Di tích óc eo và việc bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa
Bạn đang xem tài liệu "Di tích óc eo và việc bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- di_tich_oc_eo_va_viec_bao_ton_phat_huy_cac_gia_tri_van_hoa.pdf
Nội dung text: Di tích óc eo và việc bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa
- BẢO TỒN DI SẢN VĂN HÓA DI TÍCH ÓC EO VÀ VIỆC BẢO TỒN, PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA PHẠM NGỌC HÒA Tóm tắt Những kết quả nghiên cứu về nền văn hóa Óc Eo đã giúp chúng ta hiểu biết sâu hơn về lịch sử, văn hóa dân tộc. Có thể nói, việc khám phá các di tích, di vật của nền văn hóa Óc Eo được xem là một trong những thành tựu lớn nhất của khảo cổ học Việt Nam trong hơn 70 năm qua. Tuy nhiên, trong thời kỳ hiện nay, các khu di tích văn hóa Óc Eo đang đứng trước nguy cơ bị xâm hại, thậm chí mai một. Việc bảo tồn các khu di tích đã trở nên cấp bách, đòi hỏi các cấp lãnh đạo từ trung ương đến địa phương, đặc biệt là ngành văn hóa và các cơ quan hữu trách một sự quan tâm sâu sắc. Từ khóa: An Giang, bảo tồn, giá trị di sản, văn hóa Óc Eo Abstract The results of researches on Oc Eo culture have helped us to get more knowledge about the history and culture of the nation. It can be said that the discovery of Oc Eo cultural relics and relicts is considered one of the greatest achievements of Vietnamese archeology during over 70 years. However, at present, the Oc Eo cultural relics are facing the risk of being harmed, even lost. The conservation of those relics has become urgent, which requires deep concerns of the leaders from the central to local levels, especially the cultural sector and authorities. Keywords: An Giang, conservation, heritage values, Oc Eo culture 1. Văn hóa Óc Eo và những kết quả nghiên một gò đất lẫn đá nổi trên mặt cánh đồng phía cứu tại An Giang đông nam núi Ba Thê. Tên này vốn có từ lâu và rên vùng đất đồng bằng sông Cửu đã truyền lưu qua nhiều thế hệ mà ngày nay, Long ngày nay đã có hàng nghìn tên không ai biết xuất xứ của nó nữa. Về ngữ nghĩa T đất, tên sông, tên núi, tên đồi, tên của cái tên Óc Eo, mọi người cũng không hề hay làng ấp, tên thị thành khác nhau. Những tên biết. ấy, có số lượng nhiều nhất, được biểu thị bằng Từ khi được giới nghiên cứu quan tâm, tên những từ Việt hoặc Hán Việt; còn lại, một số gọi Óc Eo được mọi người biết đến như một tên được biểu thị bằng từ Khơme và từ Chăm. hải cảng phồn thịnh thuộc nền văn hóa cổ. Chúng là những dấu ấn cụ thể gợi lên hình ảnh Louis Malleret, nhà khảo cổ học người Pháp, đã thật phong phú, đặc sắc của quá trình tụ cư, phát hiện ra địa điểm này và cho khai quật lần khai phá đất đai, lập làng, dựng chợ của cộng đầu tiên tại một vùng đất thuộc huyện Thoại đồng người Kinh, người Khơme, người Hoa, Sơn với diện tích khá lớn. Cánh đồng Óc Eo người Chăm ở nơi đồng bằng màu mỡ này. nay thuộc địa phận xã Vọng Thê, huyện Thoại Bên cạnh những tên gọi, những từ thân quen Sơn, tỉnh An Giang. Cũng theo người dân địa và dễ nhận thức ấy, có một và chỉ một địa danh phương, địa danh này trong tiếng Khmer có thật lạ, không phải tiếng Kinh, không phải từ thể đọc là Ô Keo. Ô có nghĩa là vùng trũng, Keo Khơme, cũng không phải từ Hoa hoặc Chăm. là phát ra ánh sáng lóng lánh như thủy tinh. Địa danh ấy được quen gọi là Óc Eo. Đó là tên Sở dĩ cánh đồng được đặt tên như vậy là vì
