Cơ hội, thách thức đối với ngành dệt – may khi Việt Nam gia nhập cộng đồng kinh tế ASEAN

pdf 7 trang Gia Huy 18/05/2022 2660
Bạn đang xem tài liệu "Cơ hội, thách thức đối với ngành dệt – may khi Việt Nam gia nhập cộng đồng kinh tế ASEAN", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfco_hoi_thach_thuc_doi_voi_nganh_det_may_khi_viet_nam_gia_nha.pdf

Nội dung text: Cơ hội, thách thức đối với ngành dệt – may khi Việt Nam gia nhập cộng đồng kinh tế ASEAN

  1. HỘI THẢO KHOA HỌC - QUẢN TRỊ VÀ KINH DOANH (COMB-2015) CƠ HỘI, THÁCH THỨC ĐỐI VỚI NGÀNH DỆT – MAY KHI VIỆT NAM GIA NHẬP CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN OPPORTUNITIES AND CHALLENGES FOR THE TEXTILE AND GARMENT INDUSTRY WHEN VIETNAM PARTICIPATES IN ASEAN ECONOMIC COMMUNITY TS. Ninh Thị Thu Thủy Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng ninhthithuthuy@yahoo.com TÓM TẮT Cộng đồng kinh tế ASEAN – AEC (ASEAN Economic Community) dự kiến được thành lập vào tháng 12/2015 là một khối kinh tế khu vực của các quốc gia thành viên ASEAN. AEC sẽ giúp nền kinh tế Việt Nam ngày càng định vị rõ hơn, vững chắc hơn trong cấu trúc chuỗi sản xuất chung của khu vực. Đối với ngành dệt may - ngành công nghiệp xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, cần phải nhận thức rõ những cơ hội cũng như thách thức mang lại trước sự kiện thành lập AEC. Bài báo nhằm đánh giá những cơ hội cũng như những thách thức đối với ngành dệt may Việt Nam khi tham gia vào cộng đồng AEC và đưa ra các kiến nghị góp phần thúc đẩy phát triển ngành dệt may trước bối cảnh hội nhập sâu rộng vào một thị trường chung, thống nhất. Từ khóa: Dệt may; Cộng đồng kinh tế ASEAN, cơ hội, thách thức. ABSTRACT ASEAN economic community - AEC which is expected to be established in December of 2015 is a regional economics block of ASEAN member countries. AEC will help Vietnam's economy position more and more clearly and firmly in general production chain of the region. The textile and garment industry - the major export industry of Vietnam should be aware of the opportunities and challenges before establishing AEC. The article aims to evaluate the opportunities and challenges for Vietnam's textile and garment industry when Vietnam participates in AEC and to make recommendations contributing to the development of textile and garment industry in the context of deeper integration into a unified market. Keywords: Textile and garment; ASEAN economic community, opportunities, challenges. 1. Khái quát về cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) ASEAN là cánh cửa quan trọng để Việt Nam bƣớc ra thế giới và việc thiết lập Cộng đồng kinh tế ASEAN là cơ hội to lớn đối với nền kinh tế Việt Nam. Mục tiêu của AEC là xây dựng ASEAN thành một thị trường chung duy nhất và cơ sở sản xuất thống nhất. Nói cách khác, AEC là mô hình liên kết kinh tế khu vực dựa trên sự lưu chuyển tự do của hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, vốn và lao động có tay nghề; từ đó nâng cao tính cạnh tranh và thúc đẩy sự thịnh vượng chung cho cả khu vực; tạo sự hấp dẫn