Cơ chế phối hợp trong giải quyết tranh chấp tại WTO của Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

pdf 10 trang Gia Huy 18/05/2022 1930
Bạn đang xem tài liệu "Cơ chế phối hợp trong giải quyết tranh chấp tại WTO của Việt Nam: Thực trạng và giải pháp", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfco_che_phoi_hop_trong_giai_quyet_tranh_chap_tai_wto_cua_viet.pdf

Nội dung text: Cơ chế phối hợp trong giải quyết tranh chấp tại WTO của Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

  1. Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng CƠ CHẾ PHỐI HỢP TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TẠI WTO CỦA VIỆT NAM: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP COORDINATION MECHANISM IN THE WTO DISPUTE SETTLEMENT OF VIETNAM: SITUATION AND SOLUTIONS Trần Thị Giang, Trần Việt Anh, Đặng Vũ Hoàng Giang, Hoàng Huệ Phương GVHD: TS. Nguyễn Ngọc Hà Trường Đại học Ngoại thương (CS1) giangcsp@gmail.com TÓM TẮT Cơ chế giải quyết tranh chấp của Tổ chức Thương mại Thế giới ngày càng được sử dụng nhiều để giúp các Thành viên giải quyết các tranh chấp phát sinh trong quá trình áp dụng các quy định điều chỉnh thương mại đa biên của tổ chức này. Tuy nhiên, đây là một cơ chế phức tạp, đòi hỏi các Thành viên phải có hiểu biết và kinh nghiệm về các vấn đề mang tính chất thủ tục cũng như mang tính nội dung được đưa ra giải quyết. Vì vậy, nhiều quốc gia đã xây dựng nên cơ chế phối hợp (nội bộ hay với bên ngoài) để có thể tận dụng được các nguồn lực phục vụ cho quá trình giải quyết tranh chấp và đảm bảo quyền lợi của các chủ thể có liên quan đến tranh chấp. Việt Nam, sau hơn chín năm gia nhập WTO, là nguyên đơn trong ba vụ tranh chấp và là bên thứ ba trong hơn hai mươi vụ tranh chấp được giải quyết tại WTO. Tuy nhiên, việc thiếu vắng cơ chế phối hợp đã gây ra không ít khó khăn cho Việt Nam. Do đó, đề tài này, từ việc phân tích kinh nghiệm của một số nước, thực trạng ở Việt Nam, hướng đến đề xuất xây dựng một cơ chế phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của Việt Nam. Từ khóa: Cơ chế phối hợp, giải quyết tranh chấp, WTO, Việt Nam. ABSTRACT Dispute settlement mechanism of World Trade Organization is increasingly wielded to settle disputes arising in the course of applying the provisions governing multilateral trade of this organization. Nevertheless, this complex mechanism requires the Members to have knowledge and experience on the issues of procedure and content cited. Thus, many states have built up a coordination mechanism (internal or external) to utilize the resources serving for dispute settlement and ensure the interest of actors relating the disputes. Vietnam, after more than 9 years taking part in WTO, played the role as a complainant and third party in more than 20 disputes at the WTO. However, the shortage of coordination mechanism triggered many difficulties for Vietnam. Thus, this research, from the analysis of the experiences of some states and situation in Vietnam, suggests build up a mechanism consistent with the conditions and circumstances of Vietnam. Keywords: coordinating mechanism, dispute settlement, WTO, Vietnam. 1. Giới thiệu Cơ chế giải quyết tranh của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) ra đời trên cơ sở kế thừa các quy định về giải quyết tranh chấp của GATT năm 1947 và tuân thủ theo các quy định trong Hiệp định về Quy tắc và Thủ tục Giải quyết Tranh chấp (DSU). Kể từ khi được áp dụng, cơ chế này đã góp phần không nhỏ vào việc giải quyết các tranh chấp giữa các Thành viên của WTO. Tuy nhiên, đây là một cơ chế phức tạp, do đó, để đảm bảo có thể vận dụng một cách hiệu quả cơ chế này trong việc bảo vệ các lợi ích thương mại của mình, nhiều Thành viên đã xây dựng cơ chế phối hợp giữa nội bộ các cơ quan nhà nước và với các chủ thể bên ngoài. Sau khi trở thành Thành viên chính thức vào tháng 1/2007, Việt Nam đã khá tích cực và chủ động tham gia vào cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO. Tuy nhiên, việc thiếu vắng một cơ chế phối hợp giữa các chủ thể có liên quan đã gây ra không ít khó khăn cho Việt Nam. Chính vì vậy, việc xây dựng một cơ chế phối hợp trong giải quyết tranh chấp tại WTO là cần thiết. Trong phạm vi đề tài nghiên cứu này, nhóm tác giả trước tiên sẽ tập trung tìm hiểu cơ sở lý thuyết của cơ chế phối hợp trong 378