- BẢO TỒN DI SẢN VĂN HÓA dân địa phương thường thấy ở đây những ánh thế kỷ II đến thế kỷ VII sau Công nguyên. Từ kết sáng lạ phát ra vào ban đêm mà không hiểu quả của những cuộc khai quật, đào thám sát vì sao. Câu chuyện về từ Óc Eo hẳn còn nhiều trên mặt đất và những cuộc quan sát từ trên tranh luận song một điều chắn chắn là, tên Óc không, Malleret đã đưa ra nhận định: Ngay trên Eo vốn từng là một địa danh đã tồn tại trong cánh đồng Giồng Cát và Giồng Xoài (ông gọi là lịch sử cư dân vùng đồng bằng sông Cửu Long. cánh đồng Óc Eo) có một thành thị cổ bị vùi Nhìn về lịch sử, chúng ta thấy rằng Óc Eo là lấp dưới lòng đất. Ông đặt tên cho thành thị một nền văn hóa lớn, gắn liền với đất nước, con đó là Óc Eo hay còn gọi là thị cảng Óc Eo. Như người châu thổ vùng đồng bằng sông Cửu Long; vậy, với Malleret, từ cổ Óc Eo, nguyên để chỉ đồng thời, nó còn có mối quan hệ mật thiết với một gò đất theo tục truyền của người dân địa lịch sử Đông Nam Á thời cổ. Đây là một vùng đất phương, đã hàm chứa một nội dung mới. Nó cổ, dân cư đã tập trung từ cuối thời đại đá mới bao gồm chỉnh thể các di tích hiện còn tồn lưu hay sơ kỳ thời đại kim khí, họ được nuôi dưỡng dưới lòng đất và nổi trên mặt đất, nằm trong bằng phù sa sông Hậu và được kích thích bằng chu vi một thành thị cổ ở cánh đồng Giồng sự ra đời của luyện kim, vì thế sức sản xuất đã Xoài, Giồng Cát mà đã được phác dựng thành có điều kiện phát triển nhanh chóng, quá trình một bình đồ khá sinh động, bình đồ “đô thị Óc phân công lao động được đẩy mạnh. Óc Eo xuất Eo”. Nói cách khác, với Malleret, Óc Eo xưa là hiện và dần dần trở thành một trung tâm kinh một đô thị rộng lớn, một thị cảng phồn vinh, tế, văn hóa của cả vùng đồng bằng sông Cửu một trung tâm kinh tế sống động, có mối quan Long. Với vị trí quan trọng trên đường giao hệ giao thương Âu - Á rộng rãi. Đồng thời, đô thông biển ở khu vực Đông Nam Á, Óc Eo đã trở thị Óc Eo xưa cũng là một di tích tiêu biểu cho thành nơi tập trung của thương nhân và thợ thủ nền văn minh của một quốc gia cổ hình thành công, nghĩa là có đủ điều kiện để thành thị hóa. vào loại sớm nhất ở Đông Nam Á (1, tr.215). Từ đó, Óc Eo càng có điều kiện để đón nhận các Đây là một phát hiện lớn trong một công trình ảnh hưởng văn hóa bên ngoài cũng như tăng khoa học mang ý nghĩa mở đầu cho công cuộc thêm các yếu tố kích thích sự phát triển bên nghiên cứu về Nền văn hóa Óc Eo và Vương trong. Sự nảy sinh và nở rộ của văn minh thành quốc Phù Nam trên vùng đất Nam Bộ. thị Óc Eo có thể được hình dung trong quá trình Từ kết quả khai quật ban đầu, kết hợp với như vậy. Có thể nói, những nhân tố bên ngoài, việc phát hiện nhiều di chỉ khảo cổ phân bố ngoại sinh, quả đã góp phần vào việc tạo dáng