với đầu tư – kinh doanh từ bên ngoài. AEC xác định 12 lĩnh vực ƣu tiên đẩy nhanh liên kết: Hàng nông sản; ô tô; điện tử; nghề cá; sản phẩm từ cao su; dệt may; sản phẩm từ gỗ; vận tải hàng không; thƣơng mại điện tử; chăm sóc sức khoẻ; du lịch; logistics. AEC thành lập là nhằm đẩy mạnh những cơ chế liên kết hiện có của ASEAN nhƣ Hiệp định khu vực mậu dịch tự do (AFTA), Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ (AFAS), khu vực đầu tƣ ASEAN (AIA), Hiệp định khung về hợp tác công nghiệp ASEAN (AICO) Sự liên kết kinh tế giữa các nƣớc khu vực ASEAN đã bắt đầu từ tháng 11/1975 khi Hội nghị Bộ trƣờng các nƣớc ASEAN đƣợc tổ chức lần thứ nhất. Đến ngày 1/1/2010 các nƣớc ASEAN-6 (Singapore, Malaysia, Thái Lan, Philippines, Indonesia và Brunei) đã thực hiện mục tiêu xóa bỏ thuế quan đối với 99,65% số dòng thuế; ASEAN-4 (Campuchia, Lào, Myanmar và Việt Nam) có nền kinh tế kém phát triển hơn cũng đã đƣa 98,86% dòng thuế tham gia chƣơng trình ƣu đãi thuế quan có hiệu lực chung để xây dựng khu vực thƣơng mại tự do ASEAN (CEPT – AFTA) về mức 0-5% và dự kiến xóa bỏ hết vào năm 2015. Đây là cơ hội mà các nƣớc ASEAN-6 đang chờ đợi để có thể mở rộng thị trƣờng, tận dụng lao động và tài nguyên giá rẻ ở các nƣớc ASEAN-4. 133
  2. TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 2. Thực trạng liên kết của ngành dệt may Việt Nam trong khu vực ASEAN Những năm gần đây, ngành dệt may Việt Nam đã có sự phát triển mạnh về năng lực sản xuất. Ngành công nghiệp dệt may hiện là một trong những ngành kinh tế lớn nhất của Việt Nam với hơn 4.000 doanh nghiệp hoạt động, đã và đang tạo việc làm và thu nhập ổn định cho khoảng 4,5 triệu lao động; trong đó 2,5 triệu lao động trực tiếp và gần 2 triệu lao động gián tiếp, thuộc các ngành công nghiệp phụ trợ, kho bãi, vận chuyển. Việt Nam cùng Trung Quốc, Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ và Bangladesh là những nƣớc xuất khẩu dệt may hàng đầu thế giới. Các sản phẩm dệt may của Việt Nam đã đƣợc xuất khẩu sang 180 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Riêng trong sáu tháng đầu năm 2015, kim ngạch xuất khẩu dệt may Việt Nam tiếp tục duy trì mức tăng trƣởng 2 con số, đạt 12,18 tỷ USD, tăng 10,26% so với cùng kỳ 2014. Nếu xét trong khối ASEAN, có đến 6/10 nƣớc cùng sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may; các nƣớc này cùng cạnh tranh với Việt Nam trên các thị trƣờng xuất khẩu lớn nhƣ: Mỹ, EU, Nhật bản. Tuy nhiên sự liên kết, hợp tác giữa Việt Nam với các nƣớc trong khu vực còn rất hạn chế: Bảng 1 cho thấy, năm 2014 Việt Nam đã xuất khẩu hàng dệt may vào 8 nƣớc ASEAN, trong đó nhiều nhất là vào Campuchia và Inđônesia; tuy nhiên kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào các nƣớc ASEAN còn rất nhỏ bé, chỉ chiếm 2,17% tổng KNXK của toàn ngành. Nguyên phụ liệu dệt may đƣợc xuất khẩu sang 4 nƣớc ASEAN (chủ yếu là Campuchia và Indonesia) chiếm 24,2% tổng KNXK; Xơ, sợi dệt các loại đƣợc xuất sang 5 nƣớc (chủ yếu là Thái Lan và Indonesia) cũng chỉ chiếm 9,22% tổng KNXK. Trong các nƣớc ASEAN có tới 5 nƣớc (Thái Lan, Indonesia, Singapore