Cầu cổ Việt Nam nhìn từ góc độ văn hóa

pdf 11 trang Hùng Dũng 05/01/2024 180
Bạn đang xem tài liệu "Cầu cổ Việt Nam nhìn từ góc độ văn hóa", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfcau_co_viet_nam_nhin_tu_goc_do_van_hoa.pdf

Nội dung text: Cầu cổ Việt Nam nhìn từ góc độ văn hóa

  1. 74 Tạp chí KhoaNghiên học - Tr cứườu ngtrao Đạ đổi hi ọ●c Research-ExchangeMở Hà Nội 66 (4/2020) of opinion 74-84 CẦU CỔ VIỆT NAM NHÌN TỪ GÓC ĐỘ VĂN HÓA VIETNAM ANCIENT BRIDGE IN CULTURAL PERSPECTIVE Bùi Văn Long* Ngày tòa soạn nhận được bài báo: 4/10/2019 Ngày nhận kết quả phản biện đánh giá: 6/04/2020 Ngày bài báo được duyệt đăng: 29/04/2020 Tóm tắt: Trong đời sống của các cộng đồng dân tộc Việt Nam, dường như, ở hầu khắp mọi miền, mọi vùng của đất nước, sự hiện diện của các nhịp cầu, cây cầu được coi như những sự hiện diện tất yếu, đảm nhiệm các chức năng đời thường, giúp con người đi lại, nối kết về không gian và thời gian, phục vụ nhu cầu sinh kế, sinh hoạt thường ngày, tùy theo địa hình mỗi làng quê cư trú khác nhau. Những nhịp cầu, cây cầu đó còn luôn gắn liền với đời sống tinh thần, với môi trường sinh hoạt văn hóa của một cộng đồng cư dân nhất định, nhiều khi lại trở thành biểu tượng văn hóa cho dấu ấn một làng quê, bên cạnh những “cây đa, bến nước, sân đình”, và cũng nhiều khi, hiện hữu trên mỗi thân cầu còn là những dấu ấn/dấu tích lịch sử - văn hóa, mang đặc trưng văn hóa, thẩm mỹ - nghệ thuật, giá trị về tín ngưỡng tôn giáo của từng vùng miền. Cần đặt vấn đề xây dựng chính sách về môi trường như thế nào để ứng xử với các giá trị văn hóa của nghệ thuật cẫu cổ, đảm bảo sự phù hợp giữa việc bảo vệ giá trị di sản với nhu cầu quản lý môi trường sinh thái với môi trường nhân văn trong điều kiện phát triển xã hội đương đại? Từ khóa: giá trị văn hóa, Cầu cổ Abstract: It seems that in the life of the Vietnamese ethnic community, in almost every region and every part of the country, the presence of bridges is indispensable, taking care of functions of daily life, for traveling, connecting space and time, serving the needs of livelihoods and daily activities, depending on the terrain of each place. Those bridges are always associated with the spiritual life, the cultural living environment of a certain community of residents, sometimes they are cultural symbol for the imprint of a village. In addition to the “banyan trees, water wharves, communal yards”. Moreover, each bridge is also the historical / cultural imprints, characterized by culture, aesthetics - art, values of religious beliefs of each region. It is necessary to raise the issue of how to formulate environmental policies to deal with the cultural values of ancient art, ensuring the compatibility between the protection of heritage values and the need to manage the ecological environment and the human environment in the context of contemporary social development? Keywords: Cultural, Viet Nam ancient bridge. * Trường Đại học Mở Hà Nội
  2. Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 75 1. Đặt vấn đề về văn hóa, thẩm mỹ - nghệ thuật, giá trị Trên hành trình của đời người, trong về tín ngưỡng tôn giáo, góp phần bảo tồn mỗi chúng ta, chắc hẳn với trải nghiệm cho hệ thống di sản văn hóa vật thể và phi của mình, bước chân đã từng vượt qua vật thể ở không ít làng quê. Chính vì thế hàng trăm ngàn cây cầu, từ cầu tre, cầu gỗ mà hình ảnh những cây cầu nối liền đôi đến cầu đá, cầu gạch, cầu ximang; từ chiếc bờ đã trở thành một biểu tượng đi sâu vào cầu vượt qua con suối, dòng sông đến tiềm thức của mỗi con người, nó không những nhịp cầu bắc qua ao hồ, và những chỉ là phương tiện đi lại không thể thiếu địa hình vốn bị chia cắt, ở hầu khắp các trong đời sống sinh hoạt mà nó còn có mặt làng quê.Trong số hàng trăm ngàn những trong đời sống văn hóa tinh thần của người nhịp cầu, cây cầu đã và đang hiện diện đó, dân Việt, góp phần làm tăng thêm nét đẹp đa phần thường chỉ là những phương tiện hài hòa, nên thơ trữ tình cho những không được người dân làm ra để đáp ứng nhu gian cảnh quan và giữ cho tự nhiên vận cầu đi lại, phục vụ sinh kế và giao lưu văn hành đảm bảo cho việc lưu thông những hóa xã hội, ứng xử với những điều kiện dòng chảy cho những con sông con suối địa hình, sinh thái nhất định. Nhưng cũng do vậy cần nhìn cầu cổ Việt Nam từ giác có những nhịp cầu, cây cầu được sáng tạo độ văn hóa để thấy giá trị nhân sinh và ra ở những vùng quê nào đó, lại xuất phát nhân văn cùng mỹ thuật và giá trị của cầu từ những lý do/nguyên nhân lịch sử - văn trong việc bảo vệ môi trường sinh thái. hóa, không ít trường hợp lại nảy sinh từ Những năm gần đây, do nhu cầu thực những điều huyền bí, linh thiêng, mang hiện các chuyến điền dã phục vụ nhiệm vụ dấu ấn đặc biệt, trở thành nơi ký thác tâm chuyên môn, tại một số