Âu, những người cao quý, sẵn sàng hy sinh cá xuất hiện nhiều trào lưu cách tân nghệ thuật, nhân để phục tùng lợi ích chung. Hài kịch tiêu biểu là trường phái tự sự biện chứng dùng tiếng cười phê phán những kẻ xấu để gián cách của Brecht và kịch hiện sinh - phi bảo vệ đạo đức. Người ta coi trọng bi kịch vì lý Tất cả các trường phái này đều có ảnh nó nói về cái tốt và coi thường hài kịch vì nó hưởng đến Việt Nam. thiếu nghiêm túc. Chủ nghĩa cổ điển thường 1. Kịch Pháp và trường phái Aristote mô phỏng cổ đại (đề tài quá khứ) và mô Trường phái kịch Aristote đã ngự trị trên phỏng tự nhiên (sự chân thực của hành động, sân khấu châu Âu suốt thời cổ trung đại. cảnh vật ). Văn bản kịch là ngôn ngữ thơ Những nguyên lý của nó được khởi nguồn từ ca, chính xác, sáng sủa, phong cách cao nhã. công trình Nghệ thuật thơ ca (Thi pháp học) Bi kịch thường có những xung đột căng của Aristote thời cổ đại và hoàn thiện với thẳng, kết thúc bi thảm, tạo cho khán giả sự Nghệ thuật thơ ca của Boileau thế kỷ XVII. xót thương và thanh lọc tâm hồn. Kịch cổ Những nguyên lý của nó cũng được bổ sung điển có cấu trúc năm hồi: trình bày - thắt nút bởi các nhà lý luận như: Chapelain, - phát triển - cao trào - mở nút (hoặc giao đãi d’Aubignac, Mere, Racine Về sau, người - thắt nút - cao trào - tạm hòa hoãn - kết ta nới lỏng dần các nguyên tắc của kịch cổ thúc). Người ta cũng đưa ra luật tam duy điển và sáng tạo thêm những phương thức nhất (về không gian, thời gian và hành biểu diễn mới. Tính đến hết thế kỷ XIX, kịch động). Ngoài ra, còn có các quy định cho châu Âu chia làm hai khuynh hướng: kịch diễn viên như: cách ngâm thơ, cử chỉ tượng kiểu Aristote (chính thống) và phi Aristote. trưng, phép lịch sự, trang trí sân khấu, ngoại Ở đây, ta chỉ xét những đặc điểm của hình đẹp ___ Từ đầu thế kỷ XX, các đoàn kịch Pháp đã *Email: ngochien2@gmail.com
  2. Tạp chí Khoa học – Trường Đại học Phú Yên, Số 27 (2021), 16-24 17 sang Việt Nam biểu diễn rồi người Việt Nam Nhiều vở kịch cũng tuân theo kết cấu cũng diễn kịch Pháp. Người Việt Nam tiếp xung đột của kịch cổ điển. Kịch dài Nổi gió thu các nguyên lý của kịch cổ điển qua sách (Đào Hồng Cẩm) có phần thắt nút ở đoạn vở trong nhà trường, trên báo chí và đọc các Thất Linh ép buộc Hoài cộng tác với chính vở kịch bằng tiếng Pháp. Nhiều nhà soạn quyền quốc gia nhưng không được nên bắt kịch Việt Nam đã sáng tác theo hệ phái anh. Cao trào khi trung úy Phương (em của Aristote. Sau 1945, mặc dù có sự đổi mới về Vân) muốn cứu chị mình và phe địch đã nhận nội dung nhưng họ vẫn giữ lại một số ra tư tưởng của anh, hai bên giằng co. Mở nút nguyên tắc cơ bản của kịch cổ điển. Trong khi cách mạng đánh vào đồn và Phương bắn kháng chiến chống Pháp, sự ảnh hưởng của chết Thất Linh. Trong vở kịch ngắn Ngày mai kịch cổ điển phương Tây vẫn còn mạnh, như của Học Phi, Mở đầu là chuyện trò giữa Trâm tác giả Hà Diệp từng nhận định: “Trước với ông Tư (đầy tớ) và chồng là huyện Môn. ngày hòa bình lập lại ở Đông Dương theo Thắt nút khi Trâm nghe nói cha mình và người hiệp định Giơnevơ, kịch nói Việt Nam về cơ yêu cũ là Toàn bị bắt, cô tìm cách cứu hai bản vẫn chịu ảnh hưởng của thi pháp kịch người. Phát triển khi Trâm và Môn cãi nhau cổ điển Pháp thế kỷ 17 ( ) Các tác giả viết nhưng không giải quyết được cả hai việc: kịch đầu tiên sau Cách mạng tháng Tám như Môn không chịu cứu cha vợ và Trâm không Học Phi, Nguyễn Huy Tưởng đều là chịu ăn nằm với cấp trên của chồng. Xung những người được học trên ghế nhà trường đột giữa Trâm và Môn tạm hòa hoãn khi Pháp. Đặc điểm này ảnh hưởng sâu đến kỹ Môn đi ra ngoài và ông Tư, anh Toàn xuất thuật biên kịch của họ” (Hà Diệp, 