Malaysia, Philippines) là những quốc gia cũng sản xuất hàng dệt may xuất khẩu với cơ cấu mặt hàng tƣơng tự nhƣ Việt Nam. Họ là những đối thủ cạnh tranh với Việt Nam trên những thị trƣờng lớn, lại có nhiều lợi thế hơn Việt Nam nhƣ: giá thành sản phẩm không cao do hầu hết các nƣớc đã tự túc đƣợc nguyên liệu, phụ liệu có chất lƣợng cao; trình độ công nghệ sản xuất hiện đại; năng suất lao động cao hơn; số lƣợng sản phẩm sản xuất lớn hơn so với Việt Nam; đã có nhiều thƣơng hiệu quen thuộc, có uy tín trên thị trƣờng. Vì vậy, hàng dệt may Việt Nam khó cạnh tranh và rất khó thâm nhập đƣợc vào thị trƣờng nội địa của các quốc gia này. Còn Campuchia nhập khẩu hàng dệt may của Việt Nam chủ yếu là để xuất khẩu đi Mỹ chứ không phải cho tiêu dùng nội địa do Mỹ cho sản phẩm dệt may từ Campuchia đƣợc hƣởng thuế suất 0%. Bảng 1. Kim ngạch xuất khẩu ngành Dệt May Việt Nam vào các nước ASEAN năm 2014 (ĐVT: 1000 USD) 134
  3. HỘI THẢO KHOA HỌC - QUẢN TRỊ VÀ KINH DOANH (COMB-2015) (Nguồn: Tổng hợp từ số liệu của Tổng cục Thống kê) Kim ngạch xuất khẩu nguyên, phụ liệu dệt may của Việt Nam sang các nƣớc ASEAN thấp còn do sự đầu tƣ của các doanh nghiệp Việt Nam cho sản xuất nguyên phụ liệu dệt may còn rất hạn chế và sức cạnh tranh của các sản phẩm này chƣa cao. Bảng 2. Kim ngạch nhập khẩu ngành Dệt May Việt Nam từ các nước ASEAN năm 2014 (ĐVT: 1000 USD) Nguồn: Tổng hợp từ số liệu của Tổng cục Thống kê Ở chiều ngƣợc lại trong Bảng 2 cho thấy ngành dệt may Việt Nam đang phải nhập khẩu các loại vải, bông, sơ sợi dệt và nguyên phụ liệu của các nƣớc ASEAN; Trong đó nhập khẩu vải nhiều nhất là từ Thái Lan, Indonesia; Malaysia; Singapore nhƣng kim ngạch chỉ chiếm 3,68% tổng kim ngạch nhập khẩu vải của Việt Nam, do Việt Nam chủ yếu thực hiện hợp đồng gia công cho các thị trƣờng lớn nhƣ Mỹ, EU, thì nguồn nguyên liệu vải do các đối tác cung ứng. Các nguyên liệu khác nhập từ các nƣớc ASEAN cũng 135
  4. TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG chiếm tỷ lệ rất thấp trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam: Bông các loại chỉ chiếm 0,39%; Xơ, sợ dệt chiếm 14,9%; nguyên phụ liệu chiếm 5,46%. Những số liệu trên cho thấy quan hệ liên kết trong sản xuất và xuất khẩu sản phẩm dệt may của Việt Nam với các nƣớc ASEAN trong những năm qua còn rất hạn chế. 3. Những cơ hội, thách thức đối với ngành dệt may khi Việt Nam gia nhập cộng đồng kinh tế ASEAN 3.1. Cơ hội 3.1.1. Mở rộng khả năng tiếp cận thị trường: ASEAN là một thị trƣờng tƣơng đối rộng lớn với trên 600 triệu dân, kinh tế tăng trƣởng ổn định 5- 6%/ năm, tổng GDP nội khối khoảng 2.700 tỷ USD, thu nhập bình quân đầu ngƣời trên 4500USD/năm, với lợi thế là một khu vực phát triển năng động, gần gũi về địa lý. Trƣớc đây ngành dệt may của chúng ta chƣa chú ý nhiều đến thị trƣờng này thì việc thành lập AEC sẽ mở ra cơ hội trở đƣa ASEAN trở thành một thị trƣờng tiềm năng cho xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam. Bởi vì: Khi tham gia vào AEC, không còn những ngăn cách về không gian kinh tế, với việc loại bỏ các rào cản thƣơng mại và