  2. Kỷ yếu Hội nghị sinh viên NCKH toàn quốc lần thứ IV các Trường Đại học khối ngành Kinh tế & QTKD giải quyết tranh chấp tại WTO và phân tích kinh nghiệm xây dựng và áp dụng cơ chế này ở một số Thành viên tham gia tích cực vào quá trình giải quyết tranh chấp tại WTO như Hoa Kỳ, EU, Trung Quốc hay Thái Lan. Tiếp theo, nhóm tác giả viết sẽ phân tích thực trạng sự phối hợp của các chủ thể công, tư hay các chủ thể khác của Việt Nam trong ba vụ kiện DS404, DS429 và DS496 cũng như trong các vụ tranh chấp mà ở đó Việt Nam đã tham gia với tư cách là bên thứ ba, từ đó, đưa ra những kiến nghị để có thể ban hành một cơ chế phối hợp trong giải quyết tranh chấp tại WTO đối với Việt Nam. 2. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu 2.1. Cơ sở lý thuyết 2.1.1. Cơ chế phối hợp trong giải quyết tranh chấp “Cơ chế phối hợp trong giải quyết tranh chấp”1 là phương thức tổ chức hoạt động của các cơ quan, tổ chức với nhau để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ được giao nhằm giải quyết những bất đồng, mâu thuẫn về quyền lợi và nghĩa vụ của các chủ thể có liên quan. Cũng giống như các cơ chế khác, cơ chế phối hợp trong giải quyết tranh chấp có chủ thể phụ thuộc vào lĩnh vực xảy ra tranh chấp và có nội dung gồm hai phần chính: (1) xác định được vai trò, nghĩa vụ của các chủ thể, đặc biệt phải chỉ ra được cơ quan đầu mối chịu trách nhiệm chính trong suốt quá trình giải quyết tranh chấp, (2) xác định được mối quan hệ giữa các chủ thể trên. 2.1.2. Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO, theo các quy định trong DSU, thiết lập các thiết chế, quy trình và thủ tục để giải quyết các tranh chấp phát sinh, nhằm bảo đảm sự tuân thủ của các Thành viên đối với các hiệp định đa biên của tổ chức. DSU được xây dựng dựa trên bốn nguyên tắc: công bằng, nhanh chóng, hiệu quả và chấp nhận được đối với các bên tranh chấp. DSU thiết lập Cơ quan giải quyết tranh chấp (DSB), các ban hội thẩm và Cơ quan Phúc thẩm (AB). Về quy trình, trước tiên, DSU cho phép các bên tranh chấp tiến hành tham vấn. Nếu tham vấn không thành công, nguyên đơn có thể yêu cầu thành lập một ban hội thẩm để thụ lý vụ việc. Sau khi ban hội thẩm đưa ra báo cáo, nếu một trong các bên không đồng ý với những vấn đề về luật trong báo cáo đó, có thể yêu cầu AB tiến hành phúc thẩm báo cáo của ban hội thẩm. Các quyết định của AB có giá trị cuối cùng, nên bên thua kiện sẽ phải thực thi báo cáo đó, khi báo cáo đó đã được DSB thông qua. DSU cũng thiết lập một số cơ chế để đảm bảo sự tuân thủ báo cáo đã được thông qua, như thành lập ban hội thẩm để xem xét việc tuân thủ báo cáo, cơ chế trả đũa 2 2.1.3. Cơ chế phối hợp giải quyết tranh chấp tại WTO Sự phối hợp là yếu tố quan trọng được sử dụng hiệu quả trong khuôn khổ WTO. Không một cơ quan Chính phủ nào có thể tự mình giải quyết được toàn bộ các vấn đề phát sinh tại tổ chức này trong đó có vấn đề về giải quyết tranh chấp3. Sự phối hợp này không chỉ giới hạn bởi các cơ quan mang tính chất Nhà nước mà còn mở rộng phạm vi đến những chủ thể khác có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan như các chủ thể tư: doanh nghiệp, các hiệp hội hay các chủ thể khác như tổ chức phi chính phủ, công ty luật, viện nghiên cứu, truyền thông để giải quyết vấn đề một cách toàn diện, hiệu quả. 1 Cụm từ được giải thích từ định nghĩa của ba từ “cơ chế”, “phối hợp”, “tranh chấp” trong từ điển Oxford. 2 “Cơ chế giải quyết tranh chấp tại WTO”; ngày 16 tháng 01 năm 2007; xem thêm tại te/20070116/co-che-giai-quyet-tranh-chap-cua-wto/181945.html (truy cập ngày 29/06/2016). 3 ICTSD (a), Coordinating trade litigation, 2013, tr. 2. Xem thêm tại: files/research/2013/04/coordinating-trade-litigation1.pdf (truy cập ngày 29/06/2016). 379
  3. Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng Trên thực tế, cơ chế này có thể được hình thành dựa trên cơ sở văn bản pháp luật hoặc không. Có nhiều cách phân loại về nội dung cơ chế, nhưng trong đề tài nghiên cứu này, căn cứ theo tiêu chí chủ thể, cơ chế sẽ gồm hai phần chính: cơ chế phối hợp nội bộ và cơ chế phối hợp bên ngoài4. Đối với cơ chế phối hợp nội bộ, đây là cơ chế giữa các cơ quan nhà nước có liên quan đến việc tham gia giải quyết tranh chấp tại WTO. Trong bộ phận này, quan trọng nhất là việc xác định được cơ quan đầu mối. Nếu như tại Geneva, phái đoàn thường trực là cơ quan đầu mối được mặc nhiên thừa nhận có nhiệm vụ nắm bắt, đánh giá thông tin về