2005, hiện. Cao trào khi Môn phát hiện vợ giúp tr.217-245). Buổi đầu chống Pháp, một số Toàn trốn thoát và Trâm rơi vào tình huống vở mang đậm âm hưởng bi kịch: Bác sĩ căng thẳng khi địch chuẩn bị giết cha cô. Mở Thành giết vợ là Ngọc Cẩm (Những người ở nút khi du kích giết chết chồng và giải cứu lại - Nguyễn Huy Tưởng), Cả Vinh bắn chết cha của Trâm. Tác phẩm không chỉ tuân thủ vợ rồi phát điên (Bên kia sông Đuống - kết cấu năm phần mà cũng đúng luật tam Hoàng Tích Linh), người vợ giả để tang duy nhất: duy nhất về không gian: nhà huyện chồng nhưng chị bị địch giết (Khăn tang Môn; duy nhất về thời gian: một buổi chiều; kháng chiến - Đình Quang) Sau 1955, duy nhất về hành động: Trâm tìm cách giải kịch cách mạng giảm bớt cái bi. Thay vào đó cứu cha và người yêu cũ. là những vở kịch hài: Ngày cuối năm (Hồng Trong kịch Việt Nam 1945 - 1975, có Vũ), Con vịt cưới (Trần Hận), Vô lý, không nhiều vở tuân thủ luật tam duy nhất: Trên nớ lẽ (Bùi Huy Phồn), Thói cũ (Trần Vượng), (Bửu Tiến), Tiếng khèn người Mông (Bế Hàn Keo (Anh Vũ), Nàng bắn lén, Cái ghế Don), Cái chốt (Phác Văn), Trung phong Vũ (Nguyễn Vũ), Bức ảnh (Nguyễn Văn Niêm), Hoàng (Nguyễn Vượng), Bão biển (Vương Nghị hụt (Đào Hồng Cẩm), Viên quận trưởng Lan) Và các vở kịch ngắn của Nguyễn Vũ (Chu Nghi), Thủ tướng mới đến nhậm chức như: Ngọn lửa, Tình ca, Nàng bắn lén, (Hoài Giao) Lộng Chương khẳng định tên Chứng chỉ sức khỏe, Tiếng chim chăn vịt tuổi của mình với thể loại hài kịch: Quẫn, Nhưng phổ biến hơn cả là xu hướng nới lỏng Cửa mở hé, Hỏi vợ, Yểm bùa trừ sâu luật tam duy nhất. Chẳng hạn, giữ nguyên sự Những nguyên lý kịch cổ điển không còn duy nhất về không gian, thời gian nhưng nới giữ vai trò độc tôn nhưng vẫn còn ảnh hưởng lỏng hành động: Khách qua đường (Trúc lâu dài đến nhiều nhà soạn kịch Việt Nam. Đường), Bên hàng rào Tà Cơn (Chu Nghi),
  3. 18 Journal of Science – Phu Yen University, No.27 (2021), 16-24 Trong phòng trực chiến (Tào Mạt). Có luyện. Công chúng miền Bắc đã được đọc và những vở kịch một không gian nhưng nhiều xem trên sân khấu các vở kịch như: Cầu hôn, thời gian: Chiếc vai cày (Việt Dung), Du Ba chị em Dưới đáy, Boris Godunov, Đau kích thôn Đồi (Lộng Chương) Và một khổ vì trí tuệ, Quan thanh tra, Câu chuyện hướng khác, tạo một xung đột kịch căng Irkut, Tanja, Đồng hồ chuông điện Kremlin, thẳng nhưng nới lỏng về không gian, thời Bi kịch lạc quan, Những người Nga, Cửa gian: Chị Nhàn (Đào Hồng Cẩm), Một đảng cuối cùng, Người sung sướng nhất, Chuyến viên (Học Phi), Đầu sóng ngọn gió (Nguyễn xe tự do, Chung việc gia đình, Đen và trắng, Hùng) Nhiều người quan niệm rằng, trong Biệt thự hoang tàn, Cô bé đánh trống, Xâm luật tam duy nhất, vấn đề cốt lõi là sự thống lược, Đội cận vệ thanh niên, Đoàn tàu bọc nhất về hành động. Còn không gian và thời thép 14-69, Bão táp, Masa, Những năm gian có thể linh hoạt thay đổi. tháng trôi qua, Platon Kreset, Những con Nhìn chung, kịch Việt Nam 1945 – hươu xanh, Đại úy Xaphonov, Thép đã vào 1975 vẫn tiếp tục vận dụng một số nguyên lò Và nhiều vở kịch Nga - Soviet được tắc của kịch cổ điển phương Tây, như giới thiệu trong nhà trường, trên sách báo nguyên tắc tam duy nhất, kết cấu xung đột Kịch Nga - Soviet đã thổi đến sân khấu Nhưng có điều, họ vận dụng một cách linh Việt Nam một luồng gió mới. Một số nhà hoạt, nới lỏng các quy định, mở rộng nội viết kịch Việt Nam ảnh hưởng cảm quan dung phản ánh để thích nghi với khán giả hiện thực và kết cấu kịch của các nhà văn của thời đại mới. hiện thực Nga thế kỷ XIX. Nhà viết kịch 2. Kịch Nga - Soviet và trường phái Trần Vượng đã “vận dụng cung cách kịch Stanislavski Tsêkhôp vào sáng tác của mình. Các vở Thói