làng quê thuộc địa tư, nỗi niềm, nơi đọng lại những quan bàn các tỉnh miền Bắc, Trung, Nam, chúng niệm về cái hay, cái đẹp cùng lòng tự hào tôi đã nhận thấy và tự so sánh để quan của người dân, dần dần hình thành nên chiêm hệ thống không nhiều những chiếc những biểu tượng văn hóa độc đáo, được cầu ngói, cầu đá, cầu gạch đã và đang hiện người dân coi như di sản văn hóa chung hữu ở một số làng quê, phần lớn có tuổi “bất khả xâm phạm” của quê hương mình. đời hàng trăm năm, mang những dáng vẻ Và cũng từ hàng trăm ngàn cây cầu, nhịp nghệ thuật và liên quan trong nó những cầu đó trên mọi miền đất nước, không ít hàm lượng văn hóa độc đáo, cần được cây cầu đã bị mất đi do biến đổi của môi quan tâm, tìm hiểu, nghiên cứu. Xét ở góc trường sinh thái, hoặc do vật liệu cấu độ nghiên cứu phân loại, bài viết Cây cầu thành không còn phù hợp trong điều kiện trong văn hóa Việt cổ đã chia các cầu được phát triển kinh tế xã hội những chục năm dựng (một cách bền vững) ở nước ta thành gần đây. Nhưng, hiện hữu trong số đó, vẫn 2 loại: Cầu đá lộ thiên và cầu gỗ “thượng còn những hệ thống cầu có tuổi thọ hàng gia, hạ kiều/trì”. Công trình đề cập tới cầu trăm năm, ẩn chứa trong nó ngoài chức đá Giang Xá (Hoài Đức, Hà Nội), cầu đá năng nối kết không gian địa lý - địa hình đền Lũng Khê (Thuận Thành, Bắc Ninh), phục vụ nhu cầu dân sinh với giá trị thực cầu đá ở sân bảo tàng tỉnh Nam Định, cầu dụng giúp cho người, vật và các phương Nôm (Văn Lâm, Hưng Yên). Cầu thượng tiện qua lại, còn là hàng loạt những giá trị gia hạ kiều hoặc thượng gia hạ trì đề cập
  3. 76 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion tới cầu ngói Thanh Toàn (Hương Thủy, bến nước, sân đình”, và cũng nhiều khi, Thừa Thiên - Huế), cầu Phú Khê và cầu hiện hữu trên mỗi thân cầu còn là những Phạm Lâm (Hải Dương), cầu Nhật Tiên và dấu ấn/dấu tích lịch sử - văn hóa, mang Nguyệt Tiên (Quốc Oai, Hà Nội), cầu Lai đặc trưng văn hóa của từng vùng miền - Viễn (Hội An, Quảng Nam) cầu ngói Phát làng quê, trở thành những di sản văn hóa Diệm (Kim Sơn, Ninh Bình) và cầu ngói vật thể đầy tự hào của người dân. Mỗi Chợ Lương [3]. Trên các cây cầu đã dựng, cây cầu dù ít hay nhiều đều liên quan bên cạnh các cây cầu thông thường phục đến đời người bởi cây cầu, trước hết, là vụ nhu cầu đi lại thuận tiện của người dân, không gian quê hương, đất nước, là cảnh còn xuất hiện những cây cầu kiêm thêm chức năng thờ cúng tâm linh và các chức vật quen thuộc nơi làng xã, thôn xóm. năng khác như giải trí, là công trình văn Không gian này đã tác động trực tiếp đến hóa tiêu biểu của vùng đất. Trên địa bàn con người, được con người phản ánh vào các tỉnh nơi những cây cầu cổ án ngữ, hiện trong đời sống của mình thông qua nhiều đã và đang còn những cây cầu ngói và cầu phương diện sinh hoạt tinh thần như thần đá nổi tiếng, được cộng đồng sở tại cũng thoại, truyền thuyết, ca dao - dân ca, tục như người dân quanh vùng ngợi ca và trở ngữ, câu đố, lễ hội, trò chơi v.v. Như thành niềm tự hào, biểu tượng của vùng vậy, từ đó cũng có thể nhận thấy rằng, đất quê hương. hệ thống các giá trị văn hóa - nghệ thuật Nhận diện một cách tổng quan, mặc gắn với từng cây cầu cổ vốn có tuổi đời dù chỉ còn hiện hữu số lượng cây cầu hàng trăm năm trên đây vẫn còn những ngói, cầu đá cổ hữu hạn đó, nhưng khả dĩ khoảng trống chưa được quan tâm nghiên vẫn đủ trữ lượng để có thể tiếp cận bước cứu, giới thiệu giá trị văn hóa và sáng tạo đầu những cảm nhận của cộng đồng sở của các nghệ nhân dân gian trên chặng tại về các giá trị di sản văn hóa nghệ thuật đường lịch sử liên quan trực tiếp hoặc kiến trúc và điêu khắc của hệ thống cầu gián tiếp đến “số phận” của mỗi cây cầu cổ Việt Nam đã trở thành một bộ phận độc đáo này để bảo tồn các giá trị văn hóa không thể thiếu trong đời sống văn hóa nghệ thuật riêng của những cây cầu cổ đương đại, trong đó nghệ thuật kiến trúc trong thế tương quan với việc xây dựng độc đáo, điêu khắc mộc mạc đậm chất văn chính sách đảm bảo các tiêu chí xây dựng hóa dân gian (một trong những thành tựu đồng bộ môi trường văn hoá, gắn với hệ nổi bật của nghệ thuật tạo hình thế kỷ XVI giá trị, đời sống văn hoá, hệ thống thiết - XVIII) vẫn còn nguyên giá trị về văn chế văn hoá, cảnh quan văn hoá gắn với hóa nghệ thuật và được bảo tồn đến ngày việc nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt nay. Những nhịp cầu, cây cầu đó còn luôn động của các thiết chế văn hoá ở nước ta gắn liền với đời sống tinh thần, tâm linh trong hiện tại và lâu dài. Sau đây xin giới và môi trường sinh hoạt văn hóa của một thiệu nét đặc sắc của một số cây cầu cổ cộng đồng cư dân nhất định, nhiều khi lại trong đời sống văn hóa tâm linh và bản trở thành biểu tượng văn hóa cho dấu ấn sắc vùng miền còn được bảo tồn cho đến một làng quê, bên cạnh những “cây đa, ngày nay.