nước sở tại, thì cơ quan đầu mối ở trong nước chưa được xác định rõ ràng. Cơ quan đầu mối trong nước có thể thành lập bằng nhiều phương thức, nhưng nhìn chung cơ quan này luôn phải thực hiện công việc dẫn dắt, điều phối hoạt động của những chủ thể khác của cơ chế phối hợp. Đối với cơ chế phối hợp bên ngoài – cơ chế phối hợp giữa cơ quan đầu mối với các chủ thể khác có liên quan. Do đó, trong bộ phận này, nổi bật hơn cả là mối quan hệ công – tư, là sự tương tác giữa cơ quan đầu mối và các chủ thể tư trong những công việc như trao đổi thông tin, xây dựng hồ sơ tài liệu, chứng cứ, tài chính, nhân sự Bên cạnh đó, sự tham gia hỗ trợ của các chủ thể khác như các công ty luật, viện nghiên cứu, tổ chức phi chính phủ vào quá trình giải quyết tranh chấp cũng giữ vai trò quan trọng. Nhìn chung, việc vận dụng hiệu quả cơ chế phối hợp sẽ giúp huy động được nguồn lực trong điều kiện và hoàn cảnh nguồn lực của nhà nước còn hạn chế, dung hòa nhược điểm và tăng cường lợi thế giữa nhiều chủ thể, hạn chế sự ảnh hưởng của yếu tố chính trị và làm cân bằng quyền lợi của các chủ thể công và chủ thể tư trong quá trình giải quyết tranh chấp tại WTO. 2.2. Phương pháp nghiên cứu Để đáp ứng được mục đích nghiên cứu đặt ra ở trên, nhóm tác giả sử dụng trước tiên các phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng các phương pháp khác như phương pháp phân tích, tổng hợp thông tin, mô tả - khái quát, đối chiếu và nghiên cứu tình huống để đưa ra kết quả nghiên cứu. Đặc biệt, phương pháp so sánh luật học cũng được đề tài áp dụng trong quá trình phân tích một số nội dung của đề tài, như về kinh nghiệm xây dựng và áp dụng cơ chế phối hợp ở một số nước và về thực trạng cơ chế phối hợp của Việt Nam. 3. Kết quả nghiên cứu 3.1. Kinh nghiệm về cơ chế phối hợp trong giải quyết tranh chấp của một số Thành viên WTO 3.1.1. Kinh nghiệm của Hoa Kỳ a) Cơ sở pháp lý điều chỉnh cơ chế phối hợp trong giải quyết tranh chấp tại WTO Cơ chế này được hình thành chủ yếu trên cơ sở Điều 301 của Luật Ngoại thương năm 1974, theo đó, các chủ thể tư có thể yêu cầu Chính phủ tiến hành những hành động chống lại các hàng rào thương mại nước ngoài. b) Thực thi cơ chế phối hợp trong giải quyết tranh chấp tại WTO Cơ chế phối hợp nội bộ Đại diện thương mại Hoa Kỳ (United States Trade Representative – USTR) đóng vai trò là cơ quan đầu mối. USTR được thành lập năm 1962 với tư cách “Cơ quan tư vấn cho các chủ thể tư”. USTR giữ vị trí lãnh đạo, tham gia trực tiếp vào quá trình giải quyết tranh chấp tại WTO. Cơ quan này 4 ICTSD (b), Practical Considerations In Managing Trade Dispute, 2013, tr. 11. Bản online có tại: (truy cập ngày 29/07/2016). 380
  4. Kỷ yếu Hội nghị sinh viên NCKH toàn quốc lần thứ IV các Trường Đại học khối ngành Kinh tế & QTKD cần các doanh nghiệp vận động hành lang để nhận được hỗ trợ từ Quốc hội, nhờ đó thực hiện các mục tiêu chính sách của mình. Ngược lại, chính USTR cũng rất tích cực trong việc bảo vệ lợi ích của các ngành công nghiệp Hoa Kỳ. Cơ chế phối hợp với bên ngoài Về phối hợp công – tư, nguồn lực của USTR, đặc biệt trong việc thu thập và tổng hợp các chứng cứ cho một vụ tranh chấp tại WTO là có hạn, nên họ thường phải dựa vào sự hỗ trợ từ các tổ chức, công ty của một ngành kinh doanh. Bên cạnh đó, USTR thường yêu cầu các chủ thể tư đệ trình lên các bằng chứng thực sự có sức thuyết phục như một yêu cầu tiên quyết. Về cơ chế vận động hành lang, bên cạnh việc cố gắng thuyết phục đại diện của các cơ quan nhà nước có liên quan tham gia hành động, USTR còn làm việc qua kênh chính trị, cụ thể là liên hệ với các đại diện quốc hội trực tiếp và có hợp tác với các hiệp hội công nghiệp, thông qua các đơn vị đối ngoại của mình hoặc các cá nhân, tổ chức chuyên vận động hành lang bên ngoài5. Về đại diện của các hiệp hội thương mại, các công ty của Hoa Kỳ thường rất đề cao việc phối hợp hành động thông qua một hiệp hội thương mại nhằm chống lại các rào cản thương mại nước ngoài6. Bên cạnh đó, các tập đoàn tạo nên các hiệp hội mang tính chất ad hoc nhằm mục đích dùng dư luận gây ảnh hưởng tới quyền lợi của chính phủ nước ngoài. 