dịch vụ; quy tắc xuất xứ linh hoạt, hiện đại; tính minh bạch hóa cao sẽ là những yếu tố thuận lợi để mở ra nhiều cơ hội mới cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam tiếp cận thị trƣờng này. Hàng dệt may của Việt Nam sẽ đƣợc bán trên thị trƣờng các nƣớc ASEAN gần nhƣ ở thị trƣờng trong nƣớc; do đó các doanh nghiệp dệt may sẽ có cơ hội mở rộng trao đổi sản phẩm cũng nhƣ các yếu tố sản xuất, nguyên vật liệu đầu vào ở một thị trƣờng rộng lớn hơn. Các nƣớc ASEAN sẽ là đối tác thƣơng mại quan trọng, là động lực giúp nền kinh tế nƣớc ta duy trì tốc độ tăng trƣởng trong lai. Đồng thời trong ASEAN còn có "Chứng nhận xuất xứ hàng hóa", theo đó những sản phẩm có tỷ lệ ―nội khối‖ 40% thì đƣợc chứng nhận là sản phẩm vùng ASEAN và sẽ đƣợc hƣởng các ƣu đãi khi xuất khẩu sang các thị trƣờng khu vực ASEAN đã có FTA. Từ đó sẽ mở ra cơ hội mở rộng thị trƣờng sang một số nƣớc khác có các thỏa thuận thƣơng mại tự do (FTAs) riêng rẽ của ASEAN, nhƣ Australia, New Zealand, Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc. 3.1.2. Tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp dệt may nâng cao khả năng cạnh tranh, tham gia sâu hơn vào chuỗi sản xuất và cung ứng của khu vực và toàn cầu Từ việc cắt giảm thuế theo lộ trình yêu cầu xây dựng của AEC, rào cản thuế quan và phi thuế quan sẽ từng bƣớc bị xóa bỏ. Sau khi chính thức tham gia AEC, các nền kinh tế trong ASEAN sẽ phải mở cửa ở mức độ rất cao. Trong khối ASEAN, bắt đầu từ năm 2015, có tới 93% thuế đƣợc đƣa về 0% khi các nƣớc nhập khẩu vào Việt Nam và ngƣợc lại; 7% thuế còn lại đến năm 2018 đƣa về 0%, với các thị trƣờng Mỹ và châu Âu, đến năm 2020 các mặt hàng nhập khẩu, xuất khẩu cũng đƣa về mức thuế 0%. Đối với ngành dệt may, thuế nhập khẩu từ ASEAN với mức bảo hộ trƣớc đây nhƣ: Xơ, Sợi nhân tạo 40%; vải 30%; may mặc 40% thì đến năm 2010 đã hết bảo hộ cho ngành may và đến 2015 là hết bảo hộ cho ngành dệt. Nhƣ vậy khi gia nhập AEC, ngành dệt may Việt Nam sẽ đƣợc hƣởng lợi từ việc giảm thuế, sản xuất hàng hóa xuất khẩu sẽ không phải chịu thuế suất; nhập khẩu máy móc, nguyên phụ liệu cũng không phải chịu thuế suất. Điều này sẽ tạo điều kiện cho việc hạ giá thành, nâng cao chất lƣợng sản phẩm cũng nhƣ tăng tính cạnh tranh của hàng dệt may xuất khẩu. Nhờ đó các sản phẩm dệt may Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội hơn nữa trong việc thâm nhập vào các thị trƣờng lớn, nâng cao giá trị gia tăng. Mặt khác, để hòa nhập với môi trƣờng AEC đòi hỏi chính phủ Việt Nam phải đẩy mạnh cải cách trong nƣớc, đặc biệt là hoàn thiện thể chế kinh tế và chính sách thƣơng mại quốc tế. Khi cách thức tiếp 136