  4. Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 77 2. Nội dung Chó trên hai đầu cầu. Cây cầu bắc qua với 2.1. Chùa Cầu các con vật bên trên, coi như thanh kiếm cắm xuống huyệt lưng, sẽ “yểm” con thuỷ Hội An (Quảng Nam) từ lâu đã quái, làm nó không cựa quậy, vùng vẫy, được nhiều người trong nước và thế giới quẫy đuôi khi nước lớn, mong trừ tai họa. biết đến như biểu tượng của người dân phố cổ. Ở đây đây còn là địa chỉ tâm linh Trong khi đó, tục thờ chó, khỉ của cư của người dân với những câu chuyện kỳ dân Việt cũng đã tồn tại từ lâu đời và được bí về những bức tượng “Thần Hầu” và thể hiện dưới hai dạng thức. Một số chôn “Linh Cẩu” canh 2 bên cầu còn để bảo hộ tượng chó đá trước cổng nhà như một linh dân làng, trấn yếm thiên tai Điểm nhấn vật hay để canh cổng với ý nghĩ như vị của Chùa Cầu dễ thấy, phía Tây cầu đặt thần bảo hộ trừ tà ma, cầu phúc, thường 2 tượng khỉ đá, một đực 1 cái trên bệ thờ gọi là “Linh Cẩu”. Cũng có khi, “Linh quay mặt vào nhau; phía đông đặt 2 tượng Cẩu” được đặt trên những bệ thờ để thờ chó đá, cũng là cặp “thanh mai trúc mã”. phụng như con Kỳ lân. Riêng trong những Hình dáng các con vật đều cao to giống chùa chiền vẫn thường thấy con khỉ được thật, ngồi canh gác theo tư thế nhổm lên, chưng tụng. Người dân gọi tôn nghiêm sẵn sàng bảo vệ sự an lành của người dân bằng cái tên “Thần Hầu”. Con vật này phố Hội. Cạnh tượng, có những câu đối nhằm trấn giữ xứ đất chống lại những điều bằng chữ Hán, dịch nghĩa đều nói về hai xấu xâm hại. Từ đó suy ra, “Linh Cẩu” và con linh vật được cho là đang “trấn yểm” con “Thần Hầu” được lập miếu thờ “có hai đầu Chùa Cầu. đôi có cặp” tại Chùa Cầu với ý niệm, cầu mọi điều trong cuộc sống sẽ suôn sẻ, may Lý giải về tượng thờ chó và khỉ tại mắn. Đặc biệt, chất liệu tạc nên những bức Chùa Cầu, một số bô lão ở Hội An cho tượng này được làm bằng gỗ thay vì bằng rằng, việc cân xứng 2 bên đầu cầu hai con đá, rồi mạ màu cho giống tượng chó đá, linh vật trên, ngụ ý nói về thời gian xây khỉ đá. Điều kỳ lạ, trải qua 500 năm với sự dựng công trình. Cụ thể, Chùa Cầu được khắc nghiệt của thời tiết, mưa gió, nhưng xây kéo dài 3 năm, bắt đầu động thổ từ năm những tượng gỗ này vẫn trường tồn. Vì Thân (con khỉ) và hoàn thành năm Tuất vậy, về mặt tâm linh, không riêng gì người (con chó). Ngoài ra, việc xây dựng hai bên dân phố cổ mà khách thập phương đều tin đầu cầu những con chó và khỉ được hiểu “Linh Cẩu” và “Thần Hậu” có hồn nên như một cách chỉ phương hướng trên địa rất tôn thờ. Mỗi khi hành hương về Chùa bàn: Thân chỉ hướng “tây nam”; còn Tuất Cầu, nhiều người đến trước mặt hai linh chỉ hướng “tây bắc”. vật này thành tâm cúng vái, cầu bình an Tuy nhiên, theo ông Phùng, đa phần cho gia đình. Vào những ngày rằm, mùng vẫn thuận theo nghĩa tâm linh. Hai linh một, có người còn sắp mâm lễ vật, hoa vật “độc tôn” này chỉ ở phố cổ Hội An và quả, hương đèn dâng lên hai ngài “Linh được thờ theo tín ngưỡng vật tổ của người Cẩu” và “Thần Hầu”. Riêng về những linh Nhật. Các tài liệu ghi chép lại đều có ý, nghiệm trong “trấn yểm” của tượng “Thần vì muốn khống chế con Cù hay Mamazu Hầu” còn thể hiện qua nhiều lời đồn thổi lúc đó, người Nhật thờ Thần Khỉ và Thần đang lưu truyền dân gian cho đến tận hôm
  5. 78 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion nay. Giai thoại kể, có thời gian bức tượng Hương Trà, Phú Vang và Quảng Điền xưa gỗ Huyền Thiên đại đế thờ ở chùa và một kia thấy người dân qua lại hai bên kênh tượng khỉ bằng đá trên cầu bị mất. Vì thế, ngoài đồng vất vả nắng nóng quá, đã cho thời gian này, Chùa Cầu và cả Hội An liên xây dựng cây cầu có mái che để người tiếp bị “thủy quái” nhấn chìm trong những dân qua cầu có chỗ nghỉ chân. Điều kỳ trận lũ lịch sử.