Cầu cúng, khấn vái – niềm tin tâm linh trong văn học trung đại Việt Nam - Lê Thu Yến
Bạn đang xem tài liệu "Cầu cúng, khấn vái – niềm tin tâm linh trong văn học trung đại Việt Nam - Lê Thu Yến", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- cau_cung_khan_vai_niem_tin_tam_linh_trong_van_hoc_trung_dai.pdf
Nội dung text: Cầu cúng, khấn vái – niềm tin tâm linh trong văn học trung đại Việt Nam - Lê Thu Yến
- Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 44 năm 2013 ___ CẦU CÚNG, KHẤN VÁI – NIỀM TIN TÂM LINH TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM LÊ THU YẾN*, ĐÀM THỊ THU HƯƠNG TÓM TẮT Bài viết giới thiệu một số yếu tố tâm linh như cầu cúng, khấn vái Những yếu tố này tồn tại trong văn học trung đại như một niềm tin tuyệt đối về mặt tâm linh. Và đứng ở góc độ văn hóa bài viết nhận xét đánh giá về sự hiểu biết cũng như trình độ tư duy của con người được phán ánh trong văn học thời đó. Từ khóa: cầu cúng, khấn vái, niềm tin, tâm linh, văn học trung đại. ABSTRACT Worship, Praying - Spiritual faith in Vietnamese Medieval Literature The article introduces some spiritual elements such as worship, praying These elements existed in Vietnamese Medieval Literature as an absolutely spiritual faith. At a cultural standpoint, the article evaluates the knowledge and level of human thinking which was reflected in the literature at that time. Keywords: worship, pray, faith, spiritual, Medieval literature. 1. Tín ngưỡng của người Việt cho 2. Một nhu cầu tâm linh rất lớn của rằng vạn vật trên thế giới này đều ẩn nhân dân được phản ánh trong nhiều tác chứa một năng lực huyền bí, linh thiêng. phẩm văn học trung đại là cầu tự (cầu xin Nó có quyền năng vô hạn đối với đời con cái). Thường thì nhà nào hiếm muộn sống của con người và có thể tạo phúc con cái thì đều cầu xin với trời đất ban hay gây họa bất cứ lúc nào. Đến với thế cho có con. Quan niệm của dân gian cho giới ấy, con người vừa có thái độ thành rằng con cái là phúc của trời cho, không kính e sợ vừa mong muốn một quan hệ phải tự nhiên mà có được. Vì thế, muốn hài hòa, nương dựa vào nhau. Biểu hiện có được phúc lớn đó, con người phải rõ rệt cho thái độ mang tính phức hợp đó thành tâm cầu khấn ông trời. Việc cầu tự là hành vi tín ngưỡng cầu cúng, khấn vái này còn thêm ý nghĩa quan trọng khác. của con người. Thông qua con đường cầu Sách xưa từng nói một trong những tội cúng, khấn vái, con người cầu xin thần bất hiếu lớn nhất của con người là không linh che chở, phù hộ, xin được ban phước có con nối dõi, không có người thừa tự trừ họa. Và trong sự che chở đó, con (bất hiếu hữu tam vô hậu vi đại). Nhất là người cũng “nuôi dưỡng thần linh của đối với các bậc đế vương, việc có con kế mình” [12, tr.52], gia tăng niềm tin linh tự ngai vị nhằm mục đích tối trọng là duy thiêng đối với các vị thánh thần mà mình trì sự chính thống, có người thuộc dòng phụng thờ hay cầu khấn (bỏ chữ “ đó” dõi vương triều đứng ra cai trị thiên hạ và cuối câu). ổn định triều chính, càng trở thành vấn đề * PGS TS, Trường Đại học Sư phạm TPHCM quan yếu. Do đó, cầu tự không dừng lại ở ThS, Trường Đại học Sư phạm TPHCM chỗ là cái phúc con người mong muốn 92
- Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Lê Thu Yến và tgk ___ được hưởng, mà ý nghĩa hơn, nó nhằm người phụ nữ thân thiết đi cầu tự ở động đến việc duy trì nòi giống, nối liền đường Hồ công và thề với nhau nếu trời ban cho dây liên hệ, kế tục và tiếp nối giữa các việc sinh nở thì sẽ cho các con nên đôi thế hệ. Những ý nghĩa này đều được các lứa. Lời cầu tự ấy được ứng nghiệm, hai tác giả văn học trung đại ghi lại trong tác người sinh ra một trai, một gái, hai đứa phẩm của mình. Vua Trần Thái Tông lâu con ấy lớn lên kết duyên chồng vợ và ngày chưa có con đã nhờ vào một đạo sĩ sống với nhau thật hạnh phúc. tên là Đạo Thậm làm lễ cầu tự, sau được Bên cạnh cầu phúc, nhân dân ta thượng đế chấp thuận và cho Chiêu Văn cũng thường cầu an, tức là cầu sự bình an đồng tử giáng sinh làm con vua (Nam cho gia đạo và cho chính mình. Đây là ông mộng lục). Vợ vua Trang Vương nhu cầu tâm linh thiết yếu và thường gặp nghĩ đến việc vua không có con trai nối của con người vì đứng trước thế giới tự dõi là do sự báo ứng của trời (vì những nhiên rộng lớn xung quanh, con người dễ cuộc chinh chiến giết hại của nhà vua) thấy mình bé nhỏ yếu đuối và sự sợ hãi là nên đã cầu xin vua lập đàn cầu tự. Đức tâm lí khó tránh khỏi. Vì thế, con người vua thuận theo lời cũng đã sắm sanh thường mong cầu sự bình an, tránh gặp hương quả đèn dầu, đàn chay bảy ngày những điều tai ương, bất trắc và nguy