Văn nghệ Nga - Soviet đến Việt Nam cũ, Hoa pháo của anh, nhất là vở Bức tranh bằng nhiều con đường: gián tiếp qua Pháp, mùa gặt đều là những vở sáng tác dưới ảnh Trung Quốc và sau đó là giao lưu trực tiếp hưởng mạnh mẽ của kịch Tsêkhôp” (Tất Việt - Xô. Từ trước 1945, văn nghệ sĩ Việt Thắng, 2016, tr.987). Những tác phẩm chính Nam đã đọc nhiều vở kịch Nga qua bản tiếng kịch XHCN có chất sử thi, tính thời sự và Pháp. Trong kháng chiến chống Pháp, họ bắt thoát ra khỏi kết cấu khắt khe, chật hẹp của đầu tìm hiểu nền nghệ thuật Soviet thông bi kịch cổ điển Pháp. Nó mở rộng dung qua các bản dịch tiếng Trung Quốc. Họ cũng lượng để phản ánh cuộc sống đa dạng sôi đã làm quen với “Phương pháp diễn kịch động như: Bức tranh mùa gặt (Trần Vượng), hiện thực xã hội chủ nghĩa”. Năm 1952, ở Lửa hậu phương (Xuân Trình), Đại đội Việt Bắc, có diễn vở kịch Chuyến xe tự do trưởng của tôi (Đào Hồng Cẩm), Đỉnh cao của Liên Xô. Đến cuối năm 1954, khán giả phía trước (Tào Mạt) Vở Bi kịch lạc quan Hà Nội được xem vở kịch Liên Xô đầu tiên: của Visnhepski đưa ra nguyên lý của kịch Hàng ngũ hòa bình do đoàn kịch từ chiến cách mạng: có thể phản ánh những đau khu về biểu diễn. thương, mất mát nhưng cuối tác phẩm phải Từ năm 1955 trở đi, việc giao lưu văn cho thấy khả năng tất thắng của cách mạng. hóa Việt – Xô ngày càng mở rộng. Kịch Liên Nhiều vở kịch Việt Nam cũng theo tinh thần Xô được giới thiệu vào Việt Nam ngày càng này: Một đảng viên (Học Phi), Chị Nhàn nhiều. Chính phủ đã cử nhiều du học sinh (Đào Hồng Cẩm), Cái máy chém (Trúc sang Liên Xô học ngành nghệ thuật. Nhiều Đường) Trong đề tài xây dựng XHCN, đạo diễn của Liên Xô sang Việt Nam huấn người ta thường nhắc đến vở kịch Câu
  4. Tạp chí Khoa học – Trường Đại học Phú Yên, Số 27 (2021), 16-24 19 chuyện Irkut của Arbuzov do đạo diễn cảm. Diễn viên được tự do sáng tạo những Monakhov dàn dựng tại Hà Nội năm 1962. chi tiết mới, miễn sao phù hợp với logic Phong cách tự sự trữ tình của vở này có ảnh hành động và tâm lý nhân vật. Để tâm hồn hưởng đến: Nhật ký địa chất (Thiết Vũ), luôn dồi dào cảm xúc, diễn viên cần phải Đêm mưa (Tất Đạt) Ở Liên Xô, nhiều thực tế cuộc sống, tu dưỡng thường xuyên. người quan niệm rằng chế độ mới không còn Từ giữa những năm 1950, Liên Xô cử các đấu tranh giai cấp nên không chú trọng xung đạo diễn như: Vaxiliev, Monakhov sang đột kịch. Nhiều vở kịch về đề tài xây dựng ở giúp Việt Nam. Vở kịch đầu tiên của Liên Việt Nam cũng miêu tả cuộc sống đẹp đẽ, Xô được dàn dựng ở Hà Nội theo phương rộn rã niềm vui: Niềm vui (Lý Khắc Cung), pháp sân khấu thực nghiệm là Liuba. Sau đó, Tình bạn (Học Phi), Con ngựa số 6, Đôi bạn diễn viên Việt Nam tự dàn dựng hàng loạt (Chu Nghi), Bức tranh mùa gặt (Trần Vượng) vở kịch theo phương pháp này như: Bên Về phương pháp biểu diễn, Việt Nam đường dốc (Học Phi), Tiền tuyến gọi (Trần chịu ảnh hưởng của phương pháp sân khấu Quán Anh), Đại đội trưởng của tôi (Đào mang tên đạo diễn Stanislavski. Ông là Hồng Cẩm), Nhật ký địa chất (Thiết Vũ), người thành lập Nhà hát Nghệ thuật Moscow Viên quận trưởng (Chu Nghi), Đỉnh cao và đào tạo diễn viên theo hệ thống mới. phía trước (Tào Mạt), Giáo sư Hoàng (Bửu Những diễn viên, đạo diễn của đoàn kịch Tiến), Quẫn (Lộng Chương), Lửa hậu thực nghiệm đi biểu diễn khắp nước Nga và phương (Kính Dân), Đôi mắt (Vũ Dũng một số nước Âu – Mỹ góp phần quảng bá Minh) Có thể nói: “Nghệ thuật biểu diễn cho “nghệ thuật biểu diễn hiện thực tâm lý”. hiện thực tâm lý thể hệ Stanixlawski thực sự Phương pháp diễn xuất (Method Acting) của là phương tiện để diễn xuất kịch nói Việt Stanislavski được sử dụng rộng rãi trên thế Nam chuyển từ nghiệp dư lên đẳng