3.1.2. Kinh nghiệm của Liên minh châu Âu (EU) Vào năm 1996, EU đã áp dụng “Chiến lược tiếp cận thị trường” (Market Access Strategy) nhằm tập trung mở rộng xuất khẩu hướng tới các quốc gia khác hơn là bảo vệ thị trường nội địa. Để thực hiện chiến lược này và giành ưu thế trong các tranh chấp WTO, cần thiết phải xây dựng một công cụ hữu hiệu để hỗ trợ những chủ thể tư trong khu vực Cộng đồng chung châu Âu. a) Cơ sở pháp lý điều chỉnh cơ chế phối hợp giải quyết tranh chấp tại WTO của EU Thủ tục 133: Thủ tục 133 được hình thành trên cơ sở Điều 133 trong Hiệp định thành lập Cộng đồng châu Âu. Đây là một cơ chế “liên chính phủ”, theo đó mọi quyết định liên quan đến việc thực thi “chính sách thương mại chung” của Ủy ban châu Âu, bao gồm cả việc tham gia một vụ kiện WTO, được quyết định bởi Hội đồng châu Âu. Tuy nhiên, cơ quan nắm thẩm quyền thực tế (de facto) về quyết định thực thi chính sách là Ủy ban châu Âu. Các hiệp hội và cả đại diện các quốc gia châu Âu có thể làm việc với Ủy ban ở Brussels về vấn đề thương mại quốc tế. Quy tắc điều chỉnh hàng rào thương mại: “Quy tắc điều chỉnh hàng rào thương mại” (Trade Barriers Regulation - TBR) được ban hành năm 1994, quy định về quy trình điều tra và khởi kiện của Ủy ban châu Âu chống lại các rào cản thương mại đối với hàng hóa, dịch vụ và cả các tài sản thuộc sở hữu trí tuệ7. Theo đó, doanh nghiệp, ngành công nghiệp hoặc quốc gia thành viên thuộc EU có quyền nộp đơn đến Ủy ban yêu cầu tiến hành điều tra và bằng những hành động pháp lý có thể thúc đẩy Ủy ban châu Âu xúc tiến công việc, cung cấp dữ liệu liên quan, tổ chức các phiên họp tranh luận. b) Phối hợp công – tư thông qua kênh trao đổi thông tin 5 Gregory Shaffer, “The Law-in-action of International Trade Litigation in the United States and Europe: The melding of the Public and the Private”, 2001, University of Winconsin Law School, tr. 27, xem tại: (truy cập ngày 28/07/2016). 6 Gregory Shaffer, tlđd, 2011, tr. 22. 7 Jurong Song, “A Comparative Study on the Trade Barriers Regulation and Foreign Trade Barriers Investigation Rules” (2006), LLM Theses and Essays, Paper 92, tr. 4, xem tại: edu/cgi/viewcontent.cgi?article=1091&context=stu_llm(truy cập ngày 24/07/2016). 381
  5. Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng Ủy ban đã xây dựng và duy trì Cơ sở dữ liệu về Tiếp cận Thị trường (Market Access Database). Tại đây, các doanh nghiệp có thể tìm kiếm và tự trang bị các vấn đề thủ tục, số liệu thống kê, các hỗ trợ dành cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, v.v. Cũng trên trang thông tin điện tử này, Ủy ban châu Âu khuyến khích các chủ thể tư cung cấp các dữ liệu đầu vào có ích. Bên cạnh đó, để tăng cường tính minh bạch của những cuộc điều tra, Ủy ban không những công bố thông tin trên Công báo của Liên minh châu Âu (Official Journal of the European Union), mà còn đăng lên trang điện tử của Tổng cục Thương mại Ủy ban châu Âu (European Commission Directorate-General for Trade). c) Vấn đề thuê luật sư trong quá trình điều tra và giải quyết tranh chấp tại WTO Đội ngũ luật sư đại diện cho EU tranh tụng trong WTO thường được thuê hoàn toàn bởi Ủy ban Châu Âu, điều mà vẫn được các học giả coi là một bất lợi của EU trong việc giải quyết tranh chấp8. 3.1.3. Kinh nghiệm của Trung Quốc a) Cơ sở pháp lý điều chỉnh cơ chế phối hợp trong giải quyết tranh chấp tại WTO Bộ Thương mại (Ministry of Commerce-MOFCOM) đã ban hành và sửa đổi “Quy tắc điều tra hàng rào thương mại nước ngoài” (Foreign Trade Barriers Investigation Rules), trực tiếp hướng dẫn chi tiết các điều khoản nói trong chương điều tra hàng rào thương mai của Luật ngoại thương (Foreign Trade Law9). b) Thực thi cơ chế phối hợp trong giải quyết tranh chấp Cơ chế phối hợp nội bộ MOFCOM là cơ quan đầu mối trong các tranh chấp WTO. Trực thuộc MOFCOM có Vụ Pháp luật và Điều ước quốc tế (Department of Treaty and Law), gồm các chuyên gia trong lĩnh vực luật thương mại quốc tế, chịu trách nhiệm cung cấp các tư vấn pháp lý, hỗ trợ các vấn đề về thủ tục tư pháp trong WTO và đảm nhiệm các hoạt động liên quan đến giải quyết tranh chấp10. Cơ chế phối hợp với bên ngoài Về phối hợp công - tư, Trung Quốc đã lập và triển khai kế hoạch giáo dục pháp luật WTO một cách rộng rãi. Các cơ quan địa phương thành lập các viện chính sách (think tanks), được biết đến như một trung tâm về WTO. Những trung tâm này là cơ quan chủ yếu thúc đầy mối quan hệ công – tư trong phối hợp giải quyết tranh chấp. Về việc xây dựng kênh thông tin trực tuyến, nhằm nâng cao sự cảnh giác của doanh nghiệp nội địa, Bộ đã duy trì trên trang thông tin điện tử (website) chính thức của mình cơ sở dữ liệu trong