bảy đêm để xin trời đất chứng giám cho hiểm. Sau khi sinh con, nguyện cầu lớn lòng thành của mình “Đàn chay làm bảy nhất của Thạch bà là mong cho Thạch ngày đêm - Việc ngài cầu tự, việc thầy Sanh có được cuộc sống bình yên, vượt tụng kinh - Đức vua quỳ xuống khấn rằng qua mọi hiểm nguy “Thạch bà ôm ấp vui - “Tôi từ trị nước nuôi chưng dân trời - thay – Thấy con mà lại khôn khuây nỗi Cũng may dân được yên vui - Mà sao chồng! – Suối vàng ông có thiêng không hoàng tử nối đời chưa sinh - Hay là trong – Độ cho con nó qua vòng hiểm nguy” lúc dùng binh - Nhiều khi sát phạt oan (Truyện Thạch Sanh). Nàng chúa Ba khi tình chúng chăng - Lòng thành lễ bạc biết mình sắp rơi vào nguy hiểm cũng đã kính dâng - Rày tôi tạ quá xin thần chứng cầu khấn trời Phật bảo vệ, chở che cho minh”. Không chỉ có các bậc vua chúa, mình. Trên đường trở về dương thế, nàng việc cầu tự cũng là hoạt động tâm linh gặp một con hổ, nàng khấn nguyện cầu thường thấy của những kẻ thường dân. xin được giúp đỡ thì liền ứng nghiệm, Trong truyện thơ Tống Trân - Cúc Hoa, con hổ bỏ đi và nàng được thoát nạn. có vợ chồng nhà giàu ở huyện Phù Hoa Trước những chuyến đường dài, để tránh vì muốn cầu xin trời đất cho có con nên những tai ương bất trắc có thể xảy ra, con đã ngày đêm cầu khấn các nơi, không người cũng cầu mong được bình an vô quản ngại việc làm phúc, đúc chuông cho sự. Trong dân gian, lời chúc “thượng lộ chùa, giúp đỡ nhà nghèo. Tấm lòng đó bình an” chính là mang ý nghĩa này. thấu đến tận trời cao nên ngọc hoàng đã Trong truyện Phương Hoa, sau 7 năm lẩn sai thần nhà trời xuống đầu thai. Truyện tránh ở quê người vì bị tên trung úy họ Lệ nương (Truyền kì mạn lục) kể về hai Tào vu cáo gia đình âm mưu làm phản, 93
- Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 44 năm 2013 ___ Cảnh Tỉnh và Cảnh Yên trở về quê cũ. đêm đèn nhang cầu khấn. Một lực lượng Hai chàng không quên sửa soạn lễ vật, khác được nhân dân ta tin tưởng khẩn cầu cúng trước tiền đường để mong cầu thần là Đức Thánh Trần ở đền Vạn Kiếp. linh che chở cho được bình yên “Lòng Thiên Thần Hồ Động Đình trong Vũ thành lễ vật có gì – Nguyện xin linh ứng trung tùy bút đã kể chuyện phu nhân ông hộ trì bình sinh”. Vợ Mã Ô khi sai người Hoàng Bình Chính mắc bệnh, lúc tăng tìm đến nơi chồng hỏi thăm tin tức cũng lúc giảm bất thường như bị ma làm. Khi đã cẩn thận chọn ngày xuất hành, khấn ấy, ông “mới sai người đến Vạn Kiếp cầu vái trời đất cho chuyến đi được thuận đảo ở đền Hưng Đạo Đại Vương, đổi lấy buồm xuôi gió (Truyện Mã Phụng - Xuân cái chiếu mới thờ trong đền đem về trải Hương). Một biểu hiện khác của sự cầu vào giường cho phu nhân nằm thì thấy an còn là cầu sức khỏe, tránh xa mọi bệnh hơi bơn bớt”. Không hẹn mà gặp, bệnh tật, đau đớn. Trong tư duy của truyện Miếu Phạm Nhan trong Công dư người xưa, khi nhận thức về khoa học tiệp kí cũng được Vũ Phương Đề ghi lại, còn mơ hồ và hạn chế, họ xem những hễ ai mắc bệnh Phạm Nhan (bệnh phụ bệnh tật bị mắc phải là điều gì đó rất thần nữ) thì “tới ngay đền Vạn Kiếp làm lễ cầu bí, không thể lí giải được. Và một khi đảo và đem chiếu mới đổi lấy chiếu cũ không thể lí giải, họ gán sự bí hiểm ấy đem về, thừa lúc vô ý đem trải cho bệnh cho đấng siêu nhiên, có khi là trời, có khi nhân nằm, lại xin thêm một ít chân nhang là ma quỷ. Chỉ khi cầu khấn lực lượng đem về đốt cháy thành than, rồi hòa với này, con người mới mong tai qua nạn nước cho bệnh nhân uống thì các chứng khỏi, bệnh tật, ma tà mới được chữa trị. bệnh đều tiêu tan hết”. Cách chữa bệnh Trong truyện Vũ Phục, vua nhà Lí khi bị này mang màu sắc Đạo giáo rất rõ rệt đau mắt “bèn sai xá nhân tắm gội trai (đổi chiếu, đốt chân nhang hòa nước khiết đến ngã ba sông, cầu đảo thần thổ uống). Đó là cách chữa bệnh theo phương địa, thần hà bá và tiên cung” (Kiến văn thức phù chú ma thuật - một hình thức tiểu lục). Trong truyện Lệ Hải bà vương chữa bệnh rất quen thuộc của Đạo giáo. kí, khi quân Ngô sang xâm lược nước ta, Có thể thấy, cầu khấn phần lớn là chúng bị mắc bệnh dịch nhiều vô kể, tên sự gửi gắm mong mỏi, nguyện ước của nào tên nấy đều ốm lăn ốm lóc. Lục Dận nhân dân về một việc gì đó sẽ xảy đến – một vị tướng nhà Ngô quá lo lắng, sợ trong tương lai, và trong tâm thức của họ, hãi đã “lấy đàn tế lễ cầu an, sám hối cầu an, cầu phúc có ý nghĩa quan trọng được bảy ngày đêm” (Việt điện u linh). và chiếm số lượng đáng kể hơn cả so với Trong Hoàng Lê nhất thống chí, chúa cầu mộng, cầu duyên hay cầu tài, cầu lộc. Trịnh thấy Vương tử Cán còn nhỏ mà Bên cạnh đó, nghi thức cầu khấn còn mắc chứng bệnh cam, chữa mãi không được thực hiện một khi con người cảm khỏi đã sai người một mặt đi lễ bái khắp thấy bất lực trong việc giải quyết những đền đài có tiếng linh thiêng mặt khác cho việc xảy ra trong thực tại. Họ phải nhờ thiết lập đàn tràng trong cung để ngày vào sự giúp sức của thần linh với niềm 94
- Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Lê Thu Yến và tgk ___ tin rất lớn rằng chỉ có thế lực siêu nhiên làm buồn rầu. Con gái ông là Hạnh mới đủ khả năng hoá giải mọi vấn đề, kể Nguyên thấy vậy đã làm lễ cầu khấn trời cả những việc nan giải nhất. Trong Phật, và linh nghiệm thay, hoa mai đã nở Truyện Thạch Sanh, không có cách nào lại lần thứ hai “Tiểu thư ra trước vườn để giúp công chúa nói được, Lí Thông hoa – Khấn năm bảy lượt lạy và bốn chỉ còn nhờ vào sự linh thiêng của trời phen – Lòng thành thấu cửu trùng thiên – Phật. Ngày ngày hắn vào ra điện thờ khấn Cành phàm đã chắp hoa tiên bao giờ”. vái nhỏ to “Lầm rầm lạy chín phương Có thể thấy, đối với những việc nằm trời – Lạy mười phương Phật độ tôi an ngoài khả năng của con người thì không hòa – Cho nàng công chúa nói ra – Thời có biện pháp nào hữu hiệu hơn ngoài việc tôi bái tạ ba tòa hoàng thiên”. Trong cầu viện ở lực lượng thần kì thông qua truyện Con chuột thành tinh, khi cả vua con đường cầu khấn, khấn nguyện. Thậm và quan đều không thể xử được vụ kiện chí, ngay cả những việc thường ngày phân biệt giữa hai người giống hệt nhau, nhất, không có gì khó khăn, nan giải đâu là người thật đâu là người giả, vua đã nhưng trong tâm thức của con người, họ sai đốt hương cầu khấn Phù Đổng thiên vẫn cần một điểm tựa tâm linh để nương vương trợ giúp. Khi tìm được mắt cho dựa vào. Chính vì thế, việc khấn cầu một Thoại Khanh, công chúa, người vợ sau đấng siêu hình nào đó là lựa chọn mà con của Châu Tuấn đã thành ý cầu trời khấn người thường tìm đến. Hai chị em trong phật để mắt Thoại Khanh được sáng lại truyện Đế Thích, thuở nhỏ vốn gặp loạn “Thốt đoạn công chúa ân cần – Đặt bày nên phải lưu lạc sang Ai Lao. Đến lúc hương án hết lòng vái van – Thoại Khanh trưởng thành, họ có nguyện vọng tha hiếu hạnh ai đang – Nguyền xin trời Phật thiết là trở về quê hương bản quán. Và họ lắp an cho nàng - Vái van cầu khấn đôi đã cầu khấn xin Đế Thích cho họ được hồi – Phút đâu hiển hiện mừng vui trong sống để quay về (Công dư tiệp kí). Nàng lòng” (Truyện Thoại Khanh, Châu Tuấn). Cúc Hoa khi tiễn chồng lên kinh ứng thí Trang vương thấy vì mình mà nàng chúa muốn cắt tấm lụa sa để may áo cho chồng Ba phải hi sinh hết hai mắt hai tay nên nhưng Phạm Công từ chối. Hai bên hết sức đau lòng. Ông mượn nén hương không ai chịu nhường ai nên nàng đã để khấn nguyện trời phật cho nàng lành khấn âm dương để nhờ chia hộ “Âu là lặn trở lại “Như vua muốn được con thiếp khấn âm dương – Về ai thời mặc tuyền – Thì cha khấn nguyện hối quá từ đoạn trường xót xa – Ba keo đều vậy cả nay”. Và kết quả của sự thành tâm cũng ba – Ngọc hoàng chẳng biết áo đà về ai – như ăn năn hối cải đó, nàng chúa Ba Cúc Hoa bèn cắt làm hai – Phạm Công được lành lặn, hai tay hai mắt được lấy nửa, xót thay thêm phiền”. Đến khi ở nguyên vẹn như xưa (Truyện nàng chúa nhà trở dạ một mình, Cúc Hoa cũng cầu Ba). Trong ngày giỗ của người bạn thân khấn trời đất phù hộ cho mẹ con nàng là Mai Bá Cao, hoa mai bỗng dưng một được mẹ tròn con vuông “Vái cùng thiên đêm đều tàn lụi hết, Trần Đông Sơ lấy địa chứng tri – Tôi còn thơ dại tiểu nhi 95
- Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 44 năm 2013 ___ một mình – Ví dù nhị nở thai sinh – Quỷ liễu, đọc thần chú xong, lấy nước trong thần phù hộ thoát mình nở hoa” (Truyện bình, vẩy khắp nơi ba lần”. Và thần diệu Phạm Công – Cúc Hoa). Trong cuộc thay, tấm lòng thanh khiết của nhà sư sống, con người thường tự giải quyết và được trời đất chứng giám “Một đám mây xoay xở mọi chuyện xảy đến với mình, đen từ đâu lại, rồi bão tố nổi lên, khói mù lực lượng thần linh không phải lúc nào tối trời quét đi sạch tất cả các của cải, cũng có thể can dự vào để giúp đỡ hay châu báu, trừ hương hoa và đồ chay tịnh hóa giải cho con người, thế nhưng không thì còn lại”. Nàng công chúa trong truyện vì thế mà con người đánh mất niềm tin Hoàng Trừu khi bị chúa Huy nghi ngờ ăn tâm linh của chính mình. Họ tin bằng một cắp ngọc trai cũng đã cầu khấn trời phật niềm tin rất thật rằng mọi kết quả tốt đẹp soi xét cho tấm lòng ngay thẳng, trong mà họ có được là nhờ vào sự giúp đỡ âm trắng của mình (Truyện Hoàng Trừu). Sự phù của lực lượng thần linh. Vì thế, trước cầu khấn này xuất phát từ quan niệm dân mọi chuyện xảy đến, họ vẫn thường thực gian “ông trời có mắt”, trời công minh, hiện nghi thức