cấp giới. Ở Pháp, Anh, Ý, Mỹ, Nhật có các chuyên nghiệp” (Đỗ Hương, 2005, tr.89). Nhà hát, xưởng phim, học viện vận dụng Từ những năm 1960, Việt Nam cử nhiều phương pháp này. Ở các nước XHCN, hệ du học sinh sang Liên Xô học sân khấu nghệ thống Stanislavski được xem như là phương thuật. Họ đã góp phần phổ biến phương pháp pháp biểu diễn chính thống. Có thể tóm tắt Stanislavski. Đó là các đạo diễn, diễn viên đặc điểm của hệ thống Stanislavski như sau: như: Đình Quang, Nguyễn Đình Nghi, Hệ thống này theo khuynh hướng hiện thực, Nguyễn Vũ, Trần Hoạt, Vũ Mạnh, Bạch bao gồm cả hai cách hiểu: 1. Trung thành với Lan, Lê Hùng, Đoàn Anh Thắng, Trọng hiện thực cuộc sống, gắn bó sân khấu với Khôi, Hà Văn Trọng, Doãn Hoàng Giang, cuộc đời. 2. Chân thực trong cách biểu diễn Thế Anh, Mạnh Linh, Hoàng Sự, Phạm Thị của diễn viên. Để diễn chân thực, diễn viên Thành Nhiều người (như Ngọc Phương, phải nhập tâm tốt, xúc cảm càng sâu sắc thì Dương Ngọc Đức ) còn vận dụng phương diễn càng thực. Stanislavski yêu cầu diễn pháp Stanislavski vào kịch hát. Họ đạo diễn viên phải nắm được “nhiệm vụ tối cao” (tư vở tuồng Đề Thám, chèo Tấm vóc đại đồng tưởng chủ đạo, chủ đề, thông điệp). Sau đó, theo phương pháp thực nghiệm. Những nghệ xác định hành động xuyên suốt và các hành nhân của kịch hát truyền thống như Nguyễn động cụ thể. Tất cả nội dung vở kịch đều thể Nho Túy, Nguyễn Lai cũng vận dụng hiện qua hành động. Sự hấp dẫn của vở kịch phương pháp này. Diễn viên Đào Mộng là ở hành động, ngoại hình diễn viên chứ Long đã kết hợp các phương pháp của kịch không phải ở các màn đối thoại dài dòng, vô hát truyền thống với phương pháp Stanislavski
  5. 20 Journal of Science – Phu Yen University, No.27 (2021), 16-24 trên sân khấu kịch nói. Ông diễn một số vở Xuyên, Nỗi khiếp sợ của Đệ tam đế chế kịch Nga như: vai thủy thủ già trong Hàng Brecht nghiên cứu, tích hợp các kiểu kịch ngũ hòa bình, vai Sia trong Liu ba Khi của châu Á, châu Âu và đưa ra “phương đóng vai gã tư sản già trong Khúc thứ ba bi pháp tự sự biện chứng gián cách”. Trường tráng, ông đã mạnh dạn thêm bớt nhiều câu. phái kịch Brecht có nhiều điểm đối lập với Để thể hiện tính chất hai mặt của gã tư sản, trường phái Aristote. ông dùng nhiều giọng điệu khác nhau, dùng Có thể tóm tắt những đặc điểm chính của cách đi vòng vèo, không ngay thẳng Còn sân khấu tự sự như sau: Về nội dung tư trong vai ông già hát xẩm trong vở Âm mưu tưởng, nó thuộc khuynh hướng sân khấu và hậu quả (của Bửu Tiến, do Nguyễn Đình chính trị. Brecht dùng kịch để tuyên truyền, Nghi đạo diễn), Đào Mộng Long cầm chiếc xây dựng nền “văn hóa vô sản”. Kịch tự sự mũ phớt để xin tiền giữa ngã tư Sài Gòn. chứa đựng nhiều xung đột xã hội. Trong xã Ông dùng điệu bộ, cử chỉ của cánh tay để hội mới, vẫn có xung đột vì còn phải chống cho thấy những người đi đường đã cho hay những tàn dư xã hội cũ. Brecht coi trọng không cho tiền, thái độ từng người Tức là chức năng phản ánh và giáo dục, kêu gọi diễn viên không lạm dụng lời nói mà dùng khán giả góp phần cải tạo xã hội. Về hình hành động, cử chỉ để thể hiện nội dung tác thức nghệ thuật, kịch tự sự có kết cấu phóng phẩm và tính cách nhân vật. khoáng, dàn trải, chắp đoạn, đảo thứ tự. Nó Như vậy, trong giai đoạn 1955 - 1975, mở rộng không gian, thời gian, nhiều hành chính kịch Liên Xô và phương pháp động, nhiều tuyến. Chuyện được kể ở thời Stanislavski đã phổ biến rộng rãi ở Việt quá khứ, diễn tiến theo số phận nhân vật với Nam. Nó được xem là phương pháp chính “những đường cong không cố định” và nhiều thống trên sân khấu miền Bắc thời đó. Sau chi tiết được “lạ hóa” để gây tò mò cho khán 1975, mặc dù không còn giữ vai