đó thể hiện những thông tin cơ bản cùng với những cảnh báo về hàng rào thương mại nước ngoài. Về việc tận dụng nguồn lực từ các chủ thể khác, Trung Quốc đã tận dụng được khá hiệu quả nhất là các công ty luật quốc tế thông qua việc Phòng Hiệp định và Pháp luật trực thuộc MOFCOM thường yêu cầu các công ty luật quốc tế và nội địa bỏ thầu cho việc được đại diện trong các vụ kiện WTO. Những ứng viên tiềm năng sẽ được các doanh nghiệp nhà nước liên lạc lại và đặt vấn đề hợp tác. Bên cạnh đó, Chính phủ Trung Quốc khuyến khích các công ty luật quốc tế làm việc với các công ty luật nội địa đặt trụ sở tại Bắc Kinh. Mặt khác, trong các vụ việc mà Trung Quốc đóng vai trò là bên thứ ba, nước này có xu hướng chọn các hãng luật trong nước. 8 Gregory Shaffer, tlđd, tr. 77-79. 9 Xem nội dung tóm tắt của Luật Ngoại thương Trung Quốc tại: policyrelease/internationalpolicy/200705/20070504715845.html (truy cập ngày 20/07/2016). 10 Wenhua Ji & Cui Huang, "China’s Path to the Center Stage of WTO Dispute Settlement: Challenges and Responses", Global Trade and Customs Journal, 2010, vol. 5, no. 9, tr. 371-373. 382
  6. Kỷ yếu Hội nghị sinh viên NCKH toàn quốc lần thứ IV các Trường Đại học khối ngành Kinh tế & QTKD 3.1.4. Kinh nghiệm của Thái Lan a) Phối hợp nội bộ Cấu trúc chính phủ sẵn có của Thái Lan cho phép phối hợp liên bộ, liên ngành và sự cộng tác giữa các nước nguyên đơn khác. Tất cả những vấn đề liên quan đến WTO nói chung, giải quyết tranh chấp tại WTO nói riêng đều thuộc thẩm quyền của Cục Đàm phán Thương mại (Department of Trade Negotiations), trực thuộc Bộ Thương mại, với vai trò như một đầu mối của sự phối hợp liên bộ, ngành để đảm bảo phái đoàn tại Geneva được cung cấp thông tin hợp lý, từ đó có thể hành động kịp thời11. b) Phối hợp bên ngoài Phối hợp với các chủ thể tư thông qua kênh trao đổi thông tin Cơ cấu thể chế của Thái Lan cho phép các chủ thể tư chủ động bằng cách gặp gỡ các quan chức cấp cao của Bộ Thương mại. Bộ Thương mại có thể tổ chức một buổi tham vấn ngược lại với những đại diện của các ngành công nghiệp bị ảnh hưởng bởi rào cản thương mại đó12. Ngoài ra, các chủ thể tư của Thái Lan cũng trợ giúp nhiều về mặt tài chính cho Chính phủ. Phối hợp với các chủ thể khác bằng cách huy động nguồn lực từ bên ngoài Thông qua trung tâm tư vấn luật WTO (ACWL), Thái Lan đã đạt được giảm thiểu chi phí liên quan thông qua việc cung cấp những trợ lý pháp luật được trợ cấp (subsidized legal assistance). 3.1.5. Một số kinh nghiệm rút ra Từ kinh nghiệm của các thành viên WTO, có thể rút ra được một số kinh nghiệm để xây dựng và thực thi cơ chế phối hợp trong giải quyết tranh chấp tại WTO như sau: (1) cần phải ban hành một cơ sở pháp lý cho cơ chế phối hợp, (2) cơ quan đầu mối giữ vai trò chủ đạo trong cơ chế phối hợp trong giải quyết tranh chấp, (3) mối quan hệ đối tác giữa cơ quan Nhà nước và các chủ thể tư là nhân tố quyết định đến hiệu quả của cơ chế phối hợp, (4) huy động sự trợ giúp từ Trung tâm tư vấn luật WTO (ACWL). 3.2. Thực trạng cơ chế phối hợp trong giải quyết tranh chấp tại WTO của Việt Nam. 3.2.1. Thực trạng các quy định pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế và cơ chế phối hợp trong giải quyết tranh chấp Tháng 02/1998, Thủ tướng thành lập Uỷ ban Quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế theo Quyết định số 31/1998/QĐ-TTg, theo đó ủy ban này có chức năng xúc tiến hội nhập kinh tế quốc tế. Trong lần kiện toàn gần nhất vào năm 2007 theo Quyết định số 174/2007/QĐ-TTg, Ủy ban có thêm hai nhiệm vụ mới nhằm phục vụ công cuộc Việt Nam tham gia giải quyết tranh chấp trong WTO. Tháng 06 năm 2005, khi Việt Nam đã gần hoàn tất quy trình đàm phán gia nhập WTO, Thủ tướng chính phủ ban hành Chỉ thị số 20/2005/CT-TTG về việc chủ động phòng, chống các vụ kiện thương mại nước ngoài. Theo Quyết định số 51/2009/QĐ-TTg ngày 08/04/2009 Thủ tướng Chính phủ quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Phái đoàn đại diện thường trực của Việt Nam bên cạnh Liên hợp quốc, WTO và các tổ chức quốc tế khác tại Geneva Thuỵ Sĩ, Phái đoàn có nhiệm vụ thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa nước ta với các tổ chức này cũng như với các nước thành viên, tranh thủ sự trợ giúp và hợp tác kỹ thuật của các tổ chức quốc tế đối với dự nghiệp phát triển đất nước, tham gia ký kết, gia nhập các điều ước quốc tế theo quy định của pháp luật. 11 ICTSD (c), Dispute settlement at the wto: The developing country experience, 2012, tr. 3, xem tại: (truy cập ngày 20/07/2016). 12 ICTSD (c), tlđd, tr. 3. 383