trong vùng, người ta đã lần lượt đưa ra nhiều cho một mô hình thành thị Óc Eo, thế nhưng nhận định, kiến giải liên quan đến văn hóa, lịch động lực cho sự xuất hiện và phát triển văn sử cổ xưa của vùng đất đồng bằng Nam Bộ: minh Óc Eo phải là những nhân tố bên trong. Thứ nhất, văn hóa Óc Eo phát triển trên một Trong gần một thế kỷ nay, nhiều nhà khoa tầng cư dân bản địa ở vùng đồng bằng Nam Bộ. học phương Tây đã dày công khảo cứu về nền văn hóa Óc Eo. Đặc biệt, vào cuối năm 1944, Thứ hai, văn hóa Óc Eo hội tụ nhiều luồng nhà khảo cổ học người Pháp Louis Malleret đã văn hóa cổ (từ truyền thống văn hóa thời kỳ đồ tiến hành khai quật khu di tích văn hóa Óc Eo đá Nam Đông Dương, văn hóa Ấn Độ cổ đại đến và sau khi nghiên cứu, trong khoảng thời gian các yếu tố văn hóa Địa Trung Hải và cả văn hóa từ năm 1959 đến năm 1963, đã công bố toàn Trung Hoa), trong đó yếu tố văn hóa Ấn Độ bộ kết quả khai quật trong một công trình đồ chiếm vai trò chủ đạo. sộ mang tên Khảo cổ học vùng đồng bằng Thứ ba, văn hóa Óc Eo là dấu vết vật chất sông Mêkông, gồm 4 tập. Trong phạm vi Óc Eo, của vương quốc Phù Nam - một trong những Malleret đã tìm thấy khoảng 150 di tích mang quốc gia cổ đại được hình thành sớm nhất ở dấu vết văn hóa cổ, trong số đó có trên 10 di Đông Nam Á vào thế kỷ I - VII sau Công nguyên tích thuộc một nền văn hóa mà ông đặt tên là (2, tr.150). nền văn hóa Óc Eo, có tuổi được xác định từ Để tiếp tục tìm ra những di chỉ mới và luận chứng thêm cho nền văn hóa Óc Eo, năm 1977,
- BẢO TỒN DI SẢN VĂN HÓA các nhà khảo cổ học Việt Nam tiếp tục tiến vật tìm thấy tại đây được chế tác trong khoảng hành nhiều cuộc điều tra, khảo sát và khai quật thế kỷ III đến thế kỷ V sau Công nguyên (còn di khảo cổ học trên đất Nam Bộ, phát hiện thêm vật các vùng phụ cận thì muộn hơn). Qua đó, nhiều di tích không những trên vùng sông Hậu, người ta có thể tiếp cận được diện mạo khá rõ mà cả trên vùng sông Tiền và sông Đồng Nai, nét và hình dung ra một cảnh quan sinh hoạt gần như trên khắp địa bàn Nam Bộ. Những di sinh động đặc trưng của một nền văn minh cổ tích này bao gồm di chỉ cư trú có tầng văn hóa - “văn minh Phù Nam” hoặc “văn hóa Óc Eo” (4, dày trên dưới 3 mét, các công trình kiến trúc tr.153). Trong những năm 1994 - 1995, các nhà tôn giáo và các khu mộ táng. Hiện vật vô cùng khảo cổ học đã phát hiện ở Gò Cây Tung (An phong phú với đủ loại, bao gồm: Giang) một di tích kiến trúc gạch có niên đại - Nhóm tượng thờ: Tượng Phật, tượng thần khoảng thế kỷ IX - X. Ở dưới lớp kiến trúc có một bằng các chất liệu gỗ, đá, đồng; tượng linh vật tầng cư trú dày, được xác định rõ ràng là trước có yoni và linga, trong đó có một số hiện vật Óc Eo. Tầng cư trú này phát lộ với những hiện được làm bằng vàng; vật phong phú, bao gồm đồ gốm văn thừng có vẽ màu, hơn 40 chiếc rìu đá cùng với các bàn - Nhóm phù điêu và con dấu khắc trên gốm mài, chày nghiền Điều đáng chú ý là ở đây đá, thủy tinh, kim loại; người ta tìm được một loại rìu đá có hình tứ giác - Nhóm tiền kim khí đúc bằng vàng, đồng, (chứ không