trò độc tôn giả. Nhân vật, diễn viên và khán giả không nữa nhưng những yếu tố hợp lý của nó vẫn “hòa cảm” như kiểu bi kịch Aristote và được tiếp tục vận dụng. phương pháp Stanhilavski. Diễn viên luôn 3. Trường phái kịch tự sự biện chứng gián giữ cự li với vai diễn và muốn nói với khán cách giả rằng “tôi đang nói với anh về nó”. Trong B. Brecht (1898 – 1956) là nhà soạn kịch trường hợp đóng vai tiêu cực, diễn viên nổi tiếng người Đức, nhà cách tân sân khấu thường “bàng thoại” với khán giả rằng: lớn của thế kỷ XX. Trong thời gian Hitler chúng ta hãy cùng phê phán nó. Để khán giả cầm quyền, ông phải sống lưu vong. Sau thế luôn tỉnh táo và không đồng nhất với nhân chiến II, ông về lại Cộng hòa dân chủ Đức vật, diễn viên thường đeo mặt nạ. Trên sân và lập đoàn kịch, tuyên truyền văn hóa vô khấu gián cách, có thể trang trí máy quay sản. Brecht được tặng Giải thưởng hòa bình phim, giá đèn và kéo rèm che nửa vời để quốc tế Lenin. Ông để lại cho đời khoảng khán giả nhìn thấy cảnh hậu trường. trên 1000 tiểu luận, 1027 bài thơ, 548 truyện Từ cuối những năm 1950, kịch tự sự của và 51 vở kịch. Ông có nhiều vở kịch nổi Brecht đã được giới thiệu ở Việt Nam. Ban tiếng như: Ca kịch ba xu, Cuộc đời của đầu, các trí thức, văn nghệ sĩ Việt Nam tiếp Galilei, Mẹ dũng cảm và các con, Khẩu súng xúc với lý luận kịch của Brecht qua các sách của bà Carrar, Lẽ biến và lẽ thường Trong báo bằng tiếng Pháp. Tuyển tập kịch Brecht đó, có nhiều vở được dàn dựng ở Việt Nam bằng tiếng Pháp đã có ở thư viện Việt Nam. như: Vòng phấn Kavkaz, Người tốt ở Tứ Nhà nghiên cứu Trần Vượng cho biết:
  6. Tạp chí Khoa học – Trường Đại học Phú Yên, Số 27 (2021), 16-24 21 “Nhiều người hoạt động sân khấu Việt Nam lòng đất. Nhưng hôm nay, tôi tình nguyện biết tiếng Pháp say sưa nghiên cứu bộ sách làm người dẫn truyện trong vở kịch này ( ) quý này. Người ta ngạc nhiên thấy Brếch là Nếu trong câu chuyện này có đôi chỗ gay người phương Tây, biết vận dụng sân khấu gắt, mong các bạn hãy tha thứ cho ( ) Câu phương Đông ( ) Sự thành công lớn lao chuyện này còn liên quan tới nhiều người của Brếch khuyến khích những nhà sân khấu nữa, sau đây, họ sẽ đến với các bạn”. (Phác Việt Nam quay về học tập sân khấu cổ truyền Văn, Bùi Quý Linh, Nguyễn Thị Hồng Ngát, theo phương pháp khoa học và tinh thần thời 1975, tr.13-14). Các nhân vật lần lượt giới đại mới” (Nhiều tác giả, 1987, tr.56). Lúc thiệu với khán giả theo hình thức bàng thoại. bấy giờ, giới sân khấu Việt Nam có sự băn Rồi câu chuyện diễn ra với những mâu thuẫn khoăn trong việc lựa chọn giữa phương pháp trong nội bộ ban lãnh đạo và công nhân xí Brecht và phương pháp Stanislavski. Hai nghiệp than. Thỉnh thoảng, những người dẫn phương pháp này có nhiều điểm trái ngược truyện lại xuất hiện để dẫn dắt và giải thích nhau và trước đó đã từng gây tranh luận ở các tình huống. Chú thích kịch ghi: “Chợt bên trời Âu. Đa số nghệ sĩ Việt Nam ưu tiên nghe tiếng bà mẹ: “Anh cứ về đây đã”. Bà chọn phương pháp sân khấu của người anh kéo Vọng ra. Những người dẫn truyện dần cả Liên Xô. Trong khi một số khác nhận thấy dần biến mất”. (Phác Văn, Bùi Quý Linh, phương pháp Brecht rất gần gũi với kịch hát Nguyễn Thị Hồng Ngát, 1975, tr.37). Có lúc, và họ đã vận dụng chúng trên sân khấu chèo. nhân vật Ngọ quay sang nói chuyện với khán Ở đây, ta chỉ đề cập đến một số vở kịch nói giả: “Rồi sau đó, sau cái ngày hôm nay trong giai đoạn 1955 – 1975 có ảnh hưởng không lâu, đúng như tôi dự đoán, đến lượt rõ rệt kiểu sân khấu tự sự của Brecht. tôi cũng phải đổi đi công trường “Khe gió” Kịch Ký sự biển Đông (Trần Vượng) mở đấy, các bạn ạ”. (Phác Văn, Bùi Quý Linh, đầu bằng lời giới thiệu của nhân vật dẫn Nguyễn Thị Hồng Ngát, 1975, tr.61). Câu truyện ở thời hiện tại. Còn bản thân sự kiện “sau cái ngày hôm nay không lâu” cho thấy chính của vở kịch thuộc thời quá khứ. “Xin các sự kiện bị xáo trộn thời gian. Khán giả các vị khán giả mà tôi rất mực kính trọng cùng với người dẫn truyện và các nhân vật thông cảm cho rằng, trong khi kể lại câu phải tham gia sắp xếp lại câu chuyện. chuyện sau đây, tôi không bận tâm nhiều về Kịch Bạch đàn liễu của Xuân Trình từng những câu hỏi như là: tình huống này có thể bị gây tranh luận gay gắt về cách thức phản xảy ra vào lúc ấy không ? Chi tiết kia lẽ ra ánh mặt trái của chế độ mới. Mở đầu vở kịch, phải khác chứ sao lại thế. Khúc đối thoại ấy các nhân vật cũng tự giới thiệu, trong đó có đem nói ở đây e vô lý chăng ?” (Nhiều tác một nhân vật tiêu cực là Quyền. Nhân vật giả, 1990, tr.126). Kịch có sự giao lưu giữa Quyền của hiện tại thừa nhận những sai lầm nhân vật, diễn viên và khán giả. Sự giao lưu của Quyền trong quá khứ. Đây là lối gián cách ở đây nhằm khêu gợi sự đối thoại, tranh luận giữa diễn viên và nhân vật: làm cho khán giả cũng trở thành chủ thể tiếp “Quyền: - Vâng, hồi ấy tôi là phó chủ nhận có sáng tạo. tịch xã. Tôi đã bị tòa án truy tố. Cũng may Kịch Cửa tầng của Bùi Quý Linh có nghệ mà tôi kịp hối hận ngay ( ) thuật dẫn truyện rất đặc sắc. Ở phần Giáo Ông Lượng (với vợ) – Hôm ấy là ngày đầu, nữ sinh đeo kính cận nói với khán giả: bao nhiêu nhỉ ? “Tôi là sinh viên địa chất về thực tập thăm Phái: (Lật từng trang giấy sổ tay) – dò chiều sâu. Công việc của tôi là tìm hiểu Tôi có ghi lại đây, hai mươi lăm tháng bảy
  7. 22 Journal of Science – Phu Yen University, No.27 (2021), 16-24 năm 1968, tôi về xác minh lý lịch cho đồng có văn học phi lý (Sartre, Camus, Kafka ) chí Độ. và kịch phi lý (Beckett, Ionesco, Ông Lượng: - Vâng, đúng gần năm Adamov ). S. Beckett viết nhiều thể loại năm nay rồi”. (Nhiều tác giả, 2000, tr.566) nhưng ông chỉ thực sự nổi tiếng với những Như vậy, câu chuyện diễn ra trong vở kịch phi lý như Đợi Godot, Tàn cuộc nhiều năm, không theo luật “duy nhất về thời E. Ionesco cũng gây sửng sốt làng kịch châu gian”. Cốt truyện bị đảo tuyến liên tục. Âu với những cách tân táo bạo trong Nữ ca Thỉnh thoảng, các nhân vật từ quá khứ quay sĩ hói đầu, Những chiếc ghế, Con tê giác lại hiện tại để giải thích với khán giả: Kịch phi lý còn được gọi bằng nhiều cái tên “Ông Lượng: (Đến gần bên Quyền) – như: “kịch phản kháng”, “phản kịch”, “siêu Hôm nay sự việc đã xong cả rồi, ông thử nói kịch”, “kịch hề” Những tên gọi đó cũng thật cho khán giả xem bữa ấy đến tôi là vì phản ánh phần nào đặc điểm của nó. việc gì ? Văn học hiện sinh nói chung và kịch phi Quyền: - Trong bản kiểm thảo tôi đã lý nói riêng có nhiều khuynh hướng rất đa nói rõ rồi đấy thôi. Tôi đến ông hôm ấy là vì dạng. Nét chung nhất của nghệ thuật hiện tờ đơn khiếu lên ( ) Tôi sang ông hôm ấy sinh – phi lý là nói về thân phận con người chính là để dàn xếp. và muốn phá bỏ những ràng buộc của truyền Bà Lượng: - Ông sang chơi” (Nhiều thống, hoàn cảnh (cả về nội dung tư tưởng tác giả, 2000, tr.587) và hình thức nghệ thuật). Kịch hiện sinh - Bắt đầu từ câu nói này của bà Lượng, phi lý thường nhắc đến những nội dung sau: kịch lại chuyển sang quá khứ một cách đột Buồn nôn, Cô đơn, Cái chết, Hư vô, Tha hóa, ngột, không có dấu hiệu báo trước. Cuối vở Lo âu, Dấn thân, Tự quyết, Nổi loạn, Độc kịch, còn có mục hồi tưởng. Đây là kiểu kịch đáo Con người không tin vào chân lý, tự sự, có nhiều hành động đan xen, sắp xếp thậm chí cũng không tin vào lời của mình. rời rạc. Và khán giả luôn tỉnh táo để nhận ra Các đơn vị đo lường đều không chính