cầu cúng khấn vái, có khi sáng suốt không để người tốt bụng chịu chỉ là lời khấn cầu tự trong tâm, có khi oan khuất. Nó cũng là nghi thức cúng lễ thông qua hình thức nghi lễ trang trọng thể hiện tinh thần nhân đạo của nhân dân nào đó, để mong có được một điểm tựa ta, mong muốn giải thoát cứu rỗi cho các vững chắc về mặt tinh thần. oan hồn. Tâm thức dân gian này đã được Một bộ phận đáng kể khác khi thực Nguyễn Du phản ánh rất rõ trong tác hiện nghi thức cầu cúng, khấn vái, con phẩm viết về oan hồn của thập loại chúng người muốn xin trời đất chứng giám cho sinh Văn chiêu hồn. Trong truyện Hoàng một điều gì đó. Đó có thể là sự minh Trừu, khi nghe công chúa kể chuyện các chứng cho tấm lòng trong sạch, ngay binh sĩ vì đưa nàng vượt biển sang Trung thẳng bị hàm oan. Nội dung này thường Quốc đã phải chết oan, nhà vua thương đi liền với hình thức lập đàn tràng giải tình cho lập miếu thờ và tụng kinh giải oan, minh oan. Thiền sư Huyền Quang bị oan cho họ “Tìm thầy hòa thượng bấy giờ nàng Vân Bích vu oan là có tư tình. Vua - Lập đền miếu kính phụng thờ khói cho đòi thiền sư về cung, cho dựng đàn hương – Tụng kinh, niệm Phật mười tràng bày la liệt vàng ngọc, châu báu, phương – Vào đàn phát tấu, tụng đường tượng trưng cho những cám dỗ mà con giải oan” người gặp phải trong cuộc đời. Thiền sư Cũng là cầu khấn nhằm chứng giám bước lên đàn, vái lạy trời đất chứng giám cho một điều gì đó, bên cạnh sự minh cho tấm lòng trong trắng không bị hoen chứng cho tấm lòng trong sạch có khi còn ố, vẩn đục của mình “Huyền Quang bèn là sự chứng giám cho một lời thề thiêng mạnh dạn bước thẳng lên đàn tràng ba liêng, cao cả. Hình thức này xuất hiện lần, lại xuống ba lần, miệng tụng niệm, trong nhiều truyện thơ như Phan Trần, mặt ngửa lên trời vái lạy, tay phải cầm Hoa Tiên, Mã Phụng Xuân Hương, Lưu bình ngọc, tay trái cầm lá cành dương nữ tướng, Truyện Kiều, Lục Vân Tiên. 96
- Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Lê Thu Yến và tgk ___ Nhân vật chính trong những câu chuyện họ. Đó là vị nhân chứng thiêng liêng, này thường là những đôi trai tài gái sắc. trung thực và đáng tín cẩn nhất trong Tình yêu của họ vượt rất xa những quan niềm tin tâm linh của con người. Cũng niệm phong kiến đương thời “cha mẹ đặt phải nói thêm rằng, nội dung của những đâu con ngồi đó”, “áo mặc sao qua khỏi lời thề lại gắn với những gì vĩnh cửu, bất đầu”, “môn đăng hộ đối”. Họ tự nguyện biến của tự nhiên, là “non”, là “bể”, là đến với nhau, trao cho nhau lời thề “núi sông”, là “vàng đá” Vì vậy, lời nguyền đính ước mà không cần mai mối thề được bao bọc trong không khí linh hay bất kì sự sắp đặt sẵn nào. Chứng thiêng và con người tham gia vào những giám cho tình yêu của họ chỉ là “dưới dày lời thề đó luôn ghi tạc trong lòng, không có đất trên cao có trời”. Mã Phụng và dám làm sai khác hay phản bội lời thề. Xuân Hương cùng chích máu ăn thề để Những biến cố trong cuộc đời khiến cho nguyền làm vợ chồng đến trăm năm tấm lòng thủy chung của con người bị thử “Chén huyết khi ấy chia hai – Nguyện thách, họ thường nhắc lại lời thề để bày cùng muôn thuở trúc mai một lòng”. tỏ sự trước sau như một của mình. Vợ Lương Sinh và Dao Tiên, Thuý Kiều và Mã Ô trước mọi lời dụ dỗ đường mật của Kim Trọng cũng dưới vầng trăng bạc tên lí xã đã nhắc lại lời thề nguyền trăm thiêng liêng trao nhau lời thề sắt son vàng năm với chồng để khẳng định thái độ của đá “Văn thề thảo một hai tiên – Kìa lòng mình “Chồng tôi có chức có quyền – Xưa vàng đá nọ nguyền tóc tơ”, “Tóc tơ căn tôi đã mặn lời nguyền chồng tôi – Thề khi vặn tấc lòng – Trăm năm tạc một chữ hợp cẩn giao bôi – Bây giờ sang mặt đổi đồng đến xương”. Nàng Nguyệt Nga dời sao đang – Lời thề tại chốn phòng trong truyện Lục Vân Tiên cũng cảm loan – Non mòn núi lở mà lòng không kích trước tấm lòng đại nghĩa của Vân sai” (Truyện Mã Phụng - Xuân Hương). Tiên đã tự nguyện chủ động đính ước với Vị hôn phu của chàng Tư Mã khi bị Lưu chàng, không cần đến sự đồng ý của mẹ nữ tướng thử thách lòng chung thủy vẫn cha, không biết đến sự ưng thuận của ý giữ trọn lời thề xưa, một lòng như nhất trung nhân. Chỉ cần trời đất thấu tỏ cho với mối nhân duyên tiền định. Những lời tấm lòng son sắt của nàng “Vái trời cho nàng nói thể hiện rất rõ sự quyết tâm đó đặng vuông tròn – Trăm năm cho trọn “Lời gieo núi thẳm duềnh sau – Người lòng son với chàng”. Hình thức cầu khấn tuy còn cách dám đâu biến tình? – Dù cũng thường đa dạng, có khi họ lập đàn, duyên nênh nổi thủy binh – Quyết thề tiết sắm lễ để thề nguyền, có khi chỉ cần nén đá, lòng đinh dám dời – Ví dù nguyện hương khấn nguyện nhưng điều quan chẳng như lời – Đã đành ngọc nát để đời trọng đối với họ, những lời thề nguyền danh không”. Trong Truyện Kiều, có được trao gửi giữa không gian đất trời nhiều nhân vật thực hiện việc thề thốt với bao la. Trời đất chính là đại diện cho lực Kiều, trong đó có cả những kẻ xấu như lượng tối cao nhất chứng giám cho mối Tú Bà, Mã Giám Sinh, Bạc Bà, Bạc tình của họ, cho lời thề non hẹn biển của Hạnh, Sở Khanh. Chúng đã mượn những 97
- Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 44 năm 2013 ___ lời thề “chót lưỡi đầu môi” để Kiều tin truyện và Long trảo khước lỗ truyện. Và theo từ đó đẩy Kiều vào cuộc đời ô trọc. kết quả sau những lời khấn cầu đầy thành Và khi cuộc báo ân báo oán diễn ra, tâm đó, các cuộc chiến của quân dân ta những lời thề ấy được Kiều viện dẫn trở đều được các linh thần phù trợ, thoát khỏi lại như bằng chứng cáo buộc không cách vòng tai ách, hiểm nguy, giặc giã bị đẩy gì chối cãi cho những kẻ đã hãm hại cuộc lui và thiên hạ được thái bình. Bên cạnh đời Kiều “Lệnh quân truyền xuống nội đó, mọi việc liên quan đến đại sự quốc đao – Thề sao thì lại cứ sao gia hình”. gia, đến quốc thái dân an cũng được nhà Chính vì thế, những lời thề trong những vua thực hiện những nghi lễ khấn nguyện nghi thức khấn nguyện dưới trời đất có ý rất trang trọng và thành kính. Trong tác nghĩa rất thiêng liêng. phẩm diễn ca lịch sử là Việt sử diễn âm, Niềm tin thần thánh trong đời sống khi An Dương Vương xây thành mãi tâm linh người Việt không chỉ ăn sâu không được, vua đã làm lễ cầu đảo để trong nếp nghĩ của dân chúng mà còn có nhờ thánh thần phù trì. Và trời đã sai sứ cả các bậc thiên tử. Mỗi khi đất nước Kim Quy xuống trần để giúp sức cho nhà đứng trước nạn ngoại xâm, hầu hết các vị vua “Nhớ xưa xây thành chưa nên – An vua đều tìm đến chỗ dựa vững chắc nhất Vương lễ đảo hoàng thiên độ trì – Trời là sự âm phù của các vị thần. Tín ngưỡng thác giang sứ Kim Quy – Triệu rày lên này cũng khởi nguồn từ một niềm tin linh bảo tức thì cho hay”. Vua Lý Thái Tông thiêng rằng, nếu thành tâm cầu khấn sự vì muốn tìm người tài giỏi, anh linh đứng trợ giúp hay chứng giám của thần linh, đầu ở ngục trung tại Đô hộ phủ đã “tắm các cuộc chiến sẽ nhanh chóng giành gội, trai giới, lập đàn đốt hương tấu cáo chiến thắng và vượt qua mọi sự hiểm cùng Thượng đế” [tr.108]. Đêm ấy, nhà nguy, bất trắc do kẻ thù gây ra. Khi giặc vua đã mộng thấy sứ giả nhà trời xuống Ân tràn vào nước ta, được một người chỉ bảo cho người làm minh chủ cho việc phương sĩ mách bảo, vua Hùng vương ngục tụng tại Đô hộ phủ là Phạm Cự cũng đã “lập đàn, bày vàng bạc tiền lụa Lượng (Truyện Phạm Cự Lượng trong lên trên, ăn chay thắp hương cầu đảo ba Việt điện u linh). Bắc Bình Vương lần” (Đổng Thiên vương truyện – Lĩnh Nguyễn Huệ khi muốn đem quân ra Bắc Nam chích quái). Khi quân Tống sang dẹp loạn cũng đã kính cẩn đắp đàn trên xâm lược nước ta, vua Lê Đại Hành cũng núi Bân tế cáo cùng trời đất và các vị đã sai sư Khuông Việt đến đền cầu đảo thần (Hoàng Lê nhất thống chí). Người xin thần phù hộ (Đại sư Khuông Việt – con gái họ Lưu trong truyện thơ Lưu nữ Thiền uyển tập anh). Sự kiện tả quân tướng, khi tập hợp các binh sĩ để đi đánh Triệu Quang Phục vì sức yếu không bọn nịnh thần trong cung, đã lập đàn chống cự nổi đã lui về đầm Nhất Dạ “rồi xưng tướng nhờ trời đất chứng giám “Kíp cầu đảo trời đất và các vị thần linh ở truyền hiệu lệnh đồn binh – Đăng đàn bái đầm” cũng đã được các tác giả Lĩnh Nam tướng ra thành cầu phong”. Không chỉ chích quái kể lại trong Nhất Dạ Trạch trong những chuyện quốc gia đại sự mà 98
- Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Lê Thu Yến và tgk ___ bất cứ công việc nào liên quan đến việc hô mưa mưa đến, gọi gió gió về. Tính trị nước an dân, các bậc đế vương cũng chất này cho thấy uy thế của con người không quên nhờ vào lực lượng âm phù (mà đại diện là vương triều phong kiến, giúp sức, đặc biệt hơn cả là việc lập đàn đứng đầu là vua, kế đến là các vị thần là cầu mưa mỗi khi nhân dân rơi vào nạn nhà sư) trước thế lực thần thánh. Con hạn hán kéo dài, cuộc sống trở nên khó người không hoàn toàn núp bóng sợ hãi khăn đói khổ. Lễ cầu đảo này có ý nghĩa trước thế lực thần bí đó mà có khả năng quan trọng đối với người dân nước ta vốn đặc biệt giao cảm, tương thông và điều sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nước. khiển nó. Nhân dân ta cũng đã từng đúc rút kinh Một hành vi tín ngưỡng khác liên nghiệm “nhất nước, nhì phân, tam cần, quan mật thiết đến cầu khấn chính là thờ tứ giống”. Ca dao cũng đã ghi lại mong cúng. Tín ngưỡng này bao gồm các hình ước của nhân