gặp rìu có vai) và có một gờ nổi ở chì thiếc, chì sắt. Nhiều hiện vật bằng vàng và giữa lưỡi. Loại rìu này gần giống loại“bôn có vàng lá có hình chạm khắc, nhiều đồ trang sức mỏ” được tìm thấy ở Malaysia và Inđônêxia. bằng đá quý, đá màu, thủy tinh, kim loại, Cùng với di tích Gò Cây Tung, những di vật và nhiều loại đồ gốm và những vật dụng bằng mộ táng được phát hiện ở các di chỉ khác như đất nung, đá, gỗ. Lộc Giang, gò Cao Su (Long An), Long Bửu, Giồng Những phát hiện về văn hóa Óc Eo trong Phệt, Giồng Cá Vồ (Thành phố Hồ Chí Minh) thời gian gần đây cho thấy nền văn hóa này đều góp phần khẳng định Óc Eo là một nền văn phân bố trù mật trên địa bàn các tỉnh Long hóa có nguồn gốc bản địa, có quan hệ mật thiết An, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang và nhiều với văn hóa Sa Huỳnh ở miền Trung mà chủ địa điểm khác thuộc vùng đồng bằng Nam Bộ. nhân chủ yếu của nền văn hóa này là cư dân Mã Hơn thế, các nhà khoa học đã phát hiện nhiều Lai – Đa Đảo. Những dấu vết khảo cổ cũng cho chứng tích của giai đoạn văn hóa tiền Óc Eo thấy văn hóa vật chất vùng Tây sông Hậu rất gần trên đất Nam Bộ, chứng tỏ đây là một nền với người Chăm. Chính Malleret khi tiến hành văn hóa không chỉ có nguồn gốc bản địa với khai quật tại Óc Eo cũng đã từng nhận xét rằng trung tâm là vùng đất Nam Bộ mà còn có các kiến trúc ở đây “phần lớn được lợp mái ngói quan hệ giao lưu rộng rãi với thế giới bên bằng, một kiểu khác hẳn ở Ăngko” (7, tr. 314). ngoài (3, tr.14). Dấu tích vật chất cho thấy, Óc Nhiều viên chì lưới tìm thấy ở Óc Eo chứng tỏ cư Eo có sự liên hệ khá mật thiết với Trung Quốc, dân miền Tây sông Hậu đã phát triển nghề đánh Ấn Độ, Tây Á và Địa Trung Hải. Trên tư liệu khảo cá. Những dấu hiệu còn lại của hệ thống kênh cổ học cực kỳ phong phú, nhiều vấn đề khoa đào đã nói lên kinh nghiệm và tài nghệ làm thủy học đang đặt ra, lôi cuốn sự quan tâm của giới lợi, khai phá và canh tác ở đồng bằng trũng thấp nghiên cứu trong và ngoài nước. của nhóm cư dân Mã Lai – Đa Đảo ven biển. Đến năm 1983, các nhà khảo cổ học Việt Trong 13 tỉnh, thành của vùng đồng bằng Nam lại tiếp tục cuộc khai quật. Đối tượng sông Cửu Long thì An Giang là tỉnh tập trung được chọn để khai quật là những di chỉ “gò nhiều nhất các di tích và di vật của nền văn nổi”, “đống đá” thuộc khu vực phía bắc của di hóa Óc Eo. Theo những kết quả điều tra, phát tích Óc Eo. Đó là gò Cây Trôm, gò Cây Cóc, gò hiện của ngành khảo cổ học trong những năm Ông Côn, gò Cù lao Vôi, gò đá số 1, 7, 8, 10. qua thì ở An Giang, các di tích thuộc nền văn Qua khai quật, các nhà khoa học đã phát hiện, hóa này thường phân bố trên nhiều địa hình thu thập được rất nhiều hiện vật. Phần lớn di