xác, rằng mình đang xem kịch chứ không sống không gian, thời gian bị bẻ cong. Thế giới cùng nhân vật. được sắp xếp một cách hỗn độn, không hợp Sau năm 1975, kịch tự sự của Brecht càng lý. Một số người buồn rầu chấp nhận sự phi ảnh hưởng đậm nét hơn trên sân khấu Việt lý ấy, trong khi số khác tìm cách phá tung Nam, cả về kịch nói lẫn chèo. Lý luận kịch trật tự cũ, giải phóng mình. Kịch phi lý có tự sự cũng được đề cập đến trong nhiều giáo thể không có cốt truyện hoặc cốt truyện kỳ trình lý luận văn học - nghệ thuật. Và nhiều ảo với những chi tiết nghịch dị, hình ảnh nhà lý luận phê bình đã nhận ra rằng, đặc tượng trưng. Một số tác phẩm cũng dùng thủ điểm của kịch không chỉ có “tam duy nhất” pháp giễu nhại để bày tỏ thái độ phản kháng và thắt nút - cao trào - mở nút. Trong thế kỷ trước “trò đời”. Kịch phi lý muốn xóa bỏ hết XX, bức tranh của kịch đa dạng hơn nhiều. những quy tắc ràng buộc của kịch truyền thống. 4. Trường phái kịch hiện sinh - phi lý Chủ nghĩa hiện sinh từ phương Tây du Tư tưởng hiện sinh đã có từ lâu trong triết nhập vào Việt Nam từ giữa thế kỷ XX. Miền học và nghệ thuật nhưng nó chỉ phát triển Nam những năm 1955 – 1975 là mảnh đất thành một phong trào mạnh mẽ sau Thế màu mỡ để làm nảy nở chủ nghĩa phi lý. chiến II. Chủ nghĩa hiện sinh xuất hiện trong Chiến tranh diễn ra triền miên, con người tất cả các thể loại văn học nghệ thuật. Một sống trong cảnh khổ cực, thường xuyên lo nhánh của trào lưu này chủ nghĩa phi lý, ta âu về cái chết. Chiến tranh làm bộc lộ vô số
  8. Tạp chí Khoa học – Trường Đại học Phú Yên, Số 27 (2021), 16-24 23 điều phi lý, con người mất phương hướng, có nhan đề là: “Trong khi chờ Thượng đế”. đành ngụp lặn trong cuộc sống thực dụng. Trong sách Văn học miền Nam (tùy bút, Người ta tìm đọc những sách báo hiện sinh kịch), nhà văn Võ Phiến nhận xét về Nghiêm bày bán đầy rẫy khắp các ngõ phố. Chủ Xuân Hồng và Vũ Khắc Khoan như sau: nghĩa hiện sinh - phi lý trở thành cảm hứng “Kịch của ông Nghiêm, Vũ viết vào thời kỳ chủ đạo trong văn nghệ. Nó được nhắc đến mà Samuel Beckett đang ảnh hưởng mạnh nhiều trong thơ văn, âm nhạc Số lượng tác mẽ khắp Tây phương (Tên hồi kịch “Trong phẩm kịch nói ở miền Nam không nhiều. khi chờ Thượng Đế” cũng khiến nghĩ đến tác Nhưng căn cứ vào những vở kịch nói được phẩm lẫy lừng của Samuel Beckett: En in trong thời kỳ này, ta cũng thấy phần nào attendant Godot). Nhưng cảnh chờ đợi bóng dáng của chủ nghĩa phi lý. Godot, trong cái phi lý ngẩn ngơ có một nụ Không ít vở kịch bộc lộ sự băn khoăn: cười ( ) ở cảnh chờ Thượng Đế không có Con người sống để làm gì ? Họ có khác gì nụ cười, trong “sự tuyệt vọng câm lặng và so với con vật. Một số người cho rằng con vô biên” (Võ Phiến, 1999, tr.2486). Ngoài người giống như Con vật phi lý (kịch của vở Ba hồi cuồng ngông, Nghiêm Xuân Hồng Ngô Xuân Phụng). Họ bị cầm tù, sống mất còn có vở Người viễn khách thứ mười cũng tự do bởi “tha nhân”. Vở kịch tượng trưng mang tư tưởng hiện sinh. Biển tối (Lữ Hồ) xem xã hội giống như nhà Một tên tuổi nổi tiếng khác trong làng tù. Bóng tối trên sân khấu tượng trưng cho kịch hiện sinh – phi lý ở miền Nam là Doãn xã hội tăm tối. Người ta mù quáng, cuồng Quốc Sỹ với Trái cây đau khổ, Tiếng hú tâm tín, ngụp lặn trong bể khổ. linh Trong kịch Trái cây đau khổ, nhân Vũ Khắc Khoan có các vở kịch hiện sinh vật Ngọc Hoàng nói với Người Đông như: Ga xép, Ngộ nhận, Những người không Phương: “Con người đâu phải là con vật mù chết, Thành Cát Tư Hãn Trong Ga xép, có chỉ biết lặng lẽ tuân theo sự dẫn dắt của định hai nhân vật thích dùng những từ ngữ thời mệnh câm ( ) Ngươi quên chính lời ngươi thượng của chủ nghĩa hiện sinh: đã