[2] diệu là trải qua hơn 200 năm, cây cầu này hiện nay vẫn thực hiện công dụng là cầu 2.2. Cầu ngói Thanh Toàn giao thông và là chỗ nghỉ chân cho những Tại Thừa Thiên Huế suốt 245 năm người qua cầu. Chính công dụng đặc biệt tồn tại đến nay vẫn bền bỉ các công dụng của cây cầu đã làm cho công trình gần gũi đó, đồng thời, trở thành di tích cổ tạo nên với đời sống, không phải là một mẫu vật môi trường du lịch phong phú, đa dạng. trưng bày, sống mãi với thời gian và có Không chỉ là một kiến trúc cổ độc đáo, cây khả năng tạo ra xung quanh nó một môi cầu còn là nhân chứng lịch sử. Chính vua trường đời sống phong phú đa dạng. Cây Khải Định đã hạ lệnh cho người dân lập cầu hứng gió hè và che gió đông, là nơi bàn thờ bà Trần Thị Đạo ngay trên gian hẹn hò của biết bao thế hệ người làng, chính của cầu. Bên cạnh đó là các chỗ chứng kiến nhiều cuộc đổi dời nơi thôn dã ngồi hóng mát, nghỉ chân. Các bộ phận mà vẫn trơ gan với thời gian. Ngày nay, của cầu đều bằng gỗ tròn và vuông, không dân làng vẫn tổ chức ngày hội gắn với chạm khắc, giản dị như nguyên bản là cây ngày giỗ của bà Trần Thị Đạo. cầu công dụng giao thông. Trước đây, các 2.3. Cầu Nhật Tiên và Nguyệt Tiên nghệ nhân chạm khắc tứ linh ở bộ mái cây cầu long lân quy phụng và giao long Nằm trong Di tích Chùa Thầy tại trên mái cầu. Sau này, hình rồng chầu mặt Quốc Oai Hà Nội. Hai cầu có kết cấu kiến trúc giống nhau kiểu “Thượng gia nguyệt được thay thế chứng tỏ có vai trò hạ kiều”. Người đầu tiên tạo nên kiến trúc sắc lệnh của các vua triều Nguyễn. Vậy này là Trạng nguyên Phùng Khắc Khoan. nên lịch sử của cây cầu cũng không nằm Theo sách Sơn Tây chí, Trạng Bùng đã ngoài ý nghĩa đó. Sử sách ghi lại, các vị làm cầu ở hai bên Chùa Cả trong hệ thống tộc trưởng khai canh từ thế kỷ XVI đã lập di tích Sài Sơn. Cầu có 5 gian, thân cong ra làng Thanh Thủy Chánh và Thanh Thủy vành lược, dưới mái cầu là 3 vòm cuốn Thượng tách ra từ một làng rất đông dân xây gạch để dòng nước chảy qua. Cho là làng Thủy Thanh (nay thuộc xã Thủy đến nay, hai cây cầu này vẫn cùng nhà Thanh). Cái tên làng đã nói lên cảnh đẹp thủy đình tạo nên cảnh đẹp ở Sài Sơn. trong xanh của làng quê có con sông chảy Móng cầu theo lời kể lại trước đây được qua ghi dấu cuộc khai canh lập nghiệp, xây bằng đá ong, một thứ nguyên liệu sẵn công sức của người dân tạo nên cánh đồng có ở địa phương và các vùng lân cận, có lớn và hệ thống thủy lợi nội đồng phục vụ ba vòm cuốn. Sàn cầu được lát bằng gạch đời sống con người. Bát Tràng màu đỏ. Chiều cao được tính từ Bà Trần Thị Đạo, người ở xã Thủy bờ nóc xuống đến mặt cầu là 2,5 m, chiều Thanh, cháu 6 đời của một trong 12 vị cao từ bụng thượng lương xuống đến mặt khai canh này, vợ của Tổng đốc 3 huyện cầu là 2,32 m. Cầu hơi vòng cong làm
  6. Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 79 tăng khả năng chịu lực. Nhìn từ xa ta có mỗi nhịp cầu đều có một cặp rồng đá cổ. cảm giác chiếc cầu như hình cong của hai Cầu ngói vốn là dạng kiến trúc phổ biến mi mắt rồng. Vì kèo của cầu Nhật Tiên và của làng xóm sự xuất hiện của nó trong cầu Nguyệt Tiên rất đơn giản. Đó là kiểu Chùa chiền minh chứng cho sự giao thoa vì cầu bốn hàng chéo, khoảng cách giữa giữa văn hóa truyền thống và đạo Phật. hai cột cái là 1,7 m. Khoảng cách giữa Tên của hai cây cầu dựa trên biểu tượng hai cột cái này là chiều rộng của lòng Nhật - Nguyệt (mặt trời, mặt trăng) nó cầu, hai bên được làm nơi ngồi nghỉ cho tượng trưng cho hai mặt Âm - Dương hòa du khách tới vãn cảnh chùa. Khoảng cách hợp tạo nên sự cân bằng cho vạn vật, đất giữa cột cái và cột quân là 0,5 m. Mái cầu trời.Trải qua năm tháng thời gian, Nhật có 5 khoảng hoành nối trên hai đầu đao Tiên Kiều và Nguyệt Tiên Kiều vẫn giữ làm một thanh giằng có chiều dài là 0,9 được nét nguyên sơ, cổ kính rêu phong. m, từ giọt gianh của mái xuống mặt cầu 2.4. Cầu Ngói chùa Lương khoảng 0,9 m. Mái cầu xòe ra hai bên nên Trải qua hơn 400 năm tồn tại và trông từ xa có cảm giác như một cái tháp nhiều lần sửa chữa, trùng tu nhưng cây cầu bút. Với độ cao khiêm tốn lại nằm trong ngói chùa Lương vẫn tồn tại khá nguyên cảnh trí rộng lớn nên người ta có cảm giác vẹn với những đường nét kiến trúc cổ kính cầu như một thứ đồ chơi. Vậy mà khi đi và độc đáo mang nét đặc trưng của thời kì lại qua cầu ta vẫn có cảm giác thoải mái. thế kỉ XVII-XVIII.Ngày nay nhiều công Như vậy, niên đại của Nhật Tiên Kiều trình giao thông mới đã và đang được xây và Nguyệt Tiên Kiều có hai phần. Phần dựng tuy nhiên cầu ngói chùa Lương vẫn mái và khung được sửa chữa vào thời dành đươc rất nhiều tình cảm của người Nguyễn và phần móng cầu có niên đại dân đất Quần Anh.Cầu ngói gắn liền với năm 1602. Theo sử sách ghi lại, hai cầu quà trình khai hoang lấn biển, là minh này sau chuyến đi sứ nhà Minh.Tương chứng cho thời kì phát triển hưng thịnh truyền, Phùng Khắc Khoan đã dùng mà cũng rất đỗi yên bình của vùng đất Hải thuật phong thủy để diễn