dân “Lạy trời mưa xuống – thức: thờ cúng ông bà, tổ tiên; thờ cúng Lấy nước tôi uống – Lấy ruộng tôi cày – người chết, thờ nhân thần (phúc thần, tà Lấy đầy bát cơm”. Nước đóng vai trò thần) và thờ nhiên thần (thần cây, thần không thể thiếu trong đời sống sinh hoạt đá, thần rắn, thần hổ). cũng như sản xuất của nhân dân ta. Hiểu Thờ cúng ông bà, tổ tiên là một nét được tầm quan trọng đó, mỗi khi trời đất đẹp văn hóa lâu đời của người Việt, nó đã không mưa thuận gió hòa, nhân dân lâm ăn sâu vào nếp cảm, nếp nghĩ, lối sống vào cảnh hạn hán, những vị vua hết lòng của nhân dân ta từ bao đời nay. Mĩ tục vì dân vì nước bao giờ cũng tìm cách lập này có gốc rễ từ quan niệm “sống gửi đàn để cầu đảo. Mùa hè năm Trinh Phù thác về”, “chết là thể xác, hồn là tinh thứ hai (1077), khi đất nước gặp đại hạn, anh” Con người khi chết đi không phải vua Lý Cao Tông xuống chiếu cho các là sự chấm dứt tất cả mà bắt đầu cho danh tăng làm lễ cầu đảo đều không ứng chuyến hành trình trở về với “thế giới nghiệm. Nghe danh tiếng của sư Tịnh bên kia” - một thế giới cũng không khác Giới, nhà vua phải sai sứ đi thỉnh sư về gì với cõi trần thế mà con người đã sống; kinh. Và đúng như lời danh truyền, sư thêm vào đó, thể xác con người tuy sẽ bị “nửa đêm thắp hương đứng giữa sân tan rữa vào trong lòng đất, thân cát bụi lại chùa tụng niệm cầu khấn, trời bèn đổ trở về cát bụi nhưng linh hồn vẫn không mưa” (Thiền sư Tịnh Giới trong Thiền hề bị mất đi, nó vẫn tồn tại và sinh sống uyển tập anh ngữ lục). Đời vua Lý Anh trong thế giới bên kia. Tín ngưỡng thờ Tông, trời đại hạn, vua sai Thiền sư đưa cúng tổ tiên chính là niềm tin của con sắc tặng phong, ngay sau đó mưa to như người rằng ông bà và tổ tông dù đã đi vào trút nước. Vua bèn đến đền, lập đàn cầu cõi vĩnh hằng nhưng vẫn ràng buộc với đảo (Truyện Hai Bà Trưng trong Lĩnh con cháu bằng một sợi dây liên hệ Nam chích quái). Trong các câu chuyện “huyền bí” và “mạnh mẽ”. Thông qua các này, hầu hết các vị sư là người giỏi phép hình thức thờ cúng, thắp nhang, cầu thuật có thể giao tiếp với các vị thần để khấn, ông bà sẽ luôn luôn dõi theo, phù 99
- Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 44 năm 2013 ___ hộ và độ trì cho con cháu được bình an Công, Cúc Hoa, trên đường hành khất và hạnh phúc. Nói cách khác, người sống gặp được đoàn xa giá của cha cũng đã xin luôn tin rằng họ chỉ có thể sống “sung cơm để cúng người mẹ đã khuất. Tấm sướng khi được bao bọc bởi ảnh hưởng lòng hiếu thảo ấy đã động lòng trắc ẩn tốt lành của người chết đang che chở họ của bao người (Truyện Phạm Công, Cúc một cách bí ẩn” [12, tr.66]. Song song Hoa). Nhà thơ Lê Cảnh Tuân trong một đó, tập tục thờ cúng ông bà tổ tiên cũng lần đi thuyền trên sông Cống Châu, đến đã thể hiện nét đẹp trong đạo lí của người ngày giỗ mẹ, đã không khỏi xót xa, “sái Việt, vốn đã được gửi gắm vào nhiều câu lệ”, canh cánh nỗi lòng của kẻ xa xứ, xa tục ngữ “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả cách mồ mả của ông bà tổ tiên, không nhớ kẻ trồng cây”, “chim có tổ, người có biết lấy ai thay mình dâng lễ mọn trong tông”. Cụ thể hơn, nó nói lên thái độ biết ngày mất của mẹ. (Cống Châu giang ơn đầy thành kính của những người còn trung phùng tiên tỉ kị nhật). sống với người đã khuất. Thái độ đó thể Ngoài ngày giỗ thì việc cúng tổ tiên hiện rõ nhất trong những ngày giỗ chạp còn được tiến hành đều đặn vào các ngày (kị nhật). Dù ở bất cứ hoàn cảnh nào, mồng một, ngày rằm, dịp lễ tết và bất cứ nghèo khó hay giàu sang, phải xa xứ hay khi nào trong nhà có việc (dựng vợ gả ở nhà, con người luôn khắc ghi ngày giỗ chồng, sinh con đẻ cái, xây nhà dựng cửa, của ông bà, cha mẹ. Trong các tác phẩm xuất hành đi xa hay thi cử ). Nó thể văn học trung đại, hành vi tín ngưỡng này hiện mối dây liên hệ gần gũi, khắng khít xuất hiện rất nhiều. Thoại Khanh trong giữa người sống và người chết, giữa cõi những tháng ngày cùng mẹ đi hành khất dương và cõi âm. Con người luôn quan tìm Châu Tuấn vẫn khắc ghi ngày giỗ của niệm rằng người chết luôn luôn dự phần cha chồng “Củi săng tìm kiếm chẳng ra – vào cõi trần thế của người đang sống và Cỏ rơm chụm đỡ, đặng mà nấu cơm – người còn sống luôn muốn thông báo mọi Lầm rầm khấn vái quải đơm – Có linh việc cho người chết được biết như một xin hưởng”. Châu Tuấn vì không thuận hình thức hướng về cội nguồn. Trần Điện theo lời nhà vua bắt chàng cưới công và Trương Đài sau khi đỗ tiến sĩ trở về chúa, chàng phải chịu cảnh đi đày. Thế quê nhà đã làm tế lễ thần thánh trong nhưng, trước khi ra đi, chàng cũng xin làng và sau là thắp hương cho ông bà tổ phép nhà vua được làm lễ giỗ cha rất tiên. Hai vợ chồng Trương Đài khi đến kính cẩn, lễ nghi. Đến khi chàng được chơi nhà Trần Điện để hỏi nàng Phương sống trong cảnh nhung lụa, giàu sang, Hoa cho con trai họ là Cảnh Tỉnh cũng đã chàng cũng không quên ngày mất của cha dâng rượu thắp hương báo cáo với tổ tiên mình “Sắm sanh lễ vật để mà quải đơm1 “Ba tuần cúng tửu tiến hương – Chứng – Trâu bò đem tới sẵn sàng – Rượu trà cho con cháu thọ trường bách niên”. quà phẩm nghiêm trang đặt bày”. Cảnh Yên và Phương Hoa khi kết nghĩa (Truyện Thoại Khanh và Châu Tuấn). trăm năm cũng đã về nhà lạy tạ cha mẹ tổ Tấn Lực và Nghi Xuân con của Phạm tiên “Trước về tế lễ mẹ cha – Sau bèn về 100
- Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Lê Thu Yến và tgk ___ lạy ông bà Trần công – Yến diên lễ vật cõi âm (Văn tế Trương Quỳnh Như của thiết bày – Bên hành đại lễ, rượu say Phạm Thái; Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, động phòng” (Truyện Phương Hoa). Văn tế nghĩa sĩ trận vong lục tỉnh của Châu Tuấn khi nhờ người mai mối đến gá Nguyễn Đình Chiểu). Và dù ở hình thức nghĩa với Thoại Khanh cũng đã tuân theo nào thì nghĩa cử đó cũng biểu hiện một các nghi thức cưới gả rất trang trọng, tấm lòng đầy thành ý của người còn sống trong đó đặt lên hàng đầu vẫn là “Trước đối với người đã chết, là một nét đẹp là lạy tạ từ đường – Sau là cho được rỡ thuộc về văn hóa tinh thần của người ràng tổ tiên” (Truyện Thoại Khanh - Việt. Châu Tuấn). Bên cạnh các nghi lễ cúng Đối tượng được nhân dân ta hướng tế trong gia đình và gia tộc, còn phải kể đến thờ cúng còn là những vị anh hùng thêm vào hệ thống nghi thức thờ cúng tổ lịch sử, những người có công với dân với tiên một hình thức nữa, đó là tảo mộ. Chị nước. Họ được phụng thờ trong tâm thức em Thúy Kiều trong tiết thanh minh cũng của nhân dân và cả triều đình phong kiến, đã cùng nhau đi thăm mộ, cúng tế sửa được lập miếu đền thờ, sắc phong là sang mồ mả ông bà, tổ tiên (Truyện những vị thần. Và dân gian gọi đó là Kiều). Hình thức này cũng biểu hiện lòng những phúc thần (phân biệt với các tà hiếu thảo và nhớ ơn của con cháu đối với thần). Trong Việt điện u linh, Tang những bậc sinh thành ra mình. thương ngẫu lục, các đối tượng thờ cúng Trong ý nghĩa của việc thờ cúng này được nhắc đến qua hàng loạt các tác còn phải kể đến nghĩa cử của người còn phẩm. Lý Thường Kiệt, Lê Phụng Hiểu, sống đối với người đã chết, nói chung Bùi Cầm Hổ, Phạm Ngũ Lão đều là (không chỉ giới hạn trong những người những vị công thần, hoặc có công dẹp “theo dòng họ, máu mủ”). Dân gian ta đã loạn hoặc giúp vua trị nước an dân, đến có câu “nghĩa tử là nghĩa tận”, “sống khi mất đi đều được lập đền thờ và phong khôn chết thiêng”. Chính vì thế, có khi làm phúc thần. Hầu hết những vị thần con người lập miếu thờ rất trọng thể để tỏ được tôn thờ này rất linh thiêng. Nhân lòng biết ơn và thương nhớ (Truyện Cái dân đến cầu xin điều gì đều được ứng Tấm, Cái Cám; Truyện Lý Công). Có khi nghiệm. Bên cạnh đó là tục thờ tà thần. chỉ cần một nén hương, một chén rượu Các tà thần cũng mang hình hài của rất rưới trên mồ để bày tỏ mối thông giao nhiều dạng khác nhau: Đó có thể là với người đã khuất (Truyện Kiều, Quá những vật hóa thành tinh như con cáo Thiên Bình, Đối tửu của Nguyễn Du; Văn trắng chín đuôi (Hồ tinh truyện), cây mấy Nguyễn Duy - Định Biên tán lí, Biệt vong ngàn năm (Mộc tinh truyện - Lĩnh Nam đệ lữ phần của Nguyễn Thông). Cũng có chích quái); đó có thể là những vong hồn khi người ta cúng hồn, tế hồn bằng văn tác quai tác quái như vị vua cường bạo tế, một thể loại tâm linh đắc dụng để con (Cường bạo đại vương), Phạm Nhan người có thể liên thông với thế giới (Miếu Phạm Nhan - Công dư tiệp kí); và huyền bí, có thể trò chuyện với người ở cũng có khi đó là những tướng giặc chết 101
- Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 44 năm 2013 ___ trận, linh hồn không siêu thoát được (Ân vua phải lập miếu để ngày đêm phụng vương trong Việt tỉnh truyện – Lĩnh Nam thờ nó “Khắp miền đạo sĩ chịu êm – Vua chích quái). Trái với thờ các vị phúc truyền lập miếu ngày đêm phụng thờ”. thần, thờ tà thần không được triều đình Đến khi Thạch Sanh giết hết các yêu quái phong kiến chấp nhận nhưng vẫn tồn tại (xà tinh, chằn tinh) và kết duyên cùng trong lòng dân chúng. Phải chăng nó xuất công chúa, chàng cũng sai người lập phát từ quan niệm tâm linh rất cởi mở và miếu để thờ những con vật này “Miếu linh hoạt của nhân dân ta “sống khôn chết sơn lại lập một tòa – Thờ Chằn tinh đấy thiêng” và “có thờ có thiêng”? thật là anh linh – Động sơn lại lập một Một bộ phận khác đáng kể đến thành – Thờ Xà tinh ấy anh linh khác trong tín ngưỡng này là thờ cúng giới tự rày”. Trong Lĩnh Nam chích quái, những nhiên, bên cạnh việc thờ cúng con người. hòn đá, cây gỗ cũng là những vật thể ẩn Tục thờ cúng này có nguồn gốc từ quan dấu linh hồn nên được thờ phụng, như niệm tâm linh của con người về thế giới hòn đá là hóa hình của người vợ chờ xung quanh mình, đó là nhận thức “vạn chồng trong Vọng phu sơn thần truyện, vật hữu linh”, mọi vật trong tự nhiên đều cây gỗ phù dung và tảng đá là nơi ẩn có linh hồn, núi có thần núi, sông có thần mình của con gái Phật mẫu Man Nương sông, đến cả cây cổ thụ, tảng đá lớn cũng trong Man Nương truyện, cây gỗ được đều có thần trú ngụ trong đó. Dân gian vua Lý Thánh Tông lập thờ từ giấc mộng cũng đã từng truyền miệng câu nói “thần thấy có người con gái đến xin phù tá cây đa, ma cây gạo, cú cáo cây đề” để nói trong truyện Hậu thổ phu nhân về “hồn linh” trong các vật thể của tự 3. Tóm lại, có thể thấy, cầu cúng, nhiên. Chính vì vậy, vạn vật đến từ thế khấn vái là một trong những biểu hiện giới tự nhiên đều được nhân dân ta xem văn hóa tâm linh rất riêng của văn học là các vị thần (nhiên thần) và thờ cúng trung đại. Các nội dung biểu hiện của nó chúng. Ở ngã ba sông, trên bờ có miếu rất khá đa dạng: cầu phúc, cầu an, lập đàn thiêng, thờ thần Sông. Những thuyền tràng giải oan, đàn chiêu hồn, cầu đảo vì buồm qua lại đều phải đến yết lễ, nếu việc lớn (chống giặc và ổn định triều không thì cột, buồm, chèo, lái chẳng còn chính); thờ cúng ông bà tổ tiên, thờ cúng gì (Sông Độc – Tang thương ngẫu lục). Ở người đã khuất, thờ nhân thần (phúc thần, làng nọ, tại một khúc sông, đúng vào tà thần), thờ nhiên thần. Đối tượng hướng ngày rằm, có một con rắn mão vàng từ đến cầu cúng, khấn vái cũng rất khác dưới ngòi vực bò lên, vào trong đền và nhau: có khi là trời, phật, thánh thần, nằm khoanh tròn ở đó. Người làng liền những lực lượng bí ẩn nhưng có quyền tôn thờ nó làm Minh chủ Phúc thần năng tối cao; có khi là những vị anh (Truyện Lý Đô Úy – Việt điện u linh). hùng, những người có công với dân với Trong truyện Thạch Sanh, có con xà tinh nước; những sự vật, hiện tượng trong tự hung ác chuyên hại dân lành mà các đạo nhiên; đối tượng gần gũi nhưng cũng hết sĩ trong vùng không ai trừ diệt được, nhà sức linh thiêng đối với con người. Hình 102
- Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Lê Thu Yến và tgk ___ thức thể hiện nghi lễ tín ngưỡng này cũng thức thể hiện có khác nhau nhưng đều không kém phần phong phú: ăn chay, trai đồng quy tại một điểm đó là niềm tin rất giới, lập đàn cầu đảo, lập đền miếu để linh thiêng của con người vào hoạt động thờ; thờ cúng bằng lễ vật thịnh soạn, đầy tín ngưỡng này. Niềm tin đó đã trở thành đủ, hay đơn giản hơn chỉ có nén hương, nếp sống, phong tục, đã bám rễ, ăn sâu chén rượu biểu hiện cho sự thành tâm. vào tâm thức của nhân dân ta. Tuy nội dung, đối tượng cũng như hình 1 Quải: cúng tế, quải đơm: múc ra đem cúng TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Phan Kế Bính (2006), Việt Nam phong tục, Nxb Văn học. 2. Ngô Lập Chi, Trần Văn Giáp dịch (1962), Truyền kì tân phả, Tủ sách Trường Đại học Tổng hợp. 3. Đỗ Kiên Cường (2002), Tâm linh dưới góc nhìn khoa học, Nxb Thanh niên. 4. Nguyễn Du (1986), Truyện Kiều, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp Hà Nội. 5. Nguyễn Đăng Duy (2002), Văn hóa tâm linh, Nxb Văn hóa Thông tin. 6. Đinh Xuân Dũng (2004), Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học, Nxb Chính trị Quốc gia. 7. Nguyễn Dữ (2001), Truyền kì mạn lục, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 8. Kiều Thu Hoạch (2005), Tổng hợp văn học dân gian người Việt, tập 12, Truyện Nôm bình dân, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 9. Phạm Đình Hổ, Nguyễn Án (2001), Tang thương ngẫu lục, Nxb Văn học. 10. Jean Chevalier, Alain Gheerbrant (2002), Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, (Phạm Vĩnh Cư & nnk dịch), Nxb Đà Nẵng, Trường viết văn Nguyễn Du. 11. Đinh Gia Khánh, Trịnh Đình Rư, Trần Nghĩa (dịch) (2008), Việt điện u linh tập, Nam Ông mộng lục, Truyền kì mạn lục, Nxb Văn học. 12. Hồ Liên (2002), Đôi điều về cái thiêng và văn hóa, Nxb Văn hóa Dân tộc, Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây. 13. Diêu Vĩ Quân (chủ biên) (1996), Bí ẩn của chiêm mộng, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 14. Nguyễn Đức Vân, Kiều Thu Hoạch (2006), Hoàng Lê nhất thống chí (Ngô gia văn phái), Nxb Văn học. (Ngày Tòa soạn nhận được bài: 25-12-2012; ngày phản biện đánh giá: 04-02-2013; ngày chấp nhận đăng: 11-3-2013) 103