nói dưới trần: “Đau khổ không thể thiếu “Nghiêm: Đó, ông, lại ông, ông thấy được trong cuộc sống” ( ) Con người luôn không ? Ông có thấy là nó vô nghĩa không ? kêu la than phiền đời là bể khổ. Họ biết đâu Nó vô nghĩa đến bật cười, vô nghĩa đến phi chính đó là điều may cho họ”. (Doãn Quốc lý, phi lý đến Sỹ, 1963, tr.43-44). Ý của Ngọc Hoàng là: Ngà: Buồn nôn ? con người sinh ra trên đời là để gánh chịu Nghiêm: Buồn nôn còn khá. Không, nó những đau khổ. Nhưng sự đau khổ cũng đem phi lý đến độ kinh hoàng”. (Võ Phiến, 1999, lại cho con người nhiều điều may. Một lập tr. 2772). luận rất trái ngang, phi lý ! Quan điểm Họ đối thoại với nhau bằng những câu vô chung của các nhân vật là cuộc đời rất hư vô, nghĩa, lộn xộn giống như Estragon và chẳng có gì tốt đẹp. Nhưng lỡ sinh ra rồi thì Vladimir trong kịch Chờ đợi Godot của S. phải cố gắng tồn tại cho qua năm tháng đoạn Beckett. Vở Chờ đợi Godot có nguyên bản trường. Đó cũng là quan niệm thường thấy tiếng Anh là “Waiting for Godot” (Trong khi văn chương phi lý. chờ Godot). Từ Godot gợi liên tưởng đến Như vậy, trong giai đoạn 1945 - 1975, God, tức là Chúa, Thượng đế. sân khấu Việt Nam chịu ảnh hưởng của Trong vở kịch Ba hồi cuồng ngông, nhiều trường phái kịch châu Âu. Kịch Pháp Nghiêm Xuân Hồng đã đặt tên cho một hồi và trường phái Aristote đã có mặt trên sân
  9. 24 Journal of Science – Phu Yen University, No.27 (2021), 16-24 khấu Việt Nam nửa thế kỷ và vẫn lặng lẽ số lý thuyết của nó đã được giới soạn kịch chảy. Ở miền Bắc, chính kịch Liên Xô và miền Nam chú ý. Ở miền Nam, thoại kịch phương pháp Stanislavski giữ vai trò thống mang đậm màu sắc hiện sinh – phi lý. Chưa soái. Kịch tự sự biện chứng gián cách của có lúc nào trong lịch sử, sân khấu Việt Nam Brecht đã có mặt ở miền Bắc nhưng chưa có phô bày nhiều sắc màu thẩm mỹ và phức tạp đều kiện phát huy nhiều. Trong khi đó, một đến như vậy TÀI LIỆU THAM KHẢO Béctôn Brếch (1983), Bàn về sân khấu tự sự, Hội nghệ sĩ sân khấu Việt Nam, H. Hà Diệp (2005), Nhân vật trung tâm của kịch nói Việt Nam (1920 - 2000), NXB Văn học, H. Nguyễn Đức Đàn (1985), Các trào lưu trường phái kịch phương Tây hiện đại, Tạp chí Nghiên cứu Nghệ thuật xuất bản, H. Phan Kế Hoành – Vũ Quang Vinh (1982), Bước đầu tìm hiểu lịch sử kịch nói Việt Nam 1945 - 1975, NXB Văn hóa, H. Đỗ Hương (2005), Về nghệ thuật diễn xuất kịch hát truyền thống và kịch nói Việt Nam, NXB Sân khấu, H. Nhiều tác giả (1987), Sân khấu 1945 - 1985 những vấn đề lý luận từ thực tiễn phát triển, NXB Sân khấu, H. Nhiều tác giả (1990), Tác gia kịch Việt Nam hiện đại, NXB Sân khấu, H. Nhiều tác giả (2000), Kịch Việt Nam chọn lọc, tập 3, NXB Sân khấu. H Võ Phiến (1999), Văn học miền Nam (tùy bút, kịch), NXB Văn nghệ, Hoa Kỳ. Tất Thắng (2016), Cảm hứng sáng tạo, NXB Sân khấu. H. Doãn Quốc Sỹ (1963), Trái cây đau khổ, Sáng Tạo xuất bản, S. Phác Văn, Bùi Quý Linh, Nguyễn Thị Hồng Ngát (1975), Cái chốt, NXB Văn hóa, H. Western theater styles and their influence on Vietnam during the period 1945 – 1975 Pham Ngoc Hien Sai Gon University Email: ngochien2@gmail.com Received: April 12, 2021; Accepted: May 28, 2021 Abstract In the twentieth century, many schools of drama appeared in the Western countries. In addition to the French classical theater, there were existential - absurd theater, dialectical narrative drama, socialist drama and the Stanislavski theater system These schools all had strong influence on Vietnamese theater during the period 1945 - 1975, including the composition activities of the playwrights and the actors' acting. Keywords: classical drama, narrative drama, theater of the absurd, Vietnamese drama, 1945-1975