giải rằng chùa Hậu xưa. Là một công trình kiến trúc dân Thầy được xây trên trán rồng, cầu Nhật gian, cầu vừa là công trình kiến trúc công Tiên và Nguyên Tiên có hình dáng cong cộng nhằm mục đích phục vụ giao thông, cong, chính là cặp mí mắt rồng Khoảng vừa là điểm nhấn tạo quang cảnh cho chùa không mặt nước được ngăn cách với hồ Lương. Cầu được bắc qua sông Giữa, là Long Chiểu bởi hai cây cầu chính là cặp con sông chảy giữa 10 giáp vì thế còn có mắt rồng. Hai cây cầu đều được xây theo tên gọi là Trung Giang. Cầu là trọng điểm kiến trúc cổ Việt Nam: Thượng Gia Hạ giao thông chính nối liền làng xã, là con Kiều (trên nhà, dưới cầu), cầu uốn cong đường dẫn vào chùa Lương, nơi trung tâm như cầu vồng, mỗi cầu gồm 5 gian, dưới văn hóa của đất Quần Anh xưa. Cầu được xây đá cuốn trên dựng bộ khung, nhà gỗ kiến trúc vừa đảm bảo độ bền chắc, vừa lợp ngói mũi hài cổ kính. Hai bên thành đảm bảo yêu cầu kỹ thuật, mỹ thuật. Hệ cầu thông thoáng, có lan can thấp được thống chân cầu được dựng bằng các trụ làm rộng ra để làm nơi nghỉ chân cho đá, nhưng phần mái thì được lợp bằng rơm khách thập phương qua lễ Chùa. Trước rạ, đến những năm Lê Chính Hòa thứ ba
  7. 80 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion và thứ năm (1682, 1684), cầu được trùng cm, chiều rộng của hành lang 60 cm, với tu lớn, các vì kèo thay bằng gỗ lim và lợp sự thiết kế tinh tế của người thợ, hành lang ngói mũi hài, phần trụ đá vẫn giữ nguyên. có độ cao phù hợp để khách bộ hành dừng Nhìn tổng thể cây cầu giống như chân ngồi nghỉ hoặc du khách ngồi chơi một ngôi nhà mái ngói nằm vắt mình qua hóng mát. Phía ngoài của hành lang là hệ sông. Phần trên là một tổ hợp mái ngói với thống các con song giữ chức năng là rào đầy đủ hệ thống các kèo giống như cách chắn nhưng cũng là những điểm nhấn tạo thiết kế của một ngôi nhà truyền thống. vẻ đẹp cho cầu.[6] Người thợ tài hoa xưa đã sáng tạo ra kỹ Mái cầu lợp ngói vảy rồng, có hình thuật nửa lợp, nửa xây làm cho dáng mái dáng cong cong tựa như mình rồng đang rất đẹp và tựa như con rồng đang bay. Với uốn khúc. Toàn bộ cây cầu bên trên có cấu trúc 9 gian được dựng chắc chắn trên mái che kín đáo nhưng bên dưới lại để 18 cột đá vuông nguyên khối. Phía trên nên vừa kín đáo nhưng cũng lại thông cột đá là hệ thống xà ngang, xà dọc bằng thoáng. Tuy các mảng trạm khắc không gỗ lim to chắc để đỡ dầm cầu và nâng sàn nhiều và có phần đơn giản chỉ bằng các cầu. Sàn cầu làm bằng gỗ lim, rộng 2m. hàng soi, đường chỉ ở các vỉ kèo, các Mái cầu lợp ngói vảy rồng, có hình dáng con bẩy, hàng xà ván bưng tạo hình con cong cong tựa như mình rồng đang uốn bướm, đầu con song tạo dáng lá đề. khúc. Toàn bộ cây cầu bên trên có mái che Nhưng cũng thể hiện tài hoa của nghề kín đáo nhưng bên dưới lại để hở nên rất mộc cổ truyền trên đất Quần Anh xưa. thông thoáng. Phần nề cũng khá đặc biệt nhất là phần Phần mộc của cầu tuy chạm khắc cổng ở hai đầu cầu. Cổng được xây dựng không cầu kỳ nhưng thể hiện rất rõ kiến theo lối cửa vòm một lối, hai bên có hai trúc thuần Việt. Đặc biệt là qua sự bố trí hàng cột với đôi câu chữ Hán “Giáp ngạn các hàng chân cột, các kết cấu vì kèo và mã đề nhân thượng hạng. Hoàng Giang cách ghép mộng gỗ Phần nề cũng khá hồng ảnh ngật Đông Tây” tức là trên cầu đặc biệt nhất là phần cổng ở hai đầu cầu. hàng ngày người và xe đi lại, bóng của Cổng được xây dựng theo lối cửa vòm cầu buổi sáng ngả về phía Đông buổi một lối, hai bên có hai hàng cột với đôi chiều ngả về phía Tây. câu chữ Hán: “Giáp ngạn mã đề nhân Phía trên vòm cổng có hình hai con thượng hạng. Hoàng Giang hồng ảnh ngật nghê nâng một bức cuốn thư lớn trông vừa Đông Tây”, tức là trên cầu hàng ngày uy nghiêm, vừa quen thuộc. Với chiều dài người và xe đi lại, bóng của cầu buổi sáng của mái gần 14m, rộng 4,5m, để lợp được ngả về phía Đông buổi chiều ngả về phía hoàn chỉnh mái cầu Ngói sao cho đảm bảo Tây. Trên vòm cổng có hình hai con nghê yêu cầu kĩ thuật, không bị dột, không bị xô nâng một bức cuốn thư lớn trông vừa uy ngói, không để chỗ quá dày, chỗ lại như nghiêm, vừa thân thuộc. trải ngôi, ở một cặp mái vừa có độ dốc lớn Hai bên lòng cầu là hai dãy hành tới 150 thật là một kỹ thuật khó mà bàn tay lang cũng chạy song song uốn cong như khéo léo của người thợ xưa đã thực hiện lòng cầu, hành lang cao hơn lòng cầu 42 thành công.