  5. HỘI THẢO KHOA HỌC - QUẢN TRỊ VÀ KINH DOANH (COMB-2015) cận thị trƣờng của các doanh nghiệp dệt may của chúng ta đƣợc cải thiện bởi môi trƣờng thƣơng mại hiệu quả, minh bạch và dễ dự đoán, cùng với việc đơn giản hóa thủ tục hải quan, giảm thiểu chi phí cho các giao dịch thƣơng mại quốc tế sẽ góp phần tạo dựng một môi trƣờng kinh doanh cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh. Nhờ đó, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam sẽ nâng cao khả năng cạnh tranh và có cơ hội tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị dệt may toàn cầu. 3.1.3. Thúc đẩy thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam: Trong những năm qua, ASEAN đang là một trong những nguồn đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài cung ứng vốn lớn nhất của nƣớc ta, những thành viên ASEAN có vốn đầu tƣ lớn vào Việt Nam là Singapore (hơn 16 tỷ USD), Malaysia (18 tỷ USD), Thái Lan (5,6 tỷ USD), Brunei (4,6 tỷ USD). Các doanh nghiệp dệt may trong nƣớc đã tận dụng tốt cơ hội phát triển thị trƣờng, thu hút dòng vốn từ nƣớc ngoài vào làm tăng quy mô của ngành. Khi AEC đƣợc thành lập khả năng thu hút các nguồn vốn này sẽ tăng thêm nữa bởi những lý do sau: +Trong AEC không còn những rào cản ngăn cách thì vốn cũng đƣợc lƣu chuyển tự do giữa các nƣớc ASEAN; khi đó bất cứ doanh nghiệp hay nhà đầu tƣ ASEAN nào cũng đều có cơ hội nhƣ nhau trong việc tận dụng và phát huy ƣu thế của thị trƣờng chung của 10 nƣớc ASEAN để mở rộng đầu tƣ tìm kiếm lợi nhuận. +Khi môi trƣờng kinh doanh của Việt Nam đƣợc cải thiện, cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh; thủ tục hành chính đơn giản thuận lơi; thể chế kinh tế hoàn thiện sẽ tạo ra sức hấp dẫn hơn trong môi trƣờng đầu tƣ, sẽ thúc dòng vốn FDI từ các đối tác ASEAN vào ngành dệt may Việt Nam. +Xu hƣớng dịch chuyển đầu tƣ của các nhà sản xuất dệt may thế giới: Theo ông Nguyễn Văn Tuấn, Phó Chủ tịch thƣờng trực Hiệp hội bông vải sợi Việt Nam (VCOSA), đến năm 2030, dự kiến quy mô sản xuất hàng dệt may của toàn thế giới sẽ mở rộng lên gấp đôi, sản lƣợng của châu Á sẽ chiếm hơn 60% sản lƣợng dệt may thế giới; quy mô sản xuất tại châu Á sẽ tăng 2,4 lần. Khi đó các nhà sản xuất dệt may thế giới sẽ dịch chuyển đầu tƣ và Việt Nam cùng với các nƣớc ASEAN sẽ trở thành điểm đến cho chuỗi cung ứng sản phẩm dệt may thế giới. 3.2. Thách thức Bên cạnh những cơ hội có đƣợc khi AEC thành lập thì các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cũng sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức, đó là: 3.2.1. Áp lực cạnh tranh lớn hơn: Ngành dệt may Việt Nam đang là đối tƣợng cạnh tranh của các quốc gia ASEAN trong sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm dệt may ra thị trƣờng thế giới nhƣ Campuchia, Thái Lan, Inddoonessia , ngoại trừ Singapore là nƣớc nhập khẩu toàn bộ các sản phẩm dệt may. Vì vậy, gia nhập cộng đồng AEC, doanh nghiệp dệt may sẽ đứng trƣớc sự cạnh tranh mạnh mẽ từ các doanh nghiệp của nhiều quốc gia lân cận. Sự cạnh tranh bây giờ không chỉ diễn ra trên các thị trƣờng xuất khẩu lớn ngoài khu vực ASEAN nhƣ Mỹ, EU mà sự cạnh tranh sẽ diễn ra ngay ở thị trƣờng trong nƣớc, ngay trên sân nhà. Trong thời gian qua, việc cắt giảm thuế theo FTA trong khuôn khổ AFTA chƣa có tác động nhiều đến sản xuất của ngành dệt may trong nƣớc vì xuất nhập khẩu hàng dệt may với các nƣớc ASEAN chỉ chiếm tỷ trọng rất nhỏ (4,3% tổng giá trị kim ngạch toàn ngành). Tuy nhiên, khi AFTA mở rộng sang cả Trung Quốc, Hàn Quốc thì những ảnh hƣởng sẽ càng rõ nét hơn vì trong thoả thuận về FTA hay trong khuôn khổ WTO với Việt Nam sẽ có thêm nhiều đối tác mạnh hơn, có lợi thế về công nghệ, về giá cả, 137