- BẢO TỒN DI SẢN VĂN HÓA đồi núi, đồng bằng với độ cao thấp khác nhau. thủ công bằng đồng, đá, đất nung, đồ gốm Nhiều di tích nằm rải rác trên các triền núi, các như vòng tay, lục lạc, giá kê, búa, dùi đục, chân núi như ở vùng Bảy Núi, núi Sam, núi Ba tượng, khuôn đúc, nồi nấu kim loại, cối, chày, Thê, núi Sập hoặc quy tụ thành từng khu vực, bàn nghiền, bàn xoa, dọi xe sợi, chì lưới, bình từng cụm trên mặt đồng bằng thấp ở các cánh có vòi, nồi, vò, bát, đĩa, đèn, chậu v.v Toàn đồng Giồng Cát, Giồng Xoài thuộc xã Vọng Thê, bộ những di tích, di vật trên đã minh chứng huyện Thoại Sơn. Ngoài ra, di tích còn được đầy đủ cho vùng đất An Giang từng một thời, phát hiện trên địa bàn huyện Tri Tôn, Tịnh Biên vào những thế kỷ đầu Công nguyên (thế kỷ II và một số huyện, thị xã trong tỉnh. Qua nhiều - VI) là trung tâm lớn của một nền văn hóa vừa đợt khai quật, các nhà khảo cổ đã phát hiện và đường bệ, hoành tráng trong quy mô lại vừa bổ sung nhiều hiện vật quý giá hết sức phong đặc sắc, tinh vi về phong cách. Khi nhận định, phú về loại hình và đa dạng về chất liệu. Các di các nhà nghiên cứu đều coi những di tích này tích của nền văn hóa Óc Eo ở An Giang, ngoài là tiêu biểu cho đỉnh cao kinh tế, kỹ thuật của những kiến trúc tường gạch đồ sộ của các kiểu sự phát triển, phồn vinh ở vùng đồng bằng đền đài, còn có các ngôi mộ cổ xây bằng đá trên sông Cửu Long thời đó. Sự phát triển của văn các gò đắp nện bằng đất sét, những kiến trúc hóa Óc Eo (An Giang) có thể được chia thành dựng trên các cọc gỗ cắm đứng, những khu cư hai giai đoạn quan trọng như sau: trú trên gò cao, trong ruộng thấp nằm ven Giai đoạn sớm (thế kỷ I - IV): Đây là giai đoạn những đường nước cổ. Ngay tại khu Óc Eo, các văn hóa Óc Eo định hình và phát triển. Cư dân loại di tích ấy có mật độ tập trung khá dày, đan cổ trên khu vực Óc Eo đã dần chiếm lĩnh toàn xen với nhau, có vẻ như hợp thành một quần bộ vùng đồng bằng thấp Tứ giác Long Xuyên. thể di tích có tính chất và đặc điểm của một Gắn liền với việc chuyển từ tiền sử muộn sang trung tâm văn hóa quy mô, một đô thị cảng có sơ sử và bắt đầu hình thành nhà nước phong tầm cỡ và có thể là của một trung tâm chính trị kiến sơ khai cùng với việc mở rộng địa bàn cư quan trọng. Nhiều tư liệu phong phú của văn trú thì các công trình tôn giáo cũng có bước hóa Óc Eo đã đóng góp vào nhận thức về một phát triển mạnh mẽ. Nhiều hiện vật đặc trưng nền nghệ thuật Phật giáo và Hinđu giáo ở đồng của văn hóa Óc Eo như các kiểu dáng của đồ bằng sông Cửu Long vào thế kỷ gốm, đế đất nung, những trang sức bằng V. Văn hóa Óc Eo có sự kế thừa và phát triển từ đồng, chì, thiếc, con dấu, bùa đeo đều được các nền văn hóa tiền Óc Eo ngay trên mảnh đất phát hiện trong giai đoạn này. Nam Bộ từ cuối thời đại đồ đồng (5, tr.1825). Giai đoạn phát triển (thế kỷ IV - VI, VII): Vào Tiếp tục nghiên cứu trong lòng đất ở khu thời kỳ này, cư dân Óc Eo đã hoàn toàn làm vực này và ở nhiều di tích khác trong tỉnh An chủ vùng đồng bằng miền Tây sông Hậu, vùng Giang, qua phát hiện của người dân địa U Minh và vùng trũng thấp Đồng Tháp Mười. phương và qua những cuộc điều tra, sưu tầm, Đây cũng là thời kỳ mà các kiến trúc tôn giáo khai quật, nhiều hiện vật quý giá, đẹp đẽ, độc được phát hiện nhiều nhất và chủ yếu được đáo và tinh tế đã được thu lượm. Những hiện xây bằng gạch hoặc bằng gạch đá hỗn hợp. vật này có số lượng tới hàng nghìn chiếc với