  8. Nghiên cứu trao đổi ● Research-ExchangeTạp chí Khoa học of- Tr opinionường Đại học Mở Hà Nội 65 (3/2020) 58-6481 Cổng cầu được xây bằng gạch trát danh vùng đất này trên bản đồ Việt Nam. vữa, cửa của cổng cầu có kích thước chiều Trong thời gian lấn biển mở rộng diện tích rộng đúng bằng sàn lòng cầu (220cm), đất nơi đây, cùng với việc lấn đất bãi bồi chiều cao cửa cổng được cuốn vòng cung ven biển mở làng. Sông Ân chảy qua thị tạo sự mềm mại, tính từ điểm cao nhất trấn Phát Diệm là một công trình thủy lợi xuống mặt sàn cầu là 290 cm. Cổng cầu được ông cho xây dựng trong nhiều năm, được thiết kế 4 cột trụ vê tròn, tương ứng lấy nước ngọt từ đầu nguồn về đây rửa với hàng cột ở mỗi vì. Các cột trụ này mặn để người dân sản xuất được thuận lợi. được trang trí gờ chỉ, chân thắt cổ bồng Khi có con sông này, việc đi lại của người công phu, đặc biệt đều có câu đối nhấn dân hướng về phía biển mở rộng diện tích vào cột, nội dung ca ngợi công trình độc đất gặp nhiều khó khăn, Nguyễn Công đáo, được xây dựng trên quê hương Quần Trứ đã cho xây dựng một cây cầu nối đôi Anh xưa.Bên trên cửa cuốn và hàng trụ, là bờ sông Ân. Ban đầu cầu được xây dựng hình tượng cuốn thư. Cuốn thư được đắp bằng thân những cây gỗ to, những tấm gỗ nhẵn và tạo dáng khá đẹp, trong lòng cuốn lớn, cầu rộng để cho người dân đi lại được thư đề 4 chữ: Quần Phương xã kiều. Hai thuận tiện. Do thời gian bị hư hại, đến năm bên của cuốn thư là hình tượng hai con 1902 cây cầu này được thay thế bằng một nghê được đắp bằng vôi vữa, bột giấy, hai cây cầu ngói. Cây cầu ngói có kiến trúc cổ chân sau đạp lên quả cầu hai chân trước xưa được làm hoàn toàn bằng gỗ, bên trên bám chặt vào cuốn thư vừa đảm bảo kết lợp ngói cấu cho cuốn thư, vừa như nâng cuốn thư Trải qua hơn 100 năm, Cầu ngói lên để tôn vinh. Đỉnh cuốn thư cũng là Phát Diệm ngày nay vẫn còn giữ được đỉnh cầu, là con kìm bờ nóc, để giữ mái nguyên dáng vẻ cong cầu vồng, bên trên ngói, người thợ đã khéo léo trang trí thành lợp ngói. Cầu ngói gồm 3 nhịp, mỗi nhịp hình tượng đầu rồng với cái đại bờ nóc có 4 gian, với tổng chiều dài 36 m, chiều uốn lượn như tượng trưng cho thân rồng rộng 3 m. Hai bên thân cầu có hai dãy lan mềm mại.[6] can và cột đều bằng gỗ lim chắc chắn, hai Cầu Ngói, nằm trên trục đường liên bên đầu cầu có bậc tam cấp nối xuống xã, là cây cầu nối vào di tích chùa Lương. đường và bước xuống sông. Không chỉ Cùng với quần thể 9 chiếc cầu đá của các có chức năng giao thông qua lại mà còn ngõ xóm trong xã Hải Anh, cầu Ngói chùa như một mái đình làng cổ kính, điểm hẹn Lương đã góp phần tạo nên một tuyến cầu văn hóa thân thuộc, nơi giao lưu hẹn hò có giá trị nghệ thuật kiến trúc độc đáo ít của thanh niên nam nữ, là niềm tự hào của thấy ở làng quê Việt Nam còn tồn tại đến người dân nơi đây với du khách mỗi khi ngày nay. đến tham quan.[7] 2.5. Cầu ngói Phát Diệm 2.6. Cầu Nôm Huyện Kim Sơn xưa kia vùng đất Không chỉ mang giá trị lịch sử, văn sình lầy ven biển, ông Nguyễn Công Trứ hóa, kiến trúc độc đáo, chiếc cầu đá cổ hơn (1778 - 1858) là người đã có công lớn 200 năm tuổi của làng Nôm, xã Đại Đồng, trong việc khai hoang, mở rộng và ghi huyện Văn Lâm, được các nhà nghiên cứu
  9. 82 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion di sản đánh giá là một công trình độc đáo Nôm, sau cầu được xây dựng lại bằng đá. còn nguyên vẹn chưa từng thấy ở bất cứ Trước đây còn có một cây gạo cổ to đẹp ở làng cổ nào của Đồng bằng sông Hồng. đầu cầu phía bên chùa Nôm, nhưng nay bị Ai về cầu đá làng Nôm cụt ngọn vì gió bão, dù dân làng đã cố cứu nhưng cây chẳng còn nguyên vẹn Mà xem phong cảnh nước non hữu tình Hơn hai thế kỷ đã qua, trải bao vật Cầu Nôm là điểm nhấn độc đáo đổi sao dời, cây cầu vẫn vững chãi nối mang lại sức hút đặc biệt cho không gian nhịp giao thương cho làng nghề đồng nát văn hóa thuần Việt của làng. Cầu được làm vang tiếng một thời và chứng kiến bao đổi hoàn toàn bằng đá. Mặt cầu rộng gần 2m, thay của làng quê. Cây cầu đá cổ còn gắn làm bằng đá xanh nguyên khối, gắn khít với câu chuyện về một trong người chiến nhau. Những phiến đá lớn được các nghệ sỹ cách mạng đầu tiên của làng Nôm, liệt nhân dân gian đục đẽo rất công phu. Cầu sỹ Phùng Văn Thực, người đã không ngại xây 9 nhịp, theo quan niệm