  6. TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG vận chuyển và họ chủ động nguồn nguyên liệu Do vậy, sức ép cạnh tranh ngày càng lớn đối với các doanh nghiệp dệt may trong nƣớc. 3.2.2. Lợi thế cạnh tranh của Việt Nam có xu hướng giảm đi: Những lợi thế cạnh tranh lâu nay của ngành dệt may nƣớc ta chủ yếu nằm ở lao động giá rẻ, gia công sản phẩm dệt – may thì cũng trùng với nhiều quốc gia khác trong khu vực. Nhƣng lợi thế của chúng ta đang mất dần đi do trình độ tay nghề của lao động thấp dẫn đến năng suất lao động thấp. Năng suất trung bình của 1 lao động Việt Nam thấp dƣới một nửa so với Philipines; 2 lao động Việt Nam mới bằng 1 lao động Thái Lan; 5 lao động Việt Nam mới bằng 1 lao động Malaysia; 15 lao động Việt Nam mới bằng 1 lao động Singapore. Với trình độ lao động và năng suất nhƣ vậy rõ ràng sẽ cản trở việc áp dụng công nghệ cũng nhƣ việc thu hút đầu tƣ vào ngành. Mặt khác, để đón đầu xu thế thành lập AEC thì các nƣớc ASEAN-6 đã đua nhau đầu tƣ vào các chuỗi bán lẻ ở Việt Nam: Thái Lan đã mua lại Metro, Malaysia có chuỗi siêu thị Parkson. Chắc chắn khi AEC có hiệu lực, thuế suất nhập khẩu vào Việt Nam bằng không, thì các siêu thị đó sẽ đƣa hàng hóa của nƣớc họ chiếm lĩnh thị trƣờng nội địa Việt Nam. Lúc đó, sản phẩm dệt may của Việt Nam ở ngay thị trƣờng nội địa cũng bị đe dọa nghiêm trọng; có thể công nhân dệt may của Việt Nam sẽ dịch chuyển sang làm thuê cho công ty nƣớc ngoài. Theo khảo sát mới đây của Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ, 76% doanh nghiệp Việt không biết gì về ACE, 94% doanh nghiệp không hiểu rõ về nội dung đàm phán, 63% doanh nghiệp không hiểu về những cơ hội và thách thức khi tham gia AEC, trong khi Cộng đồng kinh tế ASEAN là một lộ trình hội nhập chắc chắn 5. Đó là điều hết sức lo ngại nếu nhƣ các doanh nghiệp không có sự chuẩn bị kỹ càng cho sự hội nhập. 3.2.3. Rào cản thương mại có thể bị siết chặt hơn: Khi hàng rào thuế quan đƣợc cắt giảm và dỡ bỏ thì các nƣớc có thể sẽ đƣa ra các biện pháp phòng vệ bằng cách siết chặt các hàng rào thƣơng mại. Đối với hàng dệt may các nƣớc thƣờng chú trọng đến quy tắc xuất xứ. Quy tắc này yêu cầu ít nhất 40% hàm lƣợng sản phẩm làm ra phải có xuất xứ từ khu vực ASEAN thì mới đƣợc hƣởng thuế suất 0%, vì vậy nếu nhập khẩu quá nhiều nguyên phụ liệu từ ngoài khu vực thì mức thuế suất 0% cũng không còn ý nghĩa. Hiện nay sản phẩm dệt may của Việt Nam lại khó đáp ứng đƣợc yêu cầu về nguồn gốc nguyên liệu vì chủ yếu các doanh nghiệp làm gia công cho nƣớc ngoài, nguồn nguyên phụ thuộc vào đối tác. 4. Những kiến nghị đề xuất 4.1. Đối với Nhà nước - Tăng cƣờng, hỗ trợ cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp thông qua nhiều kênh khác nhau. Trong đó cần chú trọng những thông tin về chính sách ƣu đãi, thuận lợi mà doanh nghiệp Việt Nam đƣợc hƣởng cũng nhƣ những khó khăn mà doanh nghiệp có thể gặp phải để doanh nghiệp chuẩn bị trƣớc tâm lý, chủ động trong xây dựng định