  7. Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng Tháng 01/2010, Thủ tướng Chính phủ có quyết định phê duyệt Đề án Phát triển đội ngũ luật sư phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế từ năm 2010 đến năm 202013. Vào năm 2012, Thủ tướng chính phủ ban hành Quyết định về việc tham vấn cộng đồng doanh nghiệp về các thoả thuận thương mại quốc tế14. Cũng trong thời gian này, Bộ Công thương được Chính phủ “chính thức” giao nhiệm vụ là “Đại diện lợi ích kinh tế quốc tế của Việt Nam, đề xuất phương án và tổ chức thực hiện quyền và nghĩa vụ liên quan đến kinh tế và thương mại quốc tế của Việt Nam tại Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO)[ ]”15. Như vậy, tuy chưa có một cơ chế cụ thể, rõ ràng nhưng chính phủ Việt Nam cũng đã lường trước được những tranh chấp thương mại có thể xảy ra nên cũng đã ban hành được những quy định nhất định phân công vai trò, nâng cao năng lực của các chủ thể liên quan trong quá trình giải quyết tranh chấp. 3.2.2. Thực trạng cơ chế phối hợp trong các vụ tranh chấp Việt Nam là nguyên đơn a) Những kết quả đã đạt được Thứ nhất, Việt Nam đã xây dựng được kênh thông tin để tăng cường trao đổi thông tin giữa chủ thể công và chủ thể tư. Vai trò của kênh thông tin trao đổi giữa Nhà nước và doanh nghiệp, hiệp hội nhằm hỗ trợ giải quyết tranh chấp trong WTO là rất quan trọng. Hiện tại, ở Việt Nam tồn tại ba kênh thông tin phối hợp cơ bản. Đó là: (1) hệ thống cảnh báo sớm các vụ kiện chống bán phá giá, (2) kênh thông tin Trung tâm WTO – Hội nhập Kinh tế quốc tế trực thuộc VCCI và (3) hội đồng tư vấn các biện pháp phòng vệ thương mại quốc tế (TRC). Thứ hai, các chủ thể tư đã tích cực phối hợp cùng chủ thể công trong quá trình giải quyết tranh chấp. Các chủ thể tư là doanh nghiệp, hiệp hội đã thể hiện được vai trò tích cực phối hợp, hỗ trợ cơ quan Nhà nước trong quá trình chuẩn bị vụ kiện. Các Hiệp hội đã chủ động nghiên cứu một cách nghiêm túc vấn đề dưới góc độ Việt Nam, từ đó đề xuất với Chính phủ đưa vụ kiện ra WTO. Bên cạnh đó, các Hiệp hội như VASEP còn hỗ trợ Chính phủ về mặt tài chính, tìm kiếm và giới thiệu chuyên gia, luật sư. Việt Nam cũng đã huy động sự hỗ trợ từ học giả trong quá trình giải quyết tranh chấp thông qua cơ chế amicus curiae16, áp dụng trong vụ kiện DS404 trong giải quyết tranh chấp với sự tham gia của các chuyên gia. Để chứng minh “Phương pháp quy về 0” được DOC áp dụng, Việt Nam đã trình lên Ban Hội thẩm bản khai có tuyên thệ của chuyên gia phân tích thương mại Michael Ferrier, sau được Ban Hội thẩm chấp nhận như một chứng cứ, một phần trong hồ sơ của Việt Nam. b) Những hạn chế Thứ nhất, chưa sử dụng hệ thống cảnh báo sớm các biện pháp phòng vệ thương mại của Cục quản lý cạnh tranh. Trong quá trình giải quyết tranh chấp tại WTO đối với các vụ kiện nói trên, các Hiệp hội hầu như không được thông tin về diễn tiến cũng như các nội dung liên quan. Sự lúng túng trong việc phối hợp 13 Đọc tóm tắt nội dung Đề án Phát triển đội ngũ luật sư phục vụ hội nhập kinh tế quốc tếtừ năm 2010 đến năm 2020 tại: cập ngày 28/7/2016). 14 Xem Quyết định số 06/2012/QĐ-TTg tại (truy cập ngày 28/7/2016). 15 Điểm c, Khoản 23, Điều 2, Nghị định 95/2012/NĐ-CP Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Công Thương. 16 Amicus curiae là một phương thức cho phép tòa án có thể mời các bên thứ ba cung cấp những thông tin pháp lý hoặc tình tiết có liên quan tới các vấn đề chưa từng xảy ra trước đây. 384
  8. Kỷ yếu Hội nghị sinh viên NCKH toàn quốc lần thứ IV các Trường Đại học khối ngành Kinh tế & QTKD còn thể hiện ở việc “hệ thống cảnh báo sớm” của Việt Nam hoạt động chưa thực sự hiệu quả. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại, rút ra được bài học từ những vụ tranh chấp trên, Chính phủ Việt Nam đã phối hợp cùng với các chủ thể tư, các chuyên gia trong nước và nước ngoài xây dựng hệ thống cảnh báo sớm đối với các vụ kiện chống bán phá giá khá bàn bản, chi tiết, và được công bố rộng rãi trên trang thông tin điện tử www.canhbaosom.vn của Cục quản lý cạnh tranh. Thứ hai, chưa có sự chủ động, tích cực phối hợp sự giữa các cơ quan nhà nước. Trong khi quyền và lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp Việt Nam đang bị ảnh hưởng một cách trực tiếp, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền vẫn chưa biết mình có liên quan trực tiếp tới vấn đề hay không. Thậm chí, như hai tranh chấp về biện pháp chống bán phá giá với tôm và tôm đông lạnh nhập khẩu, khi nhận được công văn của VASEP, các cơ quan này còn không có được những phản hổi tích cực. Bên cạnh đó, những tranh luận trong nội bộ các cơ quan nhà nước làm lãng phí không ít thời gian, liên quan đến việc có nên kiện Hoa Kỳ hay không, do lo ngại về vấn đề ngoại giao, cũng như các tranh luận về việc lựa chọn luật sư. Thứ ba, chưa tận dụng được hết những nguồn lực có sẵn từ bên ngoài. Việt Nam chưa tận dụng được sự hợp tác với các tổ chức phi chính phủ, tổ chức dân sự khác hoạt động trong lĩnh vực bảo vệ người lao động, bảo vệ môi trường. Ngoài ra, đội ngũ luật sư cũng là một khó khăn không dễ khắc phục. Việc phải thuê các công ty luật nước ngoài vừa rất tốn kém, mặt khác cũng đặt ra nhiều hoài nghi về vấn đề bảo mật thông tin. 3.2.3. Thực trạng cơ chế phối hợp trong những vụ tranh chấp mà Việt Nam tham gia với tư cách là bên thứ ba a) Những kết quả đạt được Thứ nhất, Việt Nam đã có sự phối hợp nội bộ giữa các cơ quan Chính phủ và cơ quan đầu mối là đại diện tại Geneva để cung cấp thông tin kịp thời về những tranh chấp mà Việt Nam có thể tham gia. Thứ hai, khi có thông tin từ đại diện tại Geneva, các cơ quan Nhà nước đã có sự phối hợp để quyết định tham gia và tham gia vào những vụ việc mà Việt Nam đã và có nguy cơ gặp phải trong tương lai. b) Những hạn chế Thứ nhất, sự phối hợp giữa cơ quan Chính phủ với nhau tại quốc gia và với đại diện tại Geneva vẫn chưa thực sự hiệu quả, thông suốt trong việc liên lạc với nhau để kịp thời nộp đơn thông báo quyền lợi cho DSB. Việt Nam đã tự đánh mất đi cơ hội bảo vệ quan điểm và quyền lợi của mình trong một số vụ tranh chấp quan trọng và cơ hội có được thông tin cần thiết mà hai bên tranh chấp trao đổi cũng như khả năng ảnh hưởng đến giải thích luật của cơ quan có thẩm quyền khi Việt Nam chưa bao giờ là bên thứ ba trong giai đoạn tham vấn và ít khi tham gia đến giai đoạn Phúc thẩm. Thứ hai, cơ quan Nhà nước quan tâm đến vấn đề này chủ yếu là cơ quan quản lý về thương mại hàng hóa như Cục Quản lý Cạnh tranh, VCCI. Thiếu những cơ quan Chính phủ thuộc lĩnh vực khác như thương mại dịch vụ17, sở hữu trí tuệ18, đầu tư19,v.v. dẫn đến việc chúng ta không thể tham gia với 17 Kể từ khi Việt Nam là thành viên chính thức của WTO, có tổng cộng 05 vụ tranh chấp liên quan đến Hiệp định chung về thương mại Dịch vụ (GATS), trong đó có hai vụ giải quyết đến Ban Hội thẩm là Trung Quốc – Các biện pháp ảnh hưởng đến quyền thương mại và dịch vụ phân phối đối với một số xuất bản phẩm và sản phẩm nghe nhìn (WT/DS363) và Trung Quốc – Một số biện pháp tác động đến dịch vụ thanh toán điện tử (WT/DS413). 18 Kể từ tháng 01/2007, có chín vụ việc liên quan đến Hiệp định về một số khía cạnh liên quan đến quyền Sở hữu trí tuệ (TRIPs). 19 20 vụ tranh chấp có liên quan đến đầu tư đã được đệ trình lên DSB từ năm 2007. 385
  9. Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng tư cách bên thứ ba trong các lĩnh vực đó, vô tình sẽ làm giảm tính nhạy bén trong tiếp cận, xử lý thông tin cũng như thực thi khuyến nghị hay phán quyết khi xảy ra tranh chấp. Thứ ba, sự phối hợp giữa tất cả các chủ thể chưa hiệu quả khi theo đuổi một vụ tranh chấp với vai trò là bên thứ ba. 3.2.4. Nguyên nhân của những hạn chế Thứ nhất, sự thiếu vắng một cơ chế phối hợp mang tầm quốc gia giữa các cơ quan có liên quan đến giải quyết tranh chấp tại WTO. Thứ hai, các chủ thể của cơ chế phối hợp như đội ngũ chuyên gia, luật sư, công ty luật Việt Nam chưa thực sự mạnh nên đã làm giảm hiệu quả trong việc phối hợp với các chủ thể khác. Thứ ba, các chủ thể trong nước chưa tận dụng được dịch vụ được cung cấp bởi ACWL. Thứ tư, hệ thống cảnh báo sớm vẫn chưa nhận được sự quan tâm đúng mực của các chủ thể tại thị trường ASEAN. Xuất phát từ những nguyên nhân đã trình bày, nhìn chung, tất cả các mối quan hệ phối hợp nội bộ hay bên ngoài của Việt Nam đều có nhiều thiếu sót và cần có định hướng về một số giải pháp hoàn thiện cơ chế phối hợp trong giải quyết tranh chấp tại WTO cho Việt Nam. 3.3. Các giải pháp Thứ nhất, xây dựng một cơ chế ổn định cho việc giải quyết tranh chấp WTO nói riêng và giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế nói