của người xưa hiểm nguy đứng ra bảo vệ sự tồn tại của số 9 tượng trưng cho sự may mắn Dầm cây cầu khi cầu bị bọn giặc tìm cách cài cầu hình chữ nhật. Mặc dù bị rêu mốc và mìn đánh sập. Câu chuyện ấy giờ đây vẫn cây leo bám, nhưng những nét văn hoa cổ được người làng xúc động kể lại với niềm tinh tế của cầu vẫn rất dễ quan sát. Hai kính trọng và tự hào. Cây cầu đá cổ là sự bên thành cầu còn hầu như nguyên vẹn khác biệt trong kiến trúc của làng Nôm và các mỏm đá dầm cầu được chạm trổ vân cũng là một biểu tượng của ngôi làng cổ mây cách điệu, một họa tiết thường sử khi tên làng, tên cầu hòa làm một, đi vào dụng trang trí trong kiến trúc cổ, được tạo câu ca dân gian.[7] tác công phu, nghệ thuật, rất điêu luyện 2.7. Cầu đá cổ Lũng Khê và cầu kỳ, trông như những cái đầu rồng của những thuyền rồng mà vua chúa ngày Huyện Thuận Thành, Bắc Ninh hiện xưa hay dùng để đi du ngoạn vậy. Chân nay vẫn còn tồn tại hai cây cầu đá cổ khá cầu là những cột đá hình trụ, không đều nguyên vẹn đó là cây cầu đá nằm trong nhau được đẽo thô để gác dầm cầu, đã bị khuôn viên đền Lũng Khê (thôn Lũng xói mòn bởi thời gian, trở nên rêu phong, Khê, xã Thanh Khương) thuộc khu vực cổ kính. Điểm đặc biệt của cây cầu còn là thành cổ Luy Lâu và cây cầu đá thuộc địa tính bền vững về kết cấu. Mặc dù mặt cầu, phận giáp ranh giữa hai thôn Thuận An và mố cầu và chân cầu chỉ gác lên nhau chứ Đức Nhân (xã Trạm Lộ). không có vật liệu liên kết, nhưng trải qua - Cây Cầu đá ở đền Lũng Khê - thời gian hơn 200 năm mặt cầu vẫn phẳng, Thanh Khương: chắc chắn và vững chãi. Điều đó cho thấy Trong khu di tích đền Lũng Khê trình độ thiết kế, gia công vật liệu và thi (trong khuôn viên thành Cổ Luy Lâu) công cầu của những người thợ ngày xưa hiện còn bảo lưu được cây cầu đá cổ khởi rất đáng nể phục. dựng từ thời Lê Trung Hưng, được trùng Các cụ cao niên của làng kể rằng, tu vào năm Quý Mão, niên hiệu Thiệu Trị khi xưa cầu được làm bằng gỗ lim nhưng 3 (1843). Cầu bắc qua một ao nước phía để thuận tiện cho giao thương vào chợ trước đền và là lối để đi vào khu vực đền
  10. Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 83 chính. Cầu làm bằng đá xanh nguyên khối gần 20 tấm đá lát mặt cầu kích thước tấm gồm 7 nhịp với chiều dài tổng cộng là lớn nhất rộng 56cm, dài 1m45, tấm nhỏ 10m38, chiều rộng mặt cầu 1m67, chiều nhất rộng 38cm, mỗi nhịp có 3 tấm lát mặt dài trung bình mỗi nhịp là 1m40. Các bộ (có nhịp gồm 4 tấm) thường tấm ở giữa để phận cấu thành cầu gồm: tấm lát mặt, dầm phẳng, 2 tấm bên cạnh tạo gờ nổi hai bên cầu, cột trụ. Tất cả có hơn 20 tấm đá lát mặt rìa tạo dáng thành cầu. 6 chiếc dầm cầu cầu kích thước tấm lớn nhất rộng 60cm, kích thước dài trung bình 2m, hai bên đầu dài 1m43, tấm nhỏ nhất rộng 38cm, mỗi dầm cầu trang trí vân mây xoắn, tạo dáng nhịp có 3 tấm lát mặt (có nhịp gồm 4 tấm) hình đầu rồng. Tổng cộng có 14 chiếc cột thường tấm ở giữa để phẳng, 2 tấm bên trụ đỡ cầu, riêng hai bên đầu cầu mỗi bên cạnh tạo gờ nổi hai bên rìa tạo dáng thành có 3 cột trụ đỡ dầm cầu, cột có kích thước cầu. 8 chiếc dầm cầu kích thước dài trung dài khoảng từ 2m đến 2,5m. bình 2m25, hai bên đầu dầm cầu trang trí Trong số hai cây cầu đá cổ kể trên, vân mây xoắn, tạo dáng hình đầu rồng. hiện tại chỉ còn cây cầu đá ở đền Lũng Phía bên trên hai đầu dầm cầu trang trí các Khê nằm trong khu vực thành cổ Luy Lâu con vật, hoa lá cách điệu như: hổ phù, cá vẫn được người dân sử dụng, cũng là lối chép, rơi, lá sen, lá đề, hoa chanh, dây lá đi chính vào di tích LSVH quốc gia - Đền cách điệu Tổng cộng có 24 chiếc cột trụ đỡ cầu, cột có kích thước dài khoảng từ Lũng Khê, nơi thờ Sĩ Nhiếp ở vị trí trung 2,5m đến 3m. tâm thành cổ Luy Lâu xưa. Còn lại cây cầu đá ở địa bàn xã Trạm Lộ, nhân dân - Cây Cầu đá ở làng Thuận An - đã không sử dụng từ rất lâu. Hiện cây cầu Trạm Lộ: đang nằm chơ vơ giữa đôi bờ sông Gáo Hiện nay trên bờ sông Gáo địa điểm xưa, đường dẫn đến hai đầu cầu hiện tại giáp ranh giữa hai làng Thuận An và Đức cũng không còn. Nhân thuộc xã Trạm Lộ còn tồn tại một 3. Kết luận: cây cầu đá cổ. Tương truyền cầu đá do cụ Nguyễn Quang Sáng là người thôn Đức Qua thực tế khảo sát, chúng tôi thấy Nhân bỏ tiền ra mua đá, thuê thợ làm để những cây cầu cổ Việt Nam nói chung cung tiến cho làng