Trong đó, khu vực Óc Eo vẫn là nơi tập trung nhiều kiểu loại kích thước, chất liệu khác nhau. nhiều kiến trúc nhất, quy mô nhất chứng tỏ Có những hiện vật lớn như pho tượng thần nó giữ vị trí trung tâm quan trọng ở đồng bằng Vishnu (cao tới 3,3 mét), thờ trong chùa Linh Nam Bộ. Sơn (núi Ba Thê), pho tượng “Đức Bà” thờ tại Có thể nói, văn hóa Óc Eo thời đó có vai trò miếu Bà Chúa Xứ ở núi Sam. Lại có những hiện quan trọng trong lịch sử. Nó hàm chứa trong vật nhỏ bé được chế tạo với trình độ kỹ thuật mình những sáng tạo diệu kỳ của những lớp rất cao như nhẫn, bông tai, bùa đeo, con dấu, người đã khuất. Nó hội tụ mọi giá trị lớn về đồng tiền bằng vàng, đồng, thiếc. Có những khoa học kỹ thuật, văn hóa – xã hội của người hạt đá quý, mã não, thủy tinh, lưu ly nhiều màu An Giang thuở trước nói riêng và người dân ở sắc. Ngoài ra, còn có nhiều vật dụng, dụng cụ vùng đồng bằng sông Cửu Long nói chung.
- BẢO TỒN DI SẢN VĂN HÓA 2. Những hạn chế, bất cập trong công tác 3. Một số kiến nghị nhằm bảo tồn và phát bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa Óc Eo huy giá trị di sản văn hóa Óc Eo Hiện nay, hiện trường các khu di tích trong Trước hết, để đảm bảo tính hiệu quả trong quần thể văn hóa Óc Eo đã có nhiều biến đổi do công tác bảo tồn, Nhà nước cần thực hiện ngay tác động của thiên nhiên và đặc biệt là của con một chương trình với mục tiêu và tiến độ cụ người. Trong đó, các “gò nổi” và “đống đá” bị tổn thể cho việc tôn tạo có trọng điểm và phát huy hại nhiều và đã lộ ra nhiều vết tích văn hóa. Có có hiệu quả giá trị di sản văn hóa Óc Eo nhằm những gò hầu như đã bị mất hết dấu vết như gò phục vụ đời sống văn hóa của người dân trong Cây Dúi, gò Tre, gò Điển Điển; có gò đã mất phần vùng. Đây là chương trình có nội dung thật đa nửa hoặc chỉ còn phần dưới chân như gò Cây dạng và nhiều yêu cầu khác nhau nên đòi hỏi Trôm (bị đào lấy đi một nửa phần phía Bắc, làm sự tham gia của nhiều nhà khoa học và các nhà lộ ra kiến trúc gạch rộng lớn và đã bị khai quật). nghiên cứu ở nhiều ngành thuộc khoa học xã hội, văn hóa và nghệ thuật. Do đó, để thu hút Gò Lớn trong hệ thống gò của Giồng Cát hầu sự tham gia của các nhà khoa học vào việc bảo như đã bị bóc mất phần trên; tường gạch của tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa Óc Eo, các kiến trúc hầu như không còn; nay chỉ thấy Chính phủ cần tăng cường đầu tư nguồn vốn những phiến đá của chân bệ thờ và những khối và nguồn nhân lực bảo tồn cho địa phương. đá hoa cương nằm la liệt, vốn là vật liệu của Công tác bảo quản, tu bổ và phục hồi di tích móng kiến trúc nói trên. Gò Mồ Côi cũng bị đào là một hoạt động mang tính đặc thù nên Nhà phá làm lộ ra nhiều tường gạch xây thành từng nước cần có chính sách riêng biệt. ô chữ nhật. Các gò lớn khác và nhiều gò nhỏ Thứ hai, Ban Quản lý di tích văn hóa Óc Eo cũng đều có hiện tượng đào tìm vàng, tạo thành nhanh chóng lập kế hoạch điều tra, kiểm kê những hố nhỏ hoặc bị sạt lở, bị san lấp trồng toàn bộ khu di tích; bên cạnh đó, cần tổ chức cây, làm lộ ra những tường gạch (gò Cây Thị, gò nghiên cứu môi trường sinh thái, sự biến đổi Kamnap), những đá hoa cương, gạch vỡ, cát của khí hậu, lịch con nước sông Hậu để có kế trắng (gò Ông Phi, gò Bà Chruôn, gò ông Môn ) hoạch lâu dài tránh cho các di tích khỏi bị ngập (6, tr.21). Từ đó đến nay, không có một cuộc nước; đồng thời, thực hiện tốt công tác tuyên điền dã nào được tiến hành tại đây. Di tích tiếp truyền cho người dân ở trong và quanh khu di tục bị hủy hoại bởi những người đào tìm vàng. tích về tầm vóc, giá trị lịch sử - văn hóa của di Một thực trạng khác là khá nhiều di tích có tích Óc Eo, hướng dẫn họ sử dụng đất đai một nguy cơ bị phá hủy hoàn toàn, việc nghiên cách hợp lý trong xây dựng các công trình và cứu tổng hợp, đi vào chiều sâu của nền văn trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, tiến tới hóa cổ này còn quá ít. Trong khi đó, giới khoa xóa bỏ mọi hành vi xâm phạm di tích. học trong và ngoài nước đang mong đón nhận Thứ ba, Ban Quản lý di tích văn hóa Óc Eo những phát hiện mới tại các di tích. Công việc cần làm tốt công tác giữ gìn và bảo quản hiện dò tìm và khai quật di sản văn hóa Óc Eo hiện vật. Chúng ta biết rằng, việc tiếp nhận các hiện nay được tiến hành một cách chậm chạp so với vật là quan trọng, nhưng việc tạo điều kiện bảo tốc độ phát triển của quá trình đô thị hóa. Điều đảm cho các hiện vật được tồn tại lâu dài còn đáng nói là, trên thực tế ai cũng có thể dễ dàng quan trọng hơn. Do đó, tại nhà trưng bày phải hình dung được rằng, chỉ vài chục năm nữa có kho bảo quản đủ tiêu chuẩn để tập trung thôi, phần lớn các di chỉ về nền văn hóa quan được tất cả các hiện vật văn hóa Óc Eo mà trọng độc đáo này sẽ phải vĩnh viễn nằm yên trước đây còn để rải rác ở các nơi trong khu di trong lòng đất, nơi mà đô thị và các khu công tích. Mặt khác, để đảm bảo sự an toàn cho các nghiệp mới sẽ mọc lên. Viễn cảnh ấy nhất định hiện vật có giá trị kinh tế cao như các hiện vật sẽ xảy ra, chừng đó, mọi quyết định khai quật bằng kim loại quý và đá quý, nên đưa chúng để biết thêm về nền văn hóa cổ hẳn sẽ không vào bảo quản trong tủ bảo hiểm. Những hiện còn là chuyện đơn giản. vật đưa ra trưng bày cũng phải được đặt trong tủ kính có khóa chắc chắn. Những hiện vật
- BẢO TỒN DI SẢN VĂN HÓA bị hư hỏng nhẹ phải kịp thời tu sửa Riêng Như vậy, những kết quả nghiên cứu về nền đối với những hiện vật có nguy cơ bị hủy hoại văn hóa Óc Eo đã giúp chúng ta hiểu biết sâu như tượng gỗ, cột gỗ, Ban Quản lý nên mời các hơn về lịch sử, văn hóa dân tộc. Có thể nói, việc chuyên gia về kỹ thuật bảo quản đến gia cố khám phá các di tích, di vật của nền văn hóa nhằm tăng tuổi thọ cho chúng. Óc Eo được xem là một trong những thành tựu Thứ tư, Ban Quản lý di tích văn hóa Óc Eo cần lớn nhất của khảo cổ học Việt Nam trong hơn 70 năm qua. Tuy còn nhiều vấn đề cần tiếp tục tăng cường công tác bảo vệ các di tích, nhất là nghiên cứu và thảo luận, nhưng với những gì các di tích tiêu biểu của nền văn hóa; cùng với khoa học đưa lại, chúng ta có thể khẳng định việc bảo vệ là áp dụng các biện pháp kỹ thuật rằng: thời cổ đại, sau các nền văn hóa tiền sử, để tạo nên những địa điểm bảo tàng lộ thiên văn hóa Óc Eo là một trong những trung tâm phục vụ khách tham quan, du lịch. Khi sắp xếp văn hóa tiêu biểu nhất của đất nước. các hiện vật trong nhà trưng bày, Ban Quản lý Tuy nhiên, trong thời kỳ hiện nay, các khu di cần xây dựng mô hình toàn bộ khu di tích để tích văn hóa Óc Eo đang đứng trước nguy cơ bị giới thiệu cho khách tham quan trước khi đưa xâm hại, thậm chí mai một. Việc bảo tồn các khu họ đến thực địa. Để thực hiện tốt nhiệm vụ bảo di tích đã trở nên cấp bách, đòi hỏi các cấp lãnh tồn, tỉnh An Giang cần tổ chức đào tạo, cung đạo từ trung ương đến địa phương, đặc biệt là cấp cho Ban Quản lý những cán bộ chuyên ngành văn hóa và các cơ quan hữu trách một sự trách có trình độ chuyên môn sâu để họ vừa quan tâm sâu sắc. sưu tầm, nghiên cứu, vừa giới thiệu, hướng dẫn P.N.H cho khách tham quan, đồng thời, cũng để họ (Nghiêncứuviên,HọcviệnChínhtrịkhuvựcIV) làm tốt công tác tuyên truyền cho mỗi người dân địa phương hiểu được giá trị di sản văn hóa Tài liệu tham khảo Óc Eo, qua đó nâng cao được sự kiểm soát việc 1. Nhiều tác giả (1984), Văn hóa Óc Eo và các bảo tồn di sản này bằng dư luận. văn hóa cổ ở đồng bằng sông Cửu Long, Long Thứ năm, Ban Quản lý di tích văn hóa Óc Eo Xuyên. cần thực hiện việc biên tập, giới thiệu những 2. Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam (2008), Văn dạng ấn phẩm khác nhau về các phát hiện, hóa Óc Eo và vương quốc Phù Nam, Nxb. Thế giới, các kết quả nghiên cứu cho người dân trong Hà Nội. và ngoài nước; từng bước thực hiện việc trưng 3. Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam (2014), Lược bày dưới dạng chuyên đề các di tích, di vật sử vùng đất Nam Bộ Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc của nền văn hóa này để tiến tới xây dựng nội gia, Hà Nội. dung chính thức cho nhà trưng bày. Để phát 4. Nguyễn Hữu Hiệp (2011), Tìm hiểu một số huy hơn nữa vai trò của mình trong công tác địa danh cổ ở An Giang qua truyền thuyết, Nxb. bảo tồn di tích, Ban Quản lý nên tăng cường Lao động, Hà Nội. học hỏi kinh nghiệm của các địa phương khác 5. Nguyễn Văn Chuẩn, Trịnh Tất Đạt (2010), Từ trong công tác bảo tồn, lưu giữ hiện vật, để từ điển bách khoa đất nước con người Việt Nam, Nxb. đó tìm ra giải pháp bảo tồn hiệu quả nhất cho Từ điển bách khoa, Hà Nội. khu di tích của mình; đặc biệt, cần sớm phối 6. Lê Xuân Diệm, Đào Linh Côn, Võ Sĩ Khải hợp với các cơ quan chức năng, lập hồ sơ trình (1995), Văn hóa Óc Eo những khám phá mới, Nxb. Thủ tướng Chính phủ để đề nghị UNESCO Khoa học xã hội, Hà Nội. công nhận di tích văn hóa Óc Eo là di sản văn 7. L. Malleret (1963), L’archéologie du delta du hóa thế giới. Mékong, Tome 3, Paris. Thứ sáu, Ủy ban Nhân dân các tỉnh có chung di tích lịch sử văn hóa Óc Eo cần có kế Ngày nhận bài: 30 - 11 - 2016 hoạch phối hợp nhằm tiến tới xây dựng một Ngày phản biện, đánh giá: 4 - 3 - 2017 quy hoạch chung bảo vệ di tích. Ngày chấp nhận đăng: 25 - 3 - 2017
- BẢO TỒN DI SẢN VĂN HÓA