hƣớng, chiến lƣợc phát triển sản phẩm tại các thị trƣờng này. - Cần tiếp tục cải cách mạnh mẽ hơn nữa để tạo dựng môi trƣờng kinh doanh cạnh tranh bình đẳng: Thời điểm hình thành Cộng đồng kinh tế ASEAN đang đến gần, các cơ quan chức năng cần xây dựng hệ thống chính sách để đón nhận những lợi ích và giảm thiểu ảnh hƣởng tiêu cực đến các doanh nghiệp dệt may trong nƣớc. Trong đó, thay vì những chính sách ƣu đãi để giảm khó khăn cho sản xuất, kinh doanh trong ngắn hạn, cần đẩy mạnh cải cách về thể chế, đơn giản hóa hơn nữa về thủ tục hành chính, xây dựng bộ máy gọn nhẹ, làm việc hiệu quả để có những doanh nghiệp dệt may thực sự mạnh, đủ sức cạnh tranh và phát triển bền vững. 138
  7. HỘI THẢO KHOA HỌC - QUẢN TRỊ VÀ KINH DOANH (COMB-2015) - Về phía Bộ quản lý ngành dệt may: Cần phân loại, đánh giá khả năng cạnh tranh của từng sản phẩm, nhóm sản phẩm và từng doanh nghiệp để xây dựng kế hoạch nâng cao năng lực cạnh tranh. Cần xây dựng cơ cấu sản xuất ngành cân đối giữa các khâu: Kéo sợi – dệt vải – may mặc và phụ trợ; chuyển đổi từ hình thức gia công sang sản xuất, đáp ứng đƣợc những tiêu chí qui định về xuất xứ để đƣợc hƣởng những ƣu đãi về thuế quan. Xây dựng chiến lƣợc phát triển mạng lƣới tiêu thụ sản phẩm đảm bảo giữ vừng thị trƣờng nội địa cho sản phẩm dệt may; đồng thời xúc tiến mở rộng thị trƣờng xuất khẩu sản phẩm. 4.2. Đối với các doanh nghiệp dệt may - Các doanh nghiệp cần chủ động nắm bắt cơ hội tăng trƣởng xuất khẩu, tận dụng những lợi thế và ƣu đãi để đẩy mạnh xúc tiến xuất khẩu sản phẩm vào các nƣớc ASEAN. - Doanh nghiệp cần phải chủ động nâng cao khả năng cạnh tranh thông qua đổi mới công nghệ; nâng cao chất lƣợng sản phẩm; cải tiến về mẫu mã, tạo dựng thƣơng hiệu có uy tín Tăng cƣờng liên kết hợp tác trong sản xuất, phân phối giữa các doanh nghiệp để hình thành những tổ chức sản xuất qui mô lớn cũng nhƣ mạng lƣới phân phối hiện đại để nâng cao sức mạnh cạnh tranh. - Doanh nghiêp cần chủ động sẵn sàng hội nhập và đối mặt với xu thế tự do hóa thƣơng mại và đầu tƣ. Liên tục cải cách, đƣa ra những điều chỉnh để thích ứng với những thay đổi trong quá trình sản xuất; cải tiến xuất xứ hàng hóa, hƣớng đến những chuẩn mực chung về tiêu chuẩn hàng hóa. Đồng thời doanh nghiệp cũng cần trang bị những phƣơng thức phòng chống rủi ro biến động trƣớc những yêu cầu của hàng rào kỹ thuật và sự thay đổi của chính sách. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Lê Đăng Doanh, Cộng đồng kinh tế ASEAN – Cơ hội và thách thức đối với Việt Nam. [2] Trần Văn Hùng, Lê Thị Mai Hƣơng, Nguyễn Lê Anh; Cộng đồng Kinh tế ASEAN; Cơ hội và thách thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam, Tạp chí Phát triển & Hội nhập, số 20 (30) – tháng 01- 02/2015. [3] PGS.TS Nguyễn Duy Dũng, ASEAN: Từ hiệp hội đến cộng đồng- những vấn đề nổi bật và tác động đến Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 2012. [4] Internet: Tapchitaichinh.vn/kinh-te-vi-mo/kinh-te dau-tu/cong-dong-kinh-te-asean-co-hoi-va- thach-thuc-54926.html [5] www.ninhthuan.gov.vn/chinhquyen/soct/Pages/Ky-2-TONG-QUAN-VE-AFTA-AEC.aspx 139