cách đây gần 200 năm. còn rất nhiều cây cầu khác có giá trị lịch Khi ấy cụ đang làm chức Xuất huyện sử, văn hóa, tâm linh, nghệ thuật đều có huyện Siêu Loại dưới đời vua Minh Mệnh biểu hiện xuống cấp như: Nhiều tấm lát (1820 - 1840). Cầu đá được bắc trên con mặt cầu bị sứt vỡ, hoặc đã bị gãy làm đôi, đường chính nối liền từ cửa chùa làng Đức các nhịp cầu bị xô lệch, không gian môi Nhân sang làng Thuận An. Con đường này trường không được chú ý tôn tạo, quy hiện nay không còn nữa nhưng cây cầu đá hoạch cảnh quan Đặc biệt là cây cầu vẫn còn tồn tại nguyên vẹn. Cầu làm bằng đá, cầu ngói ở địa điểm giáp ranh với dân đá xanh nguyên khối gồm 5 nhịp với chiều sinh. Các ngành chức năng cùng chính dài tổng cộng là 8m30, chiều rộng mặt cầu quyền và nhân dân địa phương nơi sở tại 1m48, chiều dài trung bình mỗi nhịp là có những cây cầu cổ cần phải có các giải 1m45. Các bộ phận cấu thành cầu gồm: pháp chính sách môi trường nhằm khắc tấm lát mặt, dầm cầu, cột trụ. Tất cả có phục, bảo tồn, tôn tạo thêm những di sản
  11. 84 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion văn hóa này, phải có các quy định cứng nhân văn trong điều kiện phát triển xã hội rắn nhằm ngăn chặn mọi hành vi có biểu đương đại./. hiện xâm lấn, phá hoại cầu. Trong tương Tài liệu tham khảo: lai, khi có dự án trùng tu tôn tạo các di tích cổ cũng cần quan tâm đến việc trùng tu [1]. Trần Văn Anh (2015), Nghệ thuật kiến các di tích cầu cổ nói trên cũng như nhiều trúc và điêu khắc cầu Ngói, chùa Lương - Nam Định cây cầu cổ khác trên lãnh thổ Việt Nam , Luận văn thạc sĩ, Đại học Mỹ thuật công nghiệp. Di tích cầu cổ Việt Nam đã thực sự Vũ Vân Anh (2018), Bí ẩn về cây cầu có những nét văn hóa đặc trưng và giá trị [2]. trấn yểm thủy quái ở Hội An, Báo pháp luật đặc sắc về nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc, Việt Nam. trang trí. Giá trị đặc sắc của di tích cầu cổ thể hiện ở nhiều thành tố. Ở mỗi vùng [3]. Nguyễn Du Chi (2000), Trên đường tìm quê cũng đã chất chứa trong nó những mối về cái đẹp của cha ông, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội liên hệ cộng đồng, làng xóm, chất phác và [4]. Nguyễn Thị Phương Duyên (2006), Cây bền chặt. Những hình ảnh cây cầu ngói, câu trong văn hóa Nam Bộ, Kỷ yếu hội thảo cầu đá cổ nói riêng và những cây cầu giúp “Đồ ng bằ ng sông Cửu Long: thự c trạ ng và cho việc sinh hoạt của người dân ở mỗi giả i phá p để trở thà nh vù ng trọ ng điể m phá t địa phương nói chung đều có những gắn triể n kinh tế giai đoạ n 2006-2010”. Nxb Đại bó về mặt tinh thần, tâm linh hay những học Quốc gia Tp.HCM, 2006). kỷ niệm ngay cả trong thơ ca như “qua cầu [5]. Nguyễ n Thị Thu Hương (2017), Biểu gió bay”, “cầu tre lắt lẻo gập ghềnh khó tượng cây cầu - từ đời sống văn hóa đến ca đi” đã hình thành rất lâu trong dân ca, ca do trữ tình người Việt, Khóa luận tốt nghiệp dao thôn quê và được lưu giữ trong tâm ngành Văn học, Trường Đại học Sư phạm Hà hồn Việt, để rồi hồi sinh khi những cây Nộ i 2017. cầu ra đời đã phác họa lại được những vẻ [6]. Bùi Văn Long (2017), Độc đáo Cầu ngói đẹp văn hóa truyền thống từ nghệ thuật xứ Nam, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật số 397- tạo hình đến chất liệu xây dựng bền vững 2017. Bộ Văn hóa Thể thao & Du lịch như đá, gỗ; thể hiện ở sự công phu khéo léo của bàn tay nghệ nhân nghề mộc, nghề [7]. Bùi Văn Long (2017), Nghệ thuật kiến nề, ngõa; thể hiện ở cách bố cục sắp xếp trúc, điêu khắc cầu ngói khu vực Châu thổ không gian cầu kết hợp với cảnh quan, Sông Hồng, Tạp chí mỹ thuật số 2017-2018, gắn với những biểu tượng ý nghĩa văn hóa Hội Mỹ thuật Việt Nam. trong đời sống với dấu ấn thời gian còn [8]. Chu Quang Trứ (2002), “Cây cầu trong lưu trong văn bia nói lên lịch sử những cây văn hóa Việt cổ”, Văn hóa Việt Nam nhìn từ cầu ngói, cầu đá cổ Việt Nam xứng đáng Mỹ thuật, tập I, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội. là những công trình kiến trúc, điêu khắc Địa chỉ tác giả: Khoa Tạo dáng công nghiệp, dân gian có giá trị về văn hóa nghệ thuật Trường Đại học Mở Hà Nội cần được bảo tồn và phát huy trong cuộc Email: builongarray@gmail.com sống, đảm bảo sự phù hợp giữa việc bảo vệ giá trị di sản văn hóa với nhu cầu quản lý môi trường sinh thái với môi trường