chung. Việt Nam cần một nghị định điều chỉnh các vấn đề về nguyên tắc, các cơ quan Nhà nước tham gia, trình tự thủ tục khi giải quyết tranh chấp do nước ngoài khởi kiện và do Việt Nam khởi kiện; phải có những điều khoản nêu chi tiết, tuần tự, với các quy định rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của từng bên trong tất cả các bước, quan trọng hơn hết đó là việc trao quyền cho một cơ quan nhà có trách nhiệm là cơ quan đầu mối tại Việt Nam phụ trách việc giải quyết tranh chấp tại WTO, cụ thể là Bộ Công thương. Thứ hai, xây dựng kênh thông tin trao đổi giữa các chủ thể. Trong biện pháp này cần xây dựng được (1) kênh thông tin để Việt Nam tham gia vào các vụ kiện với tư cách bên thứ ba, (2) kênh thông tin Nhà nước và doanh nghiệp, hiệp hội nhằm hỗ trợ giải quyết tranh chấp trong WTO. Thứ ba, nâng cao năng lực của các chủ thể. Để làm được việc này, cần chú trọng đến công tác đào tạo pháp chế doanh nghiệp của các chủ thể tư từ đó tránh được việc vi phạm của các quy định pháp luật của quốc gia khác cũng như có thể tự bảo vệ được quyền lợi của mình trước những tranh chấp xảy ra. Thêm vào đó, để huy động được tối đa nguồn lực của đội ngũ chuyên gia, luật sư, những chủ thể này cần được đào tạo một cách chuyên nghiệp, bài bản thông qua việc học hỏi từ kinh nghiệm thực tế, hoặc lâu dài hơn khuyến khích đào tạo ngay tại đại học. 3.4. Đề xuất xây dựng cơ chế phối hợp trong giải quyết tranh chấp tại WTO Thứ nhất, xác định các chủ thể liên quan trong cơ chế phối hợp. Đó là Bộ Công thương với vai trò đầu mối điều phối hoạt động của các cơ quan Nhà nước khác như Bộ Ngoại giao, Bộ Tư pháp, Bộ Nông nghiệp để tiến hành việc giải quyết tranh chấp. Ngoài ra không thể bỏ qua các chủ thể tư như các doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề. Thứ hai, nội dung của cơ chế phối hợp. Theo từng bước của quá trình khởi kiện, các chủ thể liên quan phải có sự phối hợp thường xuyên và chặt chẽ. Bên cạnh đó, nguồn thông tin phải sẵn có và thông suốt. 386
  10. Kỷ yếu Hội nghị sinh viên NCKH toàn quốc lần thứ IV các Trường Đại học khối ngành Kinh tế & QTKD 4. Kết luận Sự gia tăng của các Hiệp định thương mại cũng tỷ lệ thuận với tần suất của các tranh chấp thương mại phát sinh. Sẽ là quá sức đối với Chính phủ khi một mình đảm nhiệm toàn bộ việc chủ động phòng ngừa và đối phó với tình huống này. Qua đề tài này, nhóm tác giả rút ra được một số kết luận sau: (1) việc phối hợp giữa các chủ thể là điều hết sức quan trọng, có ảnh hưởng trực tiếp đến việc giành lợi thế trong quá trình giải quyết tranh chấp, (2) nên tham gia giải quyết tranh chấp với vai trò là bên thứ ba để tích lũy kinh nghiệm, (3) đối với Việt Nam, nên xây dựng một cơ chế phối hợp để có thể bảo vệ được quyền lợi chính đáng của mình. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Chỉ thị số 20/2005/CT-TTg ngày 09 tháng 6 năm 2005 về việc chủ động phòng, chống các vụ kiện thương mại nước ngoài của Thủ tướng Chính phủ. [2] Dispute Settlement Understanding (DSU). [3] GS.TS. Nguyễn Thị Mơ, Giáo trình Pháp luật thương mại quốc tế, NXB Lao Động, 2012. [4] ICTSD (a), Coordinating trade litigation, 2013. Xem thêm tại: files/research/2013/04/coordinating-trade-litigation1.pdf. (truy cập ngày 28/7/2016). [5] ICTSD (b), Practical Considerations In Managing Trade Dispute, 2013, xem tại: org/sites/default/files/research/2013/02/practical-considerations-in-m anaging-trade-disputes.pdf. (truy cập ngày 28/7/2016). [6] ICTSD (c), Dispute settlement at the WTO: The developing country experience, 2012. Xem tại: formation-note.pdf (truy cập ngày 28/7/2016). [7] Jurong Song, “A Comparative Study on the Trade Barriers Regulation and Foreign Trade Barriers Investigation Rules” (2006), LLM Theses and Essays, Paper 92, tr. 4, xem tại: commons.law.uga.edu/cgi/viewcontent.cgi?article=1091&context=stu_llm (truy cập ngày 24/07/2016). [8] Nghị định 95/2012/NĐ-CP của Chính phủ ngày 12 tháng 11 năm 2012 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Công Thương. [9] Quyết định số 06/2012/QĐ-TTg ngày 20 tháng 01 năm 2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc tham vấn cộng đồng doanh nghiệp về các thoả thuận thương mại quốc tế [10] Wenhua Ji & Cui Huang, "China’s Path to the Center Stage of WTO Dispute Settlement: Challenges and Responses", Global Trade and Customs Journal